Chính Trị Và Kinh Tế - Đức Đạt Lai Lạt Ma - Chuyển Ngữ: Ht Thích Trí Chơn

29 Tháng Tám 201000:00(Xem: 28054)

CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ
Nguyên tác: Đức Đạt Lai Lạt Ma - Chuyển ngữ: HT Thích Trí Chơn
Trích từ cuốn sách: Ethics for the New Millennium

Tất cả chúng ta đều mong ước sống trong một thế giới an lạc và hạnh phúc hơn. Nhưng nếu chúng ta muốn biến nó trở thành hiện thực, chúng ta phải bảo đảm rằng lòng từ bi là nền tảng của mọi hành động. Điều này lại đặc biệt đúng đối với các đường lối chủ trương về chính trị và kinh tế.

Chúng ta biết hơn nửa thế giới hiện nay đang thiếu thốn về các nhu cầu căn bản như thức ăn, nhà ở, thuốc men và giáo dục. Tôi tưởng nghĩ chúng ta nên đặt câu hỏi, phải chăng chúng ta đang theo đuổi một chiều hướng sáng suốt nhất đối với các vấn đề này?

Tôi tin rằng không. Nếu như năm mươi năm qua, chúng ta có thể hoàn toàn diệt trừ hết nạn nghèo đói thì sự phân chia không quân bình các tài sản hiện nay của chúng ta may ra còn có thể bào chữa. Nhưng trái lại, nếu tình trạng này cứ tiếp diễn, điều chắc chắn là người nghèo lại càng nghèo hơn. Chỉ riêng ý thức căn bản của chúng ta về sự công bằng và hợp lý đã đề nghị rằng chúng ta không nên bằng lòng để cho sự việc trên tiếp tục xảy ra.

Dĩ nhiên, tôi không biết nhiều về kinh tế. Nhưng tôi thấy khó tránh để kết luận rằng tài sản của người giàu được bảo vệ qua sự bỏ mặc không quan tâm đến những kẻ nghèo khổ, đặc biệt do phương tiện của các món nợ quốc tế.

Nói lên điều này tôi không có ý bảo rằng các quốc gia nghèo kém mở mang khỏi cần phải chia xẻ trách nhiệm đối với các vấn đề khó khăn của họ. Cũng chẳng phải chúng ta nên qui trách tất cả mọi điều xấu xa về chính trị cũng như kinh tế cho các chính trị gia và nhân viên công quyền.

Tôi không phủ nhận ngay cả trong thế giới có nền dân chủ vững mạnh nhất cũng vẫn thường thấy xuất hiện các nhà chính trị đưa ra những lời hứa hẹn không thực tế và ồn ào phô trương về nhiều việc họ sẽ làm sau khi đắc cử. Nhưng các người ấy không phải từ trên trời rớt xuống.

Do vậy, nếu các nhà chính trị ở một quốc gia nào đó tham nhủng, chúng ta thường lên án rằng xã hội ấy thiếu đạo đức và những cá nhân tạo thành dân tộc đó sống không có luân lý. Trong các trường hợp này, thực sự không mấy công bằng khi chỉ có những cử tri chỉ trích các chính trị gia.

Mặt khác, khi người ta có những giá trị cao quý và khi họ thực hành giới luật đạo đức trong đời sống biết quan tâm giúp đỡ mọi người thì các công chức sinh ra từ xã hội đó đương nhiên cũng biết tôn trọng cùng thứ giá trị ấy. Cho nên, mỗi người chúng ta đều giữ vai trò trong việc xây dựng một xã hội đặt trên nền tảng của tình thương, dành ưu tiên cho sự quý trọng và lo nghĩ đến người khác.

Trên phương diện áp dụng cho chính sách kinh tế, cùng ý tưởng đó cần được thực hiện trong sinh hoạt của mỗi người. Một ý thức về trách nhiệm toàn cầu rất quan trọng. Tuy nhiên, tôi phải nói rằng rất khó đề nghị những ý kiến thực tiễn cho sự áp dụng các giá trị tinh thần trong lãnh vực thương mại. Bởi lẽ sự cạnh tranh đóng vai trò chủ yếu. Vì lý do đó, liên hệ giữa thiện ý và lợi tức rất mỏng manh.

Nhưng tôi chẳng hiểu tại sao không thể tạo một sự cạnh tranh xây dựng. Yếu tố căn bản là động cơ của những người tham dự. Khi chủ ý là lợi dụng hoặc tiêu diệt kẻ khác, hẳn nhiên hậu quả sẽ không thể nào tích cực. Nhưng khi sự cạnh tranh được hướng dẫn với một tinh thần nhân đạo và thiện chí thì kết quả, mặc dù gây nên sự khổ đau cho người thua lỗ, nhưng ít ra cũng không đến nỗi quá tàn hại.

Hơn nữa điều có thể phản đối là trong thực trạng thương mại, chúng ta không thể nào hy vọng các thương vụ đặt con người vượt lên trên lợi tức. Nhưng ở đây, chúng ta nên nhớ rằng những kẻ điều hành ngành kinh doanh và các thương vụ trên thế giới cũng vẫn là con người. Ngay các phần tử cứng rắn nhất, chắc hẳn đều phải nhận thấy rằng đi tìm lợi tức mà không nghĩ đến hậu quả tai hại là sai lầm. Nếu điều ấy đúng thì buôn bán ma tuý cũng chẳng sai. 

Cho nên một lần nữa, điều cần thiết đòi hỏi ở đây là mỗi người chúng ta nên tự phát triển tâm từ bi của mình. Chúng ta càng gia tăng được điều đó thì công việc doanh thương càng phản ảnh được các giá trị đạo đức căn bản của con người.

Trái lại, nếu chúng ta không quan tâm đến các giá trị ấy thì thương mại chắc chắn cũng sẽ không chú ý tới chúng. Đây không phải là vấn đề lý tưởng. Lịch sử chứng minh cho thấy trong xã hội con người có nhiều phát triển tích cực diễn ra do kết quả của lòng từ bi. Chẳng hạn sự huỷ diệt thương vụ buôn bán người nô lệ.

Nếu nhìn vào sự tiến hoá của xã hội loài người chúng ta thấy cần thiết phải có viễn ảnh nhằm mang lại các thay đổi tích cực. Lý tưởng là động cơ thúc đẩy cho sự tiến bộ. Không biết điều này và chỉ bảo rằng chúng ta cần phải “thực tiễn” trong chính trị là một sai lầm nghiêm trọng.

Các vấn đề của chúng ta trong việc phân phối kinh tế thiếu quân bình đã tạo nên một thử thách lớn lao cho toàn thể gia đình nhân loại. Tuy nhiên, khi chúng ta bước vào thiên niên kỷ mới, tôi tin rằng có nhiều lý do để lạc quan. Trong những năm đầu và giữa thế kỷ 20, có một nhận thức tổng quát rằng quyền lực chính trị và kinh tế là hậu quả chứ không phải sự thật. Nhưng tôi nghĩ ý tưởng đó nay đã thay đổi. 

Ngay cả các quốc gia giàu có và hùng mạnh nhất đã nhận biết rằng không thế bỏ quên những giá trị căn bản về nhân sinh. Ý niệm về đạo đức dành cho bang giao quốc tế ngày càng được xây dựng vững chắc. Đó là chưa kể đến những điều đã được diễn tả biến thành các hành động ý nghĩa, ít ra là những danh từ như “sự hoà hợp”, “bất bạo động” và “sự cảm thông” đã trở thành các từ ngữ của nhiều chính trị gia ngày nay. Đó là một sự phát triển hữu ích. 

Theo kinh nghiệm cá nhân trong những chuyến công du ngoại quốc đã ghi nhận, tôi được yêu cầu thuyết giảng về hoà bình và từ bi trước cử toạ đoàn, thường vượt quá số ngàn. Tôi không tin khoảng bốn mươi hay năm mươi năm về trước, các đề tài đó được lôi cuốn hấp dẫn số đông người như thế. Những tiến triển trên đây chứng tỏ tập thể loài người chúng ta ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các giá trị căn bản như sự công bằng và chân lý.

Tôi cũng rất an tâm trước sự kiện là, nền kinh tế thế giới càng phát triển, sự tuỳ thuộc vào nhau càng rõ ràng. Kết quả, mỗi quốc gia này, không nhiều thì ít đều phải liên hệ đến một quốc gia khác. Nền kinh tế tân tiến, như là môi sinh không có biên giới. Ngay cả những quốc gia thù nghịch với nhau cũng phải hợp tác trong việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên của thế giới.

Lấy ví dụ thông thường họ phải tuỳ thuộc chung vào một con sông. Và sự liên hệ kinh tế của chúng ta càng nương nhờ vào nhau thì tương quan chính trị càng phải hợp tác với nhau. Do vậy, chúng ta đã chứng kiến, chẳng hạn sự lớn mạnh của Liên Hiệp Châu Âu, khởi đầu chỉ từ vài khách hàng trao đổi mậu dịch nho nhỏ dẫn đến sự kết hợp của các quốc gia thành một liên bang với số thành viên hiện nay đã tăng gấp đôi. 

Chúng ta cũng nhận thấy hình thức tương tự, mặc dù kém phát triển, sự hợp tác trên thế giới của ba tổ chức: Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEANS), Tổ Chức Phi Châu Hợp Nhất (OAU) và Tổ Chức các Quốc Gia Xuất Cảng Dầu Hoả (OPEC). Mỗi tổ chức chứng minh một động lực nhân sinh về sự hợp tác vì lợi ích chung và phản ảnh sự liên tục tiến hoá không ngừng của xã hội con người.

Khởi đầu từ các bộ lạc nho nhỏ đã phát triển hình thành các đô thị tiểu quốc rồi đến quốc gia và hiện nay là các đồng minh bao gồm nhiều trăm triệu người, tiếp tục lớn mạnh vượt trên mọi lằn ranh phân chia địa dư, văn hoá và chủng tộc. Đây là chiều hướng tôi tin rằng sẽ và phải tiếp tục.

Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận rằng, song song với sự tăng trưởng của các liên minh chính trị và kinh tế, rõ ràng còn có sự tập hợp lớn lao hơn vượt các đường ranh phân chia giữa chủng tộc, ngôn ngử, tôn giáo và văn hoá - lại thường có bạo động tiếp diễn theo việc huỷ bỏ sự liên kết vào thể chế quốc gia.

Chúng ta nên làm gì trước sự kiện có vẻ mâu thuẫn đó - một bên là khuynh hướng hợp tác vượt quốc gia, còn phía kia là sự thúc đẩy của địa phương hoá? Thực ra, không cần thiết có sự chống đối giữa hai mặt. Chúng ta có thể hình dung nhìn thấy các cộng đồng địa phương hợp tác trong chính sách mậu dịch, xã hội và kế hoạch an ninh chung; nhưng vẫn duy trì được sự đa dạng độc lập về nhân chủng, văn hoá, tôn giáo và các thứ khác.

Có thể thiết lập một hệ thống luật pháp, bảo vệ nhân quyền căn bản trong các cộng đồng lớn hơn mà vẫn để cho các cộng đồng nhỏ có quyền tự do theo đuổi đường lối sinh hoạt riêng của họ. Đồng thời, điều quan trọng trong việc xây dựng các loại hợp tác đó là sự tự nguyện và đặt nền tảng trên nhận thức về quyền lợi của các phần tử đều được phục vụ tốt đẹp hơn qua sự hợp tác. Họ không bị áp đặt.

Thực vậy, sự thử thách của thiên niên kỷ mới chắc chắn là sự đi tìm phương cách nhằm đạt đến sự hợp tác quốc tế - hay tốt hơn nữa, cộng đồng toàn thế giới - trong đó sự đa dạng của loài người được công nhận và quyền lợi của tất cả được tôn trọng.


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
30 Tháng Ba 2016(Xem: 5385)
Jürgen Habermas sinh năm 1929 là giáo sư Triết học tại Đại học Frankfurt (Đức) mà tên tuổi cuả ông gắn liền với Trường phái Triết học Frankfurt. Ông nổi danh với các luận thuyết về các Thay đổi Cấu trúc của Công luận (Strukturwandel der Öffentlichkeit, 1962) và Lý thuyết về Hành vi Thông đạt (Theorie des kommunikativen Handeln, 1981). Với nhiệt tình tham gia tranh luận trong các vấn đề chính trị sôi bỏng, ông được nể trọng là một trí thức can đảm dấn thân và nhận nhiều giải thưởng cao quý. Hiện nay, ông là một trong những triết gia hàng đầu tại châu Âu.
30 Tháng Tám 2015(Xem: 7692)
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, Phật giáo cũng không ngoại lệ. Mặc dù trải qua hơn 2500, sau khi đức Phật nhập niết-bàn, Phật giáo vẫn còn đóng một vai trò quan trọng trong xã hội nhân loại. Chúng ta có thể nói ngày nay và tương lai nhân loại ngày càng cần trí tuệ và phương pháp của Phật giáo để giải quyết những vấn đề xã hội.
29 Tháng Tám 2015(Xem: 9122)
Xin Sư cho con hỏi: người tu hành xuất gia có được tham dự chuyện thế sự và chính trị đời thường không? Con nghe nói người tu hành không được xen vào chuyện chính trị, chỉ lo thuyết pháp độ chúng, tu hành cho mình, nhưng con thấy rất nhiều các bài viết từ những người tu hành bàn luận chính trị, các chính sách của nhà nước, của nước ngoài, bàn chuyện đời nhiều hơn chuyện đạo như vậy là có đúng không?
29 Tháng Tám 2015(Xem: 9138)
Tăng đòan cần phải lên tiếng một cách độc lập, với óc phê phán và có đạo đức. Chúng ta nên ủng hộ chính phủ, khi họ làm những điều tốt, chẳng hạn như khuyến khích sự hòa đồng giữa các tôn giáo. Chúng ta nên phản đối, khi họ làm những điều sai, chẳng hạn như gây chiến tranh và phá hoại môi trường. Tăng đòan không nên tham gia quốc hội hay cấu kết với chính quyền nhưng cần phải thẳng thắn lên tiếng về những vấn đề đạo đức quan trọng.
19 Tháng Sáu 2015(Xem: 6112)
Nơi nào sự bất công áp bức, mầm bất thiện còn tồn tại thì sự bất ổn vẫn tiềm tàng như mạch nước ngầm đang tuôn chảy nhưng nếu không hòa nhập vào nhánh sông ra biển mà thành lũ dữ sóng thần đe dọa phá vỡ con đê quyền lực.
12 Tháng Sáu 2015(Xem: 5579)
Tiểu luận này bắt đầu với sự định rõ điểm đặc thù của “chủ nghĩa tiêu thụ” và khái niệm “người tiêu dùng”. Kế đó khảo sát tỉ mỉ quan điểm của đạo Phật về của cải tài sản và “kinh tế Phật giáo” trước khi dựa trên những điều này để đi đến phác họa cho việc đánh giá định mức về chủ nghĩa tiêu thụ, đây được xem như cách không gây ảnh hưởng và hoang phí đối với hạnh phúc nhân loại.
12 Tháng Sáu 2015(Xem: 11951)
Đây là bài Diễn văn của Giáo sư Tiến sĩ Damien Keown trong Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc – lần thứ 12, tổ chức tại Thái Lan từ ngày 28 – 30 tháng 5 năm 2015 với chủ đề hội thảo “Phật giáo và Khủng hoảng Thế giới”
02 Tháng Sáu 2015(Xem: 7127)
Chúng ta biết rằng cõi này không phải lúc nào cũng thuận thảo với những ước muốn của chúng ta. Chúng ta bước ra phố vào một ngày nắng đẹp, và đột nhiên một trận mưa rào ào xuống, làm chúng ta ướt mem. Dĩ nhiên, cõi này là bất như ý, Đức Phật đã dạy như thế.
30 Tháng Ba 2015(Xem: 5386)
Có một tiêu chuẩn được mọi người chấp nhận rằng sự sống của tất cả chúng sanh đều phụ thuộc vào ăn uống. Thực phẩm là yếu tố cần thiết nhất cho con người (chúng sanh), vì thế nó đã trở thành một yếu tố chủ yếu trong các nhu cầu của con người như là thức ăn, áo mặc, chỗ ở và thuốc trị bệnh.