Vài Ý Nghĩ Về Bài Viết Của Hoả Thượng Thông Lạc (4) Nguyễn Hòa

18 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9907)

VÀI Ý NGHĨ VỀ BÀI VIẾT CỦA HOẢ THƯỢNG THÔNG LẠC (4)
Nguyễn Hòa

(Nét chữ mầu đen là nguyên bản của HT Thông Lạc. 
Nét chữ mầu xanh đậm là của Nguyễn Hòa)

Đường Về Xứ Phật Tập 4
Lời nói đầu


Người đi tu mà không học là tu mù, người có học mà không tu như cái tủ đựng kinh sách. Người tu có học hiểu mà không thưa hỏi kinh nghiệm của thiện hữu tri thức, tự kiến giải, tự tu thì cũng giống như người đi lạc trong rừng sâu chẳng biết đường ra, trăm ngàn người đều tu sai, tu không tới nơi tới chốn.

Tự kiến giải tu, tu tập chưa tới đâu, vội đem ra hướng dẫn người khác tu hành, thì cũng giống như người mù dắt một đoàn mù đi. Tất cả đều có thể sa hầm lọt hố và cả đám cùng bị chết chùm.

Tất cả những người tu theo Đạo Phật hiện giờ đều đang đi trên lộ trình này, đang lạc vào mê hồn trận của kiến giải, tưởng giải của các nhà học giả.

Điều này đúng quá, nhưng không phải là chân lý cao siêu gì. Nhiều ng+ời đã nói vậỵ Nhưng thử hỏi HT Thông Lạc đã tu Tứ Thiền nhưng chưa tu hết Bát Định, chưa biết hết chỗ rốt ráo của pháp tu tập này như thế nào, thì sao lại dám chê các pháp tu khác (có khi không hề biết), và đề cao Tứ Thiền Định như là vô địch. Cũng nên nhớ : đức Phật đã tu qua Tứ Thiền Bát Định, vượt đến mức cao nhất, nhưng thấy pháp tu này (gốc của Bà La Môn) chỉ đem lại an lạ.c nhất thời, vẫn không đưa đến chỗ giải thoát ngài trông tìm, và đương nhiên không thể đưa đến quả vị A-La-Hán.
......
Nhờ có vấn đạo ta mới hiểu rõ, thế giới siêu hình và hữu hình đều là thế giới tưởng (thế giới không có thật).

Nhờ có vấn đạo ta mới rõ thế giới hữu hình và siêu hình là thế giới tưởng của con người, nên mạnh tay đập phá cái thế giới siêu hình mê tín đó. 

Thế giới siêu hình là "tưởng" thì đã đành, nhưng ở trên TL cho thế giới hữu hình cũng là "tưởng" thì theo quan điểm của PG Đại Thừa : tất cả là do Tâm biểu hiện ra , duy tâm sở hiện. Thế mới biết dù sau ngả theo Tiểu Thừa, nhưng ở chỗ thâm sâu TL còn giữ lại vài điều đã học trước từ Đại Thừạ

Nhờ vấn đạo ta mới thấu rõ các pháp thế gian là do duyên hợp, nên ta dễ dàng buông xả thế giới hữu hình vật chất. Vì bây giờ ta đã biết rõ, đó cũng chỉ là thế giới tưởng của con người đang u tối, vô minh, từ biết bao nhiêu kiếp lầm chấp cho nó là thật, nên dính mắc các pháp, chạy theo các pháp, tạo biết bao điều đau khổ cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh, cũng vì thế mà chịu trôi lăn trong sáu nẽo luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác mãi mãi không bao giờ dứt.

Vô thường, Vô ngã và Khổ là Tam Ấn của Phật giáo (nguyên thủy)., cho nên các điều nhận xét trên đều là đúng với đạo Phật. Nhưng nếu hỏi có khác gì không với điều Đại Thừa cho là vạn pháp chỉ giả hợp, chớ không thật có , thì câu trả lời là không khác. Phật giáo Đại Thừa chỉ đi xa hơn về cái Không Thật có nàỵ Vì trong khi giáo lý Tiểu Thừa dừng lại ở "Ngã không, Pháp hữu" thì Đại Thừa chủ trương "Ngã Pháp câu không" (Ngã và Pháp đều không), và Tâm kinh của Đại Thừa là tiếng nói mạnh mẽ nhất về cái Không cùng tột nàỵ

Có một điều lạ về HT TL là trong một bài viết trước ông cho "sáu nẽo luân hồi " , tức "lục đạo" là mê tín dị doan do Đại Thừa bày ra, thì ở đây ông lại tin hay chấp nhận ý tưởng nàỵ

Nhờ có vấn đạo ta mới thấu rõ Đạo Phật có ba loại định: Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu, Định Niệm Hơi Thở; ta mới biết phải khởi đầu tu bằng pháp Tứ Chánh Cần: ngăn ác diệt ác, khởi thiện tăng trưởng thiện, tức là diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp.

Phân chia có ba loại Định PG như trên ( Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu, Định Niệm Hơi Thở) là chuyện dị thường, chưa thấy thầy nào, sách nào nói tương tự Chánh niệm Tỉnh giác phải nằm trong tất cả loại Thiền Định, tuy là mức độ có khác nhaụ Định Vô lậu là từ gọi chung về "Tam học vô lậu" của đạo Phật, gồm Giới, Định và Tuệ, sở dĩ gọi là vô lậu vì cái học giúp đưa tới giải thoát. Đây có thể TL muốn nói Định của Phật giáo đưa tới giải thoát rốt ráo, chứ không dừng lại ở các cảnh giới tuy an lạc nhưng sẽ suy đoạ, như Sắc giới (Tứ Thiền Định) hay Vô sắc giới (Tứ Định vô sắc) . Còn Định (Thiền) Niệm hơi thở thì Bà La môn cũng có, và Đại Thừa , gồm cả Thiền Tông, Mật giáo, cũng có. Cho nên không thể nói, như TL đã nói, là Thiền Định của Đại Thừa không phải của Phật giáo, hay không có công hiệu đưa tới giải thoát.

Nhờ có vấn đạo ta không rơi vào thiền ức chế tâm, và tu tập đúng thiền xả ly tâm, nên thân tâm thường thanh thản, an lạc, tâm như đất trời giải thoát.

HT Thông Lạc không thử đưa ra thí dụ Thiền nào của Phật giáo là "ức chế tâm"

Nhờ có vấn đạo ta mới thông suốt Tam Vô Lậu Học là pháp môn chân chánh của Đạo Phật, nên không bị tà sư ngoại đạo nào lừa đảo, lường gạt ta được.

Như trên đã nói " Tam Vô Lậu Học" là Giới , Định, Tuệ, mà Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều tuân giữ, thể nghiệm. Đối với Đại Thừa, đó là ba yếu tố tương duyên : có Giới mới có Định, có Định mới có Tuệ, nhưng có Tuệ cũng giúp giữ Giới tốt hơn, Thiền Định tốt hơn, và sau cùng Định tốt sẽ giúp giữ Giới tốt và phát sinh Tuệ Cho nên tu Giới cũng là tu Định Tuê, và tu Tuệ cũng là tu Giới Định, v.v...Trong các bài viết trước Thông Lạc chỉ đề cao Giới, và lấy đó làm tiêu chuẩn đánh giá người tu hành. Như vậy cũng đúng, nhưng không đủ.

Trong giai đoạn Phật Giáo hiện nay, người ta bảo rằng Phật Giáo có tám mươi bốn ngàn pháp môn. Nếu không vấn đạo rõ ràng, chúng ta sẽ bị Đại Thừa Giáo lừa đảo bằng câu này: Pháp pháp đều vô ngại và dung thông. Theo như Đại thừa thì pháp nào cũng của Đạo Phật, người có duyên với pháp môn nào tu đều cũng tốt, cũng được giải thoát, cũng được giác ngộ tùy theo căn cơ của mỗi người có thấp, có cao, nên pháp môn tu hành cũng vậy.

Đúng là Đại Thừa cho đạo Phật có rất nhiều pháp môn dành cho chúng sinh có rất nhiều căn cơ khác nhaụ

Chúng ta nên tìm hiểu tại sao Đức Phật tu các pháp môn của ngoại đạo, nhập đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, nghiệm xét lại thấy thân tâm mình không giải thoát, để rồi tự mình phải tìm ra một giáo pháp, một đường lối, một đạo lộ tu tập đi đến giải thoát cứu kính làm chủ sanh, già, bịnh, chết, mà Lục Sư ngoại đạo và các tôn giáo khác thời bấy giờ không có pháp môn này.

Có một điều HT Thông Lạc không thấy là đức Phật lúc đầu tu theo Tứ Thiền Bát Định của ngoại đạọ Pháp Thiền đó Phật giáo còn giữ, nhất là ở Nam Tông, vì nó cũng có giá tri, giúp đạt tới Định Chỉ dù không đưa tới giải thoát như đức Phật đãnhận thấy, và bây giờ chính HT Thông Lạc còn tu theo (Tứ Thiền Định) . Cái khuyết điểm của pháp Thiền Định đó là đem lại an tĩnh, nhưng không phát sinh trí tuệ Sau này, Phật giáo, nhất là Đại Thừa, phát triển những pháp tu Thiền khác, như quán chiếu, quántưởng, nhằm đưa đến trí tuệ Phật giáọ Công việc này cả Nam Tông cũng làm, và bây giờ mới có pháp Thiền Tuệ Sát (hay Minh sát).

Một giáo pháp chỉ có 49 ngày tu tập, nhiệt tâm, quyết chí xả ly, lià tâm ham muốn, từ bỏ ác pháp, Ngài đã thành tựu đạo giải thoát, chứng quả Bồ đề.

Chuyện tu hành của Phật không thể nghĩ đơn giản như vậỵ Người theo Đại Thừa tin là Phật đã tu từ nhiều kiếp, và việc ngài thành đạt Tứ Thiền Bát Định của ngoại đạo cũng giúp cho ngài có được định lực và trí tuệ cao, nhưng chưa đến chỗ rốt ráọ Bốn mươi chín ngày sau cùng ngồi Thiền Định liên tục giúp cho tất cả những chuẩn bị trước kia bừng nở thành trí tuệ tuyệt vời, phá vỡ hết các lớp vô minh, trở thành giác ngộ, giải thoát. Nếu pháp tu của Phật chỉ cần theo đúng trong 49 ngày là thành Phật thì tại sao các đệ tử của ngài không tu theo được như vậỵ

Qua sự tu tập của Đức Phật, chúng ta rút tỉa ra được những kinh nghiệm thực tế và cụ thể: các pháp môn Đại Thừa và Thiền Đông Độ, cùng tất cả các pháp môn của các tôn giáo trên thế gian này không thể làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi của kiếp người.

Kết luận trên quá vội vã, không hợp luận lý. Các pháp tu trước Phật có thể không hiệu quả, hay không thể đưa tới giải thoát, như chính pháp Tứ Thiền Định HT Thông Lạc đang tu tập. Nhưng những pháp tu nào phát xuất từ pháp tu ban đầu của Phật, và được cải tiến thêm, thì có thể có kết quả tốt với những người có căn cơ phu ` hợp.

Giáo pháp Ngài tìm ra được, là một giáo pháp không giống bất cứ một giáo pháp nào của Lục Sư ngoại đạo và các tôn giáo khác trên hành tinh này.

Vì thế, Đạo Phật ra đời không vay mượn lại bất cứ cái gì của các tôn giáo khác. Pháp môn của Ngài đi từ sự tu tập sức tỉnh giác để giữ tâm trong chánh niệm, tức là xả tâm, ly dục, ly ác pháp, không có một chút ức chế tâm nào cả.

Viết như trên có thể làm nhiều Phật tử thỏa lòng cao ngạo, nhưng không đúng với sự thật lịch sử. Phật giáo tiếp nhận nhiều điều từ Bà La môn, và các triết gia thời Phật, như các thuyết về nghiệp lưc, nhân quả, luân hồi, pháp Thiền Định, ý niệm về Niết Bàn, cõi ta bà, các tầng trờị Điều mới mẻ và có giá trị cao nhất của đạo Phật là thuyết Duyên Khởi, và Vô Ngã.

Lấy tâm nương hành động nội và ngoại của thân để tập tỉnh thức chánh niệm, để xả dục, xả ác pháp, tránh không đi vào trạng thái tĩnh lặng ức chế tâm mà đi vào trạng thái đoạn diệt tâm tham, sân, si, khiến cho tâm được thanh thản, an lạc và vô sự để đi vào trạng thái thanh tịnh, tức là định của Đạo Phật.

Chỉ cảnh giác : cái thuyết lý về Thiền Định này nghe rất lộn xộn, lủng củng, như sản phẩm của trí tưởng tượng. Ai vô tình tin theo có thể bị tẩu hỏa nhập ma.

Từ đó suy ra ta biết pháp môn của Đạo Phật, không giống một pháp môn nào của ngoại đạo. Vì thế, kẻ nào cho rằng 84 ngàn pháp môn là của Phật Giáo, kẻ đó quá si mê, u tối, bị tà giáo ngoại đạo lừa đảo mà không biết.

Đại Thừa có câu nói nhiều ý nghĩa: Phật pháp bất ly thế gian pháp, nghĩa là Pháp Phật không xa lìa pháp thế gian. Nên không cho đạo Phật hoàn toàn xa lạ với tất cả các thứ trong thế gian này , mà ở đạo Phật có sự tiếp thu các tinh hoa từ các đạo giáo khác và phát triển thêm cho hoàn hảo hơn, cho đúng với lý tưởng giải thoát của đạo Phật,. 

Người muốn tu theo Đạo Phật cho đúng chánh pháp của Đức Phật thì phải chịu khó nghiên cứu cho kỹ các pháp môn, vì kinh sách hiện giờ toàn là của các nhà học giả biên soạn, đụng đâu viết đó theo sở thích của mình, không có kinh nghiệm tu hành, viết mà chẳng thấy trách nhiệm của mình, chỉ biết nêu tên tuổi cầu danh. Họ đâu chịu hiểu rằng soạn viết ra kinh sách như vậy là để lại một tai hại cho bao nhiêu thế hệ con người sau này.

Giả dụ các sách dạy Phật học, dạy Thiền hiện nay là do các vị tu hành viết thì saọ Như các sách của HT Thanh Từ. Nếu cho pháp Tri Vọng của HT TT không có hiệu quả gì, thì chẳng những các đệ tử của HT tu tập không kết qua", mà chính HT cũng không đi đến chỗ đạt đạọ Vậy thì HT Thanh Từ làm sao có thể ấn chứng cho HT THông Lạc.

Muốn soạn viết kinh sách có lợi ích cho người đời sau thì phải có sự thực hành tu tập đến nơi đến chốn, đời sống phải có một đạo hạnh hẳn hòi, phải nhập được các định, làm chủ được sự sống chết, phải có Tam Minh, đoạn dứt các lậu hoặc, chấm dứt luân hồi, thì soạn viết kinh sách mới có ích lợi thiết thực cho người đời sau; bằng ngược lại là giết người, không những giết một đời người, mà giết nhiều thế hệ con người.

Nhập được các Định là chuyện không khó, nhiều người tu Thiền làm được Nhưng "làm chủ được sự sống chết, phải có Tam Minh, đoạn dứt các lậu hoặc, chấm dứt luân hồi" thì chỉ có A-La-Hán , Bồ Tát hay chư Phật mới đi tới những thành tựu trên. Sự thật, lúc ban đầu Phật giáo truyền dạy như thế này : Phật dạy, và các bậc đã chứng quả A-La-Hán đọc nhắc lại lời Phật. Nhưng sau này kinh kệ được chép lại theo trí nhớ nhiều đời có do các bậc chứng đạo viết xuống không. Nhiều người trong Phật giáo tin là có, vì vậy có nhiêù luận sư bên Đại Thừa có trí tuệ tuyệt cao, được giáo chúng coi như Bồ Tát. Đó là các ngài Mã Minh, Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước. Từ đó vê `sau quả là trong PG (Đại Thừa) ít ai có được những trí tuệ tuyệt vời như trên. Cũng theo lơì dạy của Phật, trong Phật giáo người ta tiếp nhận những kiến giải của các bậc tu hành , và coi họ đáng tôn quý như Phật và lời Pháp do Phật dạy, nên mới có chuyện quy y "Tam Bảo" mà truyền thống Nam Tông, Bắc tông đều theọ Tất nhiên, đôi khi có những lời giảng kinh sai lạc, giả dụ như của HT THông Lạc, thì người a sẽ đối chiếu với những lời giảng dạy của các sư tăng thạc đức khác để phân biệt chuyện đúng saị Thực tế ở đây nhiều điều có thể đối chiếu qua hai lời giảng khác nhau , một của HT Thanh Từ (là thầy) và một của HT Thông Lạc (được ấn chứng), để thấy được ai đúng ai saị

Nếu tu hành chưa đến đâu, đời sống đạo hạnh chưa ra gì, đức hạnh không có, giới luật vi phạm, thiền định chỉ có hình thức ngồi thiền, hư danh với những cấp bằng và những kiến giải suông, dựa vào sở tri, và những cái sai của người xưa để viết soạn kinh sách, thì loại kinh sách đó là kinh sách giết người, giết cả bao thế hệ.

Kinh sách Phật giáo cũng nói nhiều về nhữNg chuyện kể trên , đặc biệt nhất là trong Thiền tông. Pháp Bửu Đàn kinh của Lục tổ Huệ Năng nói nhiều về những chuyện đó, và được nhiều người đọc, hay như HT Thanh Từ dịch và chú giảng .

Phần vấn đạo là phần rất quan trọng, nên khi tôi trả lời cho một câu hỏi nào tôi đều phải đứng trên lập trường đạo đức của Đạo Phật mà trả lời. Cho nên, những câu trả lời của tôi đều góp ý xây dựng lại nền đạo đức của Phật Giáo đã bị tà sư ngoại đạo (Đại Thừa Giáo) biến đạo đức của Phật Giáo thành một thứ đạo đức mê tín (nhân quả mê tín). Thiền định của Đạo Phật đã biến thành thiền định ức chế tâm, để nhập vào các định tưởng, triển khai tưởng tuệ, biến thành một loại thiền miệng (khẩu đầu thiền). Còn loại thiền làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi thì được xem là thiền phàm phu, ngoại đạo.

Sao HT Thông Lạc không dẫn chứng một hai pháp Thiền nào của Đại Thừa là "ức chế tâm" để dễ bàn thảọ Nhưng phê phán về cách tu tập của các pháp môn khác thường đọc thấy trong nhiều sách. Điều này cũng không lạ, vì mỗi người do tính chất, căn cơ thích hợp với cách tu tập này mà không thích hợp với cách tu tập khác. Ngay người viết sách cũng ưa thích riêng pháp tu nào đó thích hợp với họ nhất, nhưng nếu khách quan thì không chê bai các pháp môn của người khác. Những gì thích hợp với Thông Lạc chưa chắc thích hợp với nhiều người khác, ngay cả những người tu tập theo Thiền Nam Tông bây giờ.

Cuối cùng tôi ngưỡng mong những bậc cao minh, giới đức, đạo hạnh, vì con người trên hành tinh này, vì đạo đức xã hội, vì lợi ích thiết thực chung cho con người và vì Đạo Phật, hãy vui lòng chỉ dạy cho tôi những điều còn sai sót, và cùng chung với tôi xây dựng lại một nền đạo đức cho con người, để không còn ai tự làm khổ mình, làm khổ người, thường mang đến cho mọi cá nhân con người, một nguồn tâm thanh thản, an lạc, vô sự và yên vui; một gia đình hòa hợp, hạnh phúc; một xã hội có trật tự an ninh; một đất nước phồn vinh thịnh vượng; một thế giới hòa bình an lạc. Và thắp sáng lại ngọn đèn Phật Giáo đang bị những trận cuồng phong tà giáo thổi tới tấp sắp bị tàn rụi.

Kính ghi,
THÍCH THÔNG LẠC
Tu Viện Chơn Như
Ngày 5-11-1998 

Khi HT Thông Lạc chủ trương phá bỏ tất cả pháp tu Thiền Định trong Phật giáo, chỉ giữ lại pháp tu Thiền ông đang theo, và được ông đánh giá là có kết quả nhất, thì như là ông phá hoại đạo Phật, theo nghĩa muốn chặt bỏ hết, triệt tiêu hết, chỉ để lại một vài điều mà trên đó ông cho mang bảng hiệu đạo Phật (của ông). Bắt đầu từ đó ông muốn "xây dựng lại một nền đạo đức cho con người” như trên đã viết, thì đó là nền đạo đức gì. Những điều ông liệt kê ở trên không có gì mới mẻ, vì tôn giáo nào, trong đó có đạo Phật từ xưa, cũng chủ trương, giảng dạy như thế. Chỉ khác biệt đôi chút , ít hay nhiềụ . Cái ước mơ của ông TL như định làm một cuộc cách mạng lớn, thay đổi triệt để đạo và đời trước mắt ông . Điều này khi đưa lên có thể lừa gạt được một số người ham chuộng cái mới lạ, hay thích chạy theo ảo tưởng. Nhưng khi lên tiếng phá đổ nhiều thứ đã có từ trước, và làm lại với một "vốn liếng" tri thức về đạo chỉ có như thế thì HT Thông Lạc tưởng rằng sẽ làm được gì đây cho đời, cho đạọ Người có chút trí tuệ thấy đó chỉ là chuyện mơ tưởng điên rồ, nếu không phải với dụng tâm phá hoạị

Nguyễn Hòa 

 


From: vuong van <vuongvanvan@.> 
Date: Sun Jun 22, 2003 5:40 pm
Subject: Re: [hoasen-1] Vài ý ngĩ về bài viết của HT Thông Lạc 

Chào D/H Hoà,

Qua vài ý nghĩ thôi đã cho thấy kiến thức Phật pháp của D/H thật rộng. Có 1 lời thật khẳng khái đáng được chú ý " Ai baỏ cầu nguyện không linh ứng !!" Và tôi cũng có đọc đâu đó : " Bồ tát Quán thế Âm cũng có mặt nơi ta mỗi khi ta qúan đến đệ nhất khổ đế - Ai nói cầu đức Qúan thế Âm không linh ứng? Ddức QTA hiện tới trong ta cả trước khi ta mở miệng nguyện cầụ".

Nếu cho rằng "cầu nguyện" là mê tín, coi như gần hết nhân loại từ xưa cho đến nay mê tín trầm trọng - nhất là người Mỹ - rất hiếm bài diễn văn quan trọng của tổng thống Mỹ thiếu lời cầu nguyện vào lúc cuối - có phải thế không? Khoảng 10 năm về trước - Ddức giáo hoàng đọc 1 thông điệp trong đó cho PG là vô thần - và nhóm Giao điểm VN và PG thế giới có lên tiếng chống đối khá dữ dội quanh quẫn về v/d nàỵ

Liệu - Tôn giáo không có đức tin tức thiếu hẳn lễ nghi và cầu nguyện còn là tôn giáo hay không ? 

Chuyện linh ứng của lời nguyện cầu chỉ kinh nghiệm được thôi - có lẻ chỉ có một số thần thông - tối thiểu cở huynh HL may ra biết được.

Tuy nhiên khi nói rằng " tự thắp đuốc lên mà đi" hoặc " hãy coi như là một hoang đảo trông cậy vào sức lực chính ngươi" - thì vai trò và vị trí của "tha lực" hoặc "lời cầu nguyện là gì ? Ngày nay liệu con người (đa số) có khả năng và bản lãnh tự cứu được không?. 
VVV

 


From: "Hoa Nguyen" <THANHHUY@m...> 
Date: Sun Jun 22, 2003 9:00 pm
Subject: Re: [hoasen-1] Vài ý ngĩ về bài viết của HT Thông Lạc 

Chào đạo hữu Vuong Van, 
Tôi có tín tâm trong việc Niệm Phật. Vì nghĩ niệm Phật linh ứng , hiệu nghiệm dù theo Tịnh độtông hay ngay theo lời dạy của một số thiền sự Có điều là tôi cũng không thường niệm Phật 

Việc niệm Phật đã có ở Tiểu Thừa, tuy chỉ niệm danh hiệu Phật Bổn sư Thích ca Mâu Ni , và cũng tin có nhiều "linh ứng", hiểu linh ứng là thế nào cũng được. Đối với Đại Thừa, và người VN, thì danh hiệu A Di Đà Phật và Quán Thế Âm rất quen thuộc, dễ tạo được niềm tin mạnh mẽ để tìm về nương t+.a , và dễ thấy được cảm ứng hay linh ứng . 

Nhưng khi bàn về các bài viết của HT TL tôi chưa muốn dùng quan niệm rất đúng dắn về việc nương tựạvào tha lực để chống lại lời lẽ quy chụp là "mê tín dị đoan" của HT TL. Tôi đang muốn dùng lý lẽ duy lý để đối phó lại nhiều luận điệu không đúng của người chỉ chấp nhận có phần nhỏ của đạo Phật.

Nhưng một tôn giáo phải bao gồm cả hai phần là lý trí và tình cảm, ở Phật giáo là Trí Tuệ và Bi Tâm. Trí Tuệ được đạo Phật đề cao hơn ở bất cứ tôn giáo nào khác. Nhưng khi chấp nhận Bi Tâm hay Từ Bi có ở Phật (và ở chúng sinh), thì đương nhiên ta chấp nhận chuyện Phật sẵn lòng giúp đỡ chúng sinh trên đường giải thoát, trong đó có diệt trừ một số phiền não, vô minh của chúng ta trong cuộc sống. 

Còn theo một vài thiền sư thì cầu Phật tức cầu chính cái Chân Tâm, Phật tánh của mình, niệm Phật tức niệm Tâm. Phật A Di Đà hay Quán Thế Âm đã nằm sẵn trong Tâm mỗi người, và sẽ biểu hiện ra khi được gọi đến, nhớ nghĩ đến. Tất nhiên phải có tín tâm là sức mạnh của lời mời gọi, thì mới có sự đáp ứng, cảm ứng . Khi tìm về cái chân tâm thanh tịnh thì phần diệu dụng tuyệt vời của chân tâm sẽ giúp (tâm) người niệm được nhẹ nhàng, an lạc, và có trí tuệ để đối phó hiệu quả với những vấn đề đang gặp . Hay chỉ để được thanh tịnh, an lạc hơn. Lời cầu nguyện của các tôn giáo khác cũng có hiệu quả cho người sùng tín, tôi thấy trong giới khoa học, như nhiều bác sĩ , đã lên tiếng công nhận là người cầu nguyện Chúa dễ lành bệnh hơn người không cầu nguyện.

Vấn đề niệm Phật hay cầu nguyện nêu lên rất hay và thú vị Sẽ có nhiều dịp trở lại, và hy vọng có nhiều đạo hữu khác góp thêm ý kiến.

Hòa
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn