Phật Ngọc: Hình Tướng Và Thật Tánh Của Hòa Bình, An Lạc.

12 Tháng Tám 201000:00(Xem: 51045)
tuyentapvulan-03
PHẬT NGỌC
HÌNH TƯỚNG VÀ THẬT TÁNH CỦA HOÀ BÌNH, AN LẠC
Trần Kiêm Đoàn

Đạo Phật là tôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh. Giới hạn tận cùng của các tôn giáo là một đấng Sáng Tạo toàn năng. Đời sống tâm linh của dân gian có phong phú đến mấy thì cuối cùng cũng gặp Ông Trời là hết. Sự minh triết tôn giáo có cao rộng đến mức nào thì gặp sự hiện hữu của Thượng Đế cũng chỉ còn là sự mặc khải giao phó.

Khái niệm Không Tánh tức Vô Ngã trong đạo Phật đã vượt qua mọi hình thái rào cản, mọi ý niệm đóng khung, mọi tên gọi giả tạm trong vòng khả năng quy ước của con người. Khi không có một tự thể nào tự nó là chính nó; là thường hằng, bất biến; là một cá thể uyên nguyên sinh ra một đối thể khác thì vạn vật không còn có tự tánh. Đó là một trạng thái hoàn toàn tự do nhưng tuyệt đối cô đơn. Sự cô đơn lung linh trong từng nháy mắt sinh diệt gặp gỡ, tiếp cận, tương tác, dính mắc với nhau thành “duyên” – Duyên khởi, rồi duyên hợp. Khi một hợp duyên đã khởi và đủ điều kiện chín mùi thì một đối tượng mới sinh ra.

“Em ơi! Nếu chiều hôm đó Sài Gòn không có cơn mưa mùa Hè bất chợt thì làm sao chúng mình gặp nhau khi cùng trú mưa dưới một mái hiên bên hè phố. Nếu em không hoảng hốt làm rớt cặp sách xuống vũng nước để anh giúp em lượm lên và lấy áo sơ mi học trò lau khô, nếu trận mưa không kéo dài đến chiều, nếu xe đạp em không bị xì hơi cần anh mang vá giúp… thì làm sao ngày nay chúng mình thành vợ chồng?!” (Huyền Vũ. Mưa Sài Gòn, 1972). Đoạn văn của Huyền Vũ đã minh họa cho “duyên”. Mỗi chữ “nếu” là một duyên khởi và mỗi duyên khởi hiển thị (việc thấy được) còn có vô số hợp duyên tiềm ẩn đã cùng tác động lên nhau để tạo thành một sự việc. Hai cô cậu học trò, cơn mưa Sài Gòn, mái hiên hè phố, cặp sách học trò… là những gì riêng lẻ, có một hình tướng tạm bợ và một tên gọi giả tạm bỗng nhiên đan kết vào nhau thành tình yêu, thành duyên chồng vợ. Và, nào ai biết được đỉnh hạnh phúc sau cơn mưa có thể kéo tới những bất hạnh, trái ngang dằng dặc trong những năm tháng về sau vì Duyên chỉ là một ngọn sóng trong đại dương mênh mông của Nghiệp.

Trong một thế giới đầy biến hiện trùng trùng của Nghiệp và Duyên sinh khởi như thế, một khoảnh khắc dừng lại của suy nghĩ cũng không thể nào thật sự có được. Trong cơn mưa có hàng muôn vàn hình tướng, sự việc, ý nghĩ mất đi và hiện hữu quay cuồng như chong chóng. Sau cơn mưa, một thế giới mới bắt đầu. Sự bắt đầu, kết thúc và tái sinh có thể còn nhanh hơn một phần nghìn của một cái nháy mắt. Mọi sự dừng lại và “cho rằng”, thế nầy là quả thật có hiện tướng như thế nầy; thế kia là rõ mồn một như thế kia tức là không sống với dòng tồn tục lưu truyền mà đang chết. Đang chết là đang chấp vì chấp là níu cứng một điểm tựa mà mình tự cho là đáng tin cậy trong dòng cuồng lưu đang trôi chảy.

Hạnh phúc mà cũng là bi kịch của kiếp người bắt đầu từ hình tướng. Cảnh đẹp, lời hay, hoa thơm, vị ngọt, thân an, ý sáng cũng chỉ là những thuộc tính chủ quan của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Cảm thọ sướng khổ cũng thông thông qua lục tặc hay lục linh đó mà sinh khởi. Con nhím đực khen con nhím cái “em có làn da mượt mà” cũng do cảm nhận chủ quan về hình tướng “tương thân, tương thọ”! Cho nên, đạo Phật là một cuộc hành trình của trí tuệ và tâm linh để xác định Tánh Thật qua Hình Tướng. Cuộc cách mạng trong tư tưởng Phật giáo là một sự phủ nhận hình tướng để khỏi bị “chết chìm” vì sự dính mắc trong hình tướng. Không tánh chẳng phải là không có gì cả mà không phải là cái hình tướng mà người ta quen dựa vào để thấy. Hình tướng hiện ra “như vầy, như vầy” mà tánh thật thì “không phải thế, không phải thế”. Phật dạy:

Thông qua hình tướng thấy ta,

Ấy thân tà đạo, chẳng là Như Lai.

phatjapan-content 

Tượng Phật cao nhất thế giới tại Nhật

Thấy được thật tánh không phải là thông qua phương tiện định hình, mô tả mà bằng sự trải nghiệm, tu chứng của quán niệm, tuệ giác thiền định.

Đạo Phật đã trải qua 25 thế kỷ và một vạn thế hệ (nếu tính theo thời gian sinh ra và trưởng thành của mỗi thế hệ là 25 năm, một khoảng thời gian dài đủ cho quá trình khởi đầu và có được căn bản nhận thức tương đối độc lập). Nhưng từ trước đến sau, chỉ có một con đường nhất quán: Phá chấp! Thế giới Phật giáo có chủ thể và đối tượng hay Ngã và Pháp. Chấp Ngã hay chấp Pháp đều là nuôi định kiến “cho rằng…” đưa đến sự dính mắc mù quáng. 

 Đã có những thời kỳ khuynh hướng chấp pháp cực đoan làm chủ. Đó là những thời kỳ mà hình tướng lấn lướt thật tánh: Chùa tháp tự viện mọc lên như một xu thế trình diễn. Phật tử xuất gia cũng như tại gia chuyên quyền thế tục như một đạo quân hành nghề tôn giáo. Người nói pháp, giảng đạo nhiều hơn người hành đạo. Quả vị của sự tu hành trong những thời kỳ nầy không phải là năng lực hoằng pháp độ sanh mà là một sự chạy đua về cơ sở vật chất, về danh vị tôn xưng, về quyền lực sở đắc. Giáo sử nhà Phật đã chứng minh rằng, đó là dấu hiệu của những thời điểm mạt pháp khi phải trụ vào giá trị hình tướng để làm điểm tựa cho thật tánh tâm linh như ở Ấn Độ ngay sau triều đại Asoka (304 – 232 BC); ở Trung Quốc cuối triều đại Lương Vũ Đế (502 – 549); ở Việt Nam sau triều đại nhà Trần (1225 – 1400). Đạo Phật bị thế tục hóa với màu sắc lễ nhạc mang tính chất trình diễn sân khấu. Trong những thời kỳ đó, lý Phật Đà cao thâm ngã dần sang màu sắc phàm tục, mê tín dị đoan. Tăng già không hòa hợp, chia phe kết hội chuyên quyền, khích bác lẫn nhau. Tứ chúng không đồng tu mà phân hóa thi đua “nói đạo” thay vì hành đạo và vô hình chung biến thành công cụ phục vụ chính trị, nương quyền cậy thế phàm trần.

Theo những nhà nghiên cứu lịch sử Phật giáo thế giới như Edward Thomas, Rupert Gethin, Walpola Ruhula… thì thịnh pháp và mạt pháp là những giai đoạn và thời điểm hưng vong của Đạo Phật xen lẫn nhau trong mọi thời kỳ; chứ không có một thời kỳ nào nhất định gọi là “mạt pháp” theo tài liệu tam sao thất bổn được ghi lại như một lối biện minh cho nguyên cớ thoái trào và phân hóa Phật pháp trong những thời kỳ… “y như mạt pháp tới nơi”!

Dấu hiệu của một thời kỳ thịnh pháp không nhất thiết phản ánh qua hình tướng chùa to, tượng lớn. Ngược lại, sự xuất hiện rầm rộ của những những hình tướng vật chất cũng chẳng phải là dấu chỉ của một đạo Phật đang hưng thịnh. Từ đó, những nhà nghiên cứu Phật học thường rất cẩn trọng và dè dặt khi cần phải dùng những con số cân, đo, đong, đếm về cơ sở vật chất, về tăng đoàn tu sĩ, về số lượng tín đồ để đánh giá một thời kỳ phát triển văn hóa Phật giáo.

Tuy nhiên, cũng theo nhận định của những sử gia tôn giáo thì sự xuất hiện của những công trình kiến trúc các tượng đài, chùa tháp, tự viện Phật giáo đồ sộ, mỹ thuật trên toàn thế giới từ giữa thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 không phải là dấu hiệu của một thời kỳ mà đạo Phật vụ vào hình tướng. Nhưng đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của khoa học kỹ thuật tạo nhiều ưu thế cho việc xây dựng nên những công trình kiến trúc độc đáo, tân kỳ và đồ sộ là một “nhu cầu thời đại” mà tôn giáo nói chung không thể là một đối tượng đứng ngoài.

Năm 1993, tượng Phật A Di Đà cao nhất thế giới (Cao 120 mét. Trước đó, tượng Nữ Thần Tự Do ở Mỹ được xem là cao nhất thế giới cũng chỉ cao 93 mét) được xây dựng ở một ngọn đồi thuộc vùng Ushiku cách Tokyo, Nhật Bản chừng 100 dặm. Hòa thượng Yoshiyuki giải thích về sự “vĩ đại” của bức tượng nầy như sau:  “Một pho tượng dù có tạc bằng chất liệu quý hiếm đến đâu hay có chiều kích vĩ đại đến mức độ nào cũng không đáng để đem so sánh với sự cao cả thiêng liêng và vĩ đại của đức Phật. Thực sự, tôn giáo không tùy thuộc vào hình tướng bề ngoài để nói lên sự tương hợp với khả năng hiểu đạo, hành đạo và chứng nghiệm. Tuy nhiên, tôn giáo trong thời hiện đại cũng có khuynh hướng coi trọng về hình thức bên ngoài làm cửa phương tiện. Vì thế, mục đích của chúng tôi là tạo nên một phương tiện tương đối gây được ấn tượng sâu đậm về sự quý báu trong lời dạy của đức Phật và khối lượng khổng lồ của giáo pháp, kinh điển nhà Phật”.

quantheam-baibut-content

Cuối tháng 7 năm 2010, đại chúng và Phật tử Việt Nam có dịp quan chiêm tượng đức Quán Thế Âm tại chùa Linh Ứng, Bãi Bụt, trên vùng núi Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Đây là một tôn tượng Phật giáo cao nhất Việt Nam hiện nay – 67 mét. Nhưng tầm cỡ đồ sộ của hình tướng vật thể trong tôn giáo cũng chỉ ở vị trí rất khiêm tốn như Thầy Thích Tâm Ân đã so sánh: “Sẽ không có hình tượng vật thể nào có thể so sánh được với chiều cao, với bề rộng của đức tin và sự huyền nhiệm của tâm linh. Nếu rằng, từ mỗi đầu chân lông của kim thân đức Phật có muôn ức đạo hào quang và trên mỗi chấm hào quang có hằng ha sa số chư Phật thì biết lấy gì so sánh. Vì thế, trên đường hành đạo độ sanh của người học Phật và hiểu Phật thì tất cả chỉ là biểu tượng tương đối và tạm thời làm cửa phương tiện để đi vào đạo Phật. Dính mắc vào hình tướng tượng đài là biến phương tiện làm cứu cánh”.

Một hiện tượng thuộc về công trình khắc chạm, kiến trúc tượng đài của Phật giáo có tầm cỡ quốc tế đã xuất hiện gần đây và đang được cung nghinh luân lưu khắp thế giới là tượng Phật Ngọc. Một danh sư Tây Tạng, Lama Zopa Rinpoche, đã đặt tên cho tượng

 

 

blank

Phật Bích Ngọc là Phật Ngọc cho Hòa Bình Thế Giới (Jade Buddha for Universal Peace). Lịch sử vắn tắt về tượng Phật Ngọc như sau:

Năm 2000, tại Canada người ta khám phá một khối ngọc bích toàn vẹn nặng 18 tấn rất hiếm có. Năm 2003, ông Ian Green, một Phật tử người Úc đã mua khối ngọc và mang qua Thái Lan hợp đồng với công ty điêu khắc đá quý Jade Thongtavee để khắc chạm khối ngọc bích thành tượng Phật. Sau 5 năm sưu tầm, nghiên cứu và thi công, tượng Phật Ngọc được hoàn thành vào tháng Chạp năm 2008. Ngôi tượng cao 2 mét 50, nặng trên 4 tấn và lượng giá 5 triệu đô la Mỹ.

Tượng Phật Ngọc khởi đầu trưng bày trước công chúng tại chùa Quán Thế Âm, Đà Nẵng vào tháng 3 năm 2009 và luân lưu trưng bày tại 5 chùa khác từ Bắc chí Nam trong vòng 2 tháng, trước khi được lưu thỉnh sang Úc. Tại Úc, tượng Phật Ngọc được lưu thỉnh tới 11 tự viện và trong số đó đã có 6 chùa Việt Nam tại Úc tự nguyện đứng ra tổ chức trưng bày. Tượng Phật Ngọc tiếp tục được lưu thỉnh sang Canada và Hoa Kỳ từ tháng 2 năm 2010 cho tới tháng 5 năm 2011. Theo dự kiến, tượng sẽ được tiếp tục cung thỉnh sang châu Âu, rồi trở lại châu Á năm 2012 trước khi nhập Đại Bảo tháp Từ Bi Độ thế (Great Stupa of Universal Compassion) tại thành phố Bendigo, nước Úc.

Dẫu nhìn qua lăng kính nào đi nữa thì sự ra đời của Phật Ngọc là một duyên lành. Đó vừa là một tín hiệu, một thông điệp và cũng là một biểu tượng của Hòa Bình, An Lạc không màu sắc chính trị, không biên giới Đông Tây. Đồng thời đây cũng là “phương tiện môn” giúp mọi cá nhân và sắc dân Âu, Á, Úc, Mỹ, Phi có cơ hội hiểu nhau và tiến gần nhau hơn.

Sau gần một năm rưỡi được lưu thỉnh và trưng bày trên gần ba chục địa điểm từ Á tới Úc rồi sang Mỹ châu, tượng Phật Ngọc đã thu hút được gần 4 triệu rưỡi người đủ mọi sắc dân và tôn giáo trên thế giới đến quan chiêm, nhưng đa số là người Việt Nam cả trong và ngoài nước. Đồng thời, cũng có nhiều cảm tưởng từ nhiều nhánh, nhiều dòng chung quanh việc trưng bày Phật Ngọc.

Phía thuận dòng thì hết lời ca ngợi. Có lúc xem Phật Ngọc như là hiện thân của đức Phật tái thế với năng lực nhiệm mầu, với hoa Mạn Đà La xuất hiện như hoa đăng.

Phía ngược lại thì cho rằng, sự tôn sùng và ca ngợi quá đà đã tạo ra một không khí sùng bái gần như mê tín dị đoan quanh Phật Ngọc. Bản chất và tác dụng của mê tín trong thời đại kinh tế thị trường là sự lẫn lộn giữa giá trị tâm linh thuần khiết và vật chất đối tác kinh doanh. Trong khi “Phật tại tâm” nên dẫu Phật ngọc, Phật vàng, Phật đồng, Phật gỗ, Phật đất… cũng chỉ là phương tiện hình tướng như nhau; miễn sao giúp người khai thị được Phật tánh trong chính mình.

Nhưng đa số khách đến viếng tương Phật Ngọc là những người đến quan chiêm hay chiêm bái thầm lặng. Họ không phát biểu gì cả nhưng lòng họ đã nói rất nhiều qua cảm ứng “đàm tâm” mà tự trong sâu thẳm lòng mình, ai cũng có.

Đức Phật đã nhìn mọi sự trong vũ trụ và thế gian đều là Pháp: Pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Pháp xuất thế gian nhìn qua tuệ giác của các bậc chứng ngộ là cái nhìn thấu suốt Thật Tánh, nhất nguyên: mỗi hạt bụi đều có chứa tam thiên đại thiên thế giới và ngược lại, nên mọi hình tướng cũng chỉ là ảo ảnh như hoa đốm giữa hư không. Pháp thế gian thì nhìn qua hình tướng nên chấp ta chấp người, chấp không chấp có. Đức Phật nhìn thấu suốt bản chất thế gian nên đã đưa ra tám vạn bốn ngàn pháp môn và hằng hà sa số phương tiện để đối trị. Bởi vậy, nhìn đạo Phật qua pháp thế gian thì Phật giáo vừa duy tâm, duy linh, duy thần mà cũng vừa là duy vật vô thần. Câu hỏi đầu tiên khi thế giới phương Tây nhìn về Phật giáo là: “Phật lý là một tôn giáo hay một triết lý”? Câu trả lời quá rõ ràng, rằng là, Phật Đà vừa là một tôn giáo, vừa là một hệ thống triết lý. Khi nói đến ba đời, mười phương Phật thì Phật Đà là một tôn giáo. Khi nói đến Phật Tánh có sẵn trong mỗi chúng sanh và vạn pháp thì Phật Đà là một hệ thống triết lý.

Nhưng tại sao lại phải nói gì gì những chuyện cao xa trong khi cuộc sống trước mắt đang tìm cầu an lạc. Sự an lạc không nằm trong chữ nghĩa xa vời mà đang nằm lặng lẽ khắp nơi và chính trong ta. Nếu tượng Phật Ngọc mang đến hòa bình an lạc thì bởi vì đó là một tín hiệu tỏa chiếu năng lượng lành. Một hình tượng nhắc nhở cho người tiếp cận gắng quay về với thế giới hoà bình và suối nguồn an lạc có sẵn trong mỗi người.

Có chăng sự mầu nhiệm và linh thiêng của Phật Ngọc như một phép lạ? Đạo Phật phủ nhận phép lạ như một sự cứu rỗi, bởi vì thần thông, phép lạ đều không giải trừ được Nghiệp mà chỉ cần có cái tâm buông dao là có khả năng thành Phật. Sẽ không có một tiêu chuẩn nào để xác định hay đánh giá mức độ linh hiển của hình tướng mà “linh tại ngã, bất linh tại ngã”. Mỗi người có một ngọn đuốc riêng để tự thắp sáng mà nhìn. Khi ngọn đuốc đó cháy sáng trong tâm sẽ thành tâm tuệ. Tâm tuệ cảm ứng Phật Ngọc bằng trực giác, không lời.

 

**

Từ đầu năm 2010, tượng Phật Ngọc đã từ Úc sang Mỹ, Canada. Các chùa viện, Phật tử Việt Nam tại Mỹ đã luân lưu cung thỉnh tượng Phật Ngọc vòng quanh các thành phố có đông người Việt. Mùa Vu Lan năm nay, tượng Phật Ngọc đang trên đường đến vùng Bắc California. Hai địa điểm chính tổ chức lễ cung nghinh và trưng bày tượng Phật Ngọc cho đại chúng và Phật tử đến viếng ở quanh vùng là:

- Từ 17 đến 29 tháng 9 năm 2010: Tịnh Xá Ngọc Hoa. 766 S. Second Street. San Jose, CA 95112. Điện thoại: 408-295-2436.

- Từ 02 đến 17 tháng 10 năm 2010: Chùa Kim Quang. 3119 Alta Expressway. Sacramento, CA 95825. Điện thoại: 916-481-8781.

 

Sacramento, mùa Vu Lan 2010

Trần Kiêm Đoàn

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Tám 2016(Xem: 5837)
16 Tháng Tám 2016(Xem: 5789)
Nói đến nữ nhân người ta thường nghĩ đến cái đẹp về hình thức và sự nhỏ nhen ích kỷ về tâm tánh. Đó là sự nhận định một cách chung nhất từ xưa đến nay. Dù là như thế nào đi nữa thì không thể phủ nhận rằng trong bất cứ một xã hội nào thì người nữ vẫn chịu nhiều đau khổ về tinh thần và thể xác hơn người nam. Là một bậc đại trí tuệ Đức Phật đã nhìn thấu tâm can của nữ nhân không vì thế mà Ngài chán ghét họ mà ngược lại Ngài còn thương họ hơn bất cứ ai trên đời này, bởi vì rằng Ngài có một tấm lòng độ lượng vô biên có thể dung chứa hết thảy mọi chúng sanh, mọi tập tính khó ưa, khó kham nhẫn nhất.
16 Tháng Tám 2016(Xem: 6818)
16 Tháng Tám 2016(Xem: 6452)
Kể từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta, đến thế kỷ II thì Phật giáo đã định hình và phát triển khá mạnh mẽ, nhất là đã có sự thể nhập vào đời sống thực tiễn tại Giao Châu. Đây cũng là lý do tại sao giới trí thức Nho giáo và Lão giáo đặt vấn đề đạo Phật là đạo gì? Mâu Tử đã thẳng thắn trả lời: “Ở trong nhà thì hiếu thảo với mẹ cha, ra ngoài đường giúp nước hộ dân, khi ngồi một mình thì biết tu thân” được ghi trong tác phẩm Lý hoặc luận của Mâu Tử 1.
08 Tháng Tám 2016(Xem: 5473)
Đức Phật hay Đạo Phật tự ngàn xưa không những giới thiệu cho chúng ta có nhận thức được về sự KHỔ và con đường tu tập để đưa đến chấm dứt mọi sự khổ đau ngay trong hiện tại, mà còn giúp cho chúng ta có một tầm nhìn trong sáng để trang bị hoàn thiện về đạo lý “Nhân bản” của con người trên mọi sinh lộ của cuộc đời.
08 Tháng Tám 2016(Xem: 4504)
(Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ; nên phật tử theo truyền thống Đại Thừa xem ngày chư tăng ra hạ (rằm tháng 7) là ngày báo hiếu mẹ. Đấy là cả một tình cảm cao cả, trân trọng và thiêng liêng. Nhưng theo truyền thống Theravāda thì không có từ Vu Lan, không có đại lễ Vu Lan. Nếu là nội dung và ý nghĩa tương tự – thì phải là sau ngày chư tăng Nam tông ra hạ, nghĩa là sau ngày 16 Tháng 9 ÂL, đúng mùa đại lễ Dâng Y Kaṭhina)
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 10053)
Mong sao chớ hóa thành mây, / Lang thang mấy nẻo đường bay cuối trời. / Chỉ mơ hóa kiếp con người, / Ngả vào tay mẹ thuở ngày ấu thơ.