Một Thời Vạn Hạnh - Như Đức

20 Tháng Chín 201200:00(Xem: 9331)

MỘT THỜI VẠN HẠNH

Như Đức

Qua ngày Rằm tháng Bảy, Hòa thượng Minh Châu viên tịch vào buổi sáng chớm thu. Vu Lan ngưng đọng, mây la đà bay thấp hơn, và từ đó là những ngày không có nắng. Vạn Hạnh tôn trí di ảnh của Ôn, gương mặt điểm một chút cười nhẹ. Ít khi thấy tấm ảnh nào của Ôn mà không cười. Nói theo kiểu triết học, cười là thuộc tính của Ôn.

viendaihoacvanhanh-01

Ngày khoác chiếc y vàng làm Viện trưởng Viện đại học Vạn Hạnh, Ôn đã mở ra chân trời đại học cho tăng ni Việt Nam. Ngày đó, sau những chao đảo pháp nạn, những mê hồn trận làm kinh tâm táng đởm tuổi trẻ, chư tôn Giáo phẩm cùng Ôn đã tận lực xây dựng ngôi nhà PGVN. Mở viện đại học Phật giáo để cân bằng cán cân văn hóa giáo dục, để đứng ngang tầm với viện đại học Đà Lạt, viện nổi tiếng về thần học uyên bác, để hội họp thân hữu với viện đại học Cần Thơ, và viện đại học Tây Ninh đang trên đà thành hình. Ngày đó, những tân sinh viên mới ra khỏi lớp vỏ Trung học, đang còn chập chững bước vào giảng đường, hình ảnh uy nghiêm thanh thoát của quý Ôn, màu áo nâu, y vàng làm lay động cả khung trời mới lạ. Ôn Viện trưởng thường bước vào lớp với nụ cười an ổn. Một tay nắm chéo y, và thầy bắt đầu giảng kinh Trung bộ, Trường bộ... Những danh từ Pali làm choáng váng, nào là Sāvathi, nào là Sāriputta... tại sao không là Xá-vệ, Xá-lợi-phất quen thuộc như xưa? Bộ kinh dày và mênh mông sâu thẳm như trí tuệ của thầy. Giọng của thầy mang âm hưởng Quảng Bình, học trò tha hồ căng hai lỗ tai, cuối giờ còn có kẻ khều khều nói nhỏ: “Cho tui mượn tập ghi chép, tui nghe hết hơi mà hỏng kịp.”

viendaihoacvanhanh-02

Mới năm đầu tiên là như thế, qua những năm sau, không khí học đã sôi động. Hành lang Phật khoa luôn luôn ưu tiên cho tăng ni, ưu tiên cho sinh viên các khoa khác, sau khi học xong giờ nơi trường mình, dự thêm giờ Phật khoa để bổ sung kiến thức. Lớp bắt đầu muộn, vào cuối giờ chiều, đứng trên hành lang nhìn xuống sân thấy thầy đi kinh hành. Một tay nắm chéo y, tay kia thong thả theo nhịp bước, thầy đi vòng quanh sân, bấy giờ sinh viên đã về bớt, thầy đi như một chấm màu vàng di động, như có gió thổi theo chân. Ngày đó, những buổi chiều gió rất thích về thăm sân trường, thăm các hành lang nhộn nhịp. Giảng đường 18, giờ của thầy Nguyễn Duy Cần, luôn luôn kèm theo chiếc cặp to màu đen. Sinh viên không biết có những gì trong đó, nhưng giờ triết Đông của thầy thường ngồi kín giảng đường. Thầy biểu muốn hiểu tinh thần Đông phương, tinh thần Phật giáo thì nên mua bộ Lục Mạch Thần Kiếm về xem. Báo hại có người chong đèn thức khuya, không xem kinh mà xem Đoàn Dự đi lang thang. Mỗi giờ học là mỗi giờ thú vị, tinh thần mạnh mẽ phóng khoáng của các thầy dù thượng thừa phương trượng hay tục gia phương ngoại, đã thổi sinh khí cho Vạn Hạnh. Giờ học so sánh triết Đông và triết Tây, đề tài tìm hiểu mối liên hệ giữa trái hỏa châu và tinh thần phương Đông. Thời đó, chiến tranh miền Nam khốc liệt, ở vùng ngoại ô mỗi đêm đều có hỏa châu lững lơ trên đầu. Cả lớp xôn xao về đề tài có tính cách thời sự và thách đố. Người thì nói hỏa châu là thành tựu của khoa học phương Tây, người phản bác lại nói thuốc súng thuốc nổ là phát minh của Trung Hoa đầu tiên. Kẻ mơ mộng hơn, nói phương Đông như màn đêm huyền bí… Tự do phát biểu tư tưởng của mình… Tranh luận mãi rồi cũng không kết thúc được là Đông hay Tây, thôi rủ nhau lên căng tin uống sữa. Thời đó, sinh viên sau giờ học hay ghé qua mấy quán cà phê gần trường bàn chuyện văn chương sách vở. Thời đó, Phạm Thiên Thư, Lê Nghị viết tràn những trang thơ. Đến khi nghe phổ nhạc “Rằng xưa có gã từ quan. Lên non tìm động hoa vàng ngủ say”, mới biết lớp mình hân hạnh có thiên... tai. Thời đó, cũng có khi trường phải bãi khóa, sinh viên tổ chức đêm không ngủ kêu gọi hòa bình. Cũng đôi lúc văn nghệ, hát nhạc Phạm Thế Mỹ hoặc hát lên ước mơ “Mai đây hòa bình, ta về ngắm lại dòng sông xưa, đồng hoang xơ xác hai bên sẽ mai này thơm mùi lúa chín.” Trên tất cả mọi thứ, vẫn có thầy qua lại lên xuống sân trường, màu vàng y thấp thoáng, gió thì thầm với nhau rằng những nếp y của thầy rất ưu tư. Thầy hiện diện trong một thời tuổi trẻ băn khoăn và xao động của sinh viên, đem tinh thần Phật giáo để hướng dẫn dạy dỗ.

viendaihoacvanhanh-03

Quang cảnh sân trường trong lễ ra trường mùa hè năm 1972

Chuyện cổ tích Việt Nam có kể, thời rất xưa có cuộc trao đổi giữa Bụt và ma, con người núp sau lưng Bụt xin che chở. Bụt chỉ giao hẹn là trong phần đất bằng với tấm y của Bụt, ma không được xâm phạm, ngoài tấm y là lãnh vực của ma. Tấm y của Bụt đâu có rộng lớn gì, ma đồng ý ký kết. Và khi tấm y vàng bung ra, bao nhiêu gian tà ma mị dạt hết ra ngoài. Tấm y bay choàng cả không gian thời gian, con người được an lành trong màu y của Bụt. Màu y của Thầy, một thời trải dài trong tâm thức sinh viên, học tập vui chơi an lành dưới khung trời đại học.

viendaihoacvanhanh-04

HT. Viện trưởng đang đọc diễn văn lễ ra trường năm 1972

Một cuộc đời gần gũi gắn liền với biết bao biến chuyển đất nước và đạo pháp, rồi cũng ra đi khi đúng hẹn. Cởi áo tử sinh và khoác áo vô sinh.

Áo xưa vừa khoác lên người
An nhiên gửi lại nụ cười xưa sau.

Như Đức



Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Tư 2016(Xem: 5025)
Thông thường thì trải qua bao nhiêu thời gian để được gọi là Một thời? Có thể là một tháng, vài ba tháng, nửa năm, một năm hay nhiều hơn nữa? Hầu như tất cả những thời lượng vừa nêu đều đúng, nhưng chủ yếu là trong những quãng thời gian ấy phải có, đã có một điều gì đấy rất nổi bật: hoặc là một sự việc, hoặc là một hình ảnh, hoặc là một chuyển đổi, một bước ngoặt, một cuộc gặp gỡ… đã tác động đến đời sống khiến tâm tư của chúng ta luôn nhớ đến, nhớ mãi, trở thành một gắn liền với hành trang tri thức của cả đời mình mới được gọi là Một thời.
12 Tháng Mười 2014(Xem: 13726)
Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn.
13 Tháng Tám 2014(Xem: 6107)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo. Tác phẩm Trước Sự Nô Lệ Của Con Người, xuất bản giữa thập niên 1960 đã chứng minh điều đó.
13 Tháng Tám 2014(Xem: 5937)
Tưởng niệm giác linh Người,/ Hỡi ôi! / Kính quý thay! / Bi xót thay! / Sinh diệt tợ đốm hoa / Sắc không như ánh chớp / Đám mây trắng ngàn năm ly hợp / Cõi bụi hồng muôn kiếp tụ tan / Hậu học sa-môn thương tiếc, bàng hoàng / Tứ chúng đoanh vây, trái tim lệ chảy / Lẽ vô thường xót đau ba cõi / Luật hữu vi băng giá một trời
12 Tháng Tám 2014(Xem: 9915)
Nhưng Thầy ơi, như Thầy đã biết, con thích nhất cây chuối khi nó luôn mọc thẳng , và khá vững vàng nên người đời cứ cưởng chuối có thân cây thật, trong khi "thân" chuối là một "thân giả". Thân giả này là bài học cho con quý giá vô cùng về tính không, nhất là mỗi khi con tụng kinh Bát nhã. Ôi chuối vi diệu quá Thầy nhỉ.
15 Tháng Năm 2014(Xem: 9088)
Chiến tranh càng ngày càng trở nên ác liệt, tất cả những đau khổ lớn nhất của nhân loại đã xảy ra tại quê hương của chúng ta, và hôm nay, giữa lòng đau đớn khôn cùng của đất nước, đấng Thế Tôn lại ra đời, như một vì sao Mai vụt hiện trên vùng tối đen của mặt đất thê lương này.
01 Tháng Giêng 2014(Xem: 8081)
Từ 13/3 đến 28/3/1994, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đã tổ chức một đoàn chiêm bái các Phật tích tại Ấn Độ, gồm 19 người, do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu làm Trưởng đoàn, cố Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Phó đoàn, với Ban Thư ký gồm Hòa thượng Thích Giác Toàn và Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn. Chuyến đi được Hòa thượng Thích Chơn Thiện lúc ấy đang chuẩn bị trình luận án tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ giúp sắp xếp các việc cần thiết và đề xuất kế hoạch, lộ trình chi tiết.