Vấn Đề Giáo Dục Tăng Tài: Thực Trạng Và Giải Pháp - Thích Trí Như

06 Tháng Giêng 201300:00(Xem: 6087)

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC TĂNG TÀI: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Thích Trí Như

Đối với mỗi tôn giáo, giáo dục cũng luôn được quan tâm hàng đầu. Giáo dục trong tôn giáo là nhằm đạo tạo đội ngũ tu sỹ, chức sắc, tín đồ để phục vụ cho công cuộc khai mở và củng cố, bảo vệ niềm tin tôn giáo, hướng con người đến cuộc sống Chân, Thiện, Mỹ.

Đối với mỗi xã hội, giáo dục đào tạo là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, bởi nó xuất phát từ nhu cầu của con người. Giáo dục là phương tiện tối yếu để khai mở cánh cửa tri thức của con người. Chính vì vậy, giáo dục luôn được toàn xã hội coi trọng, là động lực tất yếu để phát triển xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta đã đúc kết rằng: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và hưng, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp kém” (Văn bia văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội, 1442). Ngay sau khi khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Bởi vậy Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng công tác giáo dục.

Sự nghiệp giáo dục của nhân dân ta trong suốt hơn 60 năm qua tuy đầy khó khăn, song đã đạt được những thành tích đáng tự hào, góp phần không nhỏ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, chủ trương của Đảng đối với sự nghiệp giáo dục được ghi dấu ấn bởi những cột mốc quan trọ ng như các lần cải cách giáo dục vào các năm 1950, 1956, 1976; Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi: “giáo dục là quốc sách hàng đầu”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (1996) nhấn mạnh: “Phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan trọng nhất cho sự phát triển toàn diện đất nước”[1]. Đại hội Đảng lần thứ X một lần nữa nhấn mạnh vai trò “quốc sách hàng đầu” của giáo dục và đào tạo.

Và đối với mỗi tôn giáo, giáo dục cũng luôn được quan tâm hàng đầu. Giáo dục trong tôn giáo là nhằm đạo tạo đội ngũ tu sỹ, chức sắc, tín đồ để phục vụ cho công cuộc khai mở và củng cố, bảo vệ niềm tin tôn giáo, hướng con người đến cuộc sống Chân, Thiện, Mỹ. Mỗi tôn giáo đều có hệ thống giáo dục đào tạo riêng và những mục đích, phương hướng, chương trình giáo dục, hệ thống trường học, tu viện... Giáo dục đào tạo trong tôn giáo có thể được gọi gắn liền với tên tuổi của các tôn giáo đó. Ví như giáo dục Hồi giáo, giáo dục Công giáo, giáo dục Tin Lành, giáo dục Chính thống giáo, giáo dục Phật giáo...

Giáo dục Phật giáo nói chung hay giáo dục Tăng Ni nói riêng đã được bắt đầu ngay khi Đức Phật quyết định chuyển bánh xe Pháp cứu độ chúng sinh. Trải qua hơn 25 thế kỷ, nhất là trong thời điểm hiện nay, thời toàn cầu hóa, Phật giáo đang phải đối đầu với nhiều thách thức từ bên trong lẫn bên ngoài. Vấn đề giáo dục Tăng Tài của Phật giáo Việt Nam cũng theo đó mà có được những thành tựu nhất định. Nhân kỷ niềm 30 năm ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cũng là tổng kết 30 năm công tác đào tạo, giáo dục Tăng Tài (1981 - 2011), chúng tôi có đôi điều suy ngẫm về vấn đề giáo dục Tăng Tài của Phật giáo Việt Nam trong thời gian qua.

Phật giáo đã đồng hành cùng dân tộc Việt Nam trên 2.000 năm, nên nói đến Phật giáo Việt Nam là đề cập đến dân tộc Việt Nam. Phật giáo là đạo của dân tộc, đạo của người Việt mà hình ảnh Tăng Ni là biểu tượng cho sự mô phạm, trong sạch và thánh thiện. Tăng Ni kế thừa gia tài Pháp bảo của Như Lai, với hành trang Giới - Định - Tuệ để gột rửa nội tâm, dấn thân hành đạo. Sự giáo dục Tăng Ni vì thế, dựa trên giới luật là chính. Mỗi Tăng Ni tu Phật đều tự ý thức hành trì lời Phật dạy hướng đến mục tiêu giải thoát giác ngộ.

Nhận thức được điều đó, trong những năm qua, vấn đề giáo dục Tăng Tài là một trong những vấn cốt yếu được Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn coi là tối trọng trong quá trình phát triển và đồng hành đi lên cùng Chủ nghĩa xã hội.

Có thể thấy rằng, trong những năm qua, đội ngũ Tăng tài Việt Nam không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Theo báo cáo tổng kết của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tính đến cuối năm 1997, Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong cả nước có 28.787 Tăng Ni (trong đó Đại thừa có 19.221 người; Tiểu Thừa có 7.687 người; Khất sĩ có 1.879 người[2].

Theo sự thống kê ban đầu của Ban Tôn giáo Chính Phủ thì số lượng Tăng ni ở nước ta trong thời gian gần đây tăng lên nhanh chóng. Nếu năm 2001 cả nước có 33.606 Tăng Ni (trong đó Bắc tông có 21.606 người, Nam tông có 9.145 người, Khất sĩ có 2.045 người), thì đến năm 2005 đã lên đến 37.775 Tăng Ni (trong đó Bắc tông có 26.046 người, Nam tông có 9.370 người, Khất sĩ có 2.358 người). Năm 2010, số lượng Tăng Ni là 44.498 người (Bắc tông là 32.625 người, N am Tông là 8.919 người, Khất sĩ là 2.954 người). Như vậy, sau bốn năm số lượng Tăng Ni cả nước đã tăng lên 4.169 người, nếu từ năm 1997 đến năm 2005[3], sau 5 năm từ 2005 đến năm 2010, số lượng đó tăng lên là 6.723 người, nếu tính từ năm 1997 đến năm 2010, nghĩa là sau 13 năm thì số lượng tăng ni trong cả nước đã tăng lên 15.711 người (trung bình mỗi năm tăng 1.209 người).

Số lượng tăng ni cả nước hiện nay không chỉ tăng ở thành phố, đồng bằng mà còn tăng cả ở các tỉnh miền núi. Nhìn chung, tốc độ tăng tương đối đồng đều. Không chỉ tăng lên về số lượng, mà đội ngũ tăng ni còn được chú trong đào tạo để năng cao chất lượng, cùng với sự trẻ hóa tương đối nhanh. Để có được những thành quả đó, trong suốt 30 năm qua, vấn đề giáo dục và đào tạo Tăng Tài của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã hết sức cố gắng và nỗ lực với tinh thần và trách nhiệm cao, đào tạo hiệu quả và đã đạt được những thành tựu nhất định.

Hiện nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 4 Học viện Phật giáo, 06 trường Cao đẳng Phật học và 31 trường trung cấp Phật học trong cả nước. Theo báo cáo sơ kết công tác Phật sự năm 2010 của giáo hội Phật giáo Việt Nam tình hình đào tạo Tăng Ni sinh hiện nay như sau:

1. Hệ cử nhân Phật học

Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội hiện có 296 Tăng Ni sinh đang theo học khóa VI (2010 - 2014)[4].

Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh hiện có 506 Tăng ni sinh đang theo học khóa VIII (2009 - 2013).

Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế hiện có 177 tăng ni sinh đang theo học khóa V (2009 - 2013).

Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại Tp. Cần Thơ hiện có 61 Tăng sinh khóa III (2007 - 2011).

2. Hệ cao đẳng Phật học

Tại Hà Nội hiện có 75 Tăng Ni sinh khóa III (2010 - 2013) đang theo học.

Tại Tp. Hồ Chí Minh hiện có 560 Tăng ni sinh đang theo học khóa V (2009 - 2012).

Tại Lâm Đồng hiện có 37 tăng ni sinh khóa IV và V; Bà Rịa - vũng tàu có 50 Tăng Ni sinh khóa IV (2008 - 2011); Bạc Liêu có 50 Tăng Ni sinh khóa II (2008 - 2011).

3. Hệ trung cấp Phật học.

Hiện có 31 trường, phía Bắc có 06 trường, phía Nam có 25 trường.

Tại Hà Nội: Hiện có 201 Tăng Ni sinh đang theo học năm thứ hai khóa VI (2010 - 2014).

Tại Tp. Hồ Chí Minh hiện có 424 Tăng ni sinh đang theo học khóa VII (2011 - 2013).

Tp. Hải Phòng có 93 Tăng Ni sinh theo học khóa V; Tp. Đà Nẵng có 104 Tăng Ni sinh đang theo học khóa IV; Huế có 183 Tăng Ni sinh khóa III; Đồng Nai hiện có 200 tăng ni sinh khóa VI (2009 - 2014).

Tại An Giang 147 Tăng Ni sinh khóa I (2008 - 2011); Sóc Trăng có 32 Tăng ni sinh khóa V (2008 - 2012); Khánh Hòa có 116 Tăng Ni sinh khóa V; Trà Vinh có 52 Tăng Ni sinh khóa III (2007 - 2011); Long An có 123 Tăng Ni sinh khóa IV; Vĩnh Long có 95 Tăng Ni sinh khóa V (2007-2011); Bình Thuận có 30 Tăng ni sinh khóa VI (2007 - 2012); Bạc Liêu có 265 Tăng Ni sinh đang theo học….

4. Hệ sơ cấp Phật học

Nhằm mục đích cung cấp kiến thức Phật pháp căn bản cho các Tăng Ni trẻ mới xuất gia, Ban chủ nhiệm các lớp Sơ cấp Phật học trực thuộc các trường Trung cấp Phật học thực hiện việc giảng dạy theo chương trình do Ban giáo dục Tăng Ni Trung Ương biên soạn. Các lớ p sơ cấp Phật học được mở ra ở nhiều nơi trong nhiều tỉnh thành của cả nước. Ước tính hiện có khoảng hơn 2000 Tăng Ni sinh đang theo học chương trình sơ cấp Phật học trên toàn quốc.

5. Giáo dục và đào tạo Phật giáo Nam tông Khmer

Do đặc thù của Hệ phái Phật giáo Nam tông Khmer, các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, nên chương trình giáo dục và đào tạo dành cho hệ phái đều có sự quan tâm, hỗ trợ của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban Tôn giáo chính Phủ, ban Dân tộc Trung ương và địa phương, Ủy ban Mặt trận dân tộc các cấp, đã thành lập trường Trung cấp Pali Nam Bộ tại Sóc Trăng, mở các lớp Vini, Pali trung cấp và sơ cấp…

Tại Sóc Trăng: Trung cấp Pali Nam Bộ có 167 Tăng sinh đang theo học; Sơ cấp Pali, Vini có 85 tăng sinh đã tốt nghiệp khóa (2008 -2009); 25 lớp dạy Pali với 350 Tăng ni đang theo học và 232 Tăng sinh theo học lớp Vini.

Tại Trà Vinh: có 305 Tăng sinh đang theo học hệ trung cấp Phật học; 1.887 Tăng sinh và thanh thiếu niên Phật tử học hệ sơ cấp.

Tại Kiên giang có 125 Tăng sinh đang theo họ c Pail; 403 Tăng sinh đang theo học Kinh, Giới; Vĩnh Long có 60 Tăng sinh theo học lớp sơ cấp; Cần Thơ có 60 tăng sinh đang theo học lớp sơ cấp Pali; Bạc Liêu có 185 tăng sinh theo học Trung cấp Phật học; Bạc Liêu có 185 Tăng sinh đang theo học.

6. Tăng ni sinh đi học ở nước ngoài

Hiện toàn quốc có trên 100 Tăng ni sinh tốt nghiệp Tiến sĩ, Thạc sĩ Phật học đang tham gia công tác của các Ban, ngành thuộc các cấp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Có khoảng trên 200 Tăng Ni sinh đang theo học tại các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan…

Nhìn chung, sau 30 năm từ khi thống nhất đất nước, hòa mình cùng nhịp điệu phát triển mọi mặt của dân tộc, vấn đề giáo dục và đào tạo Tăng tài của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu rõ rệt và rất đáng tự hào. Đạt được mục tiêu giáo dục đề ra, những Tăng Ni sinh sau khi tốt nghiệp các hệ đào tạo của Phật giáo cũng đã không ngừng học hỏi, tìm tòi và tự mình khơi dậy, khai giác minh tuệ, tham gia đắc lực và là mần non để phát triển Giáo hội Phật giáo thật bền vững, trường tồn và phát triển cùng thời gian, sát cánh, kề vai với những thăng trầm của dân tộc Việt Nam và thời đại.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì trong công tác giáo dục và đào tạo Tăng Tài của Phật giáo Việt Nam hiện nay cũng còn tồn tại những khó khăn và hạn chế nhất định.

Đó là những khó khăn về cơ sở vật chất kỹ thuật và phương tiện giảng dạy; học tập chưa thật đảm bảo, môi trường giảng dạy, học tập còn chật hẹp, chưa tương thích với sự phát triển của Phật giáo ở tầng vĩ mô; đội ngũ cán bộ gảng sư còn thiếu phong cách sư phạm; lứa tuổi Tăng sinh trong một khóa không đồng đều, vì vậy ảnh hưởng đến việc tiếp thu và phổ biến kiến thức giảng dạy….xuất phát từ những khó khăn trên, chúng tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp đối với công tác giáo dục và đào tạo Tăng Tài của Phật giáo Việt Nam hiện nay như sau:

Mt là, phải tiếp tục phát triển các chương trình đào tạo Tăng ni sinh ở các bậc học, hướng tới xây dựng và hoàn thiện khung chương trình, môn học ở các hệ đào tạo . Việc phân định các cấp học và phát triển, hoàn thiện các chương trình đào tạo Tăng ni sinh Phật giáo Việt Nam ở miền Bắc là một mục tiêu được đặt ra trong các hệ đào tạo của giáo dục Phật giáo. Sự phân định các cấp học và nội dung chương trình học, khung chương trình và các môn học trong các cấp, các hệ đào tạo tăng ni sinh Phật giáo miền Bắc hiện nay chưa thật hợp lý, chưa thật khoa học và phù hợp với tâm sinh lý của người học. Chính vì vậy, việc phân định các cấp học theo lứa tuổi và chuyên khoa là cần thiết.

Hai là, Xây dựng hệ thống quản lý giáo dục tăng ni chặt chẽ, hợp lý và hiệu quả, mở rộng quan hệ hợp tác với các cơ sở đào tạo bên ngoài Việc quản lý Tăng Ni hiện nay còn nhiều bất cập, chưa thật hợp lý và linh hoạt trong khuôn viên chật hẹp, gây khó khăn cho Tăng ni sinh trong quá trình tu học. Mở rộng quan hệ hợp tác giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo tăng ni sinh Phật giáo ở miền Bắc với các cơ sở đào tạo, các trường Đại học, cao đẳng trong nước nói chung và nước ngoài nói riêng. Tiến tới hợp tác, liên kết trong đào tạo, cử Tăng ni sinh ra nước ngoài đào tạo…

Ba là, Xây dựng chương trình giảng dạy hiện đại, hướng tới mục tiêu đề nghi Chính phủ phê duyệt đề án đào tạo sau đại học lấy chương trình giáo dục và đào tạo của Bộ giáo dục làm chuẩn, sau đó có sự gia giảm theo đặc thù của ngành giáo dục Tăng ni. Hoàn thiện đề án xây dựng khung chương trình đào tạo đại học và đề nghị Chính phủ phê duyệt đề án đào tạo sau đại học cho Học viện Phật giáo Việt Nam, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và nhu cầu không ngừng học hỏi của tăng ni sinh Phật giáo.

Bn là, đổi mới, củng cố hệ thống giáo dục và đào tạo Tăng ni sinh. Giáo dục và đào tạo Phật giáo mạnh trước hết hệ thống trường lớp phải đồng bộ và thống nhất từ trên xuống dưới trong cả nước. Khi đã phân chia rõ ràng từng cấp bậc cụ thể thì sẽ dễ dàng định hướng nội dung chương trình cho từng cấp. Trong khi định hướng nội dung đào tạo, cần đưa ra mô hình đào tạo sao cho thích hợp theo nhu cầu của Phật giáo và xã hội.

Năm là, Biên soạn chương trình đào tạo khung, lựa chọn nhân sự điều hành, quản lý và giảng dạy, đồng thời mở rộng hệ thống giáo dục và đào tạo, đa dạng hóa các loại hình đào tạo .

Sau khi đã có mô hình thì việc tiếp theo là biên soạn giáo án theo mô hình đã xây dựng. Cần lưu tâm khi soạn thảo là phải có chương trình thực hành bắt buộc với chuyên ngành đào tạo thường gọi là thực tập, khảo sát thực tế…Học lý thuyết mà không hướng dẫn thực hành thì trái với tôn chỉ Phật giáo là “tri hành hợp nhất”.

Nhân sự là nhân tố quyết định sự thất bại hay thành công của mọi tổ chức và trường lớp, Phật giáo cũng không ngoài quy luật ấy. Nhân sự điều hành trường lớp phải là những người trực tiếp làm việc toàn thời gian cho giáo dục và có khả năng chuyên môn.

Về ban giảng huấn, Phật giáo chưa có cơ chế biên chế như nhà nước nê n cần phải có hợp đồng rõ ràng, thời gian phục vụ và mức lương cụ thể. Như vậy mới đủ pháp lý để ràng buộc trách nhiệm các vị giáo thụ đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo và tạo điều kiện cho họ nghiên cứu.

Như trên đã đề cập, trong khi tăng ni được phép học tại các trường thế tục thì người cư sĩ Phật tử lại không được cho phép vào học tại các trường Phật học. Cần tạo ra hình thức giáo dục đa dạng. Cho phép các cư sĩ Phật tử có thể tham gia học tập như Tăng ni sinh trong các trường Phật giáo. Mở rộng, phát triển giáo dục và đào tạo Phật giáo dưới nhiều hình thức như các lớp học ngắn hạn, các lớp dài hạn cấp chứng chỉ Phật học. Đồng thời cần phải có những cải cách phù hợp để đảm bảo chương trình, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Cần có biện pháp để đảm bảo những lợi chính đáng về sự tôn trọng công bằng với các đại học thế tục vì hiện tại các đại học thế tục không chấp nhận bằng cấp của Phật giáo trong khi về phía Phật giáo thì luôn chấp nhận bằng cấp các trường. Học viện Phật giáo cần phải từng bước đáp ứng các quy định của bộ giáo dục.

Trong bối cảnh hiện nay, việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo Tăng ni sinh Phật giáo Việt Nam là một vấn đề then chốt, trọng tâm của sự phát triển Phật giáo Việt Nam. Marx có viết rằng: “Một mặt, muốn sáng chế một hệ thống giáo dục đúng đắn, cần thiết phải có sự thay đổi các điều kiện xã hội, và mặt khác, muốn có thể thay đổi các điều kiện xã hội, cần thiết phải có một hệ thống giáo dục đúng đắn”[5]. Với Phật giáo Việt Nam, việc cần thiết phải phải có một hệ thống giáo dục đúng đắn và tiến bộ luôn được đặt trong hệ thống giáo dục quốc dân và có thể tác động tới là giáo dục xã hội tạo điều kiện cho các biến đổi trong các điều kiện xã hội và hệ thống giáo dục quốc dân.

Tóm lại, trong suốt 30 năm qua, giáo dục và đào tạo Tăng ni sinh Phật giáo Việt Nam ở miền Bắc đã đào tạo ra biết bao danh tăng thạc đức, những bậc thạch trụ chốn tùng lâm, pháp khí Đại thừa giàu lòng yêu nước, yêu đồng bào, hết lòng hy sinh để phụng sự nhân dân, hòa mình hiện hữu trong lòng dân tộc. Họ là những bậc ngộ giác, hết mình vì sự nghiệp duy trì và phát triển Phật pháp. Tăng ni, Phật tử luôn cố gắng vươn lên, xây dựng và phát triển Phật giáo Việt Nam ngày càng trang nghiêm vững mạnh trong lòng dân tộc, làm cho đạo pháp mãi trường tồ n tại thế gian, “tốt đạo đẹp đời”.

 

ĐĐ.ThS. THÍCH TRÍ NHƯ

Hiu Phó Trường Trung Cấp Phật học, Hà Nội

 


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 10.

[2] Báo cáo tổng kết hoạt động Phật s ự nhiệm kỳ III (1992 – 1997) và chương trình hoạt động nhiệm kỳ IV (1997 đến 2002) của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IV, Hà Nội, trang 6.

[3] Ban Tôn giáo Chính Phủ (2006), Tôn giáo và chính s ách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, trang 80.

[4] Học viện Phật giáo Việt Nam (2011), Báo cáo tổng kết năm học (2010-2011), ngày 16 tháng 9 năm 2011.

[5] Nguyễn Mạnh Tường (1994), Lý luận giáo dục Châu Âu, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội., trang 528.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Mười Một 2014(Xem: 5634)
Như chúng tôi đã nêu trong Tâm thư trước, được công bố vào cuối tháng 8 vừa qua, việc khởi thảo Mục Lục Đại Tạng Kinh Tiếng Việt đã được chúng tôi hết sức nỗ lực tiến hành từ đó. Trong vòng 3 tháng qua, chúng tôi đã hình thành về cơ bản các yếu tố ban đầu.
25 Tháng Mười 2014(Xem: 5277)
Nói đến ngôn ngữ tức là đề cập đến địa hạt phương tiện truyền tải thông tin, mà đã mang sứ mệnh truyền tải thông tin thì mục đích mà chủ thể truyền tải mong muốn đạt đến là người nhận lãnh thọ các dữ liệu ở mức tối ưu nhất.
17 Tháng Chín 2014(Xem: 8796)
Đại tạng kinh là tập đại thành toàn bộ những giáo pháp do đức Phật giảng dạy mà chúng ta hiện còn được biết, được kết tập thành dạng văn bản qua nhiều nỗ lực của những thế hệ trước đây trong suốt chiều dài lịch sử hơn 25 thế kỷ qua. Tuy những lần kết tập đầu tiên chưa định hình văn bản, nhưng đó lại chính là nền tảng để những lần kết tập về sau có thể ghi chép lại Thánh giáo. Chúng ta sẽ không đi sâu vào chi tiết về những lần kết tập kinh điển, vì đã có nhiều bài viết trình bày cặn kẽ được đăng lại trên trang này.
12 Tháng Chín 2014(Xem: 6268)
Tăng già là cộng đồng tăng, ni đại diện Phật giáo trên thế giới trong suốt hai mươi lăm thế kỷ qua. Bằng vào việc thực hành giới luật và truyền bá chánh pháp, cộng đồng Tăng già duy trì và bảo tồn sự tương tục của di sản Phật giáo.
05 Tháng Chín 2014(Xem: 6156)
Trong quá trình cần cầu “vô thượng an ổn khỏi các khổ ách”- Niết-bàn, người xuất gia thường khi cần phải xét đến việc tìm kiếm một nơi chốn tu học tương đối thích hợp và thuận lợi cho mục tiêu tiến bộ tâm linh của mình. Kinh Thánh cầu (Ariyapariyesanasutta) mô tả rằng ngay sau khi chia tay năm người bạn đồng tu khổ hạnh, Đức Gotama tuần tự du hành đến tụ lạc Uruvela ở Gayà. Tại đây, Ngài thấy một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực.
28 Tháng Tám 2014(Xem: 7752)
Đại Tạng Kinh tiếng Việt là một ước mơ, cũng là một nhu cầu cấp thiết của mọi người Phật tử Việt Nam. Với sự nỗ lực góp sức của rất nhiều người trong những năm qua, chúng ta thực sự đã có được những bước tiến đáng kể hướng đến việc xây dựng thành tựu một Đại Tạng Kinh Tiếng Việt. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay là tất cả những cá nhân, tổ chức tham gia vào công trình này đều hoạt động một cách riêng lẻ,
24 Tháng Bảy 2014(Xem: 8076)
Trong Thư Mục Vụ năm 2010, có tựa đề “Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống”, theo Vatican insider, Giáo Hội Công giáo xét thấy một thời gian khá dài, Giáo Hội đứng ngoài lề việc giáo dục cho thế hệ trẻ Việt Nam.