Chương Trình Hội Thảo Phật Giáo Trong Thời Đại Mới Cơ Hội Và Thách Thức

30 Tháng Tám 201000:00(Xem: 37857)


CHƯƠNG TRÌNH HỘI THẢO 

PHẬT GIÁO TRONG THỜI ĐẠI MỚI
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC

Do Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức

Đánh giá về Hội thảo "Phật giáo trong thời đại mới"
21/08/2006 11:23:46 

cohoivathachthuc_02Hội thảo về chủ đề “Phật giáo trong thời đại mới, cơ hội và thách thức” đã được diển ra tại Hội trường Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. HCM, trong hai ngày thứ Bảy và Chủ nhật, 15-16.7.2006, mà trưởng ban Tổ chức là Giáo sư Lê Mạnh Thát, Phó Viện trưởng, và quý thầy Giảng sư của Viện như thầy Thích Tâm Đức, Thích Lệ Thọ, Thích Viên Trí...

Từ 5 giờ chiều ngày thứ Sáu, 14.7.06, một buổi tiếp tân trọng thể tại nhà hàng Khách sạn Sài Gòn, nằm ở Quận I thuộc trung tâm thành phố, với số tham dự viên khoảng 150 người, gồm có Khách nước ngoài, khách Việt kiều và nhiều đại biểu trong nước. Đây là một buổi gặp gở tiếp tân tiền hội thảo vui vẻ và thân tình giữa nhiều màu da và nhiều khuynh hướng tư duy khác biệt. Mọi người đều tay bắt mặt mừng gặp nhau trong một buổi cơm chay thân mật sang trọng theo hình thức tự tiếp (self service).

Trong hai ngày hội thảo chính thức, hội trưòng ở lầu tư của Viện NCPHVN trong khuôn viên Thiền viện Vạn Hạnh lúc nào cũng đông nghẹt với số đại biểu tham dự chính thức gần 300 người. Đó là chưa kể gần 500 Phật tử và quan khách tập trung tại Phòng Triển lảm Nghệ thuật Phật giáo và Đại điện của Thiền viện để theo dỏi hội thảo bằng một hệ thống trực tiếp truyền hình trên màn ảnh lớn. Những ai mang thẻ bảng tên (ID badge) có hai chữ “Đại Biểu” mới được vào phòng hội. Nhưng cũng có một số ít ngoại lệ gồm các thân hữu cốt cán cũng như khách mời được cấp một loại thẻ có ghi hai chữ “Khách Mời.” Với 6 loại thẻ mang 6 màu khác nhau, ta rất dễ phân biệt được người đối thoại là ai và có phần vụ gì trong buổi Hội thảo này. 

Đây là một buổi hội thảo có tầm vóc quốc tế và ý nghĩa thời đại mà hơn hai ngàn năm qua Phật giáo Việt Nam chưa hề có. Ngoài số đại biểu trong nước và Việt kiều ở các nước trên thế giới về tham dự, chúng ta cũng thấy có các giáo sư và học giả người Nhật như Tiến sĩ Noritoshi Aramaki thuộc Đại học Otani Nhật bản, tiến sĩ R. Clark thuộc đại học Stanford Hoa Kỳ, các giáo sư người Ấn, Tích Lan, Thái Lan, Nhật bản, Đài Loan....

Một trong những đặc điểm của hội thảo là ban tổ chức đã chọn mời và đã được những nhà nghiên cứu có học vị, có khả năng chuyên ngành hoặc những người có nhiều kinh nghiệm hoạt động Phật sự lâu năm sốt sắng đáp ứng . Điều nầy nói lên giá trị của và kỳ vọng về cuộc Hội thảo này. Nội dung của Hội thảo được Ban Tổ chức phân bố vào bốn chủ điểm như trong tờ bướm (flyer) cho thấy:

- Phật Giáo và các vấn đề toàn cầu

- Phật Giáo và dân tộc

- Phật Giáo và vấn đề kinh tế chính trị

- Tìm kiếm những giải pháp.

Để có thể đánh giá sự thành bại của cuộc Hội thảo nầy một cách khách quan và trung thực chúng ta nên tìm hiểu mục đích của Hội thảo là gì và những thành quả mà nó đạt được.

Theo ban Tổ chức cũng như những hội ý từ đầu, trên mặt nội dung, mục đích của Hội thảo được thể hiện trong hai phần được gói ghém trong bốn chủ điểm nêu trên. Phần thứ nhất là để tái xác nhận trên cả hai góc độ lý thuyết và thực chứng rằng Giáo lý của đạo Phật có thể giúp giải quyết những khủng hoảng của thế giới ngày nay, kể cả và nhất là những khủng khoảng trong các lãnh vực kinh tế, xã hội và chính trị...Nói cách khác, phần thứ nhất trình bày giáo lý của đức Phật như là một “dược phẩm” vô giá, tồn tại với thời gian và không gian. Phần thứ hai là cố gắng đưa ra những giải pháp cho Phật giáo Việt Nam. Đọc qua trên 80 bài tham luận được phổ biến dưới dạng in tạm thời, chúng ta có thể chọn được nhiều bài đặc sắc cho mục đích thứ nhất mà ban Tổ chức muốn nhắm đến.

Phần thứ hai là đề nghị đáp án cho những vấn nạn của Phật giáo Việt Nam, thì có rất ít tham luận viên và học giả đưa ra được những giải pháp cụ thể và tích cực để xây dựng một Phật giáo Việt Nam đủ mạnh để hoằng dương Chánh pháp và bảo vệ hồn tính của dân tộc trước hiện tượng toàn cầu hoá, đồng thời góp phần vào việc xây dựng một đất nước Việt Nam phát triển đồng bộ và bền vững trên tất cả các lãnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục và đạo đức mà một xã hội cần có sau bao năm chinh chiến.

Nếu ai có đọc hai tác phẩm “Phật Giáo Trong Thế Kỷ Mới” của Giao Điểm xuất bản năm 1996 (10 năm trước đây) thì sẽ thấy nội dung các bài trong hai tuyển tập nầy cũng gần giống như phần thứ nhất của cuộc Hội thảo hôm nay, và lúc Giao Điểm gởi thư mời gọi các học giả đưa ra những phương hướng cụ thể để xây dựng Phật giáo thì đã không có được sự đáp ứng đáng kể. Điều đó cho thấy, 10 năm trước đây cũng như trong giai đoạn hiện tại, nếu ai có lòng quan tâm đến Phật giáo Việt Nam thì đều không thể bằng lòng với những gì mà Phật giáo đang có, mà rất mong muốn cái mà Phật giáo cần phải có, nhưng hầu như phần lớn ai cũng ngại ngùng trong việc công khai đề nghị giải pháp. Có lẽ, vì bên ngoài nhiều hội Phật Giáo bị các thế lực chính trị dẫn dắt theo con đường đối kháng thiếu trí tuệ.

Những thành tựu khác của Hội thảo là qua số người tham dự, hoặc không tham dự được nhưng có gởi bài tham luận, chúng ta thấy một hình ảnh hết sức hào hứng. Hào hứng không những vì đó là một hội thảo có chất lượng mang tầm vóc quốc tế và ý nghĩa thời đại, mà còn vì Hội thảo đã quy tụ được nhiều nhân vật khác giáo hội, khác chính kiến, khác tư tuởng để dung thông vào một quy hướng là phục vụ đạo pháp và dân tộc.

Ngoài ra, nhìn thêm từ những góc độ khác, chúng ta cũng có thể tóm lược:

- Hội thảo được tổ chức một cách tự nhiên và chủ động từ nội dung đến hình thức, không bị gò ép bởi nhà nước như một số người dự đoán sai lầm hoặc cố tình xuyên tạc.

- Hội thảo đã quy tụ được một số trí thức có lòng đến từ khắp nơi và sẽ đạt được sự cộng tác nhiều hay ít của họ trong tương lai. Việc cộng tác này sẽ tùy thuộc vào mục đích và công việc cũng như thái độ khiêm cung của những người hướng đạo.

- Hội thảo tạo được một không khí thuận lợi cho việc tiếp cận dễ dàng hơn giữa các tổ chức và giữa các giáo phái Phật giáo, để hoàn thành sứ mạng chung là xiễn dương Phật pháp và hộ quốc an dân trước nguy cơ tự phân hóa và trước đe dọa xấm lấn đủ mọi mặt và từ mọi phía.

- Hội thảo cũng tạo được một sức bật cho việc chấn hưng Phật giáo trước trào lưu tiến hoá của nhân lọai và trước sự trì trệ của chính bản thân Phật Giáo Việt Nam.

- Điểm cuối là Hội thảo, một lần nữa, đã cho thấy một hình ảnh tuyệt vời về sự đóng góp của đạo Phật cho nhân loại, cũng như vai trò hộ quốc an dân của một đạo Phật Việt trong tất cả các lãnh vực từ kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hoá..., trong suốt chiều dài thăng trầm của vận nước qua các triều đại. 

Bên cạnh những thành công nhất định xuyên qua những thành quả đạt được đó, ta cũng thấy không thiếu những khiếm khuyết mà đúng ra không nên có. Hội trường nhỏ mà hệ thống âm thanh lại lớn nên bị echo không nghe rõ. Tập những bài tham luận (in tạm thời) đáng ra phải được phân phối cho mỗi đại biểu ngay vào tối thứ Sáu trong buổi tiếp tân, thì các đại biểu chỉ nhận được vào chiều Chủ nhật trước lúc bế mạc. Ban Tiếp tân hầu hết là Tăng Ni thay vì nên có nhiều cư sĩ, nhất là các em trong Gia đình Phật tử. Một vài đại biểu có mặt và có gởi tham luận giá trị từ trước thì không được mời thuyết trình, trái lại có người mới chỉ nộp bài vào chiều thứ Sáu trước ngày khai mạc Hội thảo, thậm chí bài viết không bám sát chủ đề, nhưng lại được mời thuyết trình. Ban Liên lạc báo chí không phổ biến những thông tin cần thiết và tổng kết sau mỗi ngày hội để các hệ thống truyền thông loan tải.

Hồng Quang

 

cohoivathachthuc

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Giêng 2015(Xem: 5514)
Trong sách Dân quyền sơ bộ (Bước đầu dân quyền), ông Tôn Trung Sơn định nghĩa về hội nghị như sau: “Nói chung, khi nghiên cứu sự lý rồi theo đó mà giải quyết, tự một mình mình thì gọi là độc tư, hai người với nhau thì gọi là đối thoại, ba người trở lên tuân theo những nguyên tắc nhất định, thì gọi đó là hội nghị”.
24 Tháng Giêng 2015(Xem: 4952)
23 Tháng Giêng 2015(Xem: 9222)
Một vị lãnh đạo một tôn giáo lớn, tuy thờ Trời nhưng lại sợ con người, đã không dám tiếp một vị lãnh đạo tôn giáo khác trong một dịp viếng thăm Âu Châu gần đây, mặc dù một vị lãnh đạo tôn giáo nổi tiếng khác từ một nước rất xa xôi tận phía nam Phi Châu đã trực tiếp can thiệp và trách cứ về hành động đáng tiếc này.
16 Tháng Giêng 2015(Xem: 6611)
Người lãnh đạo phải là gương mẫu; mà điều đòi hỏi cao nhất là đức. Đức mới là cái gốc; tất nhiên phải kèm theo cái tài phụ cho cái đức ấy. Theo Sớ giải kinh Pháp Cú (Dhammapadatthakathà), ngài Buddhaghosa ghi nhận rằng Đức Phật có lưu ý đến vấn đề tổ chức một nền hành chánh nhân đạo. Đức Thế Tôn chỉ ra rằng cả một xứ bị suy vong, đốn mạt và khốn khổ khi những người nắm vận mạng quốc gia như vua chúa, quần thần, quan lại quá đỗi tham tàn và bất công.
05 Tháng Chín 2014(Xem: 6070)
Bài viết này không đi vào tìm hiểu về cuộc chiến này mà chỉ phác thảo một vài điểm có liên quan đến Phật giáo ở trong cuộc chiến; nói cụ thể hơn là giới Phật giáo đã có những hành động gì khi đứng ở mỗi bên của cuộc chiến để thực hiện điều được gọi là “hộ quốc” của mình.
01 Tháng Chín 2014(Xem: 10394)
Trong một cuộc đối đầu, ta không nhất thiết cứ réo tên đối phương mà nguyền rủa trù ếm hay chỉ biết bắn phá, dội bom trực tiếp lên họ. Làm vậy tốn kém, om sòm và bạo lực quá, mà kết quả thì như ai cũng thấy là sẽ rất ngắn hạn. Bởi một lẽ là chiếm thành thường dễ hơn giữ thành và cái gật đầu bên ngoài không quan trọng bằng sự đồng tình bên trong.
26 Tháng Bảy 2014(Xem: 11124)
Giới luật Phật giáo cấm người xuất gia không được giữ bất cứ một thứ gì gọi là của riêng. Thế nhưng đối với người thế tục thì giới luật không cấm đoán họ làm giàu, nếu làm giàu bằng những phương tiện sinh sống đúng tức chánh mạng trong Bát chánh đạo. Giáo pháp nhà Phật cũng luôn nhắc nhở: “Phải biết sử dụng tài sản và giúp đỡ người khác”.
25 Tháng Bảy 2014(Xem: 10961)
Người giàu có được coi là có đầy đủ hay dư thừa tài sản. Có nhiều loại tài sản như tiền bạc, hay kiến thức hoặc thông tin kinh tế, tâm linh. Tuy nhiên bài viết này chỉ đặt trọng tâm vào quan điểm của Phật giáo đối với của cải vật chất và kinh tế.
13 Tháng Bảy 2014(Xem: 9577)
Mùa an cư năm thứ bốn mươi lăm, đức Phật ngụ tại Trúc Lâm tịnh xá, gồm khá đông chư vị đại trưởng lão và chúng tỳ-khưu. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, đức Phật và một số ít vị tỳ-khưu lại ghé vườn xoài của thần y Jīvaka hoặc lên đỉnh núi Linh Thứu (Gijjhakūṭa), tại đây ngài thường ở lại lâu hơn.