Bài 09

06 Tháng Giêng 201300:00(Xem: 4587)

PHẢN BIỆN 
HIỆN TƯỢNG THÍCH THÔNG LẠC
Toàn Không

09

XVII). HT TTL: Kinh Địa Tạng là của Bà La Môn là loại kinh xảo trá gây mê tín cho mọi người, dạy những điều phi đạo đức, lạc hậu và lừa đảo; cầu siêu là mê tín…

 

Do bài TUẦN THẤT của Trưởng Lão Thích Thông Lạc đăng trên mạng ngày 15-11-2012. (Trưởng Lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP.7, TG.2011, tr.204-210)

XVII). Phản Biện:

 Chúng ta phải hiểu Kinh Bắc truyền phần lớn là Kinh liễu nghĩa, nên nếu không quán chiếu thì sẽ chẳng hiểu được thâm ý của Kinh, sinh ra mê tín, sinh ra bài bác, sinh ra nghi ngờ vì sự bài bác có lý theo nghĩa đen nông cạn. Đúng là thời mạt pháp nên sinh ra đủ thứ phá hoại Phật giáo, từ hiện tượng “Vô Thượng Sư Thanh Hải”, nay đến “Hiện Tượng Thích Thông Lạc”, một đằng lúc đầu đội lốt Phật giáo hành ngoại đạo, một đằng là Phật giáo hành Nam truyền đả kích kinh Bắc truyền; việc này cũng giống như một đàn gà cùng một mẹ mà đá nhau. Tác giả Thông Lạc chẳng bảo vệ gia tài chung của Phật chỉ vì thiếu tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi nói hay viết mà thôi; chúng ta sẽ phân tích kinh Địa Tạng và phản biện những điều chính mà tác giả Thông Lạc nêu ra để chỉ trích một cách thậm tệ.

1). Phân tích kinh Địa Tạng:

 Căn cứ vào Kinh Địa Tạng do Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch năm 2001, chúng ta nên tìm hiểu ý nghĩa của kinh này trước khi bàn đến những chỗ Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thông Lạc nêu ra. Trước hết, chúng ta phân tích ngay tựa đề của kinh Địa Tạng được ghi như sau:

Chí tâm quy mạng lễ:
U minh Giáo chủ Bản tôn
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Lạy đức Từ bi đại Giáo chủ!
Địa là dày chắc, Tạng chứa đủ.
Cõi nước phương Nam nổi mây thơm,
Rưới hương, rưới hoa, hoa vần vũ,
Mây xinh mưa báu số không lường.
Lành, tốt trang nghiêm cảnh dị thường,
Người, Trời bạch Phật: Nhân gì thế?
Phật rằng Địa Tạng đến Thiên đường!
Chư Phật ba đời đồng khen chuộng.
Mười phương Bồ Tát chung tin tưởng,
Nay con sẵn có thiện nhân duyên,
Ngợi khen Địa Tạng đức vô lượng:
Lòng từ do chứa hạnh lành,
Trải bao số kiếp độ sinh khỏi nàn,
Trong tay đã sẵn gậy vàng,
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh,
Tay cầm châu sáng tròn vin,
Hào quang soi khắp ba nghìn Đại thiên.
Diêm Vương trước điện chẳng hiền,
Đài cao trước cảnh soi liền tội căn,
Địa Tạng Bồ Tát thượng nhân,
Chứng minh công đức của dân Diêm Phù!
Đại Bi, Đại Nguyện, Đại Thánh,
Đại Từ, Bản Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.

Giảng Giải: Xin dùng chữ nghiêng cho kinh, chữ đứng ngay cho giải thích, nếu chúng ta đọc rồi quán chiếu kỹ càng thì sẽ thấy:

Chí tâm quy mạng lễ:

Đây là tâm trí hết lòng cung kính tôn trọng.

U minh Giáo chủ bản Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát:

 U minh biểu trưng ngu si nên mê mờ u tối, Địa là đất là nơi chỗ, Tạng là A Lại Đa Thức, Tạng thức. Giáo chủ Bản tôn Địa Tạng là bản tâm, tự tính, nơi Tạng thức của chính mình, là Bản tôn Địa Tạng của mình, giáo chủ của chúng sanh trong tâm còn đang mê mờ u tối.

Lạy đức Từ bi đại Giáo chủ!

Địa là dày chắc, Tạng chứa đủ.

 Địa là tâm địa, tâm địa thì bền vững không gì phá hoại được, nên nói dày chắc; Tạng là A Lại đa thức là thức thứ tám của duy thức học, thức này có nhiệm vụ chứa tất cả nghiệp lành dữ từ nhiều kiếp đến ngày hôm nay nên nói Tạng chứa đầy đủ hết.

Cõi nước phương Nam nổi mây thơm,

Rưới hương, rưới hoa, hoa vần vũ,

Mây xinh mưa báu số không lường.

Lành, tốt trang nghiêm cảnh dị thường,

 Cõi nước phương Nam là Nam Thiệm Bộ Châu tức cõi Diêm Phù Đề. Ba câu tiếp là khi mình đã nhận ra bản tâm Phật tánh của mình rồi thì tất cả ngoại cảnh đều tốt đẹp trang nghiêm như ba câu này diễn tả nào là hương thơm hoa vần vũ, nào là mây đẹp mưa báu do Chư Thiên cúng dàng đầy khắp.

Người, Trời bạch Phật: Nhân gì thế?

Phật rằng Địa Tạng đến Thiên đường!

 Người, Trời khi thấy những cảnh lạ như trên hiện ra thì thắc mắc hỏi Phật, Ngài trả lời là Bồ Tát Địa Tạng đến, có nghĩa là Bản tôn Địa Tạng hiển lộ, tức là cái tâm thanh tịnh, cái tâm giác ngộ ứng hiện nên mới có cảnh Chư Thiên mừng rỡ rải hương hoa.

Chư Phật ba đời đồng khen chuộng.

Mười phương Bồ Tát chung tin tưởng,

 Khi đã giác ngộ rồi thì ba đời Chư Phật đều khen chuộng khen ngợi sự đạt đạo của người đó, mười phương Chư Bồ Tát cùng tin tưởng, mười phương Chư Bồ Tát thấy có một vị đạt đạo nên cùng đến tham kiến để học hỏi nên nói là chung tin tưởng.

Nay con sẵn có thiện nhân duyên,

Ngợi khen Địa Tạng đức vô lượng:

Lòng từ do chứa hạnh lành,

Trải bao số kiếp độ sinh khỏi nàn,

 Thiện nhân duyên là may gặp được Phật pháp, khi khen Địa Tạng công đức vô lượng thì tâm mình phải là tâm Đia Tạng mới phải lẽ. Có lòng từ tức là do tâm từ và tâm từ chứa vô lượng hạnh lành, dù trải qua vô vàn kiếp để cứu độ chúng sinh cũng không ngại gian nan, nghĩa là dù chúng ta có trải qua bao lâu đi chăng nữa chúng ta vẫn một tâm cứu giúp chúng sinh. Mỗi một niệm tham, sân, si, mạn, nghi, buồn, vui, hơn, thua, được, mất, vinh, nhục, v.v… là một chúng sinh trong ta, ta phải độ cho hết không còn một chúng sinh nào trong tâm ta mới hoàn tất nhiệm vụ, tức là khi địa ngục không còn một chúng sinh nào ta mới chịu thành Phật. Đây là ý nghĩa của kinh nói khi nào hết chúng sinh trong Địa ngục thì ngài Bồ Tát Địa Tạng mới thành Phật, mà chúng sinh là ở trong tâm của mỗi người.

Trong tay đã sẵn gậy vàng,

Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh,

 Trong tay Bồ Tát Địa Tạng cầm Tích Trượng có 4 cái khoen vòng tượng trưng cho Tứ Đế, có 12 khuy tượng trưng 12 Nhân duyên; cũng có khi Ngài cầm Tích Trượng có 6 vòng khoen tượng trưng cho 6 căn. Tích Trượng ví như gậy vàng, vì dẹp được Tứ Đế, thoát khỏi 12 Nhân duyên, 6 căn hết vướng mắc khỏi 6 trần, lúc đó gậy vàng dộng tan cửa Địa ngục vô minh của tham sân si mạn nghi v.v… để cứu độ toàn thể chúng sinh của chính mình.

Tay cầm châu sáng tròn vin,

Hào quang soi khắp ba nghìn Đại thiên.

 Tay Ngài cầm châu ngọc sáng chói, đây là ngọc tâm. mỗi người đều có, khi hết tham sân si rồi thì ngọc tâm hiển bày nên hào quang soi khắp ba nghìn Đại Thiên nghĩa là Phật tánh hiển bày chiếu khắp cõi Phật, tức là khắp giải Ngân Hà (Milky Way), như thế là đạt đến giải thoát vậy.

Diêm Vương trước điện chẳng hiền,

Đài cao trước cảnh soi liền tội căn,

 Diêm Vương đối trước mặt tội nhân thì thật là dữ dằn khiếp sợ, đài cao trước cảnh soi liền tội nhân, nghĩa là khi chúng ta làm bất cứ chuyện gì dù lành dù ác đều được Mạt Na Thức thứ 7 truyền vào ngay cho A Lại Đa Thức ghi giữ, chứ không thể giấu giếm được, chẳng cần phải điều tra, dù có trốn tránh được ở thế gian nhưng chẳng thể nào trốn khỏi tâm thức của mình, vì thế cho nên nói: Đài cao trước cảnh soi liền tội căn, làm bất cứ việc gì đều được ghi ngay tức khắc, như cảnh tới trước gương liền có hình. Diêm Vương chính là mình, mình là Diêm Vương xử tội của mình vậy, Phật giáo chẳng cần áp dụng hình phạt, chỉ cần nói ra sự thật này thôi bạn ạ, hãy tự liệu lấy mình mà hành động; biết như vậy rồi bạn có dám làm ác không?

Địa Tạng Bồ Tát thượng nhân,

Chứng minh công đức của dân Diêm Phù!

Đại Bi, Đại Nguyện, Đại Thánh,

Đại Từ, Bản Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.

 Địa Tạng Bồ Tát chứng minh cho công đức là chính tâm mình là nguồn gốc của mọi công đức và cũng là nguồn gốc của mọi việc ác; chính tâm là giải thoát mà cũng là luân hồi sinh tử, nên tự tâm mình sẽ chứng minh cho mình vậy. Người vì Bản tôn Địa Tạng Bồ tát của mình thì phải luôn luôn thể hiện Địa Tạng tự tánh của mình bằng từ bi bằng thệ nguyên rộng lớn để phá đổ tường thành vô minh để cứu vớt mình ra khỏi địa ngục tham sân si mạn, v.v…c ủa chính mình.

 Chỉ cần phân tích tựa của Kinh là chúng ta đã hiểu ý chỉ của Kinh Địa Tạng là thế nào rồi, nên suốt cuốn Kinh phải được hiểu theo đường hướng này mới đúng với Lý của Kinh, còn không thì sẽ đi sai lạc và rơi vào mê tín. Bây giờ chúng ta cũng nên giải thích về vài điều chính, mà Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thông Lạc nêu trong kinh Địa Tạng ra để lên án chỉ trích thật là nặng nề!

2). Phần phản biện:

1. Hòa Thượng Thích Thông Lạc viết như sau:

 “Như có người nào sắp mạng chung, hàng thân quyến trong nhà nếu có một người vì người bệnh sắp chết đó mà niệm lớn tiếng danh hiệu của một đức Phật, thời người chết đó, trừ được năm tội lớn vô gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch” (kinh Địa Tạng, trang 133). Lời trong kinh này là một lời dạy phi đạo đức, lừa đảo những người không hiểu, mê tín, lạc hậu. Luật nhân quả là một đạo luật công bằng và công lý, làm sao lại có Bồ Tát hoặc đức Phật nào dám giải cứu cho kẻ làm ác?

Giải thích phản biện: Nếu người thường nhớ bản tâm Địa Tạng tự tính của mình thời dạy bảo người sắp chết sám hối, niệm Phật thiết tha dũng mãnh đến nhất tâm thì người đó sẽ được đến cõi Phật và tiếp tục tu hành nên công đức ngày càng tăng trưởng, còn nghiệp của người ấy sẽ không tăng lên. Như Kinh Quán Phật Vô Lượng Thọ, Đức Phật bảo Tôn giả A Nan và Bà Vi Đề Hi: Có chúng sanh tạo nghiệp ngũ nghịch, thập ác. Do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người ngu ấy lúc sắp lâm chung gặp thiện tri thức nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngưòi ấy bị khổ bức không rảnh niệm.

 Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi xưng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, chí tâm xưng danh chẳng dứt. Do xưng danh hiệu Phật nên trừ nhiều tội sanh tử. Lúc chết thấy hoa sen dường như mặt trời, rồi được vãng sanh Cực Lạc thế giới ở trong hoa sen, (đây là đới nghiệp vãng sanh); mãn 12 kiếp hoa sen ấy mới nở, Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng âm thanh đại bi vì người ấy diễn nói thật tướng các pháp, nói pháp trừ diệt tội, người ấy nghe pháp rồi rất vui mừng liền niệm Phật phát tâm Bồ Đề, đây gọi là người hạ phẩm hạ sinh.

 Người ấy mang nghiệp theo rồi tu dần dần tăng trưởng công đức, vì ở đó không tạo nghiệp ác nên nghiệp bất thiện không tăng, còn ở Ta Bà nghiệp bất thiện chồng chất mỗi ngày thêm lên. Bồ Tát hoặc đức Phật A Di Đà không cứu nổi người ấy nếu người ấy không dũng mãnh sám hối và thiết tha niệm Phật mong về cõi Phật, đây là do cái tâm kiên cố của người ấy ngày đêm không ngưng nghỉ niệm cho tới nhất tâm bất loạn, tức là đạt được tâm thanh tịnh nhất như, như thế mới có thể được vãng sinh, chứ chẳng phải dễ đâu.

 Người có nghiệp nặng vẫn vãng sinh được, cũng như người tội nặng vẫn đat đạo được như trường hợp Angulimala là người đã giết và chặt 999 ngón tay của 999 người, sau Angulimala gặp Phật nhận cho xuất gia và tu hành được đắc qủa A La Hán, đó là bằng chứng có tội nặng, có nghiệp nặng vẫn đắc đạo không ai chối cãi được. Xem như vậy, lời trong kinh này là một lời dạy đạo đức, không lừa đảo, không mê tín; luật nhân quả vẫn áp dụng vậy.

2. Hòa Thượng Thích Thông Lạc viết: 

Đây là một đoạn kinh lừa đảo dối gạt làm hao tốn tiền của con người rất nhiều:

“Có thể vẽ, cho đến dùng vàng bạc, đồng sắt đúc nắn hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, đốt hương cúng dường, chiêm lễ ngợi khen, thì chỗ người đó ở có 10 điều lợi ích.

Những gì là mười?
Một là đất cát tốt mầu.
Hai là nhà cửa an ổn mãi mãi.
Ba là người chết được sanh lên cõi trời.
Bốn là những người còn sống hưởng sự lợi ích.
Năm là cầu chi cũng được toại ý cả.
Sáu là không có tai họa về nước và lửa.
Bảy là trừ sạch việc hư hao.
Tám là dứt hẳn các ác mộng.
Chín là khi ra lúc vào có thần hộ vệ.
Mười là thường gặp bậc thánh nhân”.

(kinh Địa Tạng, trang 155).

Trên đây là những lời nói xảo trá, dối người. Làm gì có chuyện vẽ hình, đúc tượng Bồ Tát Địa Tạng, thờ cúng mà đất ở đó lại tốt mầu. Đất xấu là đất xấu, chỉ có bón phân, đổ rác mục thì đất mới có mầu mỡ trở lại. Còn đất tốt là đất tốt, đất phù sa nên mới tốt chứ đâu phải thờ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng mà tốt được. Thật là kinh sách gạt người, chỉ có người không hiểu mới tin kinh Địa Tạng mà thôi.

Giải thích phản biện:

 Chúng ta lần lượt phân tích từng điểm như sau:

Có thể vẽ, cho đến dùng vàng bạc, đồng sắt đúc nắn hình tượng Địa Tạng Bồ Tát …, đây là Tâm chúng ta như người thợ vẽ thợ, đúc, thợ nặn, tạo hoàn cảnh chánh báo và y báo của mỗi chúng sanh, tạo nên tất cả sự vật trên thế gian, tạo cả sáu đường v.v…, khi đã vẽ xong hoặc đúc nắn tượng Địa Tạng Bồ Tát xong, nghĩa là khi dùng đủ mọi phương tiện để tu, cũng như miệt mài chăm chỉ luôn luôn nhớ tu hành thì sẽ thấy được Như Lai Tạng của mình hiển lộ, thấy được Địa Tạng của mình tức là đã hết chúng sinh trong địa ngục của tâm mình; lúc ấy thiếu gì người đốt hương cúng dường, chiêm lễ ngợi khen. Bởi vậy sau khi người ấy đạt đạo rồi thì sẽ được lợi ích:

Một là đất cát tốt mầu, vì đã thấy Như Lai rồi thì chỗ ở cảnh vật (y báo) đều là tốt đẹp như trân bảo bảy báu, nên nói đất cát tốt mầu, đây là đất tâm nhiệm mầu, chứ chẳng phải là đất bùn lầy gai góc của thế gian đâu mà cần phân bón.

Hai là nhà cửa an ổn mãi mãi, Khi đã thấy Như Lai của mình rồi thì ra khỏi sinh tử luân hồi, chỗ ở là Niết Bàn, ở Niết Bàn chẳng phải là nơi nhà ở yên ổn mãi mãi sao?

Ba là người chết được sanh lên cõi trời: Khi đã đạt đạo rồi sẽ giáo hóa chúng sanh, chúng sinh học hỏi giáo pháp và thực hành thì sẽ được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, nói chi là lên cõi Trời mà không được sao?

Bốn là những người còn sống hưởng sự lợi ích: Lợi ích của giáo pháp do giảng dạy Phật pháp thì không gì sánh được nếu chịu học hỏi và thực hành, nên nói những người sống còn hưởng lợi ích.

Năm là cầu chi cũng được toại ý cả: Người đạt đạo nếu muốn gì mà chẳng được chứ, mà đâu cần cầu cũng có tất cả.

Sáu là không có tai họa về nước và lửa: Nước là tham lam, ái dục nhận chìm chúng sinh, lửa là sân hận giận thù, lửa dâm dục, lửa oán hận phụ tình đốt cháy chúng sinh, còn người đạt đạo làm gì còn tham sân si nữa thì làm sao bị nước lửa hại được chứ?

Bảy là trừ sạch việc hư hao: Đối với người đạt đạo thì đâu còn được mất, hơn thua, vinh nhục, vui buồn nên không hư hao gì cả, vả lại cũng chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thiếu chẳng dư, chẳng thêm chẳng bớt, bởi vì là như như làm sao hư hao được.

Tám là dứt hẳn các ác mộng: Người đạt đạo dứt hẳn ác mộng là đương nhiên, đâu còn tạo nghiệp dữ nữa mà có ác mộng.

Chín là khi ra lúc vào có thần hộ vệ: Đương nhiên rồi, Thiên thần hộ vệ vị ấy vì qúy vị Thiên Thần tình nguyện muốn bảo vệ bậc Thánh và muốn được bậc Thánh dạy bảo.

Mười là thường gặp bậc thánh nhân: Người đạt đạo gặp Chư Phật và Chư Bồ Tát mười phương là chuyện thường không có gì khó cả, phải không? 

 Như vậy Kinh Địa Tạng có lừa đảo ai đâu, chỉ có người không hiểu ý Kinh mới nói Kinh dối gạt người, là sai sự thật không thể chối cãi; chỉ có người không hiểu ý Kinh nên nói sai và thực hành sai thôi, đã hiểu Kinh rồi thì không thể bài bác Kinh Địa Tạng được nữa, phải không?

3. Hòa Thượng Thích Thông Lạc viết:

Từ cuốn kinh Địa Tạng, chúng ta suy ra tất cả những cuốn kinh khác của kinh sách phát triển, cũng đều là loại kinh xảo trá lừa đảo gây mê tín cho mọi người. Đây là một đoạn kinh nói láo nhất, chúng tôi xin trích ra để quý vị nghiên cứu:

“Chiêm lễ hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát và đọc tụng kinh bổn nguyện này tự nhiên được rốt ráo xa lìa biển khổ, chứng đạo Niết Bàn an vui, vì thế nên được ủng hộ một cách lớn lao như thế”. (trang 154, kinh Địa Tạng).

Giải thích phản biện: Nếu chúng ta cung kính tự tính của chính mình, đọc tụng Kinh Bản Nguyện này mà quán chiếu cho hiểu được ý Kinh rồi theo đó hành trì, nghĩa là bỏ tham sân si v.v…, tránh làm ác, chỉ làm việc lành, tu hành tới nơi tới chốn rồi thì sau chót là lià khổ, thoát khỏi luân hồi sinh tử, chứng đạt Niết Bàn, thì lúc ấy làm sao? Buồn hay vui? An vui là cái chắc chắn rồi còn gì nữa? Vì thế cho nên được ủng hộ một cách vô cùng lớn lao là lẽ đương nhiên, có phải thế không?

 Xem sự phân tích như trên thì nếu nói Kinh Địa Tạng là xảo trá, là dối gạt người, gây mê tín cho mọi người, chỉ là do không hiểu nghĩa Kinh mà sinh chuyện, đang sóng lặng gió yên, mọi người trong thanh bình mà tự nhiên nổi mây đen sấm chớp kinh hoàng, làm mọi người đều hoảng sợ mất hết hồn viá. Thật là tội cho Kinh Địa Tạng qúa đi, mục đích Kinh Địa Tạng là cứu khổ chúng sinh, nhưng lại bị có người xé nát ném Kinh liệng xuống chà đạp như thế có tội cho Kinh Địa Tạng biết dường nào không! Phải không các bạn?

 Từ cuốn Kinh Địa Tạng này, chúng ta suy ra phần lớn những cuốn kinh của Phật giáo Bắc truyền đều là loại kinh liễu nghĩa chứ không phải là kinh bất liễu nghĩa, là quyền giáo chứ không phải là kinh thật giáo, nên người đọc phải lấy các kinh bất liễu nghĩa, thật giáo làm căn bản, nếu thấy hiểu kinh liễu nghĩa sai ý nghĩa căn bản thì phải quán chiếu lời kinh làm sao cho nghĩa của kinh liễu nghĩa đi đôi với kinh bất liễu nghĩa mới là đúng.

 Tỉ dụ: Chúng ta đã đọc Kinh Đại Bát Niết Bàn, biết được Đức Phật nói rằng: “Hãy tự thắp đuốc lên mà đi”; nếu kinh Địa Tạng bảo: Cầu nguyện Địa Tạng Vương được cái này cái kia tức là chỉ ngồi đấy mà cầu không tu hành gì cả là trái với lời Phật dạy ở kinh Niết Bàn rồi. Như vậy ta phải quán chiếu xem kinh muốn nói gì, chứ không nên hiểu theo nghĩa đen rồi kết luận là thế này thế nọ là người bỏ quên không dùng tới trí tuệ của mình vậy.

 Để kết luận, chúng ta đã thấy rõ những lời chỉ trích kinh Địa Tạng là sai và do đó lời phê bình các kinh khác của Bắc truyền cũng là sai luôn; đã là kinh của Phật giáo thì không thể sai được, chỉ có chúng ta hiểu sai và áp dụng sai mà thôi, nên nói các kinh của Bắc truyền là loại kinh xảo trá lừa đảo gây mê tín cho mọi người là hoàn toàn không đúng lý.

4. Hòa Thượng Thích Thông Lạc viết:

Tóm lại, Phật giáo chủ trương không có linh hồn, nên làm tuần thất là mê tín. Kinh Địa Tạng là kinh Bà La Môn ngoại đạo dạy những điều phi đạo đức và lừa đảo.

Không có linh hồn thì cầu siêu cho ai, cầu như vậy có ích lợi gì? Xin quý phật tử cứ đọc kinh sách của Phật giáo Nguyên Thủy rồi suy ngẫm, đừng để mắc lừa kinh sách phát triển, những tà sư ngoại đạo hiện giờ nhiều lắm.

Giải thích phản biện: Phật giáo chủ chương không có linh hồn, nhưng có tâm thức có nghiệp thức chứ chẳng phải linh hồn, vì nếu là linh hồn thì tự linh hồn có thể chọn lựa chỗ tốt để đến, còn nghiệp thức thì tùy nghiệp mà phải đi đầu thai ở một trong 6 cõi. Người chết ví như cây đèn thứ nhất được châm lửa qua đèn thứ hai, nếu không có cây đèn thứ nhất thì sẽ không có cây đèn thứ hai, nghĩa là phải có một người chết rồi thì sẽ có một người khác tái sinh hay một Ngạ qủy, hay một Súc sinh, hay một người Địa ngục, hay một Thần, hay một người Trời tùy theo nghiệp của người ấy.

 Theo một số sách viết không chủ trương có khoảng thời gian từ khi chết đến lúc tái sinh, nghĩa là sau khi chết tái sinh liền vào một trong sáu cõi; nhưng theo Kinh sách Tây Tạng lại viết: “Sau khi chết, có trạng thái của “Thân Trung Ấm”, tức là có người sau khi chết tái sinh liền, có người tái sinh sau 1, 2, 3, 4 . . . ngày cho đến chậm nhất là 49 ngày”, như vậy có trái nhau không? Chúng ta thấy đức Phật đã đề cập nhiều đến những người có ác nghiệp nặng đọa Địa ngục nhanh như phóng thanh kiếm xuống nước, những người làm thiện, có tu sinh lên Trời nhanh như tên bắn, đúng là liền sau khi lâm chung tái sinh ngay.

 Nhưng chúng ta không thấy đức Phật đề cập đến trường hợp của người bình thường là người không có nghiệp ác nặng, nhưng có cả nghiệp thiện và bất thiện gần tương tự nhau; nguyên nhân là vì các nghiệp thiện ác nhiều đời cho đến nay chưa quyết định dứt khoát, do tâm thức của người chết lúc nghĩ thiện lúc nghĩ ác, cứ thay nhau sinh rồi diệt diệt rồi sinh, nghiệp ác nghiệp thiện thay đổi không ngừng. Có lẽ vì vấn đề này vô ích đối với việc tu hành, làm mất thời giờ tu hành nên đã không được đức Phật đề cập tới; hơn nữa vấn đề Thân Trung Ấm này chỉ để giải thích thêm chi tiết cho việc tái sinh của những người bình thường, không có gì gọi là trái ngược với lời Phật dạy.

 Ngoài ra, tìm kiếm trong Kinh điển, chúng tôi thấy trong Tạp A Hàm, do Hoà Thượng Thích Minh Châu Chủ Tịch Hội Đồng chỉ đạo và 8 vị Hoà Thượng phiên dịch, quyển 2, Kinh số 640, trang 606 dòng thứ 15, trang 607 dòng thứ 10, đức Phật có nói tới chữ “Thân Trung Ấm vào thai mẹ”. Như vậy chứng tỏ là có Thân Trung Ấm, có thời gian từ khi chết tới lúc tái sinh, chứ Chư Tổ của Phật Giáo Bắc Truyền không sáng tác ra, chư Tổ chỉ triển khai từ lời Phật dạy thôi. Thời gian chưa tái sanh gọi là Trung Ấm, bởi vì ấm trước đã hết ấm sau chưa sinh nên gọi là Trung Ấm; thời gian tái sinh trong 49 ngày từ cuốn “Thân Trung Ấm” (Bardo Thodol) do Tổ Liên-Hoa Tây-Tạng (Padma Sambhava) dùng Thần thông nhìn nhiều người từ lúc vừa mới chết tới hết 49 ngày mà viết ra vào khoảng năm 750 của thế kỷ thứ 8 Dương lịch.

 Thêm vào, nếu chúng ta để ý đến trường hợp tái sinh của các vị Lạt Ma Tây Tạng thì rất rõ ràng rằng các ngày tái sinh của các vị này không phải là ngày các vị qua đời, mà sau một số ngày; như vậy đã qúa hiển nhiên rồi không còn điều gì nghi ngờ nữa về Thân Trung Ấm. Đây chính là nguồn gốc có căn cứ Phật pháp của việc Hộ niệm và Cầu Siêu để giúp cho người qua đời được lợi lạc phần nào, vì nếu có hộ niệm hay cầu siêu sẽ giúp và hướng dẫn thần thức, tâm linh hay hương linh người chết hướng về Tam Bảo, sám hối niệm Phật, quy hướng tâm thiện.

 Như thế, việc Hộ niệm, Cầu siêu, làm việc lành sẽ giúp tốt phần nào cho người chết trong việc vãng sinh hay tái sinh, vì tư tưởng lúc chết và trong lúc chưa tái sinh của người ấy rất ảnh hưởng đến việc tái sinh; nếu có tư tưởng thiện người ấy có dấu hiệu được tái sinh đến chỗ tốt, đó là lý do và ý nghĩa của việc Hộ niệm và Cầu siêu. Tuy nhiên việc này cũng chỉ giúp được chút ít mà thôi, việc chính là phải tu hành; nhưng những người không tu hành mà được chút ít cũng là qúy giá, thí dụ: Như đáng lẽ phải vào loài Ngạ qủy lại được tái sinh làm người chẳng hạn; do đó việc Hộ niệm và Cầu siêu không thể nói là phi đạo đức, lừa đảo mê tín, mà là một việc làm để giúp người qua đời vậy.

 Đây cũng là việc làm có tính cách văn hóa Việt Nam, người chết được có nghi thức Tôn giáo uy nghi, cũng là để giữ Phật tử tại gia có một mối kết hợp với các vị tu sĩ trong vấn đề sống chết. Nếu không, có thể họ sẽ có sự xa cách với đạo Phật và sẽ tìm đến các đạo khác, vì các đạo khác họ mong mỏi phục vụ bất cứ ai của đạo Phật muốn họ phục vụ, họ mong muốn nhiệt tình hết cỡ được phục vụ và họ tổ chức Tang lễ vô cùng long trọng khiến một số Phật tử khi sắp chết đã đổi đạo. Nếu Tu sĩ của chúng ta chẳng làm gì cả thì thiếu sót, và tương lai về lâu về dài dần dần sẽ không còn Phật tử tại gia nữa, không còn Phật tử tại gia thì lẽ dĩ nhiên sẽ không còn Phật tử xuất gia, như thế thì đạo Phật sẽ dần dần biến mất; bởi vậy việc Hộ niệm và Cầu siêu cho người chết vẫn cần thiết vì cả hai sự lợi ích như đã trình bày ở trên.

 Có một điều cần lưu ý là chương trình Cầu siêu cần phải được xét lại cho thích hợp để tránh việc làm có tính cách mê tín như tụng kinh Địa Tạng với mục đích cầu cứu người trong Địa ngục, tụng kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn để cầu cứu khổ cứu nạn là không thích hợp vì không hiểu nghĩa lý Kinh. Trong các lễ Vu Lan, Cầu siêu, chúng ta chỉ nên làm: Quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng cho vong linh, đọc sám hối cho vong linh, đọc Vãng Sinh Tịnh Độ Thần Chú, Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn, và tụng Kinh A Di Đà. Khi làm lễ Cầu an đọc sám hối, Đại bi chú, Chú Lăng Nghiêm, tụng kinh Bát Đại Nhân Giác và Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là các chùa tu theo Tịnh Độ Tông và Giáo Tông, còn tu theo Mật Tông thì tùy nghi mà sắp xếp cho thích hợp với tôn chỉ của Pháp môn tu. Riêng các chùa Thiền Tông thì không cần Cầu siêu hay Cầu an, nên từ ngàn xưa tới nay các vị tu Thiền Tông chẳng bao giờ đi làm lễ cầu siêu, giống như các chùa Nam Truyền vậy.

5. Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thông Lạc viết:

Nhìn vào cuốn kinh có hình Địa Tạng Vương cưỡi con sư tử lông xanh, hình ảnh một vị Phật mà cưỡi một con thú, hình ảnh ấy phản lại đạo đức từ bi, bình đẳng của đạo Phật. Một vị tu sĩ mà bắt con vật chở mình đi thì còn nghĩa lý gì là tu sĩ đạo Phật. Hình ảnh đó là bắt loài thú làm nô lệ, đó là hình ảnh giai cấp vua chúa.

Giải thích phản biện: Như đã giải thích ở trên về ý nghĩa của kinh liễu nghĩa, Địa Tạng Vương là bản tâm, tự tính, nơi Tạng thức của chính mình, là Bản tôn Địa Tạng của mình, giáo chủ của chúng sanh trong tâm mình. Địa Tạng Vương cưỡi trên lưng con Sư Tử, Sư tử rống lên các loài đều sợ, đó là biểu tượng trí tuệ trừ tất cả các phiền não của chúng sanh trong tâm mình; màu xanh tượng trưng cho lòng tin kiên cố; đây chỉ là biểu trưng tượng trưng bằng con vật nhưng mô tả ý nghĩa khác cao siêu mà thôi, chứ chẳng phải nghĩa đen đâu mà lầm to.

 Đức Phật khi giảng kinh thường lấy vật nọ cái kia để ám chỉ hoặc so sánh cho người nghe dễ hiểu, tinh thần Bắc truyền cũng vẫn theo truyền thống của Phật, chứ chẳng có gì lạ cả, hãy đọc trong Tạng Kinh của cả Nam truyền và Bắc truyên thì sẽ thấy rõ; nếu không tìm hiểu suy nghĩ thì hiểu sai. Ví như Đức Phật dùng ngón tay chỉ mặt trăng để chúng ta thấy mặt trăng, chúng ta lại tưởng là Phật cho xem ngón tay, thành ra đâu có thấy mặt trăng, tương tự như vậy, Chư Tổ viết ra ý của Phật bằng chữ, chúng ta cứ theo chữ mà hiểu (giống hệt thấy ngón tay), không chịu căn cứ vào chữ mà suy nghĩ tìm hiểu nghĩa lý của chữ để tìm nghĩa thật, do đó có sự hiểu lầm, rút cục đọc kinh cũng như không đọc, có khi còn tệ hại nữa là khác, vì hiểu sai lầm nên hành động sai lạc đưa đến khổ não cho mình và cho người.

 Bởi vậy nếu không hiếu mà chỉ trích thì hết chỗ nói rồi, vì đã làm nhiều người hoang mang không biết đâu là sự thực, có người đã nói rằng Hòa Thượng Thích Thông Lạc nói đúng 99%, vì đọc hiểu theo nghĩa đen thấy sự chỉ trích có lý qúa, nhưng khi phân tích nghĩa lý của Kinh thì trái ngược hẳn lại, nên chỉ còn đúng có 1% thôi, đúng 1% là đối với người không hiểu nghĩa lý Kinh nên đã hành sai nghĩ lầm nói trật giống như tác giả Thông Lạc. Cũng vì không hiểu Kinh như thế nên có người đang tu theo Bắc truyền đã bỏ để tu theo Nam truyền, tu gì cũng tốt thôi, nhưng như thế là mất bao nhiêu thời gian tu đã qua trong nhiều năm bỏ phí vì chuyển pháp môn tu.

 Tác giả Thông Lạc cùng một vài người bị ảnh hưởng, hiểu sai Kinh Bắc truyền, giống như người đang thưởng thức hương thơm của hoa, đang thưởng thức vị ngon ngọt của trái qủa, lại vứt quăng hoa liệng qủa đi, giẫm đạp lên mà nói rằng hoa qủa này hư thối, mọi người không nên ăn. Thật là tai hại thay cho những hành động thiếu suy xét kỹ lưỡng như thế, bởi vậy chuyện này chẳng phải nhỏ đâu, tất cả là hành động phá hoại Phật giáo, phỉ báng Chư Tổ sư của Bắc truyền. Hậu qủa thì mọi người đều đã biết về việc phá hoại Phật giáo và nhục mạ bậc Thánh đối với người khởi xướng việc này và người tiếp tay cho việc làm này là như thế nào, khỏi phải nói ra thì ai cũng biết rồi.

 (Còn tiếp)

Toàn Không

 

TRÍCH DẪN THAM KHẢO

- Tuần Thất của Trưởng Lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP.7
- Kinh Địa Tạng của Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch năm 2001.
- Đôi Điều Cương Yếu về Kinh Địa Tạng của Thích Thông Huệ.
- Tạp A Hàm, quyển 2, HT Thích Minh Châu Chủ Tịch phiên dịch 1994.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
30 Tháng Ba 2015(Xem: 6496)
Tôi rất tiếc được biết đến Ngài Thích Thông Lạc hơn hai năm sau khi Ngài tịch diệt ... Vì khi nghe lại những bài giãng của Ngài thì có sanh ra vô vàn câu hỏi !!! Xin cám ơn quý vị đã cho nêu lên vài câu hỏi ở đây.