Đọc Thơ Xuân Nguyến Bính

14 Tháng Hai 201811:06(Xem: 6245)

ĐỌC LẠI THƠ XUÂN NGUYẾN BÍNH
ĐÓN TẾT MẬU TUÂT – 2018,
KỶ NIỆM 100 NĂM SINH CỦA NHÀ THƠ (1918-2018) 



1 Nguyen_BinhNguyễn Bính sinh vào cuối xuân Mậu Ngọ (1918) và từ giả cõi đời trong một chiều 29 Tết Bính Ngọ (1966), năm ấy không có ngày 30, còn phơi phới sức xuân ở tuổi 49, “cái tuổi tứ thập nhi bất hoặc” thi nhấn đã để lại cho đời nguyên vẹn cả một mùa xuân…

1.- Nguyễn Bính (1918-1966)

Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính (1918-1966) sinh tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyệnVụ Bản, tỉnh Nam Định. là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Thơ ông phần lớn là thơ tình nhưng mang  sắc thái quê mùa, dân dã riêng biệt. Cùng với Xuân Diệu, ông được mệnh danh là “Vua thơ tình”.
Cha Nguyễn Bính  là Nguyễn Đạo Bình, làm nghề dạy học, mẹ ông là bà Bùi Thị Miện, con gái một gia đình khá giả. Ông bà sinh được ba người con trai là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính mất mẹ sớm khi ông mới sinh được ba tháng.
Bà cả Giần là chị ruột của mẹ Nguyễn Bính, nhà  giàu, nên bà cùng ông Bùi Trình Khiêm là cậu ruột của Nguyễn Bính đón ba anh em Nguyễn Bính về nuôi cho ăn học. Nguyễn Bính làm thơ từ  bé.
Năm 13 tuổi Nguyễn Bính được giải nhất trong cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng với sáng tác:
…Anh đố em này:
Làng ta chưa vợ mấy người ?
Chưa chồng mấy ả, em thời biết không
Đố ai đi khắp tây đông,
Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây?
Làm sao như rượu mới say,
Như giăng mới mọc, như cây mới trồng ?
Làm sao như vợ như chồng ?
Làm sao cho thỏa má hồng răng đen

Làm sao cho tỏ hơi đèn ?
Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời ?
Làm sao ? anh khen em tài ?
Làm sao ? em đáp một lời làm sao … ?

Một thời gian sau, Trúc Đường thi đỗ thành trung (đíp-lôm) vào loại giỏi ở Hà Nội, rồi dạy học trong một trường tư thục ở Hà Đông, Trúc Đường bắt đầu viết văn và làm thơ. Ông đón Nguyễn Bính lên và truyền đạt cho Nguyễn Bính văn học Pháp. Cuộc đời của Nguyễn Bính gắn bó với Trúc Đường cả về văn chươngđời sống.
Từ năm 1940, Nguyễn Bính bắt đầu nổi tiếng với số lượng thơ khá dày, đề tài phong phú, trong đó chủ yếu là thơ tình nhưng cũng có những bài thơ Xuân thật độc đáo.

Trước thêm năm mới Xuân  Mậu Tuất  (2018), Kỷ niệm 100 năm sinh của nhà thơ,  xin giới thiệu cùng bạn đọc bài thơ “Nhạc xuân” Nguyễn Bính sáng tác năm Canh Thìn (1940) cách nay hơn nửa thế kỷ:

2.- Bài thơ Nhạc Xuân (Nguyễn Bính)

Mùa xuân năm  Canh Thìn ( 1940 ) ở xóm Trạm, Nguyễn Bính đã viết một bài thơ dài, treo lên tường như một bức tranh trang trí Tết. Bài thơ Nhạc xuân  như những lời tâm sự của các cô gái quen của ông đã lấy chồng hoặc tha phương cầu thực. Tuy nhiên, nhà thơ nhớ thì cứ nhớ, cố nhân đi thì cứ đi, không thể ngăn cản được bước chân của Huyền Trân về với chồng. Người đi rồi chỉ còn cánh hoa đào rơi như đệm thêm vào nỗi buồn của thi sĩ::

Hôm nay là xuân, mai còn xuân
Xuân đã sang đò nhớ cố nhân
Người ở bên kia sông cách trở
Có về Chiêm Quốc như Huyền Trân ?

Hôm nay là xuân, mai còn xuân
Phơi phới mưa sa nhớ cố nhân
Phận gái ví theo lề ép uổng
Đã về Chiêm Quốc như Huyền Trân ? 

Hôm nay là xuân, mai còn xuân
Lăng lắc đường xa nhớ cố nhân
Nay đã vội quên tình nghĩa cũ
Mà về Chiêm Quốc như Huyền Trân ?


Hôm nay là xuân, mai còn xuân
Pháo đỏ đầy thềm nhớ cố nhân
Cung nữ như hoa vườn thượng uyển
Ai về Chiêm Quốc hộ Huyền Trân ?

Hôm nay là xuân, mai còn xuân
Rượu uống say rồi nhớ cố nhân
Đã có yêu nhau là đến thế
Đừng về Chiêm Quốc nhé Huyền Trân ?

Đừng về Chiêm Quốc nhé Huyền Trân
Ta viết thơ này gửi cố nhân
Năm mới tháng giêng mồng một tết
Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân.

Huyền Trân ơi !
Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi
Giờ đây chín vạn bông trời nở
Riêng có tình ta khép lại thôi

 Mở đầu bài thơ “Hôm nay là xuân, mai còn xuân. Xuân đã sang đò nhớ cố nhânMùa Xuân với thi nhân là vĩnh cửu là bất tận. Chẳng những hôm nay, ngày mai mà có lẽ là mãi mãi.:

Điệp khúc: “Hôm nay là xuân, mai còn xuân” được lập đi lập lại nhiều lần và đặt ở đầu mỗi khổ thơ như khẳng định xuân còn mãi với nhà thơ. Thật đúng là: “Xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận. Xuân đi xuân lại mãi còn xuân (Du xuân – Lữ Liên)

Thật là tuyệt vời

Hôm nay là xuân, mai còn xuân
Một cánh đào rơi nhớ cố nhân

Quá  lý thú và cũng rất bất ngờ ở đây có sự hội ngộ kỳ diệu của nhà thơ Nguyễn Bính và Thôi Hộ, hai nhà thơ của hai thế hệ cùng một ý tưởng với cố nhân:

“Nhân diện bất tri hà xứ khứ.
Đào hoa y cựu tiếu Đông phong”
(Năm nay hoa nở người đâu thấy

Chỉ còn hoa đào cợt gió đông)

Hơn nửa thế kỷ đi qua đọc lại bài thơ “Nhạc xuân” chúng ta  không khỏi bồi hồi xúc động  :  “Năm mới tháng giêng mồng một tết
Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân.”

Nguyễn Bính sinh vào cuối xuân Mậu Ngọ (1918) và từ giả cõi đời trong một chiều 29 Tết Bính Ngọ (1966), năm ấy không có ngày 30,  còn phơi phới sức xuân ở tuôi 49, “cái tuổi tứ thập nhi bất hoặc” thi nhấn đã để lại cho đời nguyên vẹn cả một mùa xuân

Có lẻ đây cũng là sự trùng hợp ngầu nhiên mà thú vị của cuộc đời  nhà thơ với thời gian định mệnh cái duyên kỳ ngộ,  ta càng có quyền để cho sự liên tưởng được đẩy đi xa hơn nữa… Giai thoại Nguyễn Bính kể: một người bạn của Nguyễn Bính là Trần Lê Văn cho rằng tác giả “Lỡ bước sang ngang” đã tiên liệu trước sự ra đi của mình ngay từ thời viết mấy câu thơ trong bài Nhạc xuân:
Năm mới tháng giêng mùng một tết
Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân.

Chúng tathể không hoàn toàn nghĩ như Trần Lê Văn song phải công nhận là giữa Nguyễn Bính với cái thời khắc trời đất giao hoà này, đúng là có mối duyên nợ thầm kín nào đó…

Đón Tết Mậu Tuât – 2018, Kỷ niệm 100 năm sinh của nhà thơ (1918-2018)  đọc lại bài thơ “Nhạc xuân” (Canh Thìn- 1940), thi sĩ đã đến cuối Xuân Mậu Ngọ và ra đi trước thềm năm mới Xuân Bính Ngọ…Tết đến, xuân về, mùa xuân không lựa chọn, không phân biệt một ai.   Bởi thế, từ em nhỏ ngây thơ so màu áo cho đến những chàng thư sinh mơ ước chuyện mai sau,  từ những cô thục nữ yêu kiều,  thao thức chờ mong,  đến những ông già tóc bạc say chén rượu đào đề thơ, đón Tết.và còn…còn nữa “Những tóc bạc hiền như Phật. Sắm sửa hành trang trẩy hội chùa”  Tất cả, tất cả…  đã làm nên một không khí tươi vui, rộn rịp, phấn khởi của mùa xuân:”mùa Xuân vĩnh cữu” cho đời.

“Đây cả mùa xuân đã đến rồi
Từng nhà mở cửa đón vui tươi
Từng cô em bé so màu áo
Đôi má hồng lên nhí nhảnh cười…”

 (Thơ xuân – Nguyễn Bính)

Trí Bửu - Kỷ niệm 100 năm sinh Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-2018)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
06 Tháng Hai 2015(Xem: 7252)
Mỗi lần xuân đến, những tạp chí Phật giáo đây đó thường nô nức nhắc đến bài kệ thơ của Thiền sư Mãn Giác với những bài tụng ca, bình giảng thật vô cùng trân trọng. Thi thoảng ta cũng bắt gặp đâu đó trong các bài bình luận văn học, cành mai kia cũng lọt vào cặp mắt xanh của các vị giáo sư, tiến sĩ với thẩm quyền chuyên môn về kiến thức và nhãn quan của mình. Ai cũng nói đấy là bài thơ thiền.
05 Tháng Hai 2015(Xem: 6961)
Tết đến theo quy luật của vũ trụ, mang tới cho con người nhiều cảm xúc mới, nhiều suy ngẫm, cơ hội nhìn lại. Với người trẻ, Tết đến là dịp để dấn thân, quay về nhà gắn kết tình thâm, là dịp để sống tử tế...
04 Tháng Hai 2015(Xem: 9271)
Ngày mai sư xuống núi / Áo mỏng sờn đôi vai / Chuỗi hạt mòn năm tháng / Hương trầm lỡ cuộc say
03 Tháng Hai 2015(Xem: 6341)
Năm Giáp Ngọ sắp sửa trôi qua với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận xuân Ất Mùi tràn đầy hạnh phúc. Cỏ cây hoa lá, héo úa tàn rụng theo thời tiết bốn mùa mà sinh sôi nảy nở để chuẩn bị đơm hoa kết trái đón nhận một mùa xuân mới.
03 Tháng Hai 2015(Xem: 6533)
Hằng năm, cứ vào lệ thường đêm giao thừa, thầy trò chúng ta thường tụng kinh phúc chúc an lành cho nhân loại, cho đất nước Việt Nam, cho chư thiên, thọ thần, cho tất cả ân nhân, thí chủ, cho chư Phật tử gần xa và cho cả chúng ta một năm mới tốt lành hơn, an vui hơn.
02 Tháng Hai 2015(Xem: 7915)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
01 Tháng Hai 2015(Xem: 9155)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát, nghe theo lời dạy của sư phụ phải ở ẩn một thời gian rồi sau mới ứng cơ giáo hóa. Ngài được Ngũ tổ đưa đến bến Cửu giang rồi chèo đò qua sông đi về phương nam, đến thôn Tào Hầu (曹候村), phủ Thiều Châu (韶州府) nương náu trong một am tranh.