Chương 6: Phật Giáo Và Phương Tây

08 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 13254)

TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
ĐỐI THỌAI GIỮA
TRIẾT HỌC VÀ PHẬT GIÁO
Jean Francois Revel & Matthieu Ricard - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
Nhà xuất Bản Văn Hóa Thông Tin 2010

Chương 6: Phật giáo và phương Tây

Jean Francois: Tất cả các vấn đề mà chúng ta đã nêu ra, tất cả cái gì mà con đã trình bày về siêu hình, về tri thức, về vũ trụ luận Phật giáo, những âm hưởng của các công trình đồ sộ về triết lý, về siêu hình nói về thái độ đối với cuộc sống con người, tất cả những điều đó là trọng tâm thảo luận sôi nổi giữa các tín đồ Phật giáo. Với họ không phải là lịch sử triết học, lịch sử những tư tưởng mà là triết lý và siêu hình đương đại, y hệt như thời Socrate và Platon ở Athenes vào thế kỷ thứ 5 và thứ 4 trước Thiên chúa. Những cuộc thảo luận công khai với tầm cỡ như vậy đã biến mất ở phương Tây từ rất lâu. Những triết lý vẫn còn đó, nhưng không thể hiện theo cách thế như vậy. Gần đây ở Paris có xuất hiện một số triết gia ở quán café hội họp công khai và vào cửa tự do. Nhưng mức độ các cuộc thảo luận không đi quá các quầy hàng. Dù phương Tây thành công không chối cãi được trong nhiều lãnh vực, trong nhiều địa hạt có phải chăng vì cái không khí trống rỗng thiếu những sự thảo luận nghiêm túc, mà Phật giáo đã đem lại một sự tò mò thích thú cho Tây phương. Và điều này làm Ba nghĩ đến một câu nói của Arnod Toynbee: “Một trong những sự kiện lý thú nhất của thế kỷ 20 là sự kiện Phật giáo đến với Tây phương”.

Matthieu: Sự chú ý đó có nhiều nguyên nhân. Trước tiên nó đem đến cho những ai muốn đi theo con đường tâm linh, và chọn điều này làm lẽ sống, một sự minh triết và một giải thuyết siêu hình sống động cùng với những phương tiện để thâm nhập vào sự minh triết đó. Kế đó và chắc chắn là điều quan trọng nhất, nó mở ra cho mọi tín đồ hay cả những người bàng quan một viễn ảnh về sự khoan dung, sự cởi mở, sự vị tha và tự tin đồng thời nó cũng cho thấy đây là một khoa học tâm linh giúp con người tìm được sự bình an trong tâm hồn, đồng thời cũng giúp cho kẻ khác thăng hoa. Hơn nữa Phật giáo chỉ hiến dâng mà không hề áp đặt bất cứ điều gì, cũng không bao giờ tìm cách cải đạo kẻ khác. Phật giáo chỉ chủ trương chia sẻ các nhìn và kinh nghiệm của mình mà thôi.

Jean Francois: Không có sự khuyến khích hay bắt buộc vào đạo nào chứ?

Matthieu: Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói: ''Tôi không phải đến phương Tây để có thêm vài ba tín đồ Phật tử, nhưng là để chia sẻ kinh nghiệm một nền minh triết mà Phật giáo đã phát triển qua nhiều thế kỷ''. Và Ngài hay thêm vào đoạn cuối các bài giảng: ''Nếu các ông thấy cái gì có ích trong những gì tôi trình bày thì xin các ông tùy nghi sử dụng, bằng không thì xin quên nó đi.'' Và Ngài thường bảo các Lạt Ma Tây Tạng hay du hành: ''Các ông không nên quá ca ngợi Phật giáo, các ông chỉ cần chia sẻ kinh nghiệm giữa con người và con người mà thôi.'' Hơn nữa khi người ta cố gắng cải đạo cho một người nào, có thể là người ta thất bại và hơn nữa, vô tình người ta làm cho người tín đồ kia giảm đi lòng tin vào đạo của chính mình. Một cuộc vận động như vậy là nên tránh. Hay hơn hết là nên khuyến khích tín đồ các tôn giáo khác, thâm nhập sâu hơn vào đạo của mình. Vấn đề là làm cho mọi người đều thoải mái. Nhưng cũng không ngăn cấm những người thiết tha muốn gia nhập Phật giáo vì một thiên hướng nào đó. Nếu như vậy họ cần phải học hỏi và hành trì nghiêm túc để đi đến tận cùng con đường của mình giống như một người đào giếng phải cố gắng đào cho đến khi thấy nước. Luôn luôn cởi mở và khoan dung với các tôn giáo khác, tuy nhiên khi đã chọn con đường mình sẽ đi thì phải quyết tâm đi đến cùng. Thật là vô ích khi ra công đào 10 cái giếng, rồi bỏ dở giữa chừng mà không tìm thấy nước.

Vài trăm người Tây phương đã thực hiện việc nhập thất trong 3 năm, 3 tháng, 3 ngày theo truyền thống Tây Tạng. Trong 3 năm nhập thất đó, các hành giả cách ly với thế gian và hành thiền. Trong 3 năm đó mỗi ngày họ học 1 hoặc 2 giờ triết lý hoặc các bản văn Phật giáo về thiền định, đôi khi họ cũng học tiếng Tây Tạng. Thời gian còn lại, từ sáng sớm cho đến khi hoàng hôn xuống họ cố gắng thâm nhập những gì đã học vào con người của họ.

Jean Francois: Thâm nhập vào con người của họ. Con người nào?

Matthieu: Hãy nói rằng vào dòng tư tưởng của họ. Vấn đề là làm sao cho điều họ đã học không là lý thuyết suông. Ta đã đề cập đến các kỹ thuật nhằm thoát ra khỏi tư tưởng một khi chúng xuất hiện, để chúng không có thời gian để hình thành, phát triển và chiếm lĩnh tâm trí.

Jean Francois: Thoát ra hay là khép vào kỷ luật?

Matthieu: Chúng ta đã thấy phải làm thế nào để kiểm soát tư tưởng bằng cách dùng những tình cảm đối trị với những tình cảm tiêu cực (ví dụ lấy từ bi hóa giải hận thù), nhưng người ta có thể dùng một phương pháp cơ bản hơn là khi một tư tưởng xuất hiện hãy ngắm nhìn nó và nhận ngay rằng nó không chắc thật một chút nào cả. Ngay khi ta chú ý đến nó, nó liền tan rã như một sắc cầu vồng trong không gian. Đó là điều mà ta gọi là giải thoát hay tháo gỡ một tư tưởng, không để cho nó khởi động một phản ứng dây chuyền. Những tư tưởng tan biến không để lại dấu vết, không được nối tiếp bởi lời nói hay hành động, thường là biểu hiện thông thường của một tình cảm như sân hận, ham muốn v.v... Dù trong trường hợp nào đi nữa, người ta cũng không còn bị đặt dưới cái ách của tư tưởng. Người ta trở nên giống như một kỵ sĩ lão luyện, ban đầu hơi khó khăn khi ngồi trên yên nhưng sau đó giống như các kỵ sĩ Tây Tạng có thể cúi xuống để nhặt một vật khi đang phi nhanh mà không ngã ngựa.

Jean Francois: đây Ba muốn nói thêm một chút. Ba nhìn nhận rằng Phật giáo đã trình bày các kỷ luật cá nhân một cách mới mẻ cho Tây phương. Tuy nhiên, các kỷ luật ấy cũng không xa lạ gì với Tây phương. Trong các triết thuyết Tây phương, người ta phân biệt rất rõ ràng giữa các tư tưởng vô tổ chức và các tư tưởng có tổ chức. Người ta vẫn biết rằng một tư tưởng vô tổ chức sẽ kéo theo nhiều tư tưởng khác một cách ngẫu nhiên và mặt khác, một tư tưởng có tổ chức sẽ được hướng dẫn, điều khiển, ví dụ như tư tưởng toán học hay các lập luận. Những người Tây phương là những nhà lý luận lớn. Từ Aristote đến Bertrand Roussel qua Leibniz, nghệ thuật dẫn đạo tư tưởng không để nó trở thành biến trình tư tưởng, luôn luôn là một kỷ luật được tuân theo qua các thời đại. Đó cũng là mục tiêu chính của sự hình thành triết lý.

Matthieu: Ba tưởng rằng các nhà toán học không có những tình cảm sai lạc sao? Con cầu mong cho họ được như vậy. Dù sao, Phật giáo như con đã nói, không có ý định khám phá ra điều gì mới lạ, nhưng trái với những truyền thống tâm linh và triết lý của thời đại chúng ta, Phật giáo đem các hiểu biết về lý thuyết ra thực hành một cách sống động và cương quyết. Chính cái khía cạnh thực hành có hiệu quả đó đã lôi kéo những người chú ý đến siêu hình học, nhưng không biết làm sao để áp dụng nó vào đời sống thường nhật.

Jean Francois: Phật giáo có thể dành cho mọi người không, cho dù là những người không thích sống ẩn cư hay sống trong các chùa chiền?

Matthieu: Đó lại là một khía cạnh khác đáng chú ý. Không phải ai cũng có thể hay cũng muốn sống ẩn cư ba năm hay sống trong một tu viện vì lý do gia đình hay nghề nghiệp. Nhưng những phương pháp chuyển hóa tâm thức có thể được áp dụng từng giây phút trong cuộc sống giúp cho cả những người bình thường được lợi ích đáng kể. Phật giáo trước tiên là một khoa học tâm linh và có thể đáp ứng được rất nhiều vần đề xã hội nhờ vào sự khoan dung, sự bất bạo động đối với chúng sinh và môi trường. Với mỗi người dù là tu sĩ hay không, đều có chung một con đường. Ở châu Á, Phật giáo tiếp tục có một sức sống mãnh liệt. Những người lưu vong Tây Tạng đã xây cất lại những tu viện khi họ có thể làm được, dù rằng họ rất thiếu thốn. Các tu viện này tràn đầy tín đồ, và giữa 130 ngàn người lưu vong Tây Tạng ở Ấn Độ, có đến 1/10 lại tiếp tục sống trong các tu viện.

Jean Francois: Còn ở Tây phương thì sao?

Matthieu: Phật giáo gây nên một sự chú ý luôn luôn tăng trưởng dựa trên ý muốn một sự trao đổi, một sự cởi mở. Người ta không học hỏi để trở thành Phật tử, mà đôi khi để hiểu sâu hơn về đạo của mình, hay khám phá ra chân lý nội lực nhờ vào một vài phương pháp trong Phật giáo.

Jean Francois: Có phải Phật giáo là một đạo hỗn hợp không? Có nghĩa là lấy ở học thuyết này một ít, học thuyết kia một ít. Đạo hỗn hợp không phải là đạo có mức độ tư tưởng cao siêu nhất.

Matthieu: Chắc chắn là không phải. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh rằng không ích lợi gì đặt một cái đầu trâu trên thân một con cừu. Đạo hỗn hợp làm mờ nhạt, làm mất bản sắc những truyền thống tâm linh mà nó muốn pha trộn. Con muốn nói đến một vài kỹ thuật làm chủ tâm linh hay thiền định mà giá trị được công nhận tổng quát. Năm 1984, Đức Đạt Lai Lạt Ma được mời một tuần lễ ở Anh quốc để chú giải về Phúc âm. Ban đầu Ngài tự bảo: ''Ta phải làm sao đây, ta có bao giờ học Phúc âm đâu? Ta có thể nói gì được từ nguyên tắc một vị Thượng đế sáng tạo mà chúng ta không đặt ra trong Phật giáo. Điều này có vẻ khó giải quyết. Tuy nhiên ta cứ thử, tại sao không?” Và Ngài đã chú giải một vài đoạn trong Phúc âm trước một cử tọa gồm có những tu sĩ và cả những người vô thần. Điều đáng ngạc nhiên là trong khi người đọc và chú giải kinh Thánh, những vị 1inh mục, những tu sĩ, những vị nữ tu đã cảm động bật khóc và có cảm giác như mới nghe những đoạn kinh ấy lần đầu. Vì sao thế? Vì Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về tình thương, về lòng bác ái và những lời nói của Ngài 1à biểu hiện trực tiếp kinh nghiệm bản thân của Ngài, Ngài đã sống đúng như những gì Ngài đã nói. Người phương Tây rất cảm kích về khía cạnh sống động của truyền thống. Tạng thư về sự sống và cái chết của Soygal Rinpotché đã xuất bản đến một triệu ấn phẩm và dịch ra 26 thứ tiếng.

Jean Francois: Có phải là một cuốn sách xưa, một cuốn sách cổ điển?

Matthieu: Không phải, không phải là bản dịch cổ xưa ''Tử thư Tây Tạng'' giai đoạn chuyển tiếp sau khi chết. Cuốn ''Tạng thư về sự sống và chết" là một sự giải thích đơn giản và trực tiếp về nền minh triết Tây Tạng với những giai thoại về những cuộc gặp gỡ của Soygal Rinpotché với các đạo sư nhưng thật ra đây là một quyển sách về sự sống: Phải sống cuộc đời mình như thế nào? Phải đối mặt với cái chết như thế nào? Làm thế nào để giúp đỡ những người hấp hối? Làm thế nào cho cuộc đời có một ý nghĩa? Và làm thế nào để một cái chết yên lành là điểm cao của một đời sống tốt.

Jean Francois: Cũng rất đáng chú ý khi những triết gia thế hệ mới ở Pháp, càng ngày càng để tâm đến Phật giáo. Ba hiện có trong tay quyển sách của Luc Ferry ''Con người là thần linh hay là ý nghĩa của cuộc sống'' là một tiểu luận rất hay xuất bản năm 1996 và đã thành công vang dội. Cuốn sách dựa vào quyển ''Tạng thư sống và chết'' và phát triển một vài tư tưởng Phật giáo mà tác giả đặc biệt chú ý. Tuy nhiên, ông ta cũng nêu lên một sự bất đồng căn bản khi nói rằng: ''Tốt thôi. Một cuộc sống ẩn dật, trốn tránh cuộc đời... ''Nhưng cho dù với rất nhiều lòng bác ái cho toàn thể nhân loại nhưng điều đó cũng không giải quyết được vấn đề Auschwitz (dưới thời Đức quốc xã) hay ở Bosnia (giữa người Albani và Nam Tư). Con có gì để trả lời về sự bất đồng này.

Matthieu: Phải đánh tan một sự hiểu lầm mà người ta cũng tìm thấy ở Đức giáo hoàng Jean Panl II trong quyển sách của mình ''Bước qua ngưỡng cửa hy vọng'', ngài xác định rằng theo Phật giáo cần phải cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài và dần dần với sự thoát ly ấy chúng ta sẽ trở thành lạnh nhạt với tất cả mọi thứ trong cuộc đời. Ngài miêu tả Niết Bàn như một sự vô cảm đối với thế gian. Những điều đó hoàn toàn trái ngược với Phật giáo, nhưng có thể tha thứ được vì người ta thiếu thông tin. Vì lẽ mục đích của Phật giáo là đạt tới một sự hiểu biết tối hậu về thế giới hiện tượng trong cũng như ngoài. Trốn tránh thực tại không giải quyết được gì. Niết Bàn hoàn toàn trái ngược với sự vô cảm đối với thế gian, đó lại 1à tình thương và lòng bác ái với toàn thể chúng sinh. Một lòng nhân ái vô biên đến từ sự minh triết, từ sự nhận ra 1à ở mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, và cái lòng nhân ái đó không hạn chế vào vài loại chúng sinh nào, như trường hợp tình yêu bình thường. Cái điều duy nhất mà ta phải cắt đứt đó là sự dính mắc ngây thơ và duy ngã vào những sự mê hoặc của dục lạc, của chiếm hữu, của quyền lực v.v...

Jean Francois: Jean Paul II cũng nghĩ rằng theo Phật giáo, việc xa rời các giác quan cũng là một mục tiêu cần phải đạt đến.

Matthieu: Mục đích là không còn phải lệ thuộc vào giác quan và như vậy không còn đau khổ giống như con thiêu thân lao vào ngọn lửa. Kẻ nào đã rời bỏ mọi dính mắc, có thể hưởng thụ vẻ đẹp tuyệt vời của thế gian, và còn có thể trở lại đó để phát huy lòng từ ái vô biên mà không bị những tình cảm lệch lạc sai sử nữa.

Jean Francois: Đức Giáo hoàng khẳng định rằng theo Phật giáo sự giải thoát là giải thoát khỏi cái ác nhờ vào sự từ bỏ thế gian là nơi bắt nguồn cái ác.

Matthieu: Tất cả đều tùy thuộc ở chỗ ta hiểu thế nào là thế gian. Nếu đó là thế gian bị qui định, đau khổ cho những ai bị vô minh che lấp, thì có ai là không muốn giải thoát? Nhưng thế gian tự nó không xấu vì đối với một kẻ giác ngộ như Đức Phật thì đó là một sự trong sáng vô biên, một sự hoàn mỹ không bao giờ hư hoại. Nhưng nói theo Jean Paul II rằng thần bí học Carmel bắt đầu khi tư tưởng Đức Phật chấm dứt thì có vẻ hơi phiến diện đấy. Làm thế nào để thẩm xét từ bên ngoài, sự thâm sâu của giác ngộ nơi Đức Phật. Kinh điển Phật giáo có ghi lại lời của Đức Phật khi người chứng ngộ: ''Chân lý mà ta nhận biết đó rất sâu xa, tĩnh lặng, không bị qui định, sáng ngời và ra ngoài mọi tạo tác của tâm thức. ''Điều này hoàn toàn khác hẳn một tư tưởng đơn thuần. Đức Giáo hoàng đã nhắc lại một tri kiến lỗi thời dựa trên bản dịch các văn bản Phật giáo vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Dựa trên những hiểu biết không đầy đủ, tác giả các bản dịch đó chỉ ghi lại sự chú tâm của Đức Phật vào nỗi khổ của con người, và họ chỉ hiểu rằng chấm dứt đau khổ là một sự tắt ngấm, trong khi đó là một sự tỉnh thức lợi cho mình và cho người. May mắn thay nhiều tín đồ Thiên chúa siêu việt như Thomas Merton, tu sĩ thời danh người Mỹ dòng Trappes (khổ hạnh) mà các tác phẩm rất phổ biến ở Mỹ đã được Giáo hoàng Jean 23 phái đi Á Đông đã đánh giá rất cao Phật giáo. Thomas Merton đã chịu khó nghiên cứu cốt tủy của Phật giáo. Sau một thời gian gần gũi các đạo sư Phật giáo, ông đã viết trong quyển ''Nhật ký Á châu'': ''Chắc chắn rằng tôi sẽ hạnh phúc được biết thêm nhiều điều qua kinh nghiệm. Tôi nghĩ rằng Phật tử Tây Tạng là những người duy nhất cho đến nay đã tập hợp được một số đông tín đồ thành tựu được những đỉnh cao về thiền định''.

Trong cuộc hội họp tôn giáo về Phúc âm mà con đã đề cập trước đây theo lời của cha Laurence Freeman, một con người gương mẫu trong đối thoại thì Đức Đạt Lai Lạt Ma với sự cởi mở thường lệ đã nói: “Tôi nghĩ rằng giữa truyền thống Phật giáo và Công giáo có một sự hội tụ đặc biệt, và một tiềm năng phát huy hỗ tương do đối thoại nhất là trong địa hạt đạo đức, kinh nghiệm tâm linh cũng như lòng bác ái, tình thương, thiền định và sự tiến bộ trong khoan dung độ lượng. Tôi nghĩ rằng cuộc đối thoại đó có thể đi rất xa và đạt đến một mức độ rất sâu sắc.” Nhưng đồng thời ngài cũng lưu ý thính giả về xu hướng một sự hỗn hợp tôn giáo rất đỗi vô ích.

Jean Francois: Nói về tình yêu đồng loại, những tôn giáo lớn từ khởi thủy đã có hai đối tượng để thù ghét: Những người dị giáo và những kẻ cuồng tín. Và họ không ngần ngại tàn sát những hạng người này.

Matthieu: Theo Phật giáo, khinh rẽ những tôn giáo khác là một trọng tội, dù cho người ta có không đồng ý về vài quan niệm siêu hình.

Jean Francois: Đôi khi người ta nghe nói: '' Phật giáo có thể làm được gì trong việc đem lại hòa bình cho thế gian?'' Đó là một triết lý của sự cởi bỏ ràng buộc, và do đó người ta không còn quan tâm đến xã hội. Những tu sĩ sống biệt lập trong những rừng núi và cầu nguyện cho mọi người nhưng thực tế họ không làm gì được cho nhân loại, họ chỉ lo tu sửa để hoàn thiện bản thân của họ và như vậy thì có lợi ích gì cơ chứ?

Matthieu:  Người tu nhập thất xa lánh thế gian để củng cố sức mạnh tâm linh ngõ hầu phục vụ kẻ khác hữu hiệu hơn. Con đường tâm linh bắt đầu bằng một sự chuyển hóa nội tâm, và một khi họ đã thành tựu điều này thì hành giả mới có thể góp sức hữu hiệu vào sự cải tạo xã hội.

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng sự giải giới bên ngoài không thể thực hiện được trừ phi có cuộc giải giới trong lòng mọi người. Nếu cá nhân không yêu hòa bình, thì xã hội cộng đồng của những cá nhân ấy, cũng không thể yêu hòa bình được. Những cá nhân noi theo và nuôi các ý tưởng Phật giáo không thể quan niệm nỗi việc làm hại người khác. Một xã hội bao gồm đa số là Phật tử đích thực, không bao giờ khởi hấn chiến tranh.

Jean Francois: Vậy là mục tiêu của một nền hòa bình trường cửu chỉ có thể thực hiện được nhờ vào sự chuyển hóa cá nhân?

Matthieu: Ngược lại là điều không tưởng. Sự chuyển hóa cá nhân dĩ nhiên là phải bao gồm cả cấp lãnh đạo. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn luôn nhấn mạnh đến sự kiện không thể chấp nhận được là các quốc gia Tây phương mãi lo buôn bán vũ khí mà quên rằng họ có thể bị bắn trở lại bằng chính các vũ khí đó. Không thể chấp nhận được là các quốc gia Tây phương tự cho mình là văn minh và có ý định thiết lập một nền hòa bình thế giới lại đi bán những dụng cụ giết người vì lý do thương mại. Cũng không nên quên rằng 90% các vũ khí bán ra cho các nước đang phát triển, xuất phát từ 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Thật là một biểu hiện đạo đức giả đối với các nước tự cho mình là vô địch trong việc bảo vệ hòa bình và dân chủ.

Khi buôn bán vũ khí như vậy, họ chỉ phát động thêm hiểm họa chiến tranh mà thôi. Các nhà máy của hãng Fiat chế tạo hàng loạt loại mìn sát thương, và bây giờ họ lại nghĩ đến việc chế tạo ra các loại mìn bằng chất dẻo để khỏi bị phát hiện. Và chắc là ông tổng giám đốc và các cổ đông hãng Fiat sẽ rất hài lòng về số đàn bà và trẻ con đã giẫm lên các quả mìn đó trong nhiều năm có chiến tranh. Và hãng Fiat lại có thể thủ lợi thêm nữa bằng cách bán chân tay giả cho những người sống sót. Lẽ ra các hãng đó chỉ nên bằng lòng với việc bán ô tô và máy tính mà thôi.

Jean Francois: Ba hoàn toàn đồng ý. Thật là kinh khủng.

Matthieu: Bây giờ lại nói về môi trường. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói đến một sự bất bạo động không những đối với con người mà cả đối với thiên nhiên. Ở Bhoutan, đánh cá và săn bắn bị hoàn toàn cấm chỉ, đó là một tấm gương tốt trong việc thực hiện các lý tưởng Phật giáo trong một xã hội. Một quốc gia Phật giáo sẽ không ngần ngại ngăn cấm việc dùng các tấm 1ưới dài 40 cây số để bắt tất cả mọi loại cá, cả cá heo và tàn phá môi trường thủy sản. Tất cả những sự cuồng sát đó chẳng qua là vì lợi nhuận và vì con người tự cho mình là có quyền giết hại vô số động vật, đơn giản là vì mình có khả năng làm việc đó.

Jean Francois: Liên hiệp Âu châu đã cấm chỉ các loại lưới đó.

Matthieu: Nhưng Nhật Bản và Đài Loan tiếp tục tàn hại các đại dương.

Jean Francois: Trong tất cả những gì con vừa nói, có vài điều thuộc riêng về Phật giáo, một vài điều khác cũng đã được những người có thiện chí nêu lên. Các ý niệm thành lập một lực lượng đa quốc gia để kiểm soát những lực lượng quốc gia, đã là ý niệm của Hội Quốc Liên sau hai cuộc thế chiến, đó cũng là ý niệm của Liên hiệp quốc ngày nay và cũng là của Liên hiệp châu Âu muốn xây dựng một thứ quân đội Âu châu gồm nhiều quốc gia. Lý tưởng đó luôn trở đi trở lại. Cũng như có những cuộc họp định kỳ về giải giới. Nhưng đi xa hơn là điều con đã lưu ý rằng không thể ngăn được các nhóm sắc tộc tàn sát lẫn nhau như ở Bosnia, ngày nào người ta chưa chuyển hóa được con người, chưa biến từng con người thành bất bạo động. Nhưng ở đây thì các triết lý về sự cải tạo bản chất con người rất nhiều. Ba còn có thể nói rằng tất cả những nền minh triết, những tôn giáo lớn đều có đề cập đến những khả năng đó. Và cho đến bây giờ là một sự thất bại hoàn toàn! Các ý niệm biến con người, từng cá nhân một, trở nên yêu chuộng hòa bình, để cho toàn thể nhân loại trở thành thù nghịch với bạo động, là một việc trên thực tế không thể thực hiện được. Ít ra là trong thế kỷ hiện nay, chúng ta không tiến bộ chút nào trên con đường này.

Matthieu: Đúng vậy, nhưng mặt khác việc cải tạo từ bên ngoài bằng cách áp đặt lên những cá nhân cứng đầu, ngoan cố những luật lệ gắt gao, ngay cả một thể chế độc tài không những không thực hiện được, mà lại còn băng hoại ngay tại gốc rễ. Người ta có thể hà khắc một thời gian nào đó, nhưng sau đó những kẻ bị áp bức, luôn luôn bày tỏ sự bất bình và tìm cách thoát khỏi những kẻ áp bức bằng hòa bình hay bạo động. Họ sẽ tìm các tự võ trang và sử dụng vũ khí.

Jean Francois: Có thể chăng một thái độ như vậy được toàn thể nhân loại chấp nhận? Phật giáo luôn luôn ghê sợ phải dùng đến bạo lực để áp đặt quan điểm của mình, hay để tự bảo vệ. Ngược lại những tôn giáo lớn mà chúng ta đã biết thường quay lưng lại với lý tưởng của họ. Cơ đốc giáo cũng đặt nền tảng trên sự bất bạo động, Đấng Christ đã chẳng nói: ''Nếu ai tát má phải của ngươi, hãy đưa nốt má trái ra và hãy thương yêu lẫn nhau.'' Mặc dù thế, nhà thờ đã dùng thời gian để tận diệt những kẻ không chịu cải đạo, cũng như những kẻ cuồng tín dám cả gan chống đối lại đức Giáo hoàng như vào thời Galileé khi nhà bác học này chủ trương trái đất xoay chung quanh mặt trời, trái với quan niệm tòa thánh. Vì vậy cái khả năng con người làm trái lại với lý tưởng của họ, luôn luôn xuất hiện trong lịch sử. Ba tự hỏi điều này có giới hạn ảnh hưởng của Phật giáo đối với phương Tây hay không?

Matthieu: Cũng có thể là những người muốn tìm hiểu Phật giáo đã cố gắng đưa vào phương Tây những nguyên tắc khoan dung của Phật giáo, đã làm cho họ được nhiều cảm tình hơn. Dù sao đi nữa phải tự thanh tịnh lòng mình- giải giới nội tâm rồi đến sự bình an- trong gia đình, trong làng mạc, rồi rộng ra cả quốc gia và ảnh hưởng vượt qua biên giới.

Khi trình bày như vậy, Đức Đạt Lai Lạt Ma hy vọng giúp đã mọi người tìm lại đúng những truyền thống tâm linh của chính họ. Như vậy thái độ của chúng tôi không phải là của các nhà truyền giáo. Sự trở lại các hình thức tôn giáo cực đoan là do thiếu vắng các truyền thống tâm linh. Thái độ cực đoan trong tôn giáo là thiếu khôn ngoan, thiếu sáng suốt là vì ta phải hướng dẫn những người lầm lạc thay vì loại bỏ họ.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Ba 2016(Xem: 14630)
Thật sự thì cũng định trả lời kiểu “cộc lốc” ngay lúc con nhắn thư hỏi rồi, nhưng thiết nghĩ, nên trích dẫn bài kinh liên quan đến vấn đề này cho nó khoa học hoá vấn đề chút. Dù sao thì con người thời nay vẫn thích “trích chương tầm cú” và “mê tín khoa học” hơn! Mà lạ lùng thay, chính đức Phật lại là người đầu tiên trả lời thực tế và giản dị một cách lạ thường mà thời nay có thể cho rằng nói kiểu đó là thô tục, không lịch sự. Nhưng có lẽ nhờ dùng từ miêu tả không bóng bẩy như vậy mà trúng tim đen người nghe. Thầy tạm dịch theo lối văn cộc lốc để lấy nghĩa cho con thấy: “Này Vāseṭṭha, rõ ràng rằng, những bà mẹ của họ đến tháng có kinh nguyệt, mang bầu, sinh đẻ, rồi cho con bú mớm. Họ toàn sinh ra từ bộ phận sinh dục của những bà mẹ ấy cả. Vậy mà họ mở miệng ra là ca tụng giai cấp Bà-la-môn là cao thượng, thanh tịnh, da trắng, là con cái, là thái tử sinh ra từ miệng của Thượng đế (Phạm thiên), Thượng đế tạo ra, là nối dõi của Thượng đế, còn giai cấp khác là hạ liệt…” [2]
28 Tháng Ba 2016(Xem: 6118)
“In my Heart Sutra’s view, one plus one equals three , and two minus one equals emptiness ().” Tru Le Nhị nguyên nhi sinh tam thừa (phải trái và trung đạo,) và 1= Sắc = = Không. Nên nhớ định đề Bát Nhã: Không không phải Không mà là Không.
30 Tháng Tám 2010(Xem: 56238)
Quyển A Brief History of Time của Stephen W . Hawking đã bán trên 22 triệu quyển ở khắp thế giới và đã được dịch trên 35 thứ tiếng. Tôi nhớ đâu đó tác giả nói rằng ai đọc hiểu quyển này thì sẽ có trình độ hiểu biết về Vật lý học ngang hàng Với một kẻ đậu tiến sĩ Vật lý học. Mặc dù tác giả đã cố gắng viết một cách phổ thông dễ hiểu, nhưng quyển A Brief History of Time không phải dễ hiểu như lúc mình mới đọc sơ qua. Trên 10 năm qua, tôi đã được dịp đọc lại nhiều lần quyển sách của Hawking và thấy rằng : “Thấy Thượng Tọa Viên Lý đã tập trung thiên lực và định lực để làm vài ba sự việc ít ai làm được: đã dịch hai tác giả khó hiểu nhất của nhân loại , một người mang tên là Long Thọ (Nagarjuna) và một người mang tên là Stephen Hawking: một bên là cái khó khăn nhất của Đạo học Đông – phương và một bên là cái khó khăn nhất của Khoa học Tây phương. Chỉ nội nỗ lực vĩ đại truyền đạt hai cái khó khăn nhất của Phật học và Khoa học, Thượng Tọa Viên Lý đáng được chúng ta hết lòng ngưỡng mộ, đó là chư
03 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6546)
Muốn khảo sát vũ trụ hiện hữu thì trước nhất phải biết rõ chính mình, hiểu rõ người, chúng sinh, và vạn vật rồi mới có thể nghiên cứu tới vũ trụ quan. Thế nên, điều thực tiển trước nhất cho nhân sinh là quay trở về chính mình để biết mình là ai, từ đâu tới, đang làm gì và sẽ đi đâu?
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 5953)
Nhà khoa học dùng logic kiểu Descartes để tìm hiểu những hiện tượng thiên nhiên, còn Phật giáo, theo tôi hiểu , dùng tư duy đạo đức, triết học để giác ngộ và giúp nhân loại diệt khổ. Tuy nhiên, khoa học và Phật giáo không phải là không tương hợp với nhau. Một Phật tử có thể là một nhà khoa học lỗi lạc. Nhưng nếu dùng khoa học để giải thích một hiện tượng siêu hình, đối với tôi, là không thực tế.
10 Tháng Mười 2015(Xem: 9372)
Từ bi có sức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không? Trước tiên, từ bi sẽ chuyển hóa được cả thân và tâm của người tu tập.
17 Tháng Chín 2015(Xem: 11486)
Trong quyển Cơ Sở Khoa Học của Thiền Chánh Niệm, nội dung nhấn mạnh đến những phương pháp thực hành Chánh Niệm. Nội dung quyển này chú trọng đến những khám phá mới về vận hành của não khi thực hành Chánh niệm qua ánh sáng khoa học.
01 Tháng Chín 2015(Xem: 7811)
Tôi cũng xin tâm tình đôi chút . Hôm nay là ngày giỗi mẹ tôi . Ngày mẹ tôi mất cách đây 16 năm , lần đầu tôi nghe và đọc Bát Nhã Tâm Kinh : “Sắc bất dị không , không bất dị sắc ; thọ , tưởng , hành , thức , diệc , phục như thị …” và tìm đến triết lý “tánh không” của ngài Long Thụ . Qua cuốn sách của anh Bách , tôi suy ngẫm về cái Không lượng tử theo đó chân không là vật chất , vật chất là chân không , hai cái đó chỉ là một giả ngữ , chúng liên hoàn tương tác với nhau , cái này chứa cái kia ; chân không , vật chất chẳng sao tách biệt .
01 Tháng Chín 2015(Xem: 5722)
21 Tháng Năm 2015(Xem: 6081)
Sinh học Di Truyền đã làm một cuộc cách mạng trong Y khoa và đối với quần chúng gene được xem trong bộ Genome là những nhà độc tài mới. Ví dụ nếu chúng ta có một gene gây ra một bệnh di truyền huyết thống, thế hệ kế tiếp thế nào cũng mắc một bệnh tương tự, chạy trời không khỏi nắng!