J.
KRISHNAMURTI
KRISHNAMURTI ĐỘC
THOẠI
GHI CHÉP CUỐI CÙNG CỦA ÔNG
Lời dịch: Ông
Không - Bản dịch 2006 – Hiệu đính 2008
2
Thứ tư, ngày 20 tháng 4 năm 1983Ở
ngọn của mỗi chiếc lá, những chiếc lá lớn và những chiếc
lá nhỏ xíu, có một giọt nước lóng lánh dưới ánh mặt
trời giống như một viên đá quý đặc biệt. Và có một
cơn gió nhẹ nhưng cơn gió đó không có cách nào quấy rầy
hay làm tan biến giọt nước đó trên những chiếc lá kia mà
đã được rửa sạch sẽ bởi cơn mưa vừa qua. Một buổi
sáng rất yên tĩnh, đầy hân hoan, an bình, và có phước lành
trong không gian. Và khi chúng ta nhìn ngắm ánh sáng lấp lánh
trên mỗi chiếc lá sạch, quả đất bỗng nhiên đẹp lạ
thường, bất kể những sợi dây điện báo và những cái
cột xấu xí của chúng. Dù có tất cả mọi huyên náo của
thế giới, quả đất thật trù phú, vĩnh cửu, bao dung và
dẫu rằng có những trận động đất đó đây, tàn phá khủng
khiếp, quả đất vẫn còn đẹp đẽ. Người ta không bao giờ
trân trọng quả đất nếu người ta không thực sự sống
cùng nó, làm việc cùng nó, đặt bàn tay của người ta trong
bụi bặm, nhấc những hòn đá và tảng đá to lớn – người
ta không bao giờ tận hưởng được cảm giác lạ lùng khi
ở cùng quả đất, những bông hoa, những cái cây khổng lồ
và cọng cỏ mạnh mẽ và những hàng dậu dọc theo con đường.
Mọi
sự
vật đều sinh động sáng hôm đó. Khi chúng ta nhìn ngắm,
có một cảm giác hân hoan vô tận và bầu trời xanh, mặt
trời đang chầm chậm ra khỏi những quả đồi và có ánh
sáng. Khi chúng ta nhìn ngắm con chim nhái giọng trên sợi dây
điện, nó đang đùa giỡn trong trò chơi của nó, nhảy lên
cao, nhào lộn, sau đó quặp xuống lại đúng nơi cũ trên sợi
dây điện. Khi chúng ta nhìn ngắm con chim đó đang tự mình
tận hưởng niềm vui, nhảy nhót trong không gian và sau đó
quặp xuống theo vòng tròn, hòa cùng những tiếng kêu lanh lảnh
của nó, niềm thích thú sự sống của nó, chỉ có con chim
đó hiện hữu, người quan sát không hiện hữu. Người quan
sát không còn ở đó, chỉ còn con chim, màu xám và trắng,
cùng một cái đuôi khá dài. Nhìn ngắm đó không còn mọi
chuyển động của tư tưởng, nhìn ngắm sự náo động của
con chim đang nô đùa một mình.
Chúng
ta
không bao giờ nhìn ngắm lâu cả. Khi chúng ta nhìn ngắm
bằng kiên nhẫn vô hạn, nhìn ngắm không còn ý thức của
người quan sát, nhìn ngắm những con chim kia, những giọt nước
nhỏ xíu trên những chiếc lá đang run rẩy, những con ong và
những bông hoa và hàng dài những con kiến, lúc đó thời gian
ngừng lại, thời gian có một kết thúc. Người ta không thư
thả để nhìn ngắm hay kiên nhẫn để nhìn ngắm. Người
ta học hỏi được nhiều điều khi nhìn ngắm – nhìn ngắm
con người, dáng điệu họ bước đi, câu chuyện của họ,
những cử chỉ của họ. Bạn có thể hiểu rành rọt tánh
tự cao của họ, hay sự cẩu thả của thân thể riêng của
họ. Họ dửng dưng, họ không chút động lòng.
Có
một
con đại bàng đang bay cao trong không gian, đảo vòng không
cần đập cánh, được mang đi bởi luồng không khí ra khỏi
những quả đồi và mất hút. Nhìn ngắm, học hỏi: học hỏi
là thời gian nhưng nhìn ngắm không có thời gian. Hay khi bạn
lắng nghe, lắng nghe không có mọi diễn giải, không có mọi
phản ứng, lắng nghe không có mọi thành kiến. Lắng nghe tiếng
sấm đó trên bầu trời, tiếng sấm vang rền lượn giữa
những quả đồi. Người ta không bao giờ lắng nghe trọn vẹn,
luôn luôn có ngắt đoạn. Nhìn ngắm và lắng nghe là một
nghệ thuật tuyệt vời – nhìn ngắm và lắng nghe không có
mọi phản ứng, không có mọi ý thức của người nhìn ngắm
và người lắng nghe. Bằng nhìn ngắm và lắng nghe chúng ta
học hỏi vô hạn nhiều hơn bất kỳ quyển sách nào. Sách
báo cần thiết, nhưng nhìn ngắm và lắng nghe mài bén
những giác quan của bạn. Vì, rốt cuộc ra, bộ não là trung
tâm của tất cả những phản ứng, những tư tưởng và những
hồi tưởng. Nhưng nếu những giác quan của bạn không tỉnh
thức cao độ bạn không thể thực sự nhìn ngắm và lắng
nghe và học hỏi, không chỉ hành động như thế nào nhưng
còn về học hỏi, mà là mảnh đất màu mỡ trong đó hạt
giống của điều tốt lành có thể thăng hoa.
Khi
có
nhìn ngắm và lắng nghe rõ ràng, đơn giản này, lúc đó
có một tỉnh táo nhận biết – tỉnh táo nhận biết màu
sắc của những bông hoa kia, đỏ, vàng,trắng, của những
chiếc lá mùa xuân, những cái cuống thật non nớt, thật mỏng
manh, tỉnh táo nhận biết bầu trời, quả đất, và những
con người kia đang đi ngang qua. Họ đang liến thoắng nói chuyện
theo con đường dài đó, không bao giờ thèm nhìn cây cối,
những bông hoa, bầu trời và những quả đồi tuyệt vời.
Thậm chí họ chẳng cần tỉnh táo nhận biết chuyện gì đang
xảy ra quanh họ. Họ nói nhiều về môi trường, chúng ta phải
bảo vệ thiên nhiên như thế nào và vân vân, nhưng có vẻ
họ không tỉnh táo nhận biết vẻ đẹp và sự tĩnh lặng
của những quả đồi và sự cao quí của một cái cây già
cỗi lạ lùng. Thậm chí họ chẳng cần tỉnh táo nhận biết
những tư tưởng riêng của họ, những phản ứng riêng của
họ, và họ cũng chẳng thèm tỉnh táo nhận biết cách họ
bước đi, quần áo họ mặc. Điều đó không có nghĩa rằng
họ phải tự cho mình là trung tâm trong nhìn ngắm của họ,
trong ý thức của họ, nhưng có nghĩa rằng chỉ tỉnh táo
nhận biết.
Khi
bạn
tỉnh táo nhận biết sẽ có một chọn lựa về việc
làm cái gì, không làm cái gì, thích và không thích, những
thành kiến của bạn, những sợ hãi của bạn, những lo âu
của bạn, những hân hoan mà bạn đã nhớ, những vui thú mà
bạn đã theo đuổi; trong tất cả sự việc này có sự chọn
lựa, và chúng ta nghĩ rằng chọn lựa đó cho chúng ta tự
do. Chúng ta thích sự tự do chọn lựa đó; chúng ta nghĩ rất
cần thiết phải có tự do khi chọn lựa – hay là, nói đúng
hơn, sự chọn lựa đó cho chúng ta một ý thức tự do –
nhưng không có chọn lựa khi bạn thấy những sự vật rất,
rất rõ ràng.
Và
điều
đó dẫn chúng ta đến một tỉnh táo nhận biết không
chọn lựa – tỉnh táo nhận biết không có bất kỳ thích
hay không thích nào cả. Khi có tỉnh táo nhận biết thực sự
không chọn lựa, chân thật, hồn nhiên, đơn giản này nó
dẫn đến một yếu tố khác, chú ý. Chính từ ngữ đó có
nghĩa là kéo dài thêm, giữ chặt lấy, bám vào, nhưng việc
đó vẫn còn là hoạt động của bộ não, nó ở trong bộ
não. Nhìn ngắm, tỉnh táo nhận biết, chú ý, ở trong lãnh
vực của bộ não, và bộ não bị giới hạn – bị điều
kiện bằng tất cả những phương thức của những thế hệ
quá khứ, những cảm xúc, những truyền thống và tất cả
những dại dột lẫn đức hạnh của con người. Vì thế tất
cả hành động từ chú ý này vẫn còn bị giới hạn, và
cái bị giới hạn hiển nhiên phải mang lại vô trật tự.
Khi người ta đang tự suy nghĩ về bản thân từ sáng đến
khuya – những lo âu riêng của người ta, những ham muốn,
những đòi hỏi, những thành tựu riêng của người ta –
tình trạng tự cho mình là trung tâm này, rất, rất bị giới
hạn, bắt buộc phải tạo ra xung đột trong sự liên hệ của
nó với một người khác, mà cũng bị giới hạn; phải có
xung đột, phải có căng thẳng và những bực dọc thuộc nhiều
loại, bạo lực liên tục của những con người.
Khi
người
ta chú ý đến tất cả việc này, tỉnh táo nhận biết
không chọn lựa, lúc ấy từ trạng thái đó bật ra thấu
triệt. Thấu triệt không là một động thái của sự nhớ
lại, sự tiếp tục của ký ức. Thấu triệt giống như một
lóe lên của ánh sáng. Bạn thấy bằng rõ ràng tuyệt đối,
tất cả những phức tạp, những kết cục, những nhiêu khê.
Lúc ấy chính thấu triệt này là hành động, trọn vẹn. Trong
đó không có những tiếc nuối, không đang nhìn lại, không
cảm thấy lo âu, không phân biệt. Đây là thấu triệt rõ
ràng, tinh khiết – trực nhận không còn mọi cái bóng của
ngờ vực.
Hầu
hết
mọi người chúng ta đều bắt đầu bằng chắc chắn
và khi chúng ta già đi chắc chắn đó thay đổi đến không
chắc chắn và chúng ta chết cùng không chắc chắn. Nhưng nếu
người ta bắt đầu bằng không chắc chắn, ngờ vực, tra
xét, hỏi han, đòi hỏi, cùng nghi ngờ thực sự về cách cư
xử của con người, về tất cả những nghi lễ tôn giáo và
những hình ảnh của chúng và những biểu tượng của chúng,
vậy thì từ nghi ngờ đó rõ ràng của chắc chắn đến. Khi
có thấu triệt rõ ràng vào mấu chốt của bạo lực, ví dụ
như thế, chính thấu triệt đó xóa sạch tất cả bạo lực.
Thấu triệt đó ở bên ngoài bộ não, nếu người ta có thể
nói như thế. Nó không thuộc thời gian. Nó không thuộc hồi
tưởng hay thuộc hiểu biết, và vì thế thấu triệt đó cùng
hành động của nó thay đổi ngay những tế bào của bộ não.
Thấu triệt đó là tổng thể và từ tổng thể đó có thể
có hành động, có lý lẽ, minh mẫn, hợp lý.
Toàn
chuyển
động này từ nhìn ngắm, lắng nghe, đến sấm sét
của thấu triệt, là một chuyển động; chuyển động đó
không đang xảy ra cho nó từng bước một. Nó giống như một
mũi tên xé gió. Và thấu triệt đó tự chính nó có thể cởi
bỏ tình trạng bị điều kiện của bộ não, không phải nỗ
lực của tư tưởng, mà là khẳng định, đang thấy sự cần
thiết về điều gì đó; không có việc gì của tư tưởng
sẽ mang lại sự tự do tổng thể khỏi tình trạng bị điều
kiện. Tất cả việc này là thời gian và kết thúc của thời
gian. Con người bị thời gian trói buộc và trói buộc vào
thời gian đó là chuyển động của tư tưởng. Vì thế nơi
nào có một kết thúc đến tư tưởng và đến thời gian có
thấu triệt tổng thể. Chỉ ngay lúc đó có nở hoa của bộ
não. Chỉ ngay lúc đó bạn có một liên hệ trọn vẹn với
cái trí.
Thứ năm, ngày 21 tháng 4 năm 1983
Có
một cabin thật cao giữa những quả đồi, hơi cách biệt dù
có những cabin khác ở đó. Cabin này nằm giữa những cây
già cỗi khổng lồ đẹp tuyệt vời, những cây tùng gỗ đỏ
sequoia*. Một số trong những cây tùng này được nói rằng
đã tồn tại từ thời Ai cập cổ xưa, có lẽ từ thời vua
Ramses Đệ nhị. Chúng là những cây rất tuyệt vời. Vỏ của
chúng có màu hoa hồng và rực rỡ dưới ánh mặt trời ban
mai. Những cây này không thể bị đốt cháy; vỏ của chúng
chống lại lửa và bạn có thể trông thấy nơi những người
da đỏ xa xưa nhóm lửa quanh cây; dấu vết nám đen của lửa
vẫn còn ở đó. Chúng là những cây có kích cỡ rất to lớn,
thân của chúng khổng lồ và nếu bạn ngồi rất yên lặng
dưới chúng trong ánh ban mai, cùng mặt trời ở giữa những
ngọn cây, tất cả những con sóc ở đó sẽ xuất hiện rất
gần bạn. Chúng rất tọc mạch giống như những con chim giẻ
cùi xanh, vì cũng có những con chim giẻ cùi nữa, màu xanh,
những con chim màu xanh, luôn luôn sẵn sàng la mắng bạn, hỏi
bạn tại sao lại ở đó, báo cho bạn rằng bạn đang quấy
rầy vùng đất này và nên đi khỏi càng mau càng tốt. Nhưng
nếu bạn vẫn giữ yên lặng, đang quan sát, đang nhìn ngắm
vẻ đẹp của ánh mặt trời giữa những chiếc lá trong không
khí tĩnh lặng, lúc đó chúng sẽ để bạn lại một mình,
chấp nhận bạn giống như những con sóc đã chấp nhận.
Không
đúng
mùa du lịch, vì thế những cabin trống không và bạn
chỉ có một mình, và vào ban đêm rất tĩnh mịch. Và thỉnh
thoảng những con gấu, và bạn nghe được thân thể nặng
nề của
* Tháng
9,1942, Krishnamurti ở một mình 3 tuần lễ trong một cabin ở
công viên Sequoia National Park nơi ông hưởng niềm hạnh phúc
ngây ngất. Chính trải nghiệm này ông đã nhớ lại trong bài
đọc.
chúng
dựa
vào cabin. Đúng là một nơi hoàn toàn sơ khai, vì nền
văn minh hiện đại vẫn chưa hủy hoại nó. Bạn phải đi
những chuyến máy bay, vào rồi lại ra, bay lên cao và cao hơn, và cao hơn, cho đến khi bạn đến được cánh rừng cây tùng đỏ này. Có những con suối nhỏ
ào ào chảy xuống dốc núi. Thanh thoát lạ thường khi
ở một mình giữa những cái cây cao to lớn mênh mông này,
cổ xưa vượt khỏi ký ức và vì thế hoàn toàn dửng dưng
đến điều gì đang xảy ra trên thế giới, tĩnh lặng trong
sức mạnh và sự trang nghiêm cổ kính. Và trong cabin này, được
vây quanh bởi những cái cây già cỗi không tuổi tác, bạn
chỉ có một mình ngày này qua ngày khác, nhìn ngắm, thực
hiện những chuyến đi bộ lâu, hầu như không gặp gỡ bất
kỳ ai. Từ độ cao như thế bạn có thể trông thấy những
chiếc máy bay, ánh mặt trời, bận rộn; bạn có thể trông
thấy những chiếc xe hơi giống như những con côn trùng nhỏ
đang đuổi bắt nhau. Và ở đây trên cao chỉ có những con
côn trùng thực sự lăng xăng bận rộn công việc hằng ngày
của chúng. Có rất nhiều kiến. Những con kiến đỏ bò lên
hai chân của bạn nhưng có vẻ không bao giờ chúng thèm quan
tâm đến bạn.
Từ
cabin
này bạn cho những con sóc ăn. Có một con sóc đặc biệt
thường đến vào mỗi buổi sáng và bạn có một túi đậu
phộng và bạn cho nó từng hạt một: nó sẽ nhét đầy vào
miệng, bò qua bệ cửa sổ rồi đến cái bàn với cái đuôi
như đám bụi vểnh lên, gần chạm vào đầu của nó. Nó sẽ
lấy nhiều hạt đậu lột vỏ sẵn này, hay thậm chí thỉnh
thoảng còn lấy cả những hạt chưa lột vỏ, và nhảy trở
lại qua bệ cửa sổ xuống hàng hiên và chạy men theo khoảng
đất trống vào một cái cây khô có một cái lỗ ở trong
là nhà của nó. Nó sẽ đến có lẽ khoảng một tiếng đồng
hồ hoặc hơn nữa để lấy những hạt đậu này, quay trở
lại và đến, quay trở lại và đến. Và lúc đó nó đã rất
thuần thục, bạn có thể vỗ về nó, nó rất mềm mại, rất
hòa nhã, nó nhìn bằng đôi mắt ngạc nhiên và ngay đó thân
thiện liền. Nó biết rằng bạn không gây hại cho nó. Vào
một ngày bạn đóng tất cả cửa sổ lại khi nó đã ở bên
trong và cái túi đậu phộng ở trên bàn, nó lấy đầy một
miệng như thường lệ rồi đi tới những cửa sổ và cửa
lớn, tất cả đều đóng kín, và nhận ra rằng nó là một
tù nhân. Nó đến lại, nhảy lò cò thẳng đường tới cái
bàn, nhảy lên trên đó, nhìn vào người ta và bắt đầu quở
mắng. Rốt cuộc, bạn không thể nhốt con vật đẹp đẽ
sinh động đó như một tù nhân, thế là bạn mở những cửa
sổ. Nó nhảy xuống nền nhà, trèo qua bệ cửa sổ, đi trở
lại cái thân cây khô và quay lại lập tức để đòi thêm
nữa. Từ lúc đó trở đi chúng tôi thực sự là những người
bạn tốt. Sau khi nó đã nhét đầy đậu phộng vào cái lỗ
đó, có thể để dành cho mùa đông, nó thường chạy thẳng
lên những thân cây đuổi bắt những con sóc khác rồi luôn
luôn quay về cái thân cây khô của nó. Rồi thì vài lần của
một chiều tối nó sẽ đến bệ cửa sổ và ngồi ở đó
và sẽ liến thoắng, nhìn tôi, kể cho tôi một điều gì đó
về một ngày làm việc, và khi trời tối hơn nó chúc ngủ
ngon và quay về tổ ấm của nó ở cái lỗ trong cái cây chết
già kia. Và sáng sớm hôm sau nó sẽ ngồi ở đó trên bệ
cửa sổ kêu lên, liến thoắng, và ngày sẽ bắt đầu.
Mọi
thú
vật trong cánh rừng đó, mọi con vật bé nhỏ, đều đang
làm việc giống nhau – lượm lặt thực phẩm, đuổi bắt
nhau khi nô đùa và khi tức giận, và những con thú lớn như
con nai rất tò mò nhìn bạn. Và khi bạn leo lên một độ cao
trung bình rồi men theo theo một con đường mòn có đá, bạn
quay lại và có một con gấu to, đen cùng bốn con nhỏ, lớn
bằng những con mèo to. Con mẹ đẩy chúng lên một cái cây,
bốn con, và chúng leo thẳng lên đến chỗ an toàn, và sau đó
con mẹ quay lại nhìn tôi. Lạ lùng là chúng tôi không sợ
hãi. Chúng tôi nhìn nhau có lẽ hai hay ba giây hay nhiều hơn
và sau đó bạn quay lưng lại đi xuống cùng con đường mòn.
Chỉ sau đó, khi bạn đã ở an toàn trong cabin, bạn mới nhận
ra sự chạm trán với gấu mẹ và bốn con gấu con này thật
là nguy hiểm.
Cuộc sống là một chu trình vô tận của trở thành và kết thúc. Vùng đất rộng lớn này vẫn còn hoang sơ vào những ngày đó; nó không có sự tiến bộ công nghệ khủng khiếp và cũng không có quá nhiều thô tục, như bây giờ. Ngồi trên những bậc thềm của cabin đó bạn quan sát và mọi thứ rất năng động – cây cối, những con kiến, những con thỏ, những con nai, con gấu và con sóc. Cuộc sống là hành động. Cuộc sống là một chuỗi hành động không ngừng nghỉ, liên tục cho đến khi bạn chết. Hành động phát sinh do ham muốn bị biến dạng, bị xuyên tạc, bị giới hạn, và cái hành động bị giới hạn này phải luôn luôn, dù bạn có làm bất cứ việc gì, gây ra xung đột vô tận. Bất kỳ sự việc nào bị giới hạn phải, trong ngay bản chất của nó, nuôi dưỡng nhiều vấn đề, nhiều khủng hoảng. Nó giống như một người đàn ông, giống như một con người, mà trong mọi thời gian đều đang nghĩ về bản thân, những vấn đề của anh ấy, những trải nghiệm của anh ấy, những sung sướng và vui thú của anh ấy, những công việc kinh doanh của anh ấy – hoàn toàn tự cho mình là trung tâm. Hoạt động của một con người như thế tự nhiên rất bị giới hạn. Người ta không bao giờ nhận ra sự giới hạn của tự cho mình là trung tâm này. Họ gọi nó là thành tựu, thể hiện bản thân, đạt được thành công, theo đuổi vui thú và trở thành một việc gì đó phía bên trong, sự thôi thúc, sự ham muốn để hiện hữu. Tất cả hoạt động như thế không những phải bị giới hạn và bị xuyên tạc mà những hành động tiếp nối của nó trong bất kỳ phương hướng nào chắc chắn phải nuôi dưỡng phân chia, như được trông thấy trong thế giới này. Ham muốn rất mạnh mẽ; các vị thầy tu và khất sĩ của thế giới đã cố gắng đè nén nó, đã cố gắng đồng hóa ngọn lửa hừng hực đó bằng những biểu tượng cao quí nào đó hay hình ảnh nào đó – đang đồng hóa ham muốn bằng một cái gì đó lớn lao hơn – nhưng nó vẫn còn là ham muốn. Bất kỳ hành động nào phát sinh từ ham muốn, dù nó được gọi là cao quí hay thấp hèn, vẫn còn bị giới hạn, bị xuyên tạc.
Lúc
này con chim giẻ cùi xanh đã quay trở lại; nó ở đó sau bữa
ăn sáng, quở mắng để được chú ý. Và bạn quẳng cho nó
một ít đậu phộng. Nó quở mắng trước, sau đó nhảy lò
cò xuống đất, quặp một ít hạt trong mỏ, bay trở lại
trên cành, bay đi, rồi bay lại quở mắng. Và nó cũng vậy,
ngày này qua ngày khác, dần dần trở nên thuần thục. Nó
đến gần sát bằng đôi mắt sáng rực, đuôi vểnh lên, màu
xanh của nó chiếu sáng bằng sự rực rỡ và rõ ràng – một
màu xanh không họa sĩ nào có thể nắm bắt được. Và nó
quở mắng những con chim khác. Có thể đó là lãnh địa của
nó và nó không muốn bất kỳ kẻ nào xâm nhập. Nhưng luôn
luôn có kẻ xâm nhập. Những con chim khác chẳng mấy chốc
sẽ đến. Tất cả bọn chúng đều thích nho khô và đậu
phộng. Toàn bộ hoạt động của sự tồn tại đều ở đó.
Mặt
trời
bây giờ đã ở cao trên bầu trời và có rất ít những
cái bóng, nhưng hướng về chiều tối sẽ có những cái bóng
dài, có hình dáng đẹp, như chạm trổ, sẫm đen trong rạng
rỡ.
Có
một hành động của không thuộc ham muốn hay không? Nếu chúng
ta hỏi một câu hỏi như thế, và chúng ta hiếm khi nào hỏi,
người ta có thể tìm hiểu cặn kẽ, không có động cơ nào,
để tìm ra một hành động của thông minh. Hành động của
ham muốn không là thông minh; nó dẫn đến mọi loại những
vấn đề và những tranh cãi. Có một hành động của thông
minh không? Ở chừng mực nào đó người ta phải luôn luôn
nghi ngờ trong những vấn đề này; nghi ngờ là một nhân tố
phi thường của sự tinh lọc bộ não, tâm hồn. Nghi ngờ,
được cân nhắc cẩn thận, mang lại rõ ràng, tự do vô biên.
Trong những tôn giáo phương Đông, nghi ngờ, tra hỏi, là một
trong những điều cần thiết để tìm ra sự thật, nhưng trong
nền văn hóa tôn giáo của văn minh phương Tây, nghi ngờ là
sự việc ghê tởm của quỷ dữ. Nhưng trong tự do, trong một
hành động của không ham muốn, phải có bóng dáng của nghi
ngờ. Khi người ta thực sự thấy, không bằng lý thuyết hay
bằng lời nói, rằng hành động của ham muốn là đồi bại,
xuyên tạc, chính trực nhận đó là khởi đầu của thông
minh và từ đó hành động hoàn toàn khác hẳn. Đó là, thấy
điều giả dối như điều giả dối, sự thật trong điều
giả dối, và sự thật như sự thật. Trực nhận như thế
là chất lượng của thông minh đó mà cũng không là của bạn
hay là của tôi, mà ngay lúc đó hành động. Hành động đó
không xuyên tạc, không khoan nhượng. Nó không để lại một
dấu vết, không một dấu chân trên bãi cát của thời gian.
Thông minh đó không thể hiện hữu nếu không có từ bi vô
biên, tình yêu, nếu bạn muốn. Không thể có từ bi nếu những
hoạt động của tư tưởng bị điều phối trong bất kỳ
một trung thành hay học thuyết riêng biệt nào, hay bị trói
buộc vào một biểu tượng hay một con người. Phải có tự
do để có từ bi. Và nơi nào có ngọn lửa đó, chính ngọn
lửa đó là chuyển động của thông minh.
Thứ sáu, ngày 22 tháng 4 năm 1983
Ở
đây cao khoảng 1400 feet giữa những vườn cây ăn quả, những
vườn cam và những vườn bơ, cùng những quả đồi đằng
sau ngôi nhà. Quả đồi cao nhất quanh đây khoảng 6500 feet.
Có thể nó thường được gọi là một hòn núi và tên cũ
của nó là Topa Topa. Những người da đỏ cổ xưa đã sống
ở đây: họ chắc phải rất lập dị và là một chủng tộc
rất dễ chịu. Họ có lẽ hung hăng nhưng những con người
hủy diệt họ lại tàn bạo hơn nhiều. Ở đây trên cao, sau
một ngày mưa, thiên nhiên đang nín thở chờ đợi một cơn
bão khác, và thế giới của những bông hoa và những lùm bụi
nhỏ đang vui vẻ reo hò trong buổi sáng yên tĩnh này, và ngay
cả những chiếc lá cũng có vẻ rất rực rỡ, rất rõ ràng
sắc nét. Có một bụi hồng đầy hoa, đỏ rực; vẻ đẹp
của nó, hương thơm, tĩnh lặng của đóa hoa đó là một kỳ
diệu.
Đi
xuống
trong một chiếc xe hơi cũ được giữ gìn bóng láng,
động cơ chạy êm ả – chạy xuống ngôi làng, qua ngôi làng,
qua những ngôi trường, những ngôi nhà nhỏ kia và tiếp đó
khoảng không gian trống đầy những cây bơ – chạy xuống
nữa qua thung lũng hẹp sâu dốc đứng, lượn vòng vô ra trên
một con đường bằng phẳng, xây dựng rất tốt; sau đó đi
lên cao và lên cao và lên cao, có lẽ trên 5000 feet: ở đó
chiếc xe ngừng lại và ở đó chúng tôi đã lên khá cao, nhìn
xuống tất cả những quả đồi xanh đậm, cùng lùm bụi,
cây cối và những thung lũng sâu. Có vẻ như là chúng tôi
đã ở thật cao cùng các thần thánh.
Rất
ít
người đã sử dụng con đường đó, mà tiếp tục qua
sa mạc đến một thị trấn lớn cách đây nhiều dặm, xa
thật xa bên trái của bạn. Khi bạn hướng về phía Nam bạn
trông thấy biển cả xa xa – biển Thái bình dương. Ở
đây rất yên tĩnh. Dù con người đã làm con đường này,
may mắn thay không thấy một dấu vết của con người. Đã
có những vụ cháy ở đây nhưng việc đó đã cách đây nhiều
năm. Bạn có thể trông thấy những gốc cây bị đốt cháy,
đen thui, nhưng quanh chúng lúc này đã xanh tươi lại. Đã có
những cơn mưa lớn và mọi sự vật bây giờ đang nở hoa,
tím, xanh và vàng, kèm theo đây đó những mảng đỏ rực.
Thiên đường của quả đất chưa bao giờ đầy từ tâm như
ở đây trên cao.
Chúng
tôi
ngồi bên lề đường khá sạch sẽ. Nó là quả đất;
đất luôn luôn sạch sẽ. Và có những con kiến nhỏ, những
con côn trùng nhỏ, đang bò, đang lăng xăng khắp mọi nơi.
Nhưng không có những thú hoang ở đây, điều này thật lạ
lùng. Có lẽ vào ban đêm có – những con nai, những con sói
và có lẽ một số ít thỏ và thỏ rừng. Thỉnh thoảng một
chiếc xe chạy qua, và nó phá vỡ sự yên lặng, sự trang nghiêm
và tinh khiết của tĩnh lặng. Đây thực sự là một nơi lạ
thường.
Từ
ngữ
không thể đo lường được bao la, những quả đồi nhấp
nhô và không gian mênh mông, nó cũng không đo lường được
bầu trời xanh và sa mạc xa xa. Đó là toàn quả đất. Người
ta hầu như không dám nói chuyện, có tĩnh lặng đầy cuốn
hút, không muốn bị quấy rầy.
Và
tĩnh
lặng đó không thể đo lường được bằng những từ
ngữ. Nếu bạn là một nhà thơ bạn có thể sẽ đo lường
nó bằng những từ ngữ, diễn tả nó thành một bài thơ,
nhưng điều được viết ra không là thực tại. Từ ngữ không
là sự vật. Và ở đây, ngồi bên cạnh một tảng đá đang
nóng dần, con người không hiện hữu. Những quả đồi nhấp
nhô, những hòn núi cao hơn, những thung lũng rộng lớn, xanh
sậm; không có bạn, không có gì cả ngoại trừ cái đó.
Từ
thời
cổ xưa tất cả những nền văn minh đều có khái niệm
đo lường này. Tất cả những tòa nhà tuyệt vời của chúng
đều được đặt nền tảng trên sự đo lường toán học.
Khi bạn nhìn thành lũy Acropolis và vẻ huy hoàng của ngôi đền
Parthenon, và những cao ốc một trăm mười tầng của New York,
tất cả chúng đều phải có sự đo lường này.
Đo
lường
không chỉ bằng qui tắc; đo lường tồn tại trong
ngay tại bộ não: cái cao và cái thấp, cái tốt hơn, cái nhiều
hơn. Qui trình so sánh này đã tồn tại cho thời gian vượt
khỏi thời gian. Chúng ta luôn luôn đang so sánh. Vượt qua những
kỳ thi ở trường học, cao đẳng, đại học – nguyên cách
sống của chúng ta đã trở thành một chuỗi của những đo
lường được tính toán sẵn: cái đẹp đẽ và cái xấu
xí, điều cao quí và điều thấp hèn – nguyên một tập hợp
về những giá trị của con người, những tranh luận được
chấm dứt trong những kết luận, quyền lực của con người,
quyền lực của những quốc gia. Đo lường đã cần thiết
cho con người. Và bộ não, đang bị điều kiện vào đo lường,
vào so sánh, cố gắng đo lường cái không thể đo lường
được – đo lường bằng những từ ngữ cái không bao giờ
có thể đo lường được. Đã trải qua một tiến trình dài
đăng đẳng từ thế kỷ này sang thế kỷ khác – những thần
thánh lớn hơn và những thần thánh nhỏ hơn, đo lường sự
bao la rộng lớn của vũ trụ và đo lường tốc độ của
vận động viên. So sánh này đã mang lại quá nhiều sợ hãi
và đau khổ.
Lúc
này,
trên tảng đá đó, một con thằn lằn bò đến để sưởi
ấm gần nơi bạn ngồi. Bạn có thể nhìn thấy đôi mắt
đen lánh của nó, cái lưng có vảy của nó và cái đuôi dài.
Nó rất yên lặng, không cựa quậy. Mặt trời đã làm cho
tảng đá đó khá ấm, và con thằn lằn, bò ra khỏi ban đêm
lạnh lẽo của nó và đang sưởi ấm, đang chờ đợi con ruồi
hay con côn trùng nào đó xuất hiện – nó sẽ đo lường khoảng
cách và táp mồi gọn lỏn.
Sống
không
so sánh, sống không có bất kỳ loại đo lường nào
bên trong, không bao giờ so sánh bạn là gì với bạn nên là
gì. Từ ngữ “thiền định” có nghĩa không chỉ là suy nghĩ
cẩn thận, suy xét tỉ mỉ, thăm dò chi tiết, tìm tòi, ước
lượng; nó còn có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều theo tiếng
Phạn – đo lường, mà có nghĩa là “trở thành”. Trong thiền
định phải không có đo lường. Thiền định này không được
là một thiền định có ý thức trong những trạng thái, điều
kiện đã được cố ý tuyển lựa. Thiền định này phải
hoàn toàn không ý thức, không bao giờ đang biết rằng bạn
đang thiền định. Nếu bạn cố ý thiền định nó lại là
một hình thức khác của ham muốn, giống như bất kỳ những
biểu lộ khác của ham muốn. Những mục tiêu có lẽ khác
biệt; thiền định của bạn có lẽ để đến được trạng
thái cao nhất, nhưng động cơ là sự ham muốn đạt được,
giống như người kinh doanh, giống như người xây dựng một
thánh đường nguy nga. Thiền định là một chuyển động không
mọi động cơ, không những từ ngữ và hoạt động của tư
tưởng. Nó phải là một sự việc nào đó không bị cố ý
khi bắt đầu. Chỉ lúc đó thiền định mới là một chuyển
động trong vô hạn, không đo lường được bởi con người,
không một mục đích, không một kết thúc và không một khởi
đầu. Và cái đó có một hành động lạ lùng trong cuộc sống
hàng ngày, bởi vì tất cả cuộc sống là một và vì vậy
trở thành thiêng liêng. Và thiêng liêng không bao giờ có thể
bị giết chết. Giết chết một người khác là tàn khốc.
Nó thấu tận trời xanh như một con chim bị nhốt trong lồng.
Người ta không bao giờ nhận ra cuộc sống thiêng liêng như
thế nào, không chỉ cuộc sống nhỏ nhoi của bạn mà còn
cả cuộc sống của hàng triệu thứ khác nữa, từ những
sự vật của thiên nhiên đến những con người phi thường.
Và trong thiền định không đo lường, có ngay hành động của
cái cao quí nhất, thiêng liêng và thần thánh nhất.
Vào
một
ngày trên bờ của một con sông* – những con sông đáng
yêu làm sao đâu; không chỉ có một con sông thiêng liêng, tất
cả những con sông khắp thế giới đều có thần thánh riêng
của nó – vào một ngày một người đàn ông đang ngồi trên
bờ của một con sông phủ trên thân thể một miếng vải
có màu nâu hơi vàng. Bàn tay ông ấy được giấu kín, mắt
ông ấy nhắm lại và thân thể ông ấy rất yên lặng. Ông
ấy cầm một xâu chuỗi trong bàn tay và ông ấy đang lặp
lại vài từ ngữ trong khi bàn tay đang di chuyển từ hạt chuỗi
này sang hạt chuỗi khác. Ông ấy đã làm việc này trong nhiều
năm và ông ấy không bao giờ bỏ sót một hạt. Và con sông
đang chảy cuồn cuộn bên cạnh ông ấy. Dòng chảy của nó
rất sâu. Nó bắt đầu ở giữa những hòn núi hùng vĩ, phủ
tuyết xa xa; nó bắt đầu như một con suối nhỏ, và khi chảy
về hướng nam nó tập hợp tất cả những con suối và những
con sông nhỏ rồi trở thành một con sông lớn. Trong vùng đất đó của thế giới họ thờ phụng nó. Người
ta không biết được trong bao nhiêu năm người đàn ông
* Đây
là một kỷ niệm khi ông ở tại Banaras trên bờ sông Ganges.
này
đã
lặp lại liên tục câu thần chú của ông ấy và lăn
tròn những hạt chuỗi. Ông ấy đang thiền định – ít ra
mọi người nghĩ rằng ông ấy đang thiền định và có thể
ông ấy đã làm như thế. Vì thế tất cả
những người đi qua đều nhìn ông ấy, yên lặng rồi sau
đó tiếp tục cười đùa và huyên thuyên của họ. Cái hình
hài gần như bất động đó – người ta có thể nhìn thấy
qua miếng vải chỉ duy nhất một cử động loáng thoáng của
những ngón tay – đã ngồi đó rất lâu rồi, hoàn toàn thâm
nhập, vì ông ấy không nghe âm thanh nào khác hơn âm thanh của
từ ngữ riêng của ông ấy và âm điệu của nó, âm nhạc
của nó. Và ông ấy sẽ nói rằng ông ấy đang thiền định.
Có cả ngàn người khác giống như ông ấy, khắp thế giới
này, trong những tu viện yên tĩnh ở thật sâu giữa những
quả đồi và những thị trấn và bên bờ những con sông.
Thiền
định không là những từ ngữ, một câu thần chú, hay tự
thôi miên, thuốc men của những ảo tưởng. Nó phải xảy
ra mà không có ý chí của bạn. Nó phải xảy ra trong tĩnh
lặng tịch mịch của ban đêm, khi bạn bỗng nhiên thức giấc
và thấy rằng bộ não yên lặng và có một chất lượng kỳ
diệu của thiền định đang xảy ra. Nó phải xảy ra rất
lặng lẽ như một con rắn ẩn mình giữa đám cỏ cao, xanh
rì trong ánh ban mai trong lành. Nó phải xảy ra trong những hóc
hẻm thật sâu của bộ não. Thiền định không là một thành
tựu. Không có phương pháp, hệ thống hay luyện tập. Thiền
định bắt đầu bằng sự kết thúc của so sánh, kết thúc
của đang trở thành hay đang không trở thành. Như con ong thì
thầm giữa những chiếc lá vì thế tiếng thì thầm của thiền
định là hành động.
Thứ bảy, ngày 23 tháng 4 năm 1983
Những
đám mây vẫn còn đang lơ lững trên những quả đồi, thung
lũng và những hòn núi. Thỉnh thoảng có một khoảng trống
trong bầu trời và mặt trời ló ra ở đó, rực rỡ, rõ ràng,
nhưng chẳng mấy chốc nó biến mất. Người ta thích loại
buổi sáng này, mát mẻ, trong lành, cùng toàn thế giới phủ
xanh quanh bạn. Khi mùa hè đến mặt trời sẽ đốt cháy tất
cả những thảm cỏ xanh tươi, và những đồng cỏ bên kia
thung lũng sẽ bị nứt nẻ, rạn khô và tất cả cỏ cùng
màu xanh rực sáng của nó sẽ không còn nữa. Vào mùa hè mọi
tươi mát đều không còn.
Người
ta
thích những buổi sáng yên tĩnh này. Những quả cam rực
rỡ và những chiếc lá, màu xanh lá cây sẫm, đang chiếu sáng.
Và có một hương thơm trong không khí từ những bông hoa cam
đang nở rộ, nồng nặc, hầu như gây ngộp thở. Có một
loại cam khác sẽ được hái muộn trước khi có sức nóng
của mùa hè. Lúc này có chiếc lá xanh, quả cam và hoa cam trên
cùng một cái cây vào cùng một thời điểm. Nó là một thế
giới đẹp đẽ và con người quá dửng dưng với nó, đang
làm hư hỏng quả đất, sông ngòi và những cái vịnh và những
hồ nước ngọt.
Nhưng
chúng
ta hãy bỏ tất cả những việc đó lại đằng sau và
đi men theo một con đường mòn chật hẹp, thẳng lên một
quả đồi nơi có một con suối nhỏ sẽ cạn khô trong ít
tuần nữa. Bạn và một người bạn đang đi bộ trên con đường,
thỉnh thoảng nói chuyện, nhìn ngắm mọi sắc màu khác nhau
của màu xanh lục. Chúng có nhiều màu xanh khác biệt làm sao
đâu, từ màu xanh lạt nhất, màu xanh của sông Nile, và có
lẽ thậm chí lạt hơn, xanh hơn, đến những màu xanh sẫm,
thừa thãi, tràn đầy màu xanh riêng của nó. Và khi bạn đi
thẳng lên cao trên con đường đó, ngay lúc đang xoay sở để
đi sánh vai cùng nhau, bạn bất ngờ nhặt được một món
gì đó đẹp vô cùng, lấp lánh, một món nữ trang cổ xưa
có vẻ đẹp lạ kỳ. Bạn rất kinh ngạc khi tìm được nó
trên con đường có quá nhiều thú vật trong khi chỉ một ít
người giẵm chân lên này. Bạn sững sờ ngắm nghía nó. Nó
được làm rất tinh tế, phức tạp đến độ không có bàn
tay của thợ nữ trang nào có thể chế tạo được nó. Bạn
cầm chặt nó một lúc, sửng sốt và bặt tăm. Sau đó bạn
rất cẩn thận bỏ vào túi trong của bạn, cài khuy lại, và
hầu như sợ rằng bạn có lẽ mất nó hoặc rằng nó có lẽ
không còn vẻ đẹp lấp lánh, long lanh của nó. Và bạn chận
bàn tay của bạn bên ngoài cái túi đựng nó. Người còn lại
thấy bạn đang làm công việc này và thấy rằng bộ mặt
và đôi mắt của bạn vừa trải qua một thay đổi khác thường.
Có một ngất ngây, một kinh ngạc không thốt nên lời, một
phấn khích làm nín thở.
Khi
người
bạn hỏi: “Anh đã tìm được cái gì mà gây phấn
khích lạ lùng như thế?” Bạn trả lời bằng một giọng
rất hòa nhã, dịu dàng (nó có vẻ quá lạ lùng đối với
bạn khi nghe được giọng nói của bạn) rằng bạn đã nhặt
được sự thật, chân lý. Bạn không muốn kể về nó, bạn
hơi thẹn thùng; việc nói chuyện có lẽ làm mất nó. Và người
đàn ông đang đi bên cạnh hơi bực bội vì bạn đã không
thổ lộ cởi mở cho anh ấy, và anh ấy nói rằng nếu bạn
đã tìm được chân lý, vậy thì hãy đi xuống vào thung lũng
và tổ chức rồi rao giảng chân lý đó để cho những người
khác sẽ hiểu rõ nó, để cho những người khác sẽ thấu
triệt nó và có lẽ nó sẽ giúp ích cho họ. Bạn không trả
lời, bạn ân hận rằng bạn đã thổ lộ cho anh ấy về nó.
Cây
cối nở rộ hoa. Ngay cả ở đây trên cao khi có luồng gió
nhẹ thổi lên từ thung lũng bạn ngửi được hương thơm
hoa cam và nhìn xuống thung lũng bạn trông thấy nhiều cây
cam và cảm nhận được bầu không khí không chuyển động,
tĩnh, lặng như tờ. Nhưng bạn đã bất ngờ bắt gặp một
cái gì đó rất quí báu, không bao giờ có thể thổ lộ được
cho người nào khác. Họ có lẽ tìm ra nó, nhưng bạn có nó,
nắm chặt nó và tôn kính nó.
Những
học
viện và những tổ chức khắp thế giới đã không giúp
ích gì cho con người. Có tất cả những tổ chức vật chất
dành cho những nhu cầu của con người; những học viện của
chiến tranh, của dân chủ, những học viện của độc tài
và những học viện của tôn giáo – chúng đã trải qua những
thời gian hưng thịnh và chúng đang tiếp tục, và con người
trông cậy vào chúng, nóng lòng cầu được giúp đỡ, không
chỉ vật chất mà còn bên trong da thịt, bên trong những đau
khổ dai dẳng, cái bóng của thời gian và những tư tưởng
có ảnh hưởng sâu rộng. Đã có những học viện thuộc nhiều,
nhiều loại từ những ngày cổ xưa nhất, và chúng đã không
thay đổi bên trong của con người. Những học viện không
bao giờ có thể thay đổi được con người phần tâm lý,
sâu sắc. Và người ta thắc mắc tại sao con người đã tạo
ra chúng, vì tất cả những học viện trong thế giới đều
được tập hợp bởi con người, hy vọng rằng chúng có lẽ
giúp ích anh ấy, rằng chúng có lẽ cho anh ấy một loại an
toàn vĩnh cửu nào đó. Và lạ lùng thay chúng đã không làm
được. Chúng ta có vẻ không bao giờ nhận ra sự thật này.
Chúng ta đang tạo ra mỗi lúc một nhiều học viện hơn, mỗi
lúc một nhiều tổ chức hơn – một tổ chức đối kháng
một tổ chức khác.
Tư
tưởng
đang sáng chế tất cả những sự việc này, không
chỉ những tổ chức dân chủ hay những tổ chức độc tài;
tư tưởng cũng đang hiểu được, đang nhận ra, rằng việc
gì nó đã tạo ra theo căn bản đã không thay đổi được
cấu trúc, bản chất của cái tôi riêng của người ta. Những
học viện, những tổ chức và tất cả những tôn giáo đều
bị xếp đặt bởi tư tưởng, bởi tư tưởng uyên bác, khôn
ngoan, xảo quyệt. Cái gì tư tưởng đã tạo tác, đã gây
ra, định hình suy nghĩ riêng của nó. Và người ta hỏi chính
bản thân, nếu người ta nghiêm túc, đứng đắn trong sự
tìm hiểu của người ta: tại sao tư tưởng đã không nhận
ra hoạt động riêng của nó? Liệu tư tưởng có thể ý thức
được chuyển động riêng của nó hay không? Liệu tư tưởng
có thể thấy được chính nó, thấy được điều gì nó đang
làm, cả bên trong lẫn bên ngoài hay không?
Thật
ra
không có bên ngoài và bên trong: bên trong tạo ra bên ngoài,
và sau đó bên ngoài định hình bên trong. Chuyển động ra
vào của hành động và phản ứng là chuyển động của tư
tưởng, và tư tưởng luôn luôn đang cố gắng chiến thắng
bên ngoài, và thành công, đang gây ra nhiều vấn đề; trong
khi đang giải quyết một vấn đề thì những vấn đề khác
nảy sinh. Tư tưởng cũng định hình bên trong, tạo khuôn nó
theo những đòi hỏi bên ngoài. Qui trình có vẻ vô tận này
đã tạo ra xã hội này, xấu xa, hung dữ, vô luân và bạo
lực. Và đã tạo ra nó rồi, bên trong trở thành một nô lệ
cho nó. Bên ngoài định hình bên trong và bên trong định hình
bên ngoài. Qui trình này đã và đang tiếp tục được hàng
ngàn trên hàng ngàn năm và tư tưởng dường như không nhận
ra hoạt động riêng của nó. Vì thế người ta hỏi: tư tưởng
có khi nào ý thức được chính nó – ý thức được điều
gì nó đang làm? Không có người suy nghĩ tách rời tư tưởng;
tư tưởng đã tạo ra người suy nghĩ, người trải nghiệm,
người phân tích. Người suy nghĩ, người quan sát, người
hành động, là quá khứ, kèm theo tất cả di sản thừa kế
của con người, di truyền, sinh học – những truyền thống,
những thói quen và tất cả hiểu biết đã tích lũy. Rốt
cuộc, quá khứ là hiểu biết, và người suy nghĩ không tách
rời khỏi quá khứ. Tư tưởng đã tạo ra quá khứ, tư tưởng
là quá khứ; sau đó tư tưởng phân chia người suy nghĩ và
điều được suy nghĩ, mà người suy nghĩ phải định hình,
kiểm soát. Nhưng đó là một tin tưởng sai lầm; chỉ có tư
tưởng. Bản ngã là “cái tôi lệ thuộc”, quá khứ. Sự
tưởng tượng có thể chiếu rọi tương lai nhưng nó vẫn
còn là hoạt động của tư tưởng.
Thế
là
tư tưởng, mà là kết quả của hiểu biết, đã không
thay đổi con người và sẽ không bao giờ thay đổi anh ấy
vì hiểu biết luôn luôn bị giới hạn và sẽ luôn luôn bị
giới hạn. Vậy thì lại nữa người ta hỏi: liệu rằng tư
tưởng có thể ở trạng thái ý thức được chính nó, tư
tưởng mà đã tập hợp tất cả ý thức của chúng ta –
hành động và phản ứng, sự đáp trả thuộc cảm giác, sự
đam mê nhục dục, những sợ hãi, những tham vọng, sự theo
đuổi vui thú, tất cả thống khổ của sự cô độc và sự
đau khổ mà con người đã gây ra cho anh ấy qua những cuộc
chiến tranh, qua sự vô trách nhiệm của anh ấy, qua tự cho
mình là trung tâm, dửng dưng? Tất cả việc đó là hoạt động
của tư tưởng, mà đã sáng chế ra những giới hạn và vị
chúa sống trong giới hạn. Tất cả việc đó là hoạt động
của thời gian và tư tưởng.
Khi
người
ta đến được điểm này, người ta hỏi cái dụng
cụ cũ kỹ, mà đã bị bào mòn, liệu rằng nó có thể gây
ra một thay đổi cơ bản trong con người, mà, rốt cuộc ra,
là bộ não. Khi tư tưởng nhận ra chính nó, hiểu được nơi
nào hiểu biết là cần thiết trong thế giới vật chất và
nhận ra sự giới hạn riêng của nó, ngay lúc đó nó trở
nên yên lặng, tĩnh. Chỉ ngay lúc đó có một dụng cụ mới
mà không bị sắp xếp bởi thời gian hoặc tư tưởng, hoàn
toàn không liên quan đến hiểu biết. Chính dụng cụ này –
có lẽ từ ngữ dụng cụ có thể sai lầm – chính trực nhận
này luôn luôn mới mẻ, vì nó không quá khứ, không ký ức;
nó là thông minh được sinh ra bởi từ bi. Trực nhận đó
mang lại một thay đổi mãnh liệt trong ngay những tế bào
của bộ não và hành động của nó luôn luôn là hành động
đúng đắn, rõ ràng, chính xác, không còn cái bóng của quá
khứ và thời gian.
Chủ nhật, ngày 24 tháng 4 năm 1983
Một
buổi sáng mùa xuân, một buổi sáng không bao giờ đã là trước
kia và không bao giờ sẽ lại là .
Một
buổi
sáng mùa xuân. Mỗi cọng cỏ nhỏ xíu, những cây hoa
trà, những bụi hồng, tất cả đều đang nở hoa và có hương
thơm trong không khí.
Một
buổi
sáng mùa xuân và quả đất rất sinh động, và ở trên
cao trong thung lũng này tất cả núi non xanh rì và hòn núi cao
nhất trong chúng tỏa ra sức sống phi thường, kiên định
và uy nghi. Một buổi sáng khi bạn dạo bộ trên con đường
mòn nhìn ngắm vẻ đẹp và những con sóc đất, mỗi chiếc
lá non nớt của mùa xuân đang lóng lánh trong ánh mặt trời.
Những chiếc lá kia đã chờ đợi việc này suốt mùa đông
và vừa lộ dạng, mềm mại mỏng manh. Và không cần lãng
mạn, tưởng tượng, có một cảm giác thương yêu và từ
bi vô biên, vì có quá nhiều vẻ đẹp, không thể hủy hoại.
Đã có cả ngàn buổi sáng mùa xuân nhưng chưa bao giờ có
một buổi sáng như thế này, thật yên lặng, thật tĩnh, lặng
lờ – có lẽ nó đồng tình với sự tôn sùng thành kính.
Và những con sóc đều ra ngoài và những con thằn lằn cũng
vậy.
Một
buổi
sáng mùa xuân và không khí như lễ hội; có lễ hội
khắp mọi nơi trên thế giới vì đó là mùa xuân. Lễ hội
được diễn đạt bằng rất nhiều phương cách khác nhau nhưng
cái là không bao giờ có thể diễn đạt được bằng từ
ngữ. Mọi nơi, cùng ca hát và nhảy múa, có một cảm thấy
sâu sắc của mùa xuân.
Tại
sao
chúng ta dường như đang mất đi chất lượng rất mong
manh của nhạy cảm – nhạy cảm đến mọi sự vật quanh
chúng ta, không chỉ đến những rối loạn và những vấn đề
riêng của chúng ta? Nhạy cảm thực sự, không phải về một
điều gì đó nhưng chỉ nhạy cảm, chỉ mong manh, giống như
chiếc lá non đó, vừa được sinh ra mới đây vài ngày để
đối diện với những cơn bão, mưa, bóng tối và ánh sáng.
Khi chúng ta mong manh chúng ta dường như bị tổn thương; bị
tổn thương chúng ta rút lui vào chính chúng ta, dựng lên một
bức tường quanh chúng ta, trở nên khắc nghiệt, độc ác.
Nhưng khi chúng ta mong manh mà không có những phản ứng hung
bạo, xấu xa , mong manh với tất cả những chuyển động của
thân tâm riêng của người ta; mong manh với thế giới, nhạy
cảm đến độ không tiếc nuối, không bị xúc phạm, không
kỷ luật tự áp đặt, lúc đó có chất lượng của hiện
hữu bao la.
Chúng
ta
mất tất cả tánh mong manh này trong cái thế giới của
nhốn nháo và hung bạo, thô tục và hối hả của cuộc sống
hàng ngày. Có tất cả những giác quan của con người được
mài bén, không phải bất kỳ một giác quan riêng biệt nào
nhưng có tất cả những giác quan hoàn toàn tỉnh thức, mà
tất nhiên không có ý định buông thả – nhạy cảm với
tất cả những chuyển động của tư tưởng, những cảm giác,
những đau thương, sự cô độc, sự lo âu – cùng những giác
quan kia hoàn toàn được tỉnh thức, có một loại cảm thấy
khác hẳn vượt khỏi mọi đáp trả thuộc dục vọng và giác
quan. Bạn có khi nào nhìn ngắm biển cả, hay những hòn núi
hùng vĩ kia, dãy Hi mã lạp sơn, trải dài từ đường chân
trời này sang đường chân trời kia – bạn có khi nào nhìn
ngắm một bông hoa, bằng tất cả những giác quan của bạn?
Khi có quan sát như thế không có trung tâm từ đó bạn đang
quan sát, không “cái tôi”. “Cái tôi”, sự quan sát
bị giới hạn của một hay hai giác quan, nuôi dưỡng chuyển
động của ích kỷ. Rốt cuộc ra, chúng ta sống bằng những
giác quan, bằng cảm giác, và khi tư tưởng tạo ra hình ảnh
từ những cảm xúc thì lúc đó tất cả những phức tạp
của ham muốn nảy sinh.
Vào
sáng nay, bạn nhìn xuống về phía thung lũng, trông thấy sự
lan rộng lạ lùng của màu xanh cây cỏ và thị trấn xa xa,
cảm giác được không khí tinh khiết, nhìn ngắm tất cả
những sinh vật đang bò loanh quanh của quả đất, nhìn ngắm
không có sự quấy rầy của những hình ảnh tư tưởng đã
tạo ra. Lúc này cơn gió nhẹ đang thổi từ thung lũng lên
khe núi và bạn quay lại khi con đường mòn bẻ cong. Đi xuống,
có một con mèo rừng đuôi ngắn ngay đằng trước bạn khoảng
mười feet. Bạn có thể nghe được nó kêu gừ gừ, đang cà
xát thân thể vào một tảng đá, lông chỉa ra từ hai tai,
cái đuôi ngắn và chuyển động duyên dáng, khác thường của
nó. Đó cũng là một buổi sáng mùa xuân cho con mèo nữa. Chúng
tôi cùng đi xuống con đường mòn và hầu như không gây ra
bất kỳ tiếng ồn nào ngoại trừ tiếng kêu gừ gừ của
nó, rất hứng thú, rất hài lòng khi ở ngoài trong ánh mặt
trời mùa xuân; nó sạch sẽ đến nỗi lông của nó đang lấp
lánh. Và khi bạn nhìn nó, toàn bản chất hoang dã đều ở
trong con thú đó. Bạn giẵm phải một cành cây khô tạo ra
một tiếng ồn, và nó chạy vụt đi, thậm chí chẳng thèm
nhìn lại đằng sau; tiếng ồn đó biểu thị con người,
một loài nguy hiểm nhất trong tất cả động vật. Con mèo
đã biến mất ngay tích tắc trong những lùm bụi và tảng
đá và mọi hân hoan vui vẻ đã không còn trong nó. Nó biết
con người tàn ác như thế nào và nó không muốn chờ đợi;
nó muốn chạy trốn thật nhanh, càng xa càng tốt.
Một
buổi
sáng mùa xuân và đó là bình an. Ý thức được có một
người đang ở đằng sau nó, cách một vài feet, con mèo đúng
là có bản năng đáp lại cái hình ảnh của con người là
gì – con người mà đã giết chóc quá nhiều thứ, tàn phá
quá nhiều thành phố, hủy diệt nền văn hóa này đến nền
văn hoá khác, luôn luôn đeo đuổi những thèm khát của anh
ấy, luôn luôn tìm kiếm một loại an toàn và vui thú nào đó.
Ham
muốn,
cái sức mạnh thôi thúc điều khiển trong con người,
đã tạo ra quá nhiều thứ hữu dụng và dễ chịu; ham muốn
cũng, trong những liên hệ của con người, đã tạo ra quá
nhiều vấn đề và những hỗn loạn và đau khổ – ham muốn
để thỏa mãn vui thú. Những vị thầy tu và khất sĩ của
thế giới đã cố gắng vượt qua nó, đã cưỡng bách chính
bản thân họ để tôn sùng một lý tưởng, một hình ảnh,
một biểu tượng. Nhưng ham muốn vẫn luôn luôn ở đó như
một ngọn lửa, đang cháy hừng hực. Và để tìm hiểu, để
tìm ra cặn kẽ bản chất của ham muốn, sự phức tạp của
ham muốn, những hoạt động của nó, những đòi hỏi của
nó, những mãn nguyện của nó – luôn luôn càng lúc càng nhiều
hơn ham muốn quyền lực, chức vụ, danh tiếng, địa vị,
ham muốn biết được cái không thể gọi tên, cái vượt khỏi
tất cả cuộc sống hàng ngày của chúng ta – đã khiến con
người làm mọi loại sự việc hung ác và xấu xa. Ham muốn
là kết quả của cảm xúc – kết quả cùng tất cả những
hình ảnh mà tư tưởng đã tạo ra. Và ham muốn này không
những nuôi dưỡng bất mãn mà còn cả thất vọng. Đừng
khi nào kềm chế nó, đừng khi nào khép nó vào kỷ luật nhưng
hãy thăm dò cặn kẽ bản chất của nó – nguồn gốc, mục
đích, những phức tạp của nó là gì? Tìm tòi lục lọi sâu
vào nó không là một ham muốn khác, vì nó không có động
cơ; nó giống như khi hiểu rõ vẻ đẹp của một đóa hoa,
ngồi xuống bên cạnh nó và ngắm nghía nó. Và khi bạn nhìn,
nó bắt đầu phơi bày chính nó như nó thực sự là – màu
sắc tinh tế lạ lùng, hương thơm, những cánh hoa, cuống hoa
và quả đất mà từ đó nó lớn lên. Vì vậy hãy nhìn ham
muốn này và bản chất của nó nhưng không còn tư tưởng,
bởi vì tư tưởng luôn luôn đang định hình những cảm xúc,
vui thú và đau khổ, phần thưởng và hình phạt. Ngay lúc đó
người ta hiểu rõ, không bằng lời nói, cũng không bằng trí
năng, toàn bộ nguyên nhân gây ra ham muốn, gốc rễ của ham
muốn. Chính ngay lúc trực nhận nó, trực nhận tinh tế về
nó, trong chính nó là thông minh. Và thông minh đó sẽ luôn
luôn hành động sáng suốt và hợp lý khi đối đãi với ham
muốn.
Thôi
không
nói nhiều quá, không suy nghĩ nhiều quá sáng nay, để
được ấp ủ trọn vẹn trong buổi sáng mùa xuân này, để
sống cùng nó, để dạo bộ trong nó, là một hân hoan vượt
khỏi mọi đo lường. Nó không thể lặp lại được. Nó sẽ
ở đó cho đến khi có một tiếng gõ trên cửa ra vào.
Thứ ba, ngày 26 tháng 4 năm 1983
Người
ta trông thấy một con chim đang chết, bị bắn rơi bởi một
người đàn ông. Nó đang bay lượn rất đẹp, cánh đập nhịp
nhàng, thật tự do và không sợ hãi. Và khẩu súng xé nát
nó; nó rơi xuống đất và tất cả sự sống đã không còn
trong nó. Một con chó quặp nó, và người đàn ông lượm những
con chim chết còn lại. Anh ấy đang nói chuyện với người
bạn và dường như hoàn toàn dửng dưng. Tất cả mọi việc
anh ấy quan tâm là hạ xuống thật nhiều chim chóc, và mọi
thứ khác đều chẳng có gì quan trọng. Họ đang giết chóc
khắp thế giới. Những động vật to lớn, tuyệt vời kia
của đại dương, những con cá voi, bị giết đến cả triệu
con, và con cọp và rất nhiều động vật khác bây giờ đang
trở thành các loài bị hiểm họa tuyệt chủng. Con người
là động vật duy nhất phải bị khiếp sợ.
Cách
đây
lâu rồi, đang ở trên cao trong những quả đồi cùng
một người bạn, một người đàn ông đến và bảo với
chủ nhà rằng một con cọp đã giết một con bò đêm qua,
và liệu rằng chúng tôi có muốn xem thấy con cọp tối hôm
đó không? Ông ấy có thể sắp xếp việc đó bằng cách dựng
một cái đài trên cây và buộc một con dê dưới gốc
cây, và tiếng kêu của con dê, của con thú nhỏ, sẽ quyến
rũ con cọp và chúng tôi có thể xem thấy nó. Cả hai chúng
tôi đều từ chối khi phải dùng phương pháp tàn ác như thế
chỉ để thỏa mãn tính tò mò của chúng tôi. Nhưng muộn
hơn ngày hôm đó người chủ nhà đề nghị chúng tôi dùng
xe hơi đi vào rừng để xem con cọp nếu chúng tôi gặp may
mắn. Vậy là gần chiều tối chúng tôi leo lên một chiếc
xe hơi mui trần với một người tài xế đưa chúng tôi vào
sâu trong cánh rừng khoảng nhiều dặm. Dĩ nhiên chúng tôi
không thấy gì cả. Đêm đang đến khá tối và đèn pha được
bật lên, và khi chúng tôi quay vòng lại, đó kìa nó đang ngồi
giữa đường chờ đợi tiếp đón chúng tôi. Nó là một con
thú rất to lớn, đốm thật đẹp, và đôi mắt của nó, bị
chiếu bởi ánh đèn pha, trông rực sáng, long lanh. Nó tiến
đến rống về phía chiếc xe, và khi nó đi ngang chỉ cách
bàn tay chìa ra một vài inches, người chủ nhà nói, “Đừng
chạm vào nó, nó rất nguy hiểm, lẹ lên vì nó nhanh hơn bàn
tay của ông đó.” Nhưng bạn có thể cảm thấy năng lựợng
của con thú đó, sức sống của nó; nó là một máy phát điện
có năng lượng to lớn. Và khi nó đi qua người ta cảm thấy
được một sức hút mãnh liệt về phía nó. Và nó biến mất
vào cánh rừng.*
Rõ
ràng
người bạn đã xem thấy nhiều con cọp và lâu rồi trong
thời thanh niên đã giúp đỡ giết chết một con, và từ đó
trở đi ông ấy luôn hối tiếc vì hành động độc ác đó.
Tàn ác dưới mọi hình thức bây giờ đang lan tràn khắp thế
giới. Con người có thể chưa bao giờ hung tợn như bây giờ,
quá bạo lực. Những nhà thờ và các vị linh mục của thế
giới đã nói chuyện về hòa bình trên quả đất; từ vị
chức sắc Thiên chúa giáo cao nhất đến vị linh mục làng
quê cơ hàn đã thuyết giảng về cách sống một cuộc sống
tốt lành, không gây tổn thương, không giết một sinh vật;
đặc biệt người Phật giáo và Ấn độ giáo của những
năm xa xưa đã nói, “Đừng giết con ruồi, đừng giết bất
kỳ sinh vật nào, vì đời sau bạn sẽ phải trả lại nó.”
Điều đó được diễn tả khá thô thiển nhưng một số người
trong họ vẫn còn giữ gìn tinh thần này, ý định này để
không giết và không làm tổn thương bất kỳ người nào.
Nhưng giết chóc bằng những cuộc chiến tranh vẫn đang tiếp
diễn và tiếp diễn. Con chó rất mau lẹ giết chết con thỏ.
Hay một người bắn chết người khác bằng những cái máy
tuyệt vời của anh ấy, và có lẽ chính anh ấy bị bắn
chết bởi một người khác. Và giết chóc này vẫn đang tiếp
tục từ thiên niên kỷ này sang thiên niên kỷ khác. Một số
người sử dụng nó như một môn thể thao, những người khác
giết chóc vì hận thù, tức giận, ghen tuông, và giết người
có tổ chức bởi những quốc gia khác nhau với những vũ khí
trang bị của chúng hiện nay vẫn tiếp
* Krishnamurti
nói về cuộc gặp gỡ với con cọp đầy đủ chi tiết hơn
trong quyển “Ghi chép của Krishnamurti”.
tục.
Người
ta tự hỏi không hiểu con người sẽ có khi nào được
sống thanh bình trên quả đất đẹp đẽ này, không bao giờ
giết chết một sinh vật nhỏ bé, hay bị giết chết, hay giết
chết một người khác, nhưng sống thanh bình cùng thánh thiện
và tình yêu nào đó trong tâm hồn của con người.
Ở
vùng đất này của thế giới, mà chúng ta gọi là phương
Tây, người Thiên chúa giáo có lẽ đã giết chóc nhiều hơn
bất kỳ người nào khác. Họ luôn luôn đang nói về hòa bình
trên quả đất này. Nhưng muốn có hòa bình người ta phải
sống thanh bình, và việc đó dường như hoàn toàn không thể
được. Có những cuộc tranh luận ủng hộ và phản đối
chiến tranh, những cuộc tranh luận rằng con người luôn luôn
là kẻ giết chóc và sẽ luôn luôn như thế, và những người
ủng hộ ý kiến rằng con người có thể tạo ra một sự
thay đổi trong chính anh ấy và không giết chóc nữa. Đây
là một câu chuyện rất xa xưa. Tàn sát không ngưng nghỉ đã
trở thành một thói quen, một công thức đã được chấp
nhận, bất kể mọi tôn giáo.
Một
ngày
nào đó người ta đang quan sát một con chim ưng có cái
đuôi đỏ, thật cao trên bầu trời, lượn vòng không cần
nỗ lực, không cần vẫy cánh, chỉ bay lượn vì vui vẻ, chính
xác là được trợ lực bởi những luồng không khí. Sau đó
nó được một con khác nhập vào, và chúng bay cặp kè trong
một khoảng thời gian. Chúng là những sinh vật kỳ diệu trong
bầu trời xanh đó, và gây thương tích cho nó bằng bất kỳ
cách nào đều là một trọng tội với thiên đàng. Dĩ nhiên
không có thiên đàng; con người đã sáng chế ra thiên đàng
từ hy vọng, bởi vì cuộc sống của anh ấy đã trở thành
một địa ngục, một xung đột vô tận từ khi sinh ra đến
lúc chết đi, đến và đi, kiếm tiền, làm việc liên tục.
Cuộc sống này đã trở thành một rối loạn, một lao dịch
của đấu tranh không ngừng nghỉ. Người ta tự hỏi không
hiểu rằng nhân loại, một con người, sẽ có khi nào được
sống an bình trên quả đất này. Xung đột đã trở thành
một phương cách trong cuộc sống của anh ấy – bên trong
làn da và bên ngoài làn da, trong lãnh vực của tinh thần và
trong xã hội mà tinh thần đó đã tạo ra.
Có
lẽ
tình yêu đã hoàn toàn biến mất khỏi thế giới này.
Tình yêu ngụ ý sự rộng lượng, sự ân cần, không gây tổn
thương bất kỳ ai, không làm người khác cảm thấy tội lỗi,
sống quảng đại, lễ phép, và cư xử trong thái độ mà từ
ngữ và tư tưởng của bạn được sinh ra từ lòng từ bi.
Dĩ nhiên bạn không thể từ bi nếu bạn thuộc về những
học viện tôn giáo có tổ chức – to lớn, quyền lực, truyền
thống, giáo điều, mà nằng nặc đòi hỏi sự trung thành.
Phải có tự do để thương yêu. Tình yêu đó không là vui
thú, ham muốn, một hồi tưởng của những sự việc đã trải
qua. Tình yêu không là trái nghịch của ghen tuông, hận thù
và tức giận.
Tất
cả
việc này nghe ra khá hoang tưởng, lý tưởng; một việc
gì đó mà con người chỉ có thể khát khao mà thôi. Nhưng
nếu bạn tin tưởng điều đó vậy thì bạn sẽ tiếp tục
giết chóc. Tình yêu cũng thực sự, cũng mãnh liệt như chết.
Nó không liên quan gì đến tưởng tượng, hay tình cảm, hay
lãng mạn; và tất nhiên nó không liên quan gì đến quyền
lực, địa vị, thanh danh. Nó tĩnh lặng như những dòng nước
của biển cả và cũng mãnh liệt như biển cả; nó giống
như những dòng nước của một con sông căng phồng đang chảy
vô tận, không một khởi đầu hay một kết thúc. Nhưng người
đàn ông giết chết một con hải cẩu con, hay những con cá
voi to, chỉ quan tâm đến sinh nhai của anh ấy. Anh ấy sẽ
nói, “Tôi sống nhờ vào việc đó, đó là công việc làm
ăn của tôi.” Anh ấy hoàn toàn dửng dưng với cái đó, một
sự việc mà chúng ta gọi là tình yêu. Anh ấy có lẽ thương
yêu gia đình anh ấy – hay là anh ấy nghĩ rằng anh ấy thương
yêu gia đình anh ấy – và anh ấy không quan tâm nhiều lắm
đến phương cách anh ấy kiếm kế sinh nhai. Có lẽ đó là
một trong những lý do tại sao con người sống một cuộc sống
phân chia; anh ấy dường như không bao giờ thương yêu cái
gì anh ấy đang làm – mặc dù có lẽ một ít người thương
yêu . Nếu người ta sống vì công việc người ta thương yêu,
nó sẽ rất khác biệt – người ta sẽ hiểu được tổng
thể của sự sống. Chúng ta đã bẻ vụn sự sống thành những
mảnh vỡ: thế giới kinh doanh, thế giới nghệ thuật, thế
giới khoa học, thế giới chính trị và thế giới tôn giáo.
Chúng ta dường như nghĩ rằng chúng ta đều tách biệt và
nên được duy trì tách biệt. Thế là chúng ta trở thành đạo
đức giả, làm một việc gì đó xấu xa, hư hỏng, trong thế
giới kinh doanh và sau đó trở về nhà để sống an bình cùng
gia đình của chúng ta; việc này nuôi dưỡng thói đạo đức
giả, một chuẩn mực hai mặt của cuộc sống.
Đó
thực
sự là một quả đất diệu kỳ. Con chim đó đang đậu
trên cái cây cao nhất nơi nó thường đậu mỗi buổi sáng,
nhìn xuống thế giới, cảnh giác một con chim lớn hơn, một
con chim có lẽ giết chết nó, nhìn ngắm những đám mây, những
cái bóng trôi qua, và sự lan rộng bao la của quả đất trù
phú này, những con sông, những cánh rừng này và tất cả
những con người lao dịch từ sáng sớm đến tận khuya. Nếu
người ta suy nghĩ tất cả việc này, trong thế giới tâm lý,
nó đang ở tình trạng đầy đau khổ . Người ta cũng tự
hỏi không hiểu con người có khi nào sẽ thay đổi, hoặc
chỉ một ít người, rất ít, rất ít người. Sau đó sự
liên hệ của một ít người đến nhiều người là gì? Hoặc
là, sự liên hệ của nhiều người đến một ít người là
gì? Nhiều người không có liên hệ đến một ít người.
Một ít người lại có một liên hệ.
Đang
ngồi
trên tảng đá đó, nhìn xuống về phía thung lũng, có
một con thằn lằn bên cạnh bạn, bạn không dám cựa quậy
vì sợ rằng con thằn lằn sẽ bị quấy rầy hay hoảng sợ.
Và con thằn lằn cũng đang quan sát. Và cũng vậy thế giới
tiếp tục: sáng chế những vị chúa, tuân theo hệ thống chức
sắc của những vị đại diện chúa; và tất cả những giả
dối và nhục nhã của những ảo tưởng sẽ có thể tiếp
tục, hàng ngàn vấn đề đang mỗi lúc một trở nên phức
tạp và rối ren hơn. Chỉ có thông minh của tình yêu và từ
bi mới có thể giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống.
Thông minh đó là dụng cụ duy nhất không bao giờ có thể
trở nên u tối, vô dụng.
Thứ tư, ngày 4 tháng 5* năm 1983
Một
buổi sáng có sương mù, hầu như bạn không thể trông thấy
những cây cam cách khoảng mười feet. Lạnh lẽo và tất cả
những quả đồi và những hòn núi đều bị che giấu, và
có những giọt sương trên những chiếc lá. Trời sẽ quang
đãng sau đó. Vẫn còn là sáng sớm và mặt trời đẹp của
California và cơn gió mát mẻ sẽ đến mau thôi.
Người
ta
không hiểu tại sao con người lại luôn luôn hung tợn như
thế, xấu xa như thế trong những đáp lại của họ đến
bất kỳ câu nói nào mà họ không thích, hung hăng, sẵn sàng
gây sự. Việc này đã xảy ra hàng ngàn năm. Ngày nay hầu
như người ta hiếm khi nào gặp được một con người nhân
hậu, sẵn sàng nhượng bộ, hoàn toàn rộng lượng và vui
vẻ trong những liên hệ của anh ấy.
Đêm
qua
có tiếng kêu của một con cú; nó là một con cú có đầu
bành to, nó phải rất lớn. Và nó chờ đợi con bạn tình
trả lời, và con mái đáp lại từ xa và tiếng kêu chìm trong
thung lũng và bạn hầu như không thể nghe được. Một đêm
hoàn toàn tĩnh, tối đen, và yên lặng lạ lùng.
Mọi
sự
vật dường như sống trong trật tự, trong trật tự riêng
của nó – biển cả cùng thủy triều lên xuống của nó,
mặt trăng non và thời điểm mặt trăng tròn, mùa xuân đáng
yêu và cái nóng bức của mùa hè. Ngay cả trận động đất
của ngày hôm qua cũng có trật tự riêng của nó. Trật tự
là chính bản thể của vũ trụ – trật tự của sinh và chết
và vân vân. Dường như chỉ có con người sống trong vô trật
tự như thế, lộn xộn như thế. Anh ấy đã sống theo cách
đó từ khi có con cú bắt đầu.
*
Giữa 26-4 và 1-5 Krishnamurti đến San Francisco và có hai buổi
nói chuyện ở Masonic Hall và một cuộc phỏng vấn trên radio.
Đang
nói
chuyện với người khách ngồi trên mái hiên nhà, cùng
bụi hồng leo màu đỏ và một cây đậu tía non và mùi của
quả đất lẫn cây cối, dường như rất đáng tiếc khi phải
bàn luận về vô trật tự. Khi bạn nhìn quanh quẩn những
quả đồi sẫm kia và hòn núi đá và nghe tiếng thì thầm
của một con suối chẳng mấy chốc sẽ cạn vào mùa hè, tất
cả đều có một trật tự kỳ lạ đến nỗi muốn nói về
sự vô trật tự của con người, sự lộn xộn và bất hạnh
của con người, dường như hoàn toàn không phù hợp lắm.
Nhưng nhờ vào người khách thân thiện, có hiểu biết, và
có thể tư duy chín chắn nên câu chuyện được bắt đầu.
Con
chim
nhái giọng đang đậu trên đường dây điện thoại; nó
đang làm việc gì nó thường làm – bay vào không gian, lượn
vòng rồi đậu trên sợi dây và tiếp đó diễu cợt thế
giới. Việc này nó làm quá thường xuyên, và thế giới rõ
ràng chẳng thèm lưu tâm. Và con chim vẫn tiếp tục diễu cợt.
Sương
mù
đang tan dần, có ánh mặt trời mùa xuân đó và con thằn
lằn đang ló ra, đang sưởi ấm thân thể trên tảng đá, và
tất cả những sinh vật nhỏ xíu của quả đất đều bận
rộn. Chúng có trật tự riêng của chúng, chúng có vui thú,
đùa giỡn riêng của chúng. Tất cả chúng dường như rất
vui vẻ, tận hưởng ánh mặt trời, không có một con người
nào gần bên để gây tổn thương cho chúng, để phá hỏng
một ngày của chúng.
“Nếu người ta được phép hỏi,” vị khách bắt đầu, “Đối với ông điều gì quan trọng nhất trong cuộc sống? Đối với ông điều gì là phẩm chất cốt lõi nhất mà con người phải tu dưỡng?”
‘Nếu bạn tu dưỡng, giống như bạn cày xới những cánh đồng của quả đất, vậy thì nó không là sự việc cốt lõi nhất. Nó phải xảy ra tự nhiên – bất kỳ cái gì xảy ra – tự nhiên, dễ dàng, không có bất kỳ những động cơ tự cho mình là trung tâm nào. Sự việc quan trọng nhất cho mỗi con người, chắc chắn, là sống trong trật tự, trong hòa đồng cùng tất cả những sự việc sự vật chung quanh anh ấy – ngay cả sự ồn ào của những thị trấn lớn, ngay cả một cái gì đó xấu xa, thô tục, mà không cho phép nó gây ảnh hưởng hay thay đổi dòng sống của anh ấy, thay đổi hay làm biến dạng trật tự mà trong đó anh âý đang sống. Chắc chắn, thưa bạn, trật tự là sự việc quan trọng nhất trong cuộc sống, hay, nói khác đi, một trong những sự việc quan trọng nhất.’
“Tại sao,” vị khách hỏi, “trật tự phải là một phẩm chất của một bộ não để có thể hành động đúng đắn, hạnh phúc, rõ ràng.”
‘Trật tự không được tạo ra bởi tư tưởng. Trật tự không phải là điều gì bạn tuân theo ngày này sang ngày khác, luyện tập, thích nghi đến. Giống như những con suối nhập vào biển cả, cũng vậy con suối của trật tự, con sông của trật tự, là vô tận. Nhưng trật tự đó không thể hiện hữu nếu có bất kỳ mọi nỗ lực, bất kỳ mọi đấu tranh để thành tựu, hay để loại bỏ vô trật tự và lẻn vào một tục lệ, vào vô số những thói quen được vạch ra rõ ràng. Tất cả việc đó không là trật tự. Xung đột là chính dòng chảy của vô trật tự, là nguyên nhân thực sự.’
“Mọi thứ đều đấu tranh, phải vậy không? Những cái cây kia, chúng đã đấu tranh để tồn tại, đấu tranh để tăng trưởng. Cây sồi tuyệt vời đó đằng sau ngôi nhà này, nó đã kháng cự những cơn bão, những năm mưa gió và mặt trời nóng cháy, nó đã đấu tranh để tồn tại. Cuộc sống là xung đột, nó là một rối loạn, một bão táp. Và ông đang nói, phải vậy không, rằng trật tự là một trạng thái trong đó không có xung đột? Nó có vẻ hầu như không thể có được, giống như nói chuyện bằng một ngôn ngữ lạ, một sự việc gì đó hoàn toàn khác lạ với cuộc sống riêng của người ta, cách suy nghĩ riêng của người ta. Liệu rằng ông, nếu tôi không xấc xược, có sống trong trật tự mà trong đó không còn bất kỳ mọi xung đột nào hay không?”
‘Liệu nó có rất quan trọng, thưa bạn, để khám phá rằng có một người khác đang sống mà không có nỗ lực, không có xung đột? Hay là đúng hơn bạn sẽ hỏi liệu rằng bạn, như một con người, sống trong vô trật tự, có thể tìm được cho chính mình nhiều nguyên nhân – hay có lẽ chỉ có một nguyên nhân – của vô trật tự này? Những bông hoa kia không biết đến trật tự hay vô trật tự, chúng chỉ tồn tại. Dĩ nhiên, nếu chúng không được tưới nước, được chăm sóc, chúng sẽ chết, và chết cũng là trật tự của chúng. Mặt trời nóng, rực rỡ sẽ giết chết chúng trong tháng tới, và đối với chúng đó là trật tự.’
Con
thằn lằn đã sưởi ấm thân thể trên tảng đá và đang
chờ đợi những con ruồi đến. Và chắc chắn chúng sẽ đến.
Và con thằn lằn với cái lưỡi lanh lẹ sẽ nuốt chúng. Nó
có vẻ như đó là bản chất của thế giới: những con vật
lớn sống nhờ vào những con vật nhỏ, và những con lớn
hơn sống nhờ vào những con lớn. Đây là cái vòng tuần hoàn
trong thế giới của thiên nhiên. Và trong đó không có trật
tự hay vô trật tự. Nhưng lần này hay lần khác chính chúng
ta cũng nhận được cái cảm thấy của hòa đồng trọn vẹn
và cũng của đau thương, lo âu, đau khổ, xung đột. Nguyên
nhân của xung đột là đang liên tục trở thành – trở thành,
tìm kiếm sự nhận dạng, đấu tranh để hiện hữu. Chừng
nào bộ não, mà đã bị điều kiện quá nhiều, còn đang đo
lường, “nhiều hơn”, “tốt hơn”, còn đang chuyển động
theo tâm lý từ việc này đến việc kia, chắc chắn nó phải
gây ra một ý thức của xung đột, và đây là vô trật tự.
Không chỉ những từ ngữ “nhiều hơn”, “tốt hơn”, nhưng
cái cảm thấy, cái phản ứng của thành tựu, kiếm được
– chừng nào còn có sự phân chia này, hai phần, phải có
xung đột. Và từ xung đột là vô trật tự.
Có
lẽ
người ta nhận thức được tất cả những sự việc
này, nhưng vì lơ đãng không lưu tâm với nhận thức này,
người ta tiếp tục sống cùng một phương cách ngày này sang
ngày khác tất cả những ngày trong cuộc sống của người
ta. Phân chia này không chỉ bằng lời mà còn có phân chia sâu
đậm hơn như người suy nghĩ và vật được suy nghĩ, như
người suy nghĩ tách rời khỏi chính anh ấy. Người suy nghĩ
được tập hợp bởi tư tưởng, người suy nghĩ là quá khứ,
người suy nghĩ là hiểu biết, và cũng vậy tư tưởng sinh
ra từ hiểu biết. Thật ra không có sự phân chia giữa người
suy nghĩ và vật được suy nghĩ, chúng là một đơn vị không
tách rời; nhưng tư tưởng đã chơi một trò lừa phỉnh vào
chính nó, nó phân chia chính nó. Có lẽ sự phân chia liên tục
của chính nó, cái mảnh riêng của nó, là nguyên nhân của
vô trật tự. Chỉ cần thấy, nhận ra, sự thật của việc
này, rằng người trực nhận là vật được trực nhận, kết
thúc vô trật tự.
Con
chim nhái giọng đã bay đi rồi và con bồ câu ai oán đậu
ở đó cùng tiếng than khóc rầu rĩ của nó. Và chốc lát
sau con bạn tình nhập vào. Cùng nhau chúng đậu trên sợi dây
điện đó, yên lặng, bất động, nhưng đôi mắt của chúng
chuyển động, nhìn, canh chừng hiểm nguy. Con chim ưng đuôi
đỏ và những con chim săn mồi ở đó trước đây một hoặc
hai tiếng đồng hồ đã bay đi rồi. Có lẽ chúng sẽ quay
trở lại ngày mai. Và thế là buổi sáng chấm dứt, và bây
giờ mặt trời rực sáng và có cả ngàn cái bóng. Quả đất
tĩnh lặng trong khi con người lạc lõng và hoang mang.
Thứ sáu, ngày 6 tháng 5 năm 1983
Một
buổi sáng dễ chịu, có mây, se lạnh trong không khí, và những
quả đồi được mây che phủ và yên lặng. Có hương thơm
hoa cam nở rộ, không nồng nặc lắm nhưng nó ở đó. Nó là
một hương thơm xuyên thấu, đặc biệt và thoang thoảng trong
phòng. Và tất cả những đóa hoa sáng nay đều sẵn sàng chờ
mặt trời ló dạng. Chốc lát nữa những đám mây sẽ bay
đi và tiếp theo sẽ có ánh mặt trời rực rỡ.
Xe
hơi
chạy ngang qua ngôi làng nhỏ, qua nhiều thôn nhỏ, những
giàn khoan dầu, những xe chở dầu, và mọi hoạt động quanh
những vùng khí đốt kia, và cuối cùng bạn gặp biển. Bạn
lại đi qua một thị trấn lớn, không lớn quá, qua nhiều
cánh rừng cam và chanh khác nhau, và bạn bất ngờ trông thấy,
không phải những mảng trồng dâu tây, không phải những cánh
đồng nhỏ trồng cải bắp, nhưng hàng mẫu của chúng, hàng
dặm của chúng – dâu tây, cần tây, rau spi-na, rau diếp và
những loại rau khác – hàng dặm đất màu mỡ bằng phẳng
ở giữa những quả đồi và biển cả. Ở đây mọi thứ
đều được thực hiện trên qui mô rộng lớn, hầu như quá
dư thừa – hàng dặm chanh và cam, bồ đào và vân vân. Một
vùng đất màu mỡ, đẹp. Và những quả đồi quá thân thiện
sáng hôm đó.
Cuối
cùng
bạn đến được biển Thái bình dương màu xanh. Sáng
nay nó giống như một cái ao nhỏ, rất êm đềm, lặng lờ
lạ kỳ, và ánh ban mai trên nó. Người ta nên thực sự thiền
định trên ánh sáng đó, không phải trực tiếp trên mặt
trời nhưng phản ảnh của mặt trời trên dòng nước đang
lấp lánh đó. Nhưng biển cả luôn luôn không giống như thế;
cách đây một hai tháng nó cuồn cuộn trong cuồng nộ, đập
vỡ đê chắn sóng, tàn phá nhà cửa quanh bãi biển, mang lại
thảm khốc, thậm chí đến cả con đường cao ven theo nó.
Bây giờ họ đang sửa chữa cái đê bị vỡ bằng tất cả
số gỗ bị giạt vào bờ, những số lượng gỗ rất lớn.
Dẫu vậy, hôm nay, giống như một con thú đã thuần hóa, bạn
có thể vỗ về nó, bạn có thể cảm thấy chiều sâu và
chiều rộng và vẻ đẹp của biển cả bao la này, quá xanh.
Gần bờ biển hơn nó là màu xanh lục của sông Nile. Đi theo
con đường đó bên cạnh biển trong không khí có muối là
một việc dễ chịu nhất, chỉ nhìn ngắm những quả đồi,
những đám cỏ phất phơ và biển nước mênh mông.
Tất
cả
sự việc này biến mất vào thị trấn xấu xí to lớn,
một thành phố đã lan rộng hàng dặm và hàng dặm và hàng
dặm. Nó không là một thành phố dễ chịu lắm, nhưng con
người sống ở đó và có vẻ thích nó.
Tôi
không
biết liệu rằng, đang ngồi trên bãi biển, bạn có
khi nào nhìn ngắm biển, nhìn ngắm những con sóng đến và
đi. Con sóng thứ bảy dường như là con sóng lớn nhất, ầm
ầm hướng vào đất liền. Có rất ít thủy triều ở Thái
bình dương – ít ra là không có ở đây, không giống như
những cơn thủy triều kia mà rút ra nhiều dặm rồi lại ùa
vào rất mau lẹ. Ở đây luôn luôn có thủy triều lên xuống
không cách biệt lắm, vào và ra, được lặp lại từ thế
kỷ này sang thế kỷ khác. Nếu bạn có thể nhìn ngắm biển
cả đó, sự lấp lánh của ánh sáng lóa mắt, và nước trong
xanh, bằng tất cả những giác quan của bạn được đánh
thức cao độ đến vẻ đẹp tuyệt vời của chúng, trong sự
quan sát đó không còn trung tâm, là bạn, đang quan sát. Thật
tuyệt vời khi nhìn ngắm biển cả, và cát, sạch sẽ, được
tắm rửa mỗi ngày. Không một dấu chân nào có thể còn sót
lại ở đó, ngay cả những con chim bé tí của biển cả cũng
không bao giờ để lại dấu vết của chúng, biển rửa sạch
chúng.
Những
ngôi
nhà dọc theo bãi biển nhỏ xíu, gọn gàng; có lẽ những
người giàu có sống dọc theo đó. Nhưng tất cả việc đó
không có chút ý nghĩa nào cả – sự giàu có của họ, sự
thô tục của họ, những chiếc xe thời trang của họ. Người
ta thấy một chiếc xe Mercedes cổ với những ống khói ở
bên ngoài nắp đậy ô tô, ba ống khói mỗi bên. Người chủ
có vẻ rất tự hào về nó, họ đánh bóng nó, rửa sạch
nó, chăm sóc nó từng li từng tí. Có lẽ họ đã mua cái máy đó thích thú hơn nhiều thứ khác. Bạn còn có thể chạy
rất nhiều dặm đường cùng nó; nó được lắp ráp rất
công phu để có độ bền chịu đựng.
Ngồi
trên
bờ biển đang nhìn ngắm những con chim, bầu trời, và
đang lắng nghe âm thanh xa xa của những chiếc xe chạy ngang,
đó là một buổi sáng đẹp nhất. Bạn chảy ra cùng dòng
nước rút và theo vào cùng dòng nước dâng lên. Bạn trôi
ra thật xa và giạt vào bờ trở lại – chuyển động vô
tận này của vào và ra và ra và vào. Bạn có thể trông thấy
đến tận đường chân trời nơi bầu trời gặp gỡ những
dòng nước. Đó là một cái vịnh to có nước xanh bạc và
những ngôi nhà nhỏ xíu đều vây quanh nó. Và đằng sau bạn
là những hòn núi, rặng này tiếp nối rặng kia. Nhìn ngắm
không một tư tưởng nào, nhìn ngắm không mọi phản ứng,
nhìn ngắm không bất kỳ nhận dạng nào, chỉ nhìn ngắm không
ngưng nghỉ, không ở trạng thái hôn trầm và lơ đãng; bạn
không là bạn nữa và chỉ còn nhìn ngắm. Nhìn ngắm những
tư tưởng nổi lên và sau đó biến mất, tư tưởng tiếp
nối tư tưởng, tư tưởng chính nó đang trở nên ý thức
được chính nó. Không còn người suy nghĩ đang nhìn ngắm
tư tưởng, người suy nghĩ là tư tưởng.
Ngồi
trên
bãi biển đang nhìn ngắm mọi người qua lại, hai hay
ba cặp và một phụ nữ đơn độc, có vẻ rằng tất cả
thiên nhiên, mọi thứ chung quanh bạn, từ biển xanh sâu thẳm
đến những hòn núi đá cao ngất kia, cũng đang nhìn ngắm.
Chúng ta đang nhìn ngắm, không đang chờ đợi, không đang mong
ngóng bất kỳ việc gì sẽ xảy ra nhưng đang nhìn ngắm mà
không có kết thúc. Trong nhìn ngắm đó có học hỏi, không
phải sự tích lũy của hiểu biết qua học hỏi mà gần như
thuộc máy móc, nhưng đang nhìn ngắm kỹ lưỡng, không bao
giờ hời hợt nhưng thật sâu sắc, bằng một tức khắc và
một trìu mến; ngay lúc đó không có người nhìn ngắm. Khi
có một người nhìn ngắm hiển nhiên nó chỉ là nhìn ngắm
của quá khứ, và đó không là đang nhìn ngắm, đó chỉ là
đang nhớ lại và nó là động thái không sinh khí. Đang nhìn
ngắm sinh động khác thường, mỗi khoảnh khắc một trống
không. Những con cua bé tí kia và những con hải cẩu kia và
tất cả những con chim kia bay lượn qua đều đang nhìn ngắm.
Chúng đang nhìn ngắm để tìm kiếm con mồi, tìm kiếm cá,
đang nhìm ngắm để tìm kiếm món ăn gì đó; chúng cũng vậy
đang nhìn ngắm. Người nào đó đi ngang gần sát bạn và thắc
mắc không hiểu bạn đang nhìn ngắm cái gì. Bạn đang nhìn
ngắm không gì cả, và trong không gì cả đó mọi thứ hiện
hữu.
Vào
một ngày nào đó một người đàn ông đã đi nhiều, đã
thấy nhiều, đã viết điều này hay điều khác, đến –
một người đàn ông hơi già có bộ râu quai nón, được cắt
tỉa rất cẩn thận; ông ấy ăn mặc chỉnh tề không có sự
luộm thuộm thô tục. Ông ấy chăm sóc giày của ông ấy,
quần áo của ông âý. Ông ấy nói tiếng Anh xuất sắc, dù
ông ấy là một người ngoại quốc. Và hướng về người
đàn ông ngồi trên bãi biển đang nhìn ngắm, ông ấy nói
rằng ông ấy đã nói chuyện với quá nhiều người, tranh
luận với một số giáo sư và học giả, và trong khi ông ấy
ở Ấn độ ông ấy đã nói chuyện với một số nhà thông
thái Ấn độ giáo. Và hầu hết mọi người trong họ, nó
dường như, theo ông ấy, không quan tâm đến xã hội, không
nhiệt tâm sâu xa đến bất kỳ sự đổi mới xã hội nào
hay đến sự khủng hoảng hiện nay về chiến tranh. Ông ấy
lo âu nhiều về xã hội trong đó chúng ta đang sống, dù ông
ấy không là một người đổi mới xã hội. Ông ấy hoàn
toàn không chắc chắn liệu rằng xã hội có thể được thay
đổi, liệu rằng bạn có thể làm một việc gì đó cho nó.
Nhưng ông ấy hiểu rõ xã hội ngày nay ra sao; sự đồi bại
khủng khiếp, sự xuẩn ngốc của các chính khách, sự đê
tiện, sự hãnh tiến, và sự tàn bạo đang tràn lan khắp thế
giới.
Ông
ấy
nói, “Chúng ta có thể làm gì cho xã hội này? – không
phải những đổi mới nhỏ nhoi tầm thường đó đây, thay
đổi một Tổng thống bằng một người khác, hay một Thủ
tướng bằng một người khác – họ đều cùng một dòng
giống trong chừng mực nào đó; họ không thể làm nhiều lắm
vì họ đại diện cho sự tầm thường hay còn kém hơn điều
đó, sự thô tục; họ muốn phô trương, họ sẽ không bao
giờ làm gì cả. Họ sẽ tạo ra những đổi mới nhỏ nhoi
ngu xuẩn đó đây nhưng xã hội vẫn cứ tiếp tục bất chấp
những thay đổi đó.” Ông ấy đã quan sát nhiều nền văn
hóa, xã hội khác nhau. Chúng không khác biệt nhiều lắm về
cơ bản. Ông ấy thể hiện là một người rất nghiêm túc
bằng một nụ cười và ông ấy nói về vẻ đẹp của quốc
gia này, sự bao la, muôn màu muôn vẻ, từ những sa mạc nóng
cháy đến dãy núi Rockies cao ngất với vẻ hùng vĩ của nó.
Người ta lắng nghe ông ấy như người ta thường lắng nghe
và nhìn ngắm biển.
Xã
hội
không thể thay đổi nếu con người không thay đổi. Con
người, bạn và những người khác, đã tạo ra những xã hội
này từ thế hệ này sang thế hệ khác; tất cả chúng ta đã
tạo ra những xã hội này từ sự tầm thường, hạn chế
của chúng ta, từ sự tham lam, ganh tị, hung ác, bạo lực,
ganh đua của chúng ta và vân vân. Chúng ta phải chịu trách
nhiệm cho sự tầm thường, sự ngu dốt, sự thô tục, cho
tất cả vô lý thuộc sắc tộc và chủ nghĩa giáo phái thuộc
tôn giáo. Nếu mỗi người chúng ta không thay đổi hoàn toàn,
xã hội sẽ không bao giờ thay đổi. Nó ở đó, chúng ta đã
tạo ra nó, và sau đó nó biến đổi chúng ta. Nó tạo khuôn
mẫu cho chúng ta, như chúng ta đã tạo khuôn mẫu cho nó. Nó
đặt chúng ta trong một cái khuôn và cái khuôn đó lại đặt
nó vào một cái khung mà là xã hội.
Thế
là
hành động này đang tiếp diễn vô tận, giống như biển
cả có một thủy triều đi ra ngoài thật xa và sau đó đi
vào, thỉnh thoảng rất, rất chậm, những lần khác lại nhanh,
nguy hiểm. Vào và ra; hành động, phản ứng, hành động. Đây
dường như là bản chất của chuyển động này, nếu không
có trật tự thâm sâu trong chính con người. Chính trật tự
đó sẽ tạo ra trật tự trong xã hội, không phải nhờ vào
luật pháp, những chính phủ và mọi công việc như thế –
mặc dù nếu còn có vô trật tự, hỗn loạn, thì cái luật
pháp, cái quyền lực, được tạo ra bởi vô trật tự của
chúng ta, vẫn sẽ còn tiếp tục. Luật pháp là tạo tác của
con người, giống như xã hội – sản phẩm của con người
là luật pháp.
Vì
thế
bên trong, tinh thần, tạo ra bên ngoài tùy thuộc vào giới
hạn của nó; và sau đó bên ngoài lại kiểm soát và tạo
khuôn bên trong. Những người cộng sản đã nghĩ, và có thể
vẫn còn nghĩ, rằng bằng cách kiểm soát bên ngoài, thiết
lập những luật pháp, những quy định, những học viện nào
đó, những hình thức độc tài nào đó, họ có thể thay đổi
con người. Nhưng từ đó đến nay họ vẫn không thành công,
và họ sẽ không bao giờ thành công. Đây cũng là hoạt động
của những người xã hội. Những người tư bản thực hiện
nó bằng một phương cách khác, nhưng nó cũng cùng một sự
việc. Bên trong luôn chiến thắng bên ngoài, vì bên trong mạnh
mẽ nhiều hơn, có sinh khí nhiều hơn bên ngoài.
Liệu
rằng
chuyển động này có thể kết thúc – bên trong đang
tạo ra điều kiện sống của xã hội bên ngoài theo tâm lý,
và bên ngoài, luật pháp, những học viện, những tổ chức,
đang cố gắng tạo khuôn mẫu cho con người, bộ não, để
hành động trong một phương cách nào đó, và bộ não, bên
trong, tinh thần, tiếp theo đó lại đang thay đổi, đang tìm
ra phương cách để chiến thắng hay lẩn tránh bên ngoài? Chuyển
động đã và đang tiếp diễn liên tục từ khi con người
có mặt trên quả đất này, thô thiển, hời hợt, thỉnh thoảng
sâu sắc – nó luôn luôn là bên trong đang chiến thắng bên
ngoài, giống như biển cả có những thủy triều của nó đi
ra và đi vào. Người ta nên thực sự hỏi liệu rằng chuyển
động này có thể kết thúc – hành động và phản ứng,
hận thù và hận thù nhiều hơn, bạo lực và bạo lực nhiều
hơn. Nó có một kết thúc khi chỉ nhìn ngắm, không động
cơ, không đáp trả, không phương hướng. Phương hướng hiện
hữu khi có sự tích lũy. Nhưng nhìn ngắm, mà trong đó có
chú ý, tỉnh thức, cùng một ý thức của từ bi vô biên,
có thông minh riêng của nó. Nhìn ngắm cùng thông minh này hành
động. Và hành động đó không là thủy triều đi ra và đi
vào. Nhưng điều này đòi hỏi sự cảnh giác lớn lao, thấy
sự việc sự vật mà không có từ ngữ, không có danh tính,
không có bất kỳ phản hồi nào; trong nhìn ngắm đó có một
đam mê, sức sống vô tận.
Thứ hai, ngày 9 tháng 5 năm 1983
Bạn
đã ở khá cao rồi, đang nhìn xuống về phía thung lũng, và
nếu bạn leo một dặm hay nhiều hơn thẳng lên cao và cao trên
con đường mòn khúc khuỷu đó, qua mọi loại cây cối –
những cây sồi sống, cây xô thơm, cây sồi độc – và qua
một con suối luôn cạn khô vào mùa hè, bạn có thể trông
thấy biển xanh xa thật xa, bên kia dãy núi này tiếp dãy núi
khác. Ở đây trên cao tuyệt đối tĩnh. Tĩnh đến nỗi không
có một hơi thở của không khí. Bạn nhìn xuống và những
hòn núi nhìn xuống bạn. Bạn có thể tiếp tục leo thẳng
lên hòn núi trong nhiều tiếng đồng hồ, leo xuống vào một
thung lũng khác và leo lên lại. Bạn đã làm việc đó nhiều
lần trước kia, hai lần đến được đỉnh cao nhất của
những hòn núi đá kia. Vượt khỏi chúng ở phía bắc là một
đồng bằng sa mạc bao la. Ở đằng đó rất nóng, ở đây
lại khá lạnh; bạn phải mặc vào thêm một thứ gì đó bất
kể mặt trời nóng.
Và
khi
bạn đi xuống, nhìn những cây cối khác nhau, những thảo
mộc và những côn trùng nhỏ, bỗng nhiên bạn nghe tiếng leng
keng của một con rắn rung chuông. Và bạn nhảy tránh, may mắn
thoát khỏi nó. Bạn chỉ cách nó khoảng mười feet. Nó vẫn
còn đang leng keng. Các bạn nhìn lẫn nhau và quan sát. Những
con rắn không có lông mi. Con rắn này không dài lắm nhưng
khá mập, mập bằng cánh tay của bạn. Bạn giữ khoảng cách
của bạn và bạn quan sát nó rất cẩn thận, sự kết hợp
hài hòa của nó, cái đầu tam giác của nó và cái lưỡi đen
lánh loáng vào loáng ra của nó. Nó không nhúc nhích và bạn
không nhúc nhích. Nhưng lúc này, cái đầu của nó và cái đuôi
của nó hướng về bạn, nó trườn lui và bạn bước tới.
Lại nữa nó cuốn thân dựng đứng và leng keng và các
bạn quan sát lẫn nhau. Và lại nữa, với đầu và đuôi của
nó hướng về bạn, nó bắt đầu lùi lại và tiếp tục di
chuyển về phía trước; và lại nữa nó cuốn thân và leng
keng. Các bạn làm việc này trong nhiều phút, có lẽ mười
phút hay nhiều hơn; sau đó nó bị mệt. Bạn thấy rằng nó
không chuyển động, đang chờ đợi, nhưng khi bạn đến gần,
nó không leng keng. Nó tạm thời mất đi năng lượng của nó.
Bạn rất gần nó. Không giống như con rắn hổ mang dựng đứng
thân mình lên để mổ, con rắn này mổ bằng cách lao về
phía trước. Nhưng không có chuyển động, nó quá mệt nhoài,
thế là bạn bỏ nó lại. Nó là một con vật hoàn toàn nguy
hiểm, độc hại. Có thể bạn sờ chạm được nó nhưng bạn
do dự, dù không hoảng sợ. Bạn cảm thấy rằng tốt hơn
bạn không nên sờ chạm nó và bạn để nó lại một mình.
Và
khi
bạn đi xuống xa hơn nữa bạn suýt giẵm lên một con cút
với khoảng một tá hay nhiều con con hơn. Chúng chạy tán loạn
vào những bụi cây gần bên, và con mẹ cũng biến mất vào
một bụi cây và tất cả bọn chúng gọi nhau. Bạn đi xuống
và chờ đợi, và nếu bạn có đủ kiên nhẫn chờ đợi,
lúc này bạn trông thấy tất cả con con tụ họp lại dưới
đôi cánh của con mẹ. Ở cao trên đó mát lạnh và chúng đang
chờ đợi mặt trời sưởi ấm không khí và quả đất.
Bạn
đi
xuống băng qua con suối nhỏ, qua một đồng cỏ gần như
đang mất đi màu xanh tươi của nó và quay trở lại căn phòng
của bạn khá mệt mỏi nhưng lại hân hoan hứng khởi do chuyến
dạo bộ và do mặt trời buổi sáng. Bạn thấy những cây
cam cùng những quả cam vàng bóng của chúng, những bụi hoa
hồng và những bụi đào hoa trắng hồng và những cây khuynh
diệp cao .Mọi chuyện đều rất an lành trong ngôi nhà.
Một
buổi
sáng dễ chịu, đầy những hoạt động lạ lùng trên
quả đất. Tất cả những sinh vật nhỏ xíu kia đều đang
sống, đang vội vàng loanh quanh, đang sục sạo tìm kiếm bữa
ăn sáng – con sóc kia, con chuột chũi kia. Chúng ăn những cái
rễ mềm của thảo mộc và chúng rất phá hoại. Một con chó
có thể giết chúng rất mau lẹ bằng một cái táp. Rất khô
ráo, những trận mưa đã chấm dứt và qua rồi, để quay trở
lại có lẽ trong bốn tháng nữa hay nhiều hơn. Mọi thứ trong
thung lũng dưới kia vẫn đang lấp lánh. Thật lạ lùng khi
có sự yên lặng ủ ê phủ lên nguyên quả đất. Bất kể
sự ồn ào của những thị trấn và xe cộ, có một cái gì
đó hầu như cảm thấy được và tiếp xúc được, một cái
gì đó thiêng liêng. Nếu bạn hòa thuận cùng thiên nhiên,
cùng tất cả những sự vật quanh bạn, vậy thì bạn hòa
thuận cùng tất cả con người. Nếu bạn mất sự liên hệ
của bạn cùng thiên nhiên hiển nhiên bạn sẽ mất sự liên
hệ của bạn cùng con người.
Nguyên
một nhóm người của chúng tôi đang ngồi tại bàn gần chấm
dứt bữa ăn thì bắt đầu một cuộc nói chuyện nghiêm túc
như thường xảy ra nhiều lần trước kia. Đó là một buổi
bàn luận về nghĩa lý của những từ ngữ, ảnh hưởng của
từ ngữ, nội dung của từ ngữ, không chỉ là nghĩa lý thô
thiển của từ ngữ mà còn là chiều sâu của nó, chất lượng
của nó, cảm thấy của nó. Dĩ nhiên từ ngữ không bao giờ
là sự kiện thực sự. Sự miêu tả, sự giải thích, không
là cái đó mà được miêu tả, cũng không là cái đó mà có
sự giải thích về nó. Từ ngữ, nhóm từ ngữ, sự giải
thích không là sự kiện. Nhưng từ ngữ được sử dụng như
một truyền đạt suy nghĩ của một con người, cảm thấy
của một con người, và từ ngữ, mặc dù nó không truyền
đạt được đến người khác, lại chứa đựng cảm thấy
bên trong của chính người nói. Sự kiện, thực tại không
bao giờ quy định bộ não, nhưng lý thuyết, kết luận, miêu
tả, trừu tượng, đã quy định bộ não. Cái bàn không bao
giờ quy định bộ não nhưng từ ngữ chúa lại quy định,
dù rằng đó là chúa của người Ấn độ giáo, của người
Thiên chúa giáo hay của người Hồi giáo. Khái niệm, hình
ảnh, quy định bộ não, không phải sự kiện đang thực sự
xảy ra, đang diễn ra.
Đối
với
người Thiên chúa giáo, từ ngữ Giê su hay Christ có sự
quan trọng vô cùng, ý nghĩa lớn lao, nó khơi dậy một tình
cảm sâu đậm, một cảm xúc. Những từ ngữ đó không có
ý nghĩa nào cả với người Ấn độ giáo, với người Phật
giáo, hay với người Hồi giáo. Những từ ngữ đó không là
sự kiện, thực tại. Vì thế những từ ngữ đó, mà đã
sử dụng được hai ngàn năm, đã quy định bộ não. Người
Ấn độ giáo có những vị chúa riêng của anh ấy, những
thần thánh riêng của anh ấy. Những thần thánh đó, giống
như của người Thiên chúa giáo, là những chiếu rọi của
tư tưởng, nảy sinh từ sợ hãi từ vui thú và vân vân.
Có
vẻ
rằng ngôn ngữ thực sự không quy định bộ não; cái
gì quy định nó là lý thuyết của ngôn ngữ, sự trừu tượng
của một cảm thấy nào đó và sự trừu tượng mang hình
thức của một ý tưởng, một biểu tượng, một con người
– không phải con người thực sự nhưng một con người được
tưởng tượng ra, hay được mong đợi, hay được chiếu rọi
bởi tư tưởng. Tất cả những trừu tượng kia, những kết
luận, những ý tưởng kia, dù thuyết phục như thế nào chăng
nữa, đều quy định bộ não. Nhưng sự kiện, thực tại,
như cái bàn, không bao giờ quy định.
Ví
dụ
một từ ngữ như “đau khổ”. Từ ngữ đó có một
ý nghĩa khác hẳn đối với người Ấn độ giáo và người
Thiên chúa giáo. Nhưng đau khổ, dù được những từ ngữ
miêu tả như thế nào chăng nữa, đều được chia sẻ bởi
tất cả mọi người chúng ta. Đau khổ là sự kiện, sự thật.
Nhưng khi chúng ta cố gắng tẩu thoát khỏi nó, qua một lý
thuyết nào đó, hay qua một người nào đó được lý tưởng
hóa, hay qua một biểu tượng, những hình thức tẩu thoát
đó đúc khuôn bộ não. Đau khổ như một sự kiện, sự thật
không đúc khuôn bộ não và nhận ra điều này quan trọng lắm.
Như
từ
ngữ “quyến luyến”; hiểu rõ từ ngữ đó, nắm chặt
nó như thể trong bàn tay của bạn và nhìn ngắm nó, cảm thấy
chiều sâu của nó, trọn vẹn nội dung của nó, những kết
cục của nó, sự kiện mà chúng ta quyến luyến – sự kiện,
không phải từ ngữ; cảm thấy đó không định hình bộ não,
không đặt nó vào một cái khuôn, nhưng khoảnh khắc người
ta xê dịch khỏi nó, đó là, khi tư tưởng xê dịch khỏi
sự kiện, chính xê dịch đi khỏi đó, chuyển động của
tẩu thoát, không chỉ là một nhân tố thời gian, mà còn là
sự khởi đầu của định hình bộ não vào một cái khuôn
nào đó.
Đối
với
người Phật giáo từ ngữ Phật, cái ấn tượng, cái
hình ảnh, tạo ra sự sùng kính vô biên, lòng mộ đạo, cảm
thấy tuyệt vời; anh ấy tìm kiếm nơi ẩn náu trong hình ảnh
mà tư tưởng đã hình thành. Và khi tư tưởng đó bị giới
hạn, bởi vì tất cả hiểu biết luôn luôn bị giới hạn,
chính hình ảnh đó gây ra xung đột – cảm thấy của sùng
kính đối với một người, hay đối với một biểu tượng,
hay đối với một truyền thống đã được thiết lập từ
lâu đời nào đó – nhưng chính cảm thấy của sùng kính,
một mình nó, được tách khỏi tất cả những hình ảnh,
những biểu tượng đến từ bên ngoài và vân vân, không là
một nhân tố của sự quy định bộ não.
Đó
kìa,
đang ngồi ở ghế bên cạnh, là một người Thiên chúa
giáo đã thay đổi. Và khi bên kia bàn có người đề cập
đến từ ngữ Giê su thì ngay lập tức người ta có thể cảm
thấy cái khuynh hướng sâu thẳm bên trong đầy tôn kính và
kềm hãm của người đó. Từ ngữ đó đã quy định bộ não.
Hoàn toàn lạ lùng khi quan sát toàn bộ hiện tượng truyền
đạt bằng những từ ngữ này, mỗi chủng tộc lại cho tầm
quan trọng và ý nghĩa khác biệt đến từ ngữ và vì vậy
tạo ra một phân chia, một giới hạn, đến cảm thấy là
nhân loại đau khổ. Đau khổ của nhân loại đều giống nhau,
được chia sẻ bởi tất cả những con người. Người Nga
có lẽ diễn tả nó theo một cách, người Ấn độ giáo, người
Thiên chúa giáo theo một cách khác và vân vân, nhưng sự kiện
của đau khổ, cảm thấy thực sự của đau buồn, sầu muộn,
cô độc, cảm thấy đó không bao giờ tạo khuôn mẫu hay quy
định bộ não. Thế là người ta trở nên rất chú ý đến,
rất ý thức được, những tinh tế của từ ngữ, ý nghĩa,
ảnh hưởng của nó.
Cảm
thấy
vũ trụ, cảm thấy toàn cầu của tất cả những con
người và sự liên hệ lẫn nhau của họ, chỉ có thể hiện
hữu khi những từ ngữ như là “quốc gia”, “bộ lạc”,
“tôn giáo”, đều hoàn toàn biến mất. Dù rằng từ ngữ
đó có sâu sắc, quan trọng, hay không gì cả. Đối với hầu
hết mọi người chúng ta những từ ngữ không còn diễn tả
chính xác ý nghĩa của nó nữa, chúng đã mất đi ảnh hưởng
của chúng. Một con sông không là một con sông cá biệt. Những
con sông của nước Mỹ hay nước Anh hay Châu âu đều là những
con sông, nhưng ngay khoảnh khắc có sự nhận dạng qua một
từ ngữ, có sự phân chia. Và phân chia này là một nhận thức
không thật của con sông đó, chất lượng của nước, chiều
sâu của nước, khối lượng, dòng chảy, vẻ đẹp của con
sông.
Thứ năm, ngày 12 tháng 5* năm 1983
Đã
bình minh ở những vĩ tuyến phía bắc này. Ở những vĩ tuyến
này bình minh bắt đầu rất sớm và kéo dài rất lâu. Khởi
đầu của bình minh và khởi đầu của một ngày là một trong
những việc đẹp đẽ nhất trên quả đất.
Sau
một
đêm bão tố, cây cối bị vùi dập liên hồi, những
chiếc lá bị lay động và những nhánh khô bị gẫy, những
cơn gió đeo đuổi dai dẳng đã tẩy sạch không khí, khô ráo.
Bình minh đang quét trên quả đất rất chậm chạp; có một
chất lượng lạ thường sáng nay, đặc biệt sáng nay – có
thể bởi những cơn gió của ngày hôm qua. Nhưng bình minh vào
một ngày đặc biệt này là một việc gì đó còn hơn
bình minh của những ngày khác. Nó hoàn toàn yên lặng. Bạn
hầu như không dám thở vì sợ quấy rầy những sự vật khác.
Những chiếc lá đứng yên, ngay cả những chiếc lá non nớt
nhất. Dường như nguyên quả đất đang ngưng thở, có thể
để bày tỏ sự sùng kính. Và dần dần mặt trời đã chạm
đỉnh của những hòn núi, màu cam, màu vàng, và có những
đốm ánh sáng trên những quả đồi khác. Và vẫn vậy có
sự tĩnh lặng lớn lao. Rồi thì những tiếng ồn bắt đầu
– bài hát của những con chim, con chim ưng đuôi đỏ bay lượn
trong bầu trời, và con chim bồ câu bắt đầu âm điệu ai
oán của nó – nhưng sự tĩnh lặng của bình minh ở trong
buổi sáng, trong toàn quả đất.
Nếu
bạn
đi xuống phía dưới quả đồi, ở cao bên kia thung lũng,
qua những cánh rừng cam và vài bãi cỏ xanh, qua những cây
khuynh diệp cao mảnh khảnh, bạn đến một quả đồi trên
đó có nhiều tòa nhà. Nó là một học viện dành cho một
thứ này hay thứ
* Sinh
nhật lần thứ 88 của Krishnamurti.
khác,
và
bên kia thung lũng có một sân gôn dài, được chăm sóc
cẩn thận; chúng tôi đã chơi ở đó cách đây lâu rồi. Người
ta đã quên cái sân này, những hố cát, nhưng kia kìa nó vẫn
còn đó, được bảo dưỡng rất tốt. Người ta trông thấy
khá nhiều người cùng những cái túi nặng nề đang chơi
ở đó. Trong những ngày trước người ta có một
cái túi đựng sáu cây gậy nhưng bây giờ có khoảng một
tá. Nó đang trở nên quá chuyên nghiệp, quá đắt tiền.
Bạn
đi
qua một quả đồi khác, và ở đó cũng vậy có nhiều
học viện, những cơ quan, những tổ chức thuộc gần như
đủ mọi loại. Khắp mọi nơi trên thế giới có vô vàn học
viện, những khu diễn đàn, những tổ chức hướng dẫn bên
ngoài và bên trong. Mọi nơi bạn đi trong thế giới tạm gọi
là tự do này đều có mọi loại học viện, tổ chức, diễn
đàn, để làm việc này và để làm việc kia, để mang lại
hòa bình cho con người, để bảo tồn cuộc sống hoang dã,
để cứu thoát nhiều loại động vật và vân vân. Hiện nay
nó gây khá nhiều hoang mang và khá tầm thường – những nhóm
của việc này và những nhóm của việc kia, mỗi nhóm có những
người đứng đầu riêng của nó, những chủ tịch và thư
ký riêng của nó, người thành lập nó và người theo anh ấy.
Thật kỳ lạ làm sao khi có tất cả những học viện và những
tổ chức nhỏ bé này. Và từ từ chúng bắt đầu thoái hóa;
có thể đó là điều cố hữu trong tất cả những học viện,
gồm cả những học viện giúp đỡ con người phía bên ngoài,
như những học viện dành cho hiểu biết rộng rãi hơn. Những
tổ chức đó có thể cần thiết, nhưng người ta khá giật
mình khi thấy rằng cũng có những nhóm hướng dẫn nội
tâm thuộc vô số kiểu và thực hành những loại thiền định
khác nhau. Những nhóm này khá kỳ cục khi sử dụng hai từ
ngữ “hướng dẫn nội tâm” kia – ai là người hướng
dẫn và cái gì là điều hướng dẫn? Người hướng dẫn
có khác điều hướng dẫn không? Có vẻ chúng ta không bao
giờ đặt ra những nghi vấn cốt lõi.
Có
những
tổ chức giúp đỡ con người trong thế giới vật chất,
được điều khiển bởi những con người mà trong chính bản
thân họ đều có những vấn đề của họ cùng những tham
vọng và những thành tựu của họ, đang tôn sùng thành công,
nhưng việc đó hầu như có vẻ không tránh khỏi và loại
sự việc đó đã và đang diễn tiến được hàng ngàn và
hàng ngàn năm. Nhưng có những học viện nghiên cứu về con
người hay mang lại hòa bình cho con người không? Liệu những
hệ thống khác nhau, được đặt nền tảng trên một kết
luận nào đó, có thực sự giúp đỡ con người không? Hiển
nhiên tất cả những người tổ chức trên thế giới cảm
thấy rằng họ làm việc đó, nhưng liệu họ đã thực sự
giúp đỡ con người được tự do khỏi nỗi thống khổ, đau
thương, lo âu và mọi lao dịch trong cuộc sống của anh ấy?
Liệu có một tác nhân bên ngoài, dù cao cả bao nhiêu, dù được
thành lập trong một loại truyền thống có ý tưởng kỳ bí
nào đó, có thay đổi được con người hay không?
Điều
gì
theo cơ bản sẽ tạo ra một thay đổi triệt để trong
sự tàn bạo của con người, chấm dứt những cuộc chiến
tranh anh ấy đã trải qua và xung đột vô tận trong đó anh
ấy sống? Hiểu biết sẽ giúp anh âý được không? Nếu bạn
thích dùng từ ngữ đó, tiến hóa – con người đã tiến
hóa qua hiểu biết. Từ những ngày cổ xưa anh ấy đã thâu
lượm nhiều thông tin, hiểu biết về thế giới quanh anh ấy,
trên anh ấy, từ chiếc xe bò kéo đến máy bay phản lực,
từ chiếc máy bay phản lực đến bay lên mặt trăng, và vân
vân. Có sự tiến bộ khủng khiếp trong tất cả những việc
này. Nhưng hiểu biết này có cách nào chấm dứt được sự
ích kỷ của anh ấy, sự hung hăng, liều lĩnh ganh đua của
anh ấy không? Rốt cuộc ra, hiểu biết là nhận thức được
và biết được tất cả những sự việc của thế giới,
thế giới được tạo thành như thế nào, những thành tựu
của con người từ khi bắt đầu đến ngày nay. Chúng ta đều
được thông tin rõ ràng, một số vấn đề nhiều hơn, một
số vấn đề ít hơn, nhưng ở bên trong chúng ta rất hoang
sơ, gần như man rợ, dù bên ngoài chúng ta có lẽ có văn hóa
nhiều bao nhiêu, dù được thông tin rõ ràng về nhiều, nhiều
sự việc, có thể tranh luận, thuyết phục, để đến được
vài quyết định và kết luận. Việc này có thể tiếp tục
không ngưng nghỉ ở phía bên ngoài. Có hàng tá và hàng tá
những chuyên gia đặc biệt của mọi loại, nhưng người ta
tra xét một cách nghiêm túc: liệu có thể có bất kỳ loại
tác nhân bên ngoài nào, kể cả chúa, giúp đỡ được con
người kết thúc sự đau khổ của anh ấy, sự lo âu, sự
hoang mang, sự cô độc hoàn toàn của anh ấy và vân vân hay
không? Hay là anh âý phải luôn luôn sống cùng việc đó, chịu
đựng nó, quen thuộc nó và nói rằng nó là một phần của
cuộc sống? Hầu hết nhân loại khắp thế giới chịu đựng
nó, chấp nhận nó. Hay là họ có những học viện để cầu
nguyện cho một sự việc nào đó phía bên ngoài – cầu nguyện
cho hòa bình, tổ chức những cuộc biểu tình vì hòa bình,
nhưng không có hòa bình trong tâm hồn con người.
Điều
gì
sẽ thay đổi con người? Anh ấy đã chịu đựng đau khổ
liên tục, bị trói buộc trong mạng lưới của sợ hãi, luôn
luôn theo đuổi vui thú. Việc này đã là dòng chảy của cuộc
đời anh ấy, và có vẻ không có gì thay đổi nó được.
Thay vì bi quan về tất cả nó, hay cay đắng, hay tức giận,
nó giống như thế đó, cuộc sống là như thế đó, và chúng
ta hỏi, làm thế nào tất cả việc đó có thể được thay
đổi? Chắc chắn không bằng một tác nhân bên ngoài. Con người
phải đối diện nó, không lẩn tránh nó, và tìm hiểu nó
mà không van xin bất kỳ sự trợ giúp nào; anh ấy là chủ
nhân của chính bản thân mình. Anh ấy đã làm ra xã hội này,
anh ấy có trách nhiệm với nó, và chính trách nhiệm này đòi
hỏi rằng anh ấy phải tạo ra một thay đổi trong chính bản
thân anh ấy. Nhưng rất ít người lưu tâm đến tất cả việc
này. Đối với đại đa số mọi người, suy nghĩ của họ
hoàn toàn dửng dưng, vô trách nhiệm, đang tìm kiếm để thỏa
mãn cuộc sống ích kỷ riêng của họ, đang làm thanh cao những
thèm khát của họ nhưng vẫn còn đang giữ lại ích kỷ.
Xem
xét
tất cả việc này không phải đang là một người bi quan
hay đang cố gắng là một người lạc quan. Người ta phải
xem xét tất cả việc này. Và bạn là người duy nhất có
thể thay đổi chính bản thân bạn và xã hội mà bạn sống
trong nó. Đó là một sự kiện, sự thật, và bạn không thể
tẩu thoát nó. Nếu bạn cứ tẩu thoát nó vậy thì bạn sẽ
không bao giờ có hòa bình trên quả đất này, không bao giờ
có một ý thức của hân hoan vĩnh cửu, một phước lành.
Bình
minh đã qua và một ngày mới bắt đầu. Thực sự là một
ngày mới, một buổi sáng mới. Và khi người ta nhìn quanh,
người ta kinh ngạc vì vẻ đẹp của đất đai và cây cối
và sự phong phú của nó. Thực sự là một ngày mới và điều
kỳ diệu của nó hiện hữu, nó ở đó.
BROCKWOOD
PARK,* HAMPSHIRE
Thứ
hai,
ngày 30 tháng 5 năm 1983
Ở
đây mỗi ngày đã có mưa ròng rã trên một tháng. Khi bạn
đến từ một khí hậu như California nơi những cơn mưa đã
ngừng cách đây một tháng, nơi những cánh đồng xanh tươi
đang cạn khô và đang chuyển màu cháy nắng và mặt trời
rất nóng [đã trên 90oF và vẫn còn nóng hơn, mặc dầu họ
nói rằng sắp sửa có một mùa hè mát dịu] – khi bạn đến
từ khí hậu đó bạn sẽ phải giật mình và ngạc nhiên khi
nhìn thấy những bãi cỏ xanh tươi, những cái cây xanh tuyệt
đẹp và những cây sồi có màu đồng chiếu sáng, một màu
nâu lạt, đang lan rộng, đang trở nên dần dần sẫm hơn và
sẫm hơn. Trông thấy chúng giữa những cây cối màu xanh là
một niềm vui. Chúng sắp sửa có màu rất sẫm vì mùa hè
bắt đầu. Và quả đất này rất đẹp. Quả đất, dù nó
là sa mạc hay đầy những vườn cây ăn quả và những đồng
cỏ xanh tươi, rực rỡ, luôn luôn đẹp đẽ.
Dạo
bộ
trong những cánh đồng hòa cùng gia súc và những con cừu
non, và trong những cánh rừng hòa cùng tiếng hót líu lo của
chim chóc, không một tư tưởng nào trong cái trí của bạn,
chỉ nhìn ngắm quả đất, cây cối, những con cừu và lắng
nghe những con chim cu gọi nhau và những con chim bồ câu rừng;
dạo bộ mà không còn bất kỳ cảm xúc nào, bất kỳ cảm
tính nào, nhìn ngắm cây cối và toàn quả đất: khi bạn nhìn
ngắm như thế, bạn học hỏi suy nghĩ riêng của bạn, ý thức
về những phản ứng riêng của bạn và không cho phép một
tư tưởng nào tẩu thoát khỏi bạn mà không
*Từ
14-22 tháng 5 có một cuộc họp mặt tại Ojai và trong suốt
thời gian đó Krishnamurti có bốn buổi nói chuyện và tổ chức
những buổi gặp gỡ Câu hỏi và Trả lời. Ngày 27-5 ông đi
máy bay đến nước Anh và tới ở tại Brockwood Park.
hiểu
rõ
tại sao nó đã đến, điều gì đã là nguyên nhân của
nó. Nếu bạn cảnh giác, không bao giờ cho phép một tư tưởng
rời khỏi, ngay đó bộ não trở nên rất yên lặng. Sau đó
bạn nhìn ngắm trong yên lặng bao la và yên lặng đó có chiều
sâu vô hạn, một vẻ đẹp vĩnh cửu không thể làm hư hỏng.
Cậu bé giỏi trong những trò chơi, thực sự rất giỏi. Cậu ta cũng giỏi trong công việc học tập nữa; cậu ta rất nghiêm túc. Vì thế vào một ngày cậu ta đến gặp giáo viên và hỏi, “Thưa thầy, em có thể có một cuộc nói chuyện với thầy được không?” Người giáo dục đồng ý, “Được chứ, chúng ta có thể nói chuyện; chúng ta hãy ra ngoài dạo bộ.” Thế là họ nói chuyện. Đó là cuộc nói chuyện giữa người dạy học và người được dạy, một cuộc nói chuyện trong đó có sự tôn trọng ở cả hai bên, và vì người dạy học cũng nghiêm túc, nên cuộc nói chuyện rất thú vị, thân thiện, và họ đã quên rằng ông ấy là một thầy giáo với một học sinh; địa vị được quên bẵng, sự quan trọng của một người mà có nhiều hiểu biết, cái uy quyền, và người còn lại mà hiếu kỳ.
“Thưa
thầy, em thắc mắc không hiểu thầy có biết tất cả việc
này là gì không, tại sao em đang nhận một sự giáo dục,
nó sẽ có một vai trò gì khi em lớn lên, em có vai trò gì
trong thế giới này, tại sao em phải học hành, tại sao em
phải lập gia đình và tương lai của em là gì? Dĩ nhiên em
hiểu rằng em phải học hành và vượt qua vài loại kỳ thi
nào đó và em hy vọng sẽ có thể vượt qua chúng. Em có thể
sẽ sống được một số năm, có lẽ năm mươi, sáu mươi
năm hay nhiều hơn, và trong tất cả những năm sắp đến đó
cuộc sống của em và cuộc sống của những người chung quanh
em sẽ ra sao? Em sẽ là gì và mục đích chính của nhiều tiếng
đồng hồ dài trên sách vở và nghe các giáo viên là gì? Có
lẽ có một cuộc chiến tranh hủy diệt; tất cả chúng ta
có lẽ bị giết chết. Nếu chết chóc là tất cả đang chờ
sẳn phía trước, vậy thì mục đích của tất cả sự giáo
dục này là gì? Xin vui lòng lượng thứ, em đang hỏi những
câu hỏi này hoàn toàn nghiêm túc vì em cũng đã nghe những
thầy giáo khác và thầy chỉ ra nhiều vấn đề trong những
sự việc này.”
‘Thầy
muốn
trả lời từng câu hỏi một. Em đã hỏi nhiều câu
hỏi, em đã đưa ra nhiều vấn đề cho thầy, vì vậy trước
hết chúng ta sẽ chú ý đến câu hỏi có lẽ là quan trọng
nhất: tương lai của nhân loại và của chính em là gì? Như
em biết, bố mẹ em khá giàu có và dĩ nhiên họ muốn giúp
đỡ em bằng mọi cách họ có thể làm được. Có lẽ nếu
em lập gia đình họ có thể cho em một ngôi nhà, mua một ngôi
nhà với mọi vật dụng cần thiết trong nó, và em có lẽ
có một người vợ đẹp – có lẽ. Vì thế đó là cái gì
mà em sẽ là phải không? Cái con người tầm thường như thông
thường phải không? Có một công việc làm, yên tâm với tất
cả những vấn đề quanh em và trong em – đó là tương lai
của em phải không? Dĩ nhiên một cuộc chiến tranh có lẽ
đến, nhưng nó có lẽ không xảy ra. Chúng ta hãy hy vọng con
người có lẽ đến được nhận thức rằng những cuộc chiến
tranh thuộc bất kỳ loại nào sẽ không bao giờ giải quyết
được bất kỳ những vấn đề nào của con người. Con người
có lẽ tiến bộ, họ có lẽ phát minh những máy bay tối tân
hơn và vân vân nhưng những cuộc chiến tranh đã không bao
giờ giải quyết được những vấn đề của con người và
chúng sẽ không bao giờ giải quyết được. Vì thế trong lúc
này chúng ta hãy quên rằng tất cả mọi người trong chúng
ta có lẽ sẽ bị hủy diệt qua sự điên khùng của những
quốc gia siêu cường, qua sự điên khùng của những người
khủng bố hay của một kẻ mị dân cầm quyền một quốc
gia nào đó đang muốn hủy diệt những kẻ thù bị sáng chế
bởi họ. Chúng ta hãy quên tất cả việc đó trong lúc này.
Chúng ta hãy suy xét xem tương lai của em là gì, biết rằng
em là thành phần của phần còn lại của thế giới. Tương
lai của em là gì? Như thầy đã hỏi, để là một con người
tầm thường phải không? Tầm thường có nghĩa là đi nửa
đoạn đường thẳng lên quả đồi, nửa đoạn đường trong
mọi sự việc, không bao giờ đi thẳng lên ngay đỉnh của
hòn núi hay không bao giờ đòi hỏi vận dụng hết năng lượng
của em, khả năng của em, không bao giờ đòi hỏi sự hoàn
hảo.
Dĩ
nhiên
em phải nhận ra rằng cũng sẽ có mọi áp lực từ bên
ngoài – những áp lực để làm việc này, tất cả những
áp lực và tuyên truyền thuộc các hệ tôn giáo chật hẹp
khác nhau. Tuyên truyền không bao giờ có thể nói lên sự thật;
sự thật không bao giờ có thể tuyên truyền được. Vì thế
thầy hy vọng em nhận ra áp lực tác động vào em – áp lực
từ bố mẹ của em, từ xã hội của em, từ truyền thống
để là một nhà khoa học, để là một triết gia, để là
một nhà vật lý, một người đảm nhận công việc nghiên
cứu trong bất kỳ lãnh vực nào; hay để là một người kinh
doanh. Nhận ra tất cả sự việc này, mà em phải làm tại
cái tuổi của em, em sẽ đi hướng nào? Chúng ta đang nói về
tất cả những sự việc này trong nhiều học kỳ, và có thể,
nếu người ta được phép nói rõ, em đã vận hành trí óc
của em vào tất cả sự việc này. Do đó vì chúng ta có một
chút ít thời gian đi cùng nhau quanh quả đồi và quay trở
lại, thầy đang hỏi em, không phải như một thầy giáo nhưng
bằng thương yêu như một người bạn quan tâm chân thật,
tương lai của em là gì? Ngay cả khi em đã quyết định sẽ
vượt qua những kỳ thi nào đó và có một nghề nghiệp, một
nghề nghiệp tốt, em vẫn còn phải hỏi, đó là tất cả
à? Ngay cả khi em đã có một nghề nghiệp tốt rồi, có lẽ
một cuộc sống tương đối hài lòng, em sẽ có nhiều lo âu,
những khó khăn. Nếu em có một gia đình, tương lai của con
cái em sẽ ra sao? Đây là một câu hỏi mà em phải tự trả
lời cho chính em và có lẽ chúng ta có thể nói chuyện về
nó. Em phải suy nghĩ về tương lai của con cái em, không chỉ
tương lai riêng của em, và em phải suy nghĩ về tương lai của
nhân loại, và quên rằng em là người Đức, người Pháp,
người Anh hay người Ấn độ. Chúng ta hãy nói chuyện về
nó, nhưng làm ơn hiểu rằng thầy không đang bảo em nên làm
gì. Chỉ những người ngu dốt mới khuyên bảo, vì vậy thầy
không ở trong bảng phân loại đó. Thầy chỉ đang hỏi bằng
một thái độ thân thiện, mà thầy hy vọng em nhận ra; thầy
không đang thúc ép em, điều khiển em, thuyết phục em. Tương
lai của em là gì? Em sẽ trưởng thành nhanh hay chậm, duyên
dáng, nhạy cảm? Em sẽ tầm thường, mặc dầu em có lẽ giỏi
nhất trong nghề nghiệp của em? Em có lẽ xuất sắc, em có
lẽ rất, rất giỏi khi làm bất cứ việc gì, nhưng thầy
đang nói về sự tầm thường của cái trí, của tâm hồn,
sự tầm thường của toàn thân tâm em.’
“Thưa thầy, em thực sự không biết trả lời những câu hỏi này như thế nào. Em đã không suy nghĩ về nó nhiều lắm, nhưng khi thầy hỏi câu hỏi này, liệu rằng em có ý định trở thành giống như những người còn lại của thế giới, tầm thường, chắc chắn em không muốn như thế. Em cũng nhận ra sức quyến rũ của thế giới. Em cũng thấy được một phần trong con người em thèm muốn tất cả sự việc đó. Em muốn có một chút vui vẻ nào đó, những lần hạnh phúc nào đó, nhưng phần còn lại của em cũng hiểu được sự nguy hiểm của tất cả việc đó, những khó khăn, những thôi thúc, những cám dỗ. Vì vậy em thực sự không biết rõ kết cục em sẽ ở đâu. Và cũng vậy, vì thầy đã chỉ rõ trong nhiều dịp, chính em không biết được em là gì. Một việc rất chắc chắn, em thực sự không muốn là một con người tầm thường với một cái trí và tâm hồn nhỏ bé, mặc dù với một bộ não có lẽ thông minh cực kỳ. Em có lẽ học những quyển sách và kiếm được nhiều hiểu biết, nhưng có lẽ em vẫn còn là một con người rất nông cạn, bị giới hạn. Tầm thường, thưa thầy, là một từ ngữ rất đúng mà thầy đã sử dụng và khi tìm hiểu nó em bị kinh hãi – không phải về cái từ ngữ nhưng về toàn bộ những ngụ ý của sự việc gì thầy đã trình bày. Em thực sự không hiểu rõ, và có lẽ khi nói chuyện với thầy về việc đó mọi vấn đề có lẽ đều được thông suốt. Em không thể quá dễ dàng khi nói chuyện với bố mẹ em. Họ có thể cũng có cùng những vấn đề như em; về thân thể họ có lẽ trưởng thành nhiều hơn nhưng họ có lẽ ở cùng vị trí như em. Vì vậy nếu em được phép hỏi, thưa thầy, em xin phép có được một dịp khác, nếu thầy sẵn lòng, cho em thưa chuyện cùng thầy? Em thực sự cảm thấy khá hoảng hốt, căng thẳng, sợ hãi về khả năng của em để đương đầu tất cả việc này, đối mặt nó, thành tựu nó và không trở thành một con người tầm thường.”
Đó là một trong những buổi sáng kia mà không bao giờ đã là trước kia: cánh đồng cỏ gần bên, những cây sồi màu đồng bất động và con đường nhỏ dẫn vào cánh rừng sâu hơn – tất cả đều yên lặng. Không một con chim nào ríu rít và những con ngựa gần bên đang đứng bất động. Một buổi sáng như thế này, trong lành, non nớt, là một sự việc hiếm hoi. Có an bình trong vùng đất này và mọi thứ đều rất yên lặng. Có cảm thấy đó, cảm thấy tĩnh lặng tuyệt đối đó. Nó không là một cảm tính lãng mạn, không là tưởng tượng của thi ca. Nó đã là và là. Một việc đơn giản là tất cả sự việc này hiện hữu. Sáng nay những cây sồi màu đồng đầy tráng lệ tương phản những cánh đồng xanh trải dài rất xa, và một đám mây đầy ánh ban mai đang lười biếng trôi qua. Mặt trời vừa ló dạng, có một an bình vô biên và một ý thức tôn kính. Không phải sự tôn kính của chúa hay thần thánh tưởng tượng nào đó nhưng một tôn kính được sinh ra từ vẻ đẹp vô biên. Sáng nay người ta có thể buông bỏ tất cả những sự việc mà người ta đã thâu lượm và yên lặng hòa cùng những cánh rừng lẫn cây cối và bãi cỏ đứng yên. Bầu trời có màu thanh thanh và mong manh và xa xa bên kia những cánh đồng một con chim cu đang kêu, những con chim bồ câu rừng đang gù gù và những con chim két bắt đầu tiếng líu lo buổi sáng của chúng. Từ xa vọng lại bạn có thể nghe một chiếc xe đang chạy qua. Có thể khi bầu trời thật yên lặng và nhẹ nhàng sẽ có mưa sau đó. Luôn luôn có mưa khi buổi sáng rất quang đãng. Nhưng sáng nay tất cả rất đặc biệt, một việc gì đó chưa bao giờ đã là trước kia và có thể không bao giờ lại là.
‘Thầy rất vui khi em tự nguyện quay lại đây, không cần mời mọc, và có lẽ nếu em sẵn sàng, chúng ta có thể tiếp tục nói chuyện về đề tài tầm thường và tương lai của cuộc đời em. Người ta có thể xuất sắc trong nghề nghiệp của người ta; chúng ta không đang nói rằng có sự tầm thường trong tất cả những nghề nghiệp; một người thợ mộc giỏi có lẽ không tầm thường trong công việc của ông ấy nhưng trong cuộc sống phía bên trong, hàng ngày của ông ấy, cuộc sống của ông ấy với gia đình, ông ấy có lẽ tầm thường. Lúc này cả hai chúng ta đều hiểu rõ nghĩa lý của từ ngữ đó và chúng ta nên cùng nhau tìm hiểu chiều sâu của từ ngữ đó. Chúng ta đang nói về sự tầm thường phía bên trong, những xung đột, những vấn đề và lao dịch thuộc tâm lý. Có thể có những nhà khoa học tài ba tuy nhiên phía bên trong lại sống một cuộc sống tầm thường. Vì vậy điều gì sắp sửa là cuộc sống của em? Trong vài lãnh vực em là một học sinh thông minh, nhưng em sẽ dùng bộ não của em vào việc gì? Chúng ta không đang nói về nghề nghiệp của em, điều đó sẽ được đề cập sau; điều gì chúng ta nên quan tâm là cái phương cách em sắp sửa sống. Dĩ nhiên em không là một tội phạm theo nghĩa thông thường của từ ngữ đó. Nếu em khôn ngoan, em sẽ không là một người áp bức; điều đó quá hung hăng. Em sẽ có thể có được một công việc tuyệt vời, làm những việc tuyệt vời trong bất kỳ công việc nào em lựa chọn để làm. Vì vậy chúng ta hãy gạt vấn đề đó đi trong chốc lát; nhưng ở bên trong, tương lai của em là gì? Có phải em sắp sửa giống như những người còn lại của thế giới, luôn luôn theo đuổi vui thú, luôn luôn bị lo âu bởi hàng tá những vấn đề thuộc tâm lý?’
“Thưa thầy, lúc này em không có những lo âu nào cả, ngoại trừ những lo âu để vượt qua những kỳ thi và sự rã rời của tất cả việc đó. Về những phương diện khác có vẻ em không có những vấn đề nào. Có một tự do nào đó. Em cảm thấy hạnh phúc, trẻ trung. Khi em trông thấy tất cả những người già nua này em tự hỏi chính mình, có phải em sẽ kết thúc giống như thế phải không? Họ dường như đã có những nghề nghiệp tốt hay đã thực hiện được một điều gì đó mà họ muốn nhưng bất kể những việc đó họ trở nên buồn chán, tối tăm, và dường như họ đã không bao giờ có được sự hoàn hảo xuất sắc trong những chất lượng sâu sắc hơn của bộ não. Chắc chắc em không muốn là như thế. Đó không phải do kiêu ngạo nhưng em muốn có một cái gì đó khác hẳn. Đó không là một tham vọng. Em muốn có một nghề nghiệp tốt và mọi chuyện như thế nhưng chắc chắn em không muốn trở thành giống như những người già nua này mà dường như đã mất đi mọi thứ họ thích.”
‘Em có lẽ không muốn giống như họ nhưng cuộc sống là một sự việc rất tàn khốc và đòi hỏi nỗ lực cao. Nó sẽ không cho phép em được tự do một mình . Em sẽ chịu đựng áp lực lớn lao từ xã hội dù em sống ở đây hay nước Mỹ hay ở bất kỳ vùng đất nào khác của thế giới. Em sẽ liên tục bị thúc đẩy để trở thành giống như những người còn lại, trở thành một điều gì đó của một người đạo đức giả; nói những việc em thực sự không muốn nói, và nếu em lập gia đình mà có lẽ cũng gia tăng những vấn đề. Em phải hiểu rằng cuộc sống là một sự việc rất phức tạp – không chỉ là theo đuổi cái gì em muốn mà còn phải kiên trì với nó. Những con người trẻ tuổi này muốn trở thành một cái gì đó – những luật sư, những kỹ sư, những chính khách và vân vân; có sự thôi thúc, động cơ của tham vọng tìm kiếm quyền lực, tiền bạc. Đó là điều gì những người già em nói đến đều đã trải qua. Họ bị kiệt sức bởi xung đột liên tục, bởi những ham muốn của họ. Hãy quan sát việc đó, hãy quan sát những người chung quanh em. Tất cả họ đều cùng ở trong một con thuyền. Một số người rời bỏ con thuyền và lang thang không ngừng nghỉ và chết. Một số người tìm kiếm một góc an bình nào đó của quả đất và ẩn dật; một số người gia nhập một tu viện, trở thành những thầy tu của nhiều loại khác nhau, cam kết những lời thề rất nghiêm túc. Đa số người, hàng triệu và hàng triệu, sống một cuộc sống rất tầm thường, tầm nhìn của họ rất hạn chế. Họ có những đau khổ của họ, những vui thú của họ và họ dường như không bao giờ thoát khỏi chúng hay hiểu rõ chúng và vượt khỏi. Vì vậy một lần nữa chúng ta hỏi nhau, tương lai của chúng ta là gì, chính xác ra tương lai của em là gì? Dĩ nhiên em còn quá trẻ không thể thâm nhập vào câu hỏi này sâu sắc lắm, vì tuổi trẻ không liên quan gì lắm đến sự hiểu rõ thấu đáo của câu hỏi này. Em có lẽ là một người không tin có chúa; những người trẻ tuổi không tin gì cả, nhưng khi em lớn hơn lúc đó em dựa vào một hình thức nào đó của mê tín, tín điều thuộc tôn giáo, niềm tin thuộc tôn giáo. Tôn giáo không là một viên thuốc phiện, nhưng con người đã tạo ra tôn giáo trong hình ảnh riêng của anh ấy, sự an ủi mù quáng và vì vậy an toàn. Anh âý đã biến tôn giáo thành một thứ gì đó hoàn toàn không thông minh và không thực tế, không phải một việc gì đó mà em có thể sống cùng. Em bao nhiêu tuổi rồi?’
“Em sắp sửa mười chín tuổi, thưa thầy. Bà của em đã để lại cho em một chút gì đó khi em hai mươi mốt và có lẽ trước khi em vào đại học em có thể đi du lịch và quan sát thế giới. Nhưng em sẽ luôn luôn ôm theo nghi vấn này cùng em bất kỳ nơi nào em đi, bất kể tương lai của em là gì. Em có lẽ lập gia đình, có thể em sẽ, và có con cái, và thế là nghi vấn to lớn nổi lên – tương lai của con cái em là gì? Trong chừng mực nào đó em ý thức được điều gì các chính trị gia đang làm vào lúc này khắp thế giới. Như em có thể hiểu được nó là công việc xấu xa, vì thế em nghĩ em sẽ không là một chính trị gia. Em khá chắc chắn về việc đó nhưng em muốn có một công việc tốt. Em thích làm việc bằng hai bàn tay và bằng bộ não của em nhưng nghi vấn sẽ là làm thế nào không trở thành một con người tầm thường giống như chín mươi chín phần trăm con người của thế giới. Vì thế, thưa thầy, em sẽ làm gì đây? Ồ, vâng em hiểu rõ các nhà thờ và đền chùa và tất cả việc đó; em không bị chúng lôi cuốn. Trái lại em còn phản kháng tất cả việc đó – các vị linh mục và các chức sắc của uy quyền, nhưng làm thế nào em sẽ ngăn chặn chính em không trở thành một con người tầm thường, xoàng xĩnh, bình thường.”
‘Nếu
thầy được phép đề nghị, dưới bất kỳ hoàn cảnh nào
đừng bao giờ hỏi “làm thế nào”. Khi em dùng từ ngữ
“làm thế nào” em thực sự cần một người nào đó chỉ
cho em phải làm gì, sự hướng dẫn nào đó, một hệ thống
nào đó, một người nào đó kề kề một bên đến nỗi em
mất tự do của em, khả năng quan sát của em, những hoạt
động riêng của em, những suy nghĩ riêng của em, cách sống
riêng của em. Khi em hỏi “làm thế nào” em thực sự đã
trở thành con người nhai lại; em mất đi tánh tổng thể và
cũng cả tánh chân thật bẩm sinh để nhìn ngắm bản thân
em, để là em là gì và để vượt khỏi và ở trên em là
gì. Đừng bao giờ, đừng bao giờ đặt câu hỏi “làm thế
nào”. Em phải hỏi “làm thế nào” khi em muốn lắp ráp
một động cơ hay một máy vi tính. Em phải học một điều
gì đó về nó từ một người nào đó. Nhưng được tự do
và có tánh sáng tạo thuộc tâm lý chỉ có thể xảy ra khi
em ý thức rõ những hoạt động riêng bên trong em, cảnh giác
điều gì em đang suy nghĩ và không bao giờ cho phép một suy
nghĩ nào tẩu thoát mà không quan sát được bản chất của
nó, nguồn gốc khởi đầu của nó. Quan sát, nhìn ngắm. Người
ta học hỏi về chính mình rất nhiều bằng cách nhìn ngắm
hơn là từ những quyển sách hay từ một nhà tâm lý hay từ
một học giả, giáo sư uyên bác, thông minh, phức tạp.
Điều
đó
sẽ khó khăn lắm, người bạn của tôi ạ. Nó có thể
xé vụn em trong nhiều phương hướng. Có quá nhiều cám dỗ
tạm gọi như thế – thuộc sinh học, thuộc xã hội và em
có thể bị chỉ trích gay gắt, phân rã hoàn toàn bởi sự
tàn bạo của xã hội. Dĩ nhiên em sẽ phải đứng một mình
nhưng việc đó phải xảy ra không do cưỡng bách, cả quyết
hay khao khát nhưng nó xảy ra khi em bắt đầu nhận thấy những
sự việc giả dối quanh em và trong chính em: những cảm xúc,
những hy vọng. Khi em bắt đầu nhận thấy điều giả dối,
ngay đó có khởi đầu của tỉnh thức, của thông minh. Em
phải là một ngọn đèn cho chính em và đó là một trong những
sự việc khó khăn nhất trong cuộc sống.’
“Thưa thầy, thầy đã đánh giá tất cả việc đó có vẻ quá khó khăn, quá phức tạp, quá kinh hoàng, quá hoảng sợ.”
‘Thầy
chỉ đang vạch rõ cho em tất cả việc này. Nó không có nghĩa
rằng những sự kiện nhất thiết phải gây sợ hãi cho em.
Những sự kiện ở ngay đó để quan sát. Nếu em quan sát chúng,
chúng không bao giờ gây sợ hãi cho em. Những sự kiện không
gây sợ hãi. Nhưng nếu em muốn lẩn tránh chúng, quay lưng
lại và chạy, vậy thì việc đó gây sợ hãi. Ngừng lại,
nhìn thấy điều gì em đã làm xét theo tổng thể có lẽ không
đúng lắm, sống cùng sự kiện và không diễn dịch sự kiện
tùy theo vui thú hay lề thói phản ứng của em, điều đó không
gây sợ hãi. Cuộc sống không đơn giản lắm đâu. Người
ta có thể sống đơn giản nhưng cuộc sống tự nó rất rộng
lớn, phức tạp. Nó lan rộng từ chân trời này sang chân trời
khác. Em có thể sống chỉ cần một ít quần áo hay ăn một
bữa một ngày, nhưng việc đó không là đơn giản. Vì thế
hãy đơn giản, đừng sống trong một phương cách phức tạp,
mâu thuẫn và vân vân, chỉ giản dị bên trong …. Em đã chơi
quần vợt sáng nay. Thầy đã nhìn em chơi và em có vẻ khá
giỏi môn đó. Có lẽ chúng ta sẽ gặp lại nhau. Điều đó
tùy thuộc em.’
“Em
cảm
ơn thầy, thưa thầy.”
OJAI,*
CALIFORNIA
Thứ
ba,
ngày 27 tháng 3 năm 1984.
Trên
chuyến xe đó từ phi trường qua sự thô tục tầm thường
của những thị trấn rộng lớn đang lan rộng trong nhiều,
nhiều dặm, với những ánh đèn chói lòa và quá nhiều ồn
ào, sau đó theo con đường xa lộ và qua một đường hầm
nhỏ, bạn bỗng nhiên gặp biển Thái bình dương. Một ngày
quang đãng không hơi thở của gió nhưng vì còn sớm nên có
một trong lành trước khi sự ô nhiễm của khí monoxide tràn
đầy không khí. Biển rất yên lặng, gần giống như một
cái hồ mênh mông. Và mặt trời đang ở trên quả đồi, và
những dòng nước sâu của biển Thái bình dương là màu sắc
của sông Nile, nhưng tại mép bờ chúng là màu xanh lạt, êm
ả vỗ vào bờ. Và có nhiều chim chóc và xa xa bạn trông thấy
một con cá voi.
Đi
theo
con đường biển, có rất ít xe cộ sáng đó, nhưng nhà
cửa khắp mọi nơi; có thể những người rất giàu có sống
ở đó. Và bạn trông thấy những quả đồi dễ thương phía
bên trái khi bạn đến biển Thái bình dương. Nhà cửa vươn
thẳng lên giữa những quả đồi và con đường uốn mình
vô ra, theo biển, và lại nữa gặp một thị trấn khác, nhưng
may thay xa lộ không đi qua nó.
* Ngày
06-6-1983, Dorothy Simmons hiệu trưởng trường Brockwood Park bị
bệnh đau tim. Sau đó Krishnamurti bận rộn công việc của trường
nên không đọc thêm bài nào. Ngày 01-7 ông đến Saanen, Thụy
sĩ, cho một cuộc hội họp quốc tế hàng năm. Ngày 15-8 ông
quay lại Brockwwood cho một cuộc gặp mặt ở đó, và ngày
22-10 ông đáp máy bay đến Delhi. Ông chỉ quay lại Ojai ngày
22-2-1984. Tiếc thay ông chỉ đọc thêm ba bài nữa.
Có
một
trung tâm hải quân ở đó với những phương tiện giết
người hiện đại của nó. Và bạn đi theo nó rồi quẹo về
bên phải, bỏ lại biển đằng sau, và sau khi qua những giếng
dầu, bạn đi xa khỏi biển, qua những cánh rừng cam, qua một
sân gôn, đến một ngôi làng nhỏ, con đường khúc khuỷu
qua những vườn cam, và không khí lan tỏa hương thơm của
hoa cam nở rộ. Và tất cả những chiếc lá của những cây
cam đều đang rạng rỡ. Dường như có an bình trong thung lũng
này, rất yên tĩnh, tách biệt khỏi tất cả những đám đông
ồn ào lẫn thô tục. Quốc gia này tuyệt đẹp, thật rộng
lớn – với những sa mạc, những hòn núi phủ tuyết, làng
mạc, những thị trấn lớn và cả những con sông lớn hơn.
Đất đai đẹp tuyệt vời, bao la, ôm trọn tất cả.
Và
chúng
tôi đến ngôi nhà này mà còn yên lặng và đẹp đẽ
nhiều hơn, vừa mới xây xong và có sự sạch sẽ mà nhà cửa
ở những thị trấn không có. Có nhiều hoa, hoa hồng và vân
vân. Một nơi dành cho tĩnh lặng, không phải để sống vô
vị nhàm chán, nhưng dành cho tĩnh lặng thực sự, thăm thẳm,
phía bên trong. Tĩnh lặng là một phước lành vô biên, nó
chùi rửa bộ não, trao tặng sinh khí cho nó, và tĩnh lặng
này mang lại một năng lượng lớn lao, không phải năng lựợng
của tư tưởng hay năng lượng của máy móc nhưng năng lượng
vô nhiễm đó, không bị tác động bởi tư tưởng. Nó là
năng lượng có vô số kỹ năng, khả năng. Và đây là nơi
mà bộ não, rất năng động, có thể bặt tăm. Hoạt động
rất mãnh liệt đó của bộ não có chất lượng và chiều
sâu và vẻ đẹp của tĩnh lặng.
Dù
rằng người ta đã lặp lại điều này thường xuyên, rằng
giáo dục là sự trau dồi của nguyên bộ não, không phải
một phần của nó; nó là sự trau dồi tổng thể con người.
Một trường trung học hay đại học nên dạy cả khoa học
lẫn tôn giáo. Khoa học thực sự có nghĩa là thâu lượm hiểu
biết, phải vậy không? Khoa học là cái gì đã gây ra tình
trạng căng thẳng hiện nay trong thế giới vì nó đã nhờ
vào hiểu biết để tạo ra phương tiện hủy diệt nhất mà
con người đã từng tìm được. Nó có thể quét sạch toàn
bộ những thành phố bằng một vụ nổ, hàng triệu người
có thể bị hủy diệt trong một giây. Một triệu con người
có thể bị bốc hơi. Và khoa học cũng trao tặng chúng ta quá
nhiều thứ ích lợi – truyền thông, dược phẩm, giải phẫu
và vô số những thứ nhỏ dành cho tiện nghi vật chất của
con người, cho một lối sống dễ dàng trong đó những con
người không cần tranh đấu liên tục để lượm lặt thức
ăn, nấu nướng và vân vân. Và nó trao tặng cho chúng ta một
vị chúa hiện đại, máy vi tính. Người ta có thể lên danh
sách rất nhiều, nhiều thứ mà khoa học đã sáng chế ra để
giúp đỡ con người và cũng để hủy diệt con người, hủy
diệt trọn vẹn thế giới của nhân loại và vẻ đẹp vô
tận của thiên nhiên. Những chính phủ đang lợi dụng những
nhà khoa học, và những nhà khoa học thích được lợi dụng
bởi những chính phủ vì nhờ đó họ có một vị trí, tiền
bạc, sự công nhận và vân vân. Con người cũng hướng về
khoa học để mang lại hòa bình trên thế giới, nhưng nó đã
thất bại, cũng giống như chính trị và những chính trị
gia đã thất bại khi muốn trao tặng con người sự hoà bình,
sự an toàn trọn vẹn để sống và vun quén không chỉ những
cánh đồng mà còn bộ não của họ, tâm hồn của họ, lối
sống của họ, mà là nghệ thuật cao nhất.
Và
những
tôn giáo – những tôn giáo, những hệ thống tín ngưỡng
và những giáo lý nông cạn, cổ truyền, được thừa nhận
– đã mang lại sự hủy hoại to lớn trong thế giới. Chúng
gánh trách nhiệm của những cuộc chiến tranh trong lịch sử
phân chia con người chống lại con người – nguyên một châu
lục với những niềm tin, những nghi lễ tôn giáo, những giáo
điều được củng cố rất vững chắc chống lại một châu
lục khác không tin tưởng cùng những sự việc, không
có cùng những biểu tượng, không có cùng những nghi lễ.
Đây không là tôn giáo, nó chỉ là sự lặp lại của một
truyền thống, của vô số những nghi lễ mà đã mất đi ý
nghĩa quan trọng ngoại trừ rằng chúng cống hiến một loại
kích thích nào đó; nó đã trở thành một món giải trí quan
trọng. Tôn giáo là một thứ gì đó hoàn toàn khác hẳn. Chúng
ta đã thường xuyên nói về tôn giáo. Cốt tủy của tôn giáo
là tự do, không phải để làm điều gì bạn thích, điều
đó quá ngây ngô, quá không chín chắn và quá mâu thuẫn, mang
lại xung đột, đau khổ và hoang mang quá to tát. Lại nữa
tự do là một điều gì đó hoàn toàn khác hẳn. Tự do có
nghĩa là không xung đột, thuộc tâm lý, phía bên trong. Và
cùng tự do bộ não trở thành tổng thể, không bị phân chia
trong chính nó. Tự do cũng có nghĩa là tình yêu, từ bi, và
không có tự do nếu không có thông minh. Thông minh vốn có
sẵn trong từ bi và tình yêu. Chúng ta có thể tìm hiểu điều
này vô tận, không bằng lời nói hay trí năng, nhưng ở bên
trong sống một cuộc sống của một bản chất như thế.
Và
trong
một trường trung học hay một trường đại học, khoa
học là hiểu biết. Hiểu biết có thể mở rộng vô hạn,
nhưng hiểu biết đó luôn luôn bị giới hạn vì hiểu biết
được đặt nền tảng trên trải nghiệm và trải nghiệm
đó có lẽ là một kết quả phỏng đoán, lý thuyết. Hiểu
biết rất cần thiết nhưng chừng nào khoa học còn là hoạt
động của một nhóm riêng biệt, hay một quốc gia riêng biệt,
mà là hoạt động thuộc bộ tộc, hiểu biết như thế chỉ
có thể gây ra xung đột nhiều hơn, thảm khốc nhiều hơn
trong thế giới, đó là những gì đang xảy ra hiện nay. Khoa
học cùng hiểu biết của nó không dành cho hủy diệt những
con người vì rốt cuộc ra đầu tiên những nhà khoa học cũng
là những con người, không chỉ là những chuyên gia ; họ cũng
có tham vọng, tham lam, tìm kiếm an toàn cá thể riêng của
họ giống như tất cả những con người còn lại trong thế
giới. Họ giống như bạn và người khác. Nhưng khả năng
đặc biệt của họ đang mang lại sự hủy diệt lớn lao cũng
như là một số lợi lộc nào đó. Hai cuộc chiến tranh lớn
vừa qua đã minh chứng việc này. Dường như nhân loại ở
trong một chuyển động liên tục của hủy diệt và xây dựng
lại – hủy diệt và xây dựng; hủy diệt những con người
và sinh sản một dân số đông hơn. Nhưng nếu tất cả những
nhà khoa học trên thế giới đặt những dụng cụ của họ
xuống và nói, “Chúng tôi sẽ không đóng góp cho chiến tranh,
cho sự tiêu diệt nhân loại”, họ có thể quay sự chú ý
của họ, kỹ năng của họ, cam kết của họ đến việc tạo
ra sự liên hệ tốt đẹp giữa thiên nhiên, môi trường và
con người.
Nếu
có
hòa bình nào đó giữa một ít người, lúc đó một ít
người này, không nhất thiết phải là những người giỏi
nhất, sẽ vận dụng tất cả khả năng của họ để tạo
ra một thế giới khác, rồi thì tôn giáo và khoa học có thể
đi cùng nhau.
Tôn
giáo
là một hình thức của khoa học. Đó là, để biết và
vượt khỏi mọi hiểu biết, thấu triệt bản chất và bao
la của vũ trụ, không nhờ vào một viễn vọng kính, nhưng
nhờ vào bao la của cái trí và tâm hồn. Và bao la này không
liên quan gì đến bất kỳ tôn giáo có tổ chức nào. Con người
quá dễ dàng trở thành một công cụ của niềm tin riêng của
anh ấy, nhiệt thành riêng của anh ấy, cam kết vào một
loại giáo điều nào đó không có thực tế, sự thật. Không
đền chùa nào, không thánh đường nào, không nhà thờ nào,
nắm giữ sự thật. Có lẽ chúng là những biểu tượng nhưng
những biểu tượng không là thực tại, sự thật. Trong tôn
thờ một biểu tượng bạn sẽ mất đi sự thật, chân lý.
Nhưng bất hạnh thay biểu tượng lại được dâng tặng quá
nhiều ý nghĩa hơn là sự thật, chân lý. Người ta tôn thờ
biểu tượng. Tất cả những tôn giáo được đặt nền tảng
trên những kết luận và những niềm tin nào đó, và tất
cả những niềm tin đều phân chia, dù rằng đó là những
niềm tin thuộc chính trị hay tôn giáo.
Nơi
nào
có phân chia nơi đó phải có xung đột. Và một trường
học không là một nơi dành cho xung đột. Nó là một nơi dành
cho sự học hỏi nghệ thuật sống. Nghệ thuật này quan trọng
nhất, nó nổi trội hơn tất cả những nghệ thuật còn lại,
vì nghệ thuật này chuyển đổi và tác động toàn bộ thân
tâm con người, không phải một phần của anh ấy, dù phần
đó có lẽ được dễ chịu đến chừng nào chăng nữa. Và
trong trường học thuộc loại này, nếu người giáo dục cam
kết thực hiện nó, không như một lý tưởng, nhưng như một
thực tế của cuộc sống hằng ngày – chúng ta hãy lặp lại,
cam kết, không phải vào lý tưởng nào đó, điều hoang tưởng
nào đó, kết luận cao quí nào đó, anh ấy thực sự có thể
cố gắng tìm được trong bộ não anh âý một cách sống không
bị trói buộc trong những vấn đề, tranh cãi, xung đột, đau
khổ. Tình yêu không là một chuyển động của đau khổ, lo
âu, cô độc; nó không thời gian. Và người giáo dục, nếu
anh ấy muốn kiên trì bám chặt nó, có thể chuyển tải trong
quá trình thâu lượm hiểu biết của những học sinh cái tinh
thần tôn giáo thực sự này mà còn vượt khỏi tất cả mọi
hiểu biết, mà có lẽ là kết thúc của hiểu biết – không
phải có lẽ – nó là kết thúc của hiểu biết. Vì phải
có tự do khỏi hiểu biết để hiểu rõ cái vĩnh cửu, cái
thường hằng. Hiểu biết thuộc thời gian, và tôn giáo là
tự do khỏi sự trói buộc của thời gian.
Có
vẻ
rằng rất khẩn cấp và quan trọng cho chúng ta phải tạo
dựng một thế hệ mới, thậm chí chỉ cần nửa tá người
trong thế giới sẽ gây ra một khác biệt rộng lớn. Nhưng
người giáo dục cần được giáo dục. Nó là nghề nghiệp
cao quý nhất trên thế giới.
Thứ tư, ngày 28 tháng 3 năm 1984
Biển
Thái bình dương dường như không có những cơn thủy triều
lớn, ít ra không ở bờ bên này của biển Thái bình dương
dọc theo bờ biển California. Nó là một thủy triều rất nhỏ,
nó đi vào và đi ra, không giống như những cơn thủy triều
to lớn kia mà đi ra hàng trăm yard và đâm sầm vào lại. Có
một âm thanh hoàn toàn khác hẳn khi thủy triều đang đi ra
ngoài, khi dòng chảy của nước đang rút đi, từ khi nó đang
đi vào bằng một cuồng nộ nào đó, một chất lượng âm
thanh hoàn toàn khác biệt âm thanh của gió len lỏi giữa những
chiếc lá.
Mọi
thứ
dường như đều có một âm thanh. Cái cây đó trong cánh
đồng, trong cô đơn của nó, có âm thanh đặc biệt đó tách
rời khỏi những âm thanh của tất cả những cây cối khác.
Những cây gỗ sồi đỏ to lớn kia có âm thanh cổ xưa vĩnh
cửu sâu lắng riêng của chúng. Yên lặng có âm thanh đặc
trưng của nó. Và dĩ nhiên mọi huyên thuyên hàng ngày liên
tục của những con người về công việc kinh doanh của họ,
chính trị của họ và những tiến bộ công nghệ của họ
và vân vân, đều có âm thanh riêng của nó. Một quyển sách
rất hay có những rung động âm thanh đặc biệt của nó. Trống
không bao la cũng có âm thanh rộn ràng của nó.
Chuyển
động
ra vào của thủy triều giống như hành động và phản
ứng của con người. Những hành động và những phản ứng
của chúng ta rất mau lẹ. Không có một khoảng ngừng trước
khi phản ứng xảy ra. Một câu hỏi được đưa ra và ngay
lập tức, tức khắc, người ta cố gắng tìm một câu trả
lời, một giải pháp cho một vấn đề. Rốt cuộc, chúng ta
là chuyển động ra vào của cuộc sống – bên ngoài và bên
trong. Chúng ta cố gắng thiết lập một sự liên hệ với
bên ngoài, đang nghĩ rằng bên trong là một cái gì đó tách
rời, một cái gì đó không liên quan đến bên ngoài. Nhưng
chắc chắn chuyển động của bên ngoài là dòng chảy của
bên trong. Cả hai chúng là một, giống như những dòng nước
của biển cả, chuyển động liên tục bền bỉ này của bên
ngoài và bên trong , sự phản ứng đến thách thức. Đây là
cuộc sống của chúng ta. Khi khởi đầu chúng ta tập hợp
lại từ bên trong, sau đó bên trong trở thành nô lệ của
bên ngoài. Cái xã hội mà chúng ta đã tạo ra là bên ngoài,
rồi thì với xã hội đó bên trong trở thành kẻ nô lệ.
Và sự phản kháng chống lại bên ngoài cũng chính là sự
phản kháng của bên trong. Chuyển động ra vào liên tục này,
lo lắng, ưu tư, sợ hãi: chuyển động này có thể kết thúc
được không? Dĩ nhiên chuyển động ra vào của những dòng
nước biển hoàn toàn được tự do khi so sánh với chuyển
động ra vào của bên ngoài và bên trong này – bên trong đang
trở thành bên ngoài, tiếp theo bên ngoài đang cố gắng kiểm
soát bên trong vì thế giới bên ngoài đã trở thành quan trọng
nhất; rồi thì phản ứng đến sự quan trọng đó từ bên
trong. Việc này đã là phương cách của cuộc sống, một cuộc
sống của đau khổ và vui thú liên tục.
Có
vẻ
chúng ta không bao giờ học hỏi về chuyển động này,
rằng nó là một chuyển động. Bên ngoài và bên trong không
là hai chuyển động riêng biệt. Những dòng nước của biển
rút ra khỏi bờ biển, rồi thì cùng dòng nước đó đi vào,
vỗ vào những bờ biển, những vách đá. Vì chúng ta đã tách
rời thế giới bên ngoài và bên trong, mâu thuẫn bắt đầu,
chính mâu thuẫn đó nuôi dưỡng xung đột và đau khổ. Phân
chia này giữa bên ngoài và bên trong rất không thật, quá ảo
tưởng, nhưng chúng ta lại duy trì thế giới bên ngoài hoàn
toàn tách rời bên trong. Có lẽ đây là một trong những nguyên
nhân chính của xung đột, tuy nhiên có vẻ chúng ta không bao
giờ học hỏi – học hỏi không ghi nhớ, học hỏi, mà là
một hình thái của chuyển động liên tục mọi thời gian
– học hỏi sống không có mâu thuẫn này. Bên ngoài và bên
trong là một, một chuyển động đồng nhất, không tách rời,
nhưng tổng thể. Người ta có lẽ theo trí năng thấu hiểu
nó, chấp nhận nó như một phát biểu lý thuyết hay một khái
niệm trí năng, nhưng khi người ta sống cùng những khái niệm
người ta không bao giờ học hỏi. Những khái niệm trở thành
không biến đổi, cố định. Bạn có lẽ thay đổi chúng nhưng
ngay chính thay đổi của một khái niệm đến một khái niệm
khác vẫn còn không biến đổi, vẫn còn cố định. Nhưng
cảm thấy, có nhạy cảm của hiểu rõ rằng cuộc sống không
là một chuyển động của hai hoạt động riêng biệt, thế
giới bên ngoài và bên trong, để nhìn thấy rằng nó là một,
nhận ra rằng sự liên hệ qua lại là chuyển động này, là
trạng thái ra vào này của đau khổ và vui thú, sung sướng
và sầu thảm, cô độc và tẩu thoát, trực nhận không qua
từ ngữ cuộc sống này như một tổng thể, không bị phân
chia, không bị vỡ vụn, là học hỏi. Dẫu vậy, học hỏi
về nó không là một vấn đề của thời gian, không là một
tiến hành dần dần, vì lúc đó thời gian lại trở thành
phân chia. Thời gian hành động trong sự phân chia của tổng
thể. Nhưng thấy sự thật của nó trong một khoảnh khắc,
vậy thì nó ở đó, hành động và phản ứng này, vô tận
– ánh sáng và bóng tối này, đẹp đẽ và xấu xí này.
Cái
đó
mà là tổng thể được tự do khỏi chuyển động ra vào
của cuộc sống, của hành động và phản ứng. Vẻ đẹp
không có đối nghịch. Hận thù không là đối nghịch của
tình yêu.
Thứ sáu, ngày 30 tháng 3 năm 1984
Đang đi bộ xuống con đường thẳng tắp vào một buổi sáng dễ thương, đã là mùa xuân, và bầu trời có màu xanh lạ thường; không một đám mây trong nó, mặt trời rất ấm áp, không nóng quá. Thật dễ chịu. Những chiếc lá đang chiếu sáng và có một lóe sáng trong không gian. Một buổi sáng đẹp lạ thường. Hòn núi cao ở đó, không thể nhìn xuyên qua được, và những quả đồi ở dưới có màu xanh lá cây đáng yêu. Và khi bạn yên lặng đi trên con đường, không có nhiều tư tưởng lắm, bạn trông thấy một chiếc lá chết, màu vàng và đỏ rực, một chiếc lá từ mùa thu. Chiếc lá đó đẹp làm sao, rất đơn giản trong cái chết của nó, rất sinh động, đầy vẻ đẹp và sinh khí của nguyên cái cây cùng mùa hè. Lạ lùng là nó đã không héo tàn. Nhìn gần nó hơn, người ta trông thấy tất cả những sợi gân, cái cuống và hình thể của chiếc lá đó. Chiếc lá đó là nguyên cái cây.
Tại sao con người lại chết đau khổ như thế, bất hạnh như thế, với một bệnh tật, tuổi già, suy yếu, thân thể co rút, xấu xí? Tại sao họ không thể chết tự nhiên và đẹp đẽ như chiếc lá này? Có chuyện gì sai trái với chúng ta vậy? Bất kể tất cả những bác sĩ, thuốc men và những bệnh viện, những cuộc giải phẫu và tất cả những nỗi thống khổ của cuộc sống, và những vui thú nữa, chúng ta dường như không có thể chết đầy trang nghiêm, đơn giản, và kèm theo một nụ cười.
Có
một lần, đang dạo bộ trên một con đường làng, người
ta nghe phía sau một bài kinh, du dương, nhịp nhàng, cùng uy
lực cổ xưa của tiếng Phạn. Người ta dừng chân và quay
lại nhìn. Cậu con cả, để trần tới thắt lưng, đang mang
một cái hũ bằng đất sét nung có một ngọn lửa đang cháy
trong nó. Cậu ta đang giữ nó trong một cái bình khác và đằng
sau cậu ta là hai người đàn ông khiêng người cha đã chết,
được phủ bằng miếng vải trắng, và tất cả bọn họ
đều đang đọc kinh. Người ta biết bài kinh đó là gì, người
ta hầu như tham gia vào. Họ đi qua và người ta đi sau họ.
Họ đang đi xuống con đường vừa đi vừa đọc kinh, và cậu
con cả đang khóc lóc. Họ tiễn đưa người cha đến bãi biển
nơi họ đã thu gom một đống gỗ lớn và họ đặt thân thể
trên đống gỗ rồi nổi lửa thiêu. Tất cả việc đó đều
quá tự nhiên, đều đơn giản lạ lùng: không có những bông
hoa, không có xe tang, không có những chiếc xe phủ màu đen
được kéo bởi những con ngựa đen. Tất cả đều rất yên
lặng và rất trang nghiêm. Và người ta nhìn chiếc lá đó,
và hàng ngàn chiếc lá của cái cây. Mùa đông đã mang chiếc
lá đó từ mẹ của nó xuống con đường mòn và chẳng mấy
chốc nó sẽ khô hoàn toàn rồi héo tàn, sẽ ra đi, được
mang đi cùng những cơn gió và không còn nữa.
Khi
bạn
dạy các em môn toán, cách viết, cách đọc, và mọi công
việc để thâu lượm hiểu biết, các em cũng nên được dạy
dỗ sự trang nghiêm của chết, không phải như một sự việc
bất hạnh, u sầu, mà cuối cùng một người phải đối diện,
nhưng như một sự việc nào đó của cuộc sống hàng ngày
– cuộc sống hàng ngày của nhìn ngắm bầu trời xanh kia
và con châu chấu trên một chiếc lá. Nó là thành phần của
học hỏi, giống như bạn mọc răng và trải qua mọi buồn
phiền của những bệnh tật thời niên thiếu. Các em bé có
tánh tò mò, hiếu kỳ lạ lùng. Nếu bạn hiểu được bản
chất của chết, bạn không giảng giải rằng mọi thứ đều
chết, cát bụi trở về cát bụi và vân vân, nhưng không có
bất kỳ sợ hãi nào bạn từ tốn giảng giải điều đó
cho các em và tạo cho các em hiểu rõ rằng sống và chết là
một – không phải vào khúc cuối cuộc đời của một người
sau năm mươi, sáu mươi hay chín mươi năm, nhưng rằng chết
giống như chiếc lá đó. Hãy nhìn những người phụ nữ và
đàn ông lớn tuổi, họ trông xấu xí làm sao, lạc lõng làm
sao, và già yếu hom hem làm sao. Đó có phải bởi vì họ thực
sự đã không hiểu rõ được cả khi sống lẫn khi chết?
Họ đã tận dụng cuộc sống, họ đã làm hao mòn cuộc sống
của họ bằng xung đột liên tục mà chỉ rèn luyện và củng
cố sức mạnh cho cái tôi, “cái tôi lệ thuộc”, cái bản
ngã. Chúng ta phí phạm những ngày của chúng ta trong vô số
những loại xung đột và bất hạnh khác nhau, kèm theo một
chút sung sướng và vui thú nào đó, nhậu nhẹt, hút xách,
những đêm thức khuya và làm việc, làm việc, làm viêc. Và
vào khúc cuối cuộc đời của một người, người đó đối
mặt cái sự việc được gọi là chết và bị nó gây kinh
hãi. Người ta nghĩ rằng chết có thể luôn luôn hiểu rõ
được, luôn luôn cảm nhận sâu sắc được. Cậu bé với
tính hiếu kỳ có thể được giúp đỡ để hiểu rõ rằng
chết không hoàn toàn là sự hủy hoại của thân thể bởi
bệnh tật, tuổi già và tai nạn bất ngờ nào đó, nhưng hiểu
rõ rằng kết thúc của mỗi ngày cũng là sự kết thúc của
chính bản thân mình mỗi ngày.
Không
có
sống lại, đó là mê tín, một niềm tin giáo điều. Mọi
sự vật trên quả đất, trên quả đất đẹp đẽ này, sống,
chết, tồn tại và tàn tạ. Muốn hiểu rõ trọn vẹn chuyển
động của cuộc sống này đòi hỏi thông minh, không phải
thông minh của tư tưởng, hay những quyển sách, hay hiểu biết,
nhưng thông minh của tình yêu và từ bi cùng nhạy cảm của
nó. Người ta rất chắc chắn rằng nếu người giáo dục
hiểu rõ ý nghĩa của chết và sự trang nghiêm của nó, sự
đơn giản lạ thường của chết – hiểu rõ nó không bằng
trí năng nhưng rất sâu sắc – vậy thì anh ấy có lẽ có
thể chuyển tải cho em học sinh, cho đứa trẻ, rằng là chết,
kết thúc, không là việc gì phải lẩn tránh, không là việc
gì phải kinh hãi, vì nó là thành phần của toàn cuộc sống
của một người, để cho khi em học sinh, đứa trẻ, lớn
lên em sẽ không bao giờ còn kinh hãi sự kết thúc. Nếu tất
cả những con người đã sống trước chúng ta, từ những
thế hệ này qua những thế hệ khác, vẫn còn sống trên quả
đất này thì sẽ khủng khiếp biết bao. Khởi đầu không
là kết thúc.
Và
người
ta muốn giúp đỡ – không, đó là từ ngữ sai lầm
– người ta muốn trong giáo dục mang chết vào một loại
thực sự, thực tế nào đó, không phải của một người
nào khác đang chết nhưng của mỗi người chúng ta, dù già
hay trẻ, phải chắc chắn đối mặt sự kiện đó. Nó không
là sự kiện buồn thảm của nước mắt, của cô độc, của
phân ly. Chúng ta giết chóc quá dễ dàng, không chỉ những
thú vật để có thức ăn cho con người mà còn giết chóc
bừa bãi vô ích để vui chơi giải trí, được gọi là thể
thao – giết chết một con nai vì đó là mùa săn bắn. Giết
chết một con nai giống như giết chết người hàng xóm của
bạn. Bạn giết chết thú vật vì bạn đã không còn hiệp
thông cùng thiên nhiên, cùng tất cả sinh vật đang sống trên
quả đất này. Bạn giết chóc trong những cuộc chiến tranh
vì quá nhiều học thuyết, chính trị, quốc gia, lãng mạn.
Nhân danh Chúa bạn đã giết con người. Bạo lực và giết
chóc theo cùng nhau.
Khi
người
ta nhìn chiếc lá chết kia cùng tất cả vẻ đẹp và
màu sắc của nó, có lẽ người ta sẽ hiểu rất sâu sắc,
ý thức được, chết riêng của người ta phải là gì, không
phải tại khúc cuối nhưng tại ngay khởi đầu. Chết không
là sự việc khiếp sợ nào đó, một sự việc nào đó phải
lẩn tránh, một sự việc nào đó phải trì hoãn, nhưng trái
lại là một sự việc nào đó liên tục ngày ngày. Và từ
đó có một cảm nhận lạ thường của bao la.
Bản dịch: 2006 Hiệu đính 2008