Phần Iii Những Nói Chuyện

06 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 6829)

J. KRISHNAMURTI
GẶP GỠ CUỘC SỐNG
MEETING LIFE 
Biên soạn: Mary Lutyens
Lời dịch: Ông Không
[www.thuvienhoasen.org]
– Tháng 11-2011 –

PHẦN III 
NHỮNG NÓI CHUYỆN

Một cái trí tôn giáo là gì?

Saanen, Thụy sĩ, ngày 13 tháng 8 năm 1961

 

S

áng nay tôi nghĩ chúng ta nên thâm nhập một cái trí tôn giáo là gì. Tôi muốn thâm nhập vào nó khá sâu thẳm bởi vì tôi cảm thấy rằng chỉ một cái trí như thế mới có thể giải quyết tất cả những vấn đề của chúng ta, không chỉ những vấn đề thuộc chính trị và kinh tế, nhưng còn cả những vấn đề cơ bản hơn thuộc sự tồn tại của con người. Trước khi chúng ta thâm nhập nó, tôi nghĩ chúng ta nên lặp lại điều gì chúng ta đã trình bày rồi, rằng một cái trí nghiêm túc là một cái trí mà sẵn lòng thâm nhập tận gốc rễ của những vấn đề và khám phá điều gì là thực sự và điều gì là giả dối. Có một cái trí không ngừng lại nửa chừng và không cho phép nó bị xao lãng bởi bất kỳ quan tâm nào khác. Tôi hy vọng rằng ít ra một vài người trong các bạn có thể thực hiện việc này và dư thừa sự khao khát để thực hiện nó.

 Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều quen thuộc với tình hình thế giới hiện nay và không cần được giải thích về những lừa dối, những thoái hóa, những bất bình đẳng thuộc kinh tế và xã hội, những kinh hoàng của chiến tranh, những đe dọa liên tục. Dường như đối với tôi, để hiểu rõ tất cả sự rối loạn này và sáng tạo sự rõ ràng, cần phải có một thay đổi cơ bản trong chính cái trí chứ không phải sự đổi mới từng mảnh hay chỉ là một điều chỉnh. Muốn hăng hái đi qua tất cả sự rối loạn này, mà không chỉ phía bên ngoài chúng ta nhưng còn cả phía bên trong chúng ta, muốn giải quyết tất cả những căng thẳng chồng chất và những đòi hỏi gia tăng, người ta cần phải có một cái trí hoàn toàn khác hẳn.

 Đối với tôi, cách mạng đồng nghĩa với tôn giáo. Qua từ ngữ ‘cách mạng’ tôi không có ý sự thay đổi tức khắc thuộc xã hội hay kinh tế; tôi có ý một cách mạng trong chính ý thức. Tất cả những hình thức khác của cách mạng, dù là Cộng sản, Tư bản hay bất kỳ cách mạng nào bạn mong muốn, chỉ thuần túy là sự phản ứng. Một cách mạng trong cái trí, mà có nghĩa sự hủy diệt hoàn toàn của cái gì đã là, để cho cái trí có thể thấy cái gì là thực sự mà không biến dạng, mà không ảo tưởng – đó là phương cách của tôn giáo. Tôi nghĩ sự thật, cái trí tôn giáo thực sự tồn tại, có thể hiện diện.

 Tôi nghĩ, nếu người ta đã thâm nhập nó rất sâu thẳm, người ta có thể khám phá một cái trí như thế cho chính người ta. Một cái trí đã phá vỡ, đã hủy diệt, tất cả những cản trở, tất cả những dối gạt mà xã hội, tôn giáo, tín điều, niềm tin đã áp đặt vào nó, và đã vượt khỏi để khám phá điều gì là sự thật, là một cái trí tôn giáo thực sự.

 Vì vậy, trước hết chúng ta hãy thâm nhập nghi vấn của trải nghiệm. Những bộ não của chúng ta là kết quả của sự trải nghiệm của hàng thế kỷ. Bộ não là kho lưu trữ của ký ức. Nếu không có ký ức đó, nếu không có sự trải nghiệm và sự hiểu biết được tích lũy đó, chúng ta sẽ không thể vận hành như những con người. Trải nghiệm – ký ức – chắc chắn cần thiết tại một mức độ nào đó, nhưng tôi nghĩ nó cũng khá rõ ràng rằng tất cả trải nghiệm được đặt nền tảng trên sự quy định của hiểu biết, của ký ức, chắc chắn đều bị giới hạn. Và, vì vậy, trải nghiệm không là một nhân tố trong sự giải thoát. Tôi không hiểu liệu bạn đã suy nghĩ điều này.

 Mọi trải nghiệm đều bị quy định bởi trải nghiệm quá khứ. Vì vậy, không có trải nghiệm mới mẻ, nó luôn luôn bị tô màu bởi quá khứ. Trong chính qui trình của đang trải nghiệm này có sự biến dạng mà xuất hiện từ quá khứ, quá khứ là hiểu biết, ký ức, vô vàn trải nghiệm được tích lũy, không chỉ của cá nhân, nhưng còn cả của chủng tộc, của cộng đồng. Lúc này, liệu có thể phủ nhận tất cả trải nghiệm đó?

 Tôi không hiểu liệu bạn đã thâm nhập nghi vấn của sự phủ nhận, phủ nhận cái gì đó có nghĩa gì. Nó có nghĩa khả năng để phủ nhận uy quyền của hiểu biết, phủ nhận uy quyền của trải nghiệm, phủ nhận uy quyền của ký ức, phủ nhận những giáo sĩ, giáo hội, mọi thứ mà đã đuợc áp đặt vào cái tinh thần. Đối với hầu hết chúng ta, có hai phương tiện duy nhất của sự phủ nhận – hoặc qua hiểu biết hoặc qua phản ứng. Bạn phủ nhận uy quyền của giáo sĩ, giáo hội, những từ ngữ được viết ra, quyển sách, hoặc bởi vì bạn đã học hành, tìm hiểu, tích lũy hiểu biết khác, hoặc bởi vì bạn không ưa thích nó, bạn phản ứng chống lại nó. Trái lại, sự phủ nhận đúng đắn hàm ý, đúng chứ, rằng bạn phủ nhận mà không biết việc gì sẽ xảy ra, mà không có bất kỳ sự hy vọng tương lai nào. Khi nói, ‘Tôi không biết điều gì là thực sự, nhưng điều này là giả dối,’ là, chắc chắn, sự phủ nhận đúng đắn duy nhất, bởi vì sự phủ nhận đó không từ hiểu biết có tính toán, không từ phản ứng. Rốt cuộc, nếu bạn biết sự phủ nhận của bạn đã dẫn dắt tới cái gì, vậy thì nó chỉ là một trao đổi, một việc của chợ búa, và thế là nó không là sự phủ nhận đúng đắn gì cả.

 Tôi nghĩ người ta phải hiểu rõ điều này một chút xíu, thâm nhập nó khá sâu thẳm, bởi vì tôi muốn tìm ra, qua sự phủ nhận, cái trí tôn giáo là gì. Tôi cảm thấy rằng, qua sự phủ nhận người ta có thể tìm ra sự thật là gì. Bạn không thể tìm ra sự thật là gì qua sự khẳng định. Bạn phải lau chùi phiến đá hoàn toàn sạch sẽ khỏi cái đã được biết trước khi bạn có thể tìm ra.

 Vì vậy, chúng ta sẽ thâm nhập cái trí tôn giáo là gì qua sự phủ nhận – đó là qua sự tiêu cực, qua sự suy nghĩ tiêu cực. Và chắc chắn không có sự suy nghĩ tiêu cực nếu sự phủ nhận được đặt nền tảng trên hiểu biết, trên phản ứng. Tôi hy vọng điều này khá rõ ràng. Nếu bạn phủ nhận uy quyền của vị giáo sĩ, của quyển sách, của truyền thống, bởi vì tôi không thích nó, đó chỉ là một phản ứng bởi vì lúc đó tôi thay thế cái gì khác cho cái gì tôi đã phủ nhận. Và nếu tôi phủ nhận bởi vì tôi có những dữ kiện, hiểu biết, thông tin và vân vân, vậy thì hiểu biết của tôi trở thành nơi trú ẩn của tôi. Nhưng có một phủ nhận mà không là kết quả của phản ứng hay hiểu biết, nhưng có được từ sự quan sát, từ thấy một vật như nó là, sự kiện của nó. Đó là sự phủ nhận đúng đắn bởi vì nó khiến cho cái trí được tẩy sạch tất cả những giả thuyết, tất cả những ảo tưởng, những uy quyền, những ham muốn.

 Vì vậy, liệu có thể phủ nhận uy quyền? Tôi không có ý uy quyền của cảnh sát, luật pháp của quốc gia và tất cả điều đó; phủ nhận chúng là dốt nát và không chín chắn và sẽ kết thúc trong nhà tù. Tôi có ý sự phủ nhận của uy quyền bị áp đặt bởi xã hội vào cái tinh thần, vào ý thức, sâu thẳm bên trong; sự phủ nhận uy quyền của tất cả trải nghiệm, tất cả hiểu biết, để cho cái trí ở trong một trạng thái của không biết cái gì sẽ hiện diện, nhưng chỉ biết cái gì không là thực sự.

 Bạn biết, nếu bạn đã thâm nhập sâu thẳm, nó trao tặng bạn một ý thức lạ thường của sự hợp nhất, của không bị vỡ vụn giữa những ham muốn gây mâu thuẫn, gây xung đột; thấy cái gì là sự thật, cái gì là giả dối, hay thấy sự thật trong giả dối, trao tặng bạn một ý thức của sự nhận biết thực sự, một rõ ràng. Lúc đó, cái trí ở trong một vị trí – đã hủy diệt tất cả những an toàn, những sợ hãi, những tham vọng, những huyễn hoặc, những tầm nhìn, những mục đích, mọi thứ – trong một trạng thái mà hoàn toàn một mình, không bị ảnh hưởng.

 Chắc chắn, muốn tìm ra sự thật, muốn tìm ra ‘Thượng đế’, hay bất kỳ cái tên nào bạn thích gọi nó, cái trí phải một mình, không bị ảnh hưởng, bởi vì lúc đó một cái trí như thế là một cái trí trong trắng; và một cái trí trong trắng có thể thâm nhập. Khi có sự hủy diệt hoàn toàn của tất cả những sự việc mà nó đã tạo ra bên trong chính nó như sự an toàn, như sự hy vọng và như sự kháng cự chống lại sự hy vọng, mà là sự tuyệt vọng, và vân vân, vậy thì kia kìa hiện diện, chắc chắn, một trạng thái không-sợ hãi mà trong nó không có chết. Một cái trí một mình hoàn toàn đang sống, và trong đang sống đó có một đang chết từng giây phút; và, thế là, đối với cái trí đó không có chết. Nó thực sự lạ thường. Nếu bạn đã thâm nhập sự việc đó, bạn khám phá cho chính mình rằng không có một sự việc như là chết. Chỉ có một trạng thái của mộc mạc thuần khiết của cái trí một mình.

 Một mình này không là cô lập; nó không là sự tẩu thoát vào tháp ngà nào đó; nó không là cô độc. Tất cả điều đó đã được bỏ lại đằng sau, được quên bẵng, được tan biến và được hủy diệt. Vì vậy, một cái trí như thế biết sự hủy diệt là gì, ngược lại chúng ta không thể tìm ra bất kỳ cái gì mới mẻ. Và chúng ta sợ hãi làm sao khi chúng ta phải hủy diệt mọi thứ mà chúng ta đã tích lũy.

 Có một câu nói tiếng Phạn: ‘Những ý tưởng là con cái của một người đàn bà không thể sinh đẻ.’ Tôi nghĩ hầu hết chúng ta đều buông thả trong những ý tưởng. Bạn có lẽ đang đối xử những nói chuyện mà chúng ta đang có như một trao đổi của những ý tưởng, như một qui trình của chấp nhận những ý tưởng mới mẻ và phủ nhận những ý tưởng cũ kỹ. Chúng ta không đang giải quyết những ý tưởng. Chúng ta đang giải quyết sự kiện. Và khi người ta quan tâm đến sự kiện, không có sự điều chỉnh; hoặc bạn chấp thuận nó hoặc bạn phủ nhận nó. Bạn có thể nói, ‘Tôi không thích những ý tưởng đó, tôi thích những ý tưởng cũ kỹ hơn, tôi sẽ sống trong cái ao ngột ngạt của riêng tôi nhiều hơn’; hoặc bạn có thể theo cùng sự kiện. Bạn không thể thỏa hiệp, bạn không thể điều chỉnh. Sự hủy diệt không là sự điều chỉnh. Khi điều chỉnh, khi nói, ‘Tôi phải ít tham vọng hơn, không ganh tị quá,’ không là sự hủy diệt. Và người ta phải, chắc chắn, thấy sự thật rằng tham vọng, ganh tị là xấu xa, dốt nát, và người ta phải hủy diệt tất cả những vô lý đó. Tình yêu không bao giờ điều chỉnh. Chính là ham muốn, sợ hãi, hy vọng mới cần điều chỉnh. Đó là lý do tại sao tình yêu là một việc hủy diệt nhất, bởi vì nó không chấp thuận điều chỉnh chính nó hay tuân phục vào một khuôn mẫu.

 Thế là, chúng ta bắt đầu khám phá rằng khi có sự hủy diệt của tất cả uy quyền mà con người đã tự tạo ra cho chính anh ấy trong sự ham muốn của anh ấy để được an toàn phía bên trong, vậy là có sự sáng tạo. Hủy diệt là sáng tạo.

Vậy thì, nếu bạn đã từ bỏ những ý tưởng và không đang điều chỉnh chính bạn vào một khuôn mẫu riêng của sự tồn tại của bạn hay một khuôn mẫu mới mẻ mà bạn nghĩ người nói đang sáng chế, nếu bạn đã thâm nhập sâu như thế, bạn sẽ phát giác rằng bộ não có thể và phải vận hành chỉ liên quan đến những sự việc phía bên ngoài, phản ứng chỉ đến những đòi hỏi phía bên ngoài. Thế là, bộ não trở nên hoàn toàn yên lặng. Điều này có nghĩa rằng uy quyền của những trải nghiệm của nó đã kết thúc và, thế là, nó không thể sáng chế những ảo tưởng. Để tìm ra cái gì là thực sự, điều cốt lõi là khả năng để sáng chế ảo tưởng trong bất kỳ hình thức nào phải kết thúc. Khả năng để sáng chế những ảo tưởng là khả năng của sự ham muốn, khả năng của sự tham vọng, của mong muốn là cái này và không mong muốn là cái kia.

 Vì vậy, bộ não phải vận hành trong thế giới này cùng lý luận, cùng thông minh, cùng rõ ràng, nhưng phía bên trong nó phải hoàn toàn yên lặng.

 Những người sinh học đã nói với chúng ta rằng bộ não phải mất hàng triệu năm để phát triển đến chặng đường hiện nay của nó và nó cũng phải mất hàng triệu năm để phát triển thêm nữa. Lúc này, cái trí tôn giáo không phụ thuộc vào thời gian cho sự phát triển của nó. Điều gì tôi muốn chuyển tải là: khi bộ não, mà phải vận hành trong những phản ứng của nó đến sự tồn tại phía bên ngoài, trở nên yên lặng phía bên trong, vậy thì không còn bộ máy của trải nghiệm và hiểu biết tích lũy. Vì vậy, phía bên trong nó hoàn toàn yên lặng, nhưng sinh động lạ thường, và thế là nó có thể vượt khỏi hàng triệu năm.

 Vì vậy, đối với một cái trí tôn giáo, không có thời gian. Thời gian tồn tại chỉ trong trạng thái đó của một tiếp tục đang chuyển động đến một tiếp tục và thành tựu thêm nữa. Khi cái trí tôn giáo đã hủy diệt uy quyền của quá khứ, những truyền thống, những giá trị được áp đặt vào nó, vậy thì nó có thể hiện diện không thời gian. Vậy thì nó được hoàn toàn phát triển. Bởi vì, rốt cuộc, khi bạn đã phủ nhận thời gian, bạn đã phủ nhận tất cả sự phát triển qua thời gian và không gian. Làm ơn, đây không là một ý tưởng, nó không là một sự việc để được đùa giỡn. Nếu bạn đã thông suốt nó, bạn biết nó là gì, bạn ở trong trạng thái đó, nhưng nếu bạn không thông suốt nó, vậy thì bạn không thể chỉ nhặt nhạnh những điều này như những ý tưởng và đùa giỡn cùng nó.

 Vì vậy, bạn tìm ra sự hủy diệt là sáng tạo và trong sáng tạo không có thời gian. Sáng tạo là trạng thái đó khi bộ não, bởi vì đã hủy diệt tất cả quá khứ, hoàn toàn yên lặng và, thế là, trong trạng thái đó mà không có thời gian hay không gian để tăng trưởng, để diễn tả, để trở thành. Và trạng thái đó của sáng tạo không là sự sáng tạo của một ít người tài năng – những họa sĩ, những nhạc sĩ, những văn sĩ, những kiến trúc sư. Chỉ cái trí tôn giáo mới có thể trong một trạng thái của sáng tạo, và cái trí tôn giáo không là cái trí phụ thuộc giáo hội nào đó, niềm tin nào đó, giáo điều nào đó; những việc này chỉ quy định cái trí. Đi tới nhà thờ mỗi sáng và tôn thờ điều này hay điều kia không khiến cho bạn thành một người tôn giáo, mặc dù xã hội đáng kính có lẽ chấp nhận bạn như thế. Điều gì khiến cho một con người trở thành tôn giáo là sự hủy diệt tổng thể của cái đã được biết.

 Trong sáng tạo này có một ý thức của vẻ đẹp, một vẻ đẹp không được sắp xếp vào chung bởi con người, một vẻ đẹp vượt khỏi sự suy nghĩ và cảm thấy. Rốt cuộc, sự suy nghĩ và cảm thấy chỉ là những phản ứng và vẻ đẹp không là một phản ứng. Một cái trí tôn giáo có vẻ đẹp đó, mà không là sự tán thưởng thuần túy về thiên nhiên, những hòn núi dễ thương và con suối đang gầm thét – nhưng một ý thức hoàn toàn khác hẳn của vẻ đẹp; và theo cùng nó là tình yêu. Tôi không nghĩ bạn có thể tách rời tình yêu và vẻ đẹp. Bạn biết, đối với hầu hết chúng ta tình yêu là một việc đau khổ bởi vì nó luôn luôn có ghen tuông, hận thù và những bản năng sở hữu. Nhưng tình yêu này mà chúng ta đang nói là một trạng thái của một ngọn lửa không khói.

 Vì vậy, cái trí tôn giáo biết sự hủy diệt tổng thể, trọn vẹn này và nó có ý nghĩa gì để ở trong một trạng thái của sáng tạo – mà không thể truyền đạt – và cùng nó có ý thức của vẻ đẹp và tình yêu – mà không thể tách rời. Tình yêu không phân chia như tình yêu thánh thiện và tình yêu vật chất. Nó là tình yêu. Và theo cùng nó, một cách tự nhiên, không cần diễn tả, một ý thức của đam mê. Người ta không thể thâm nhập sâu thẳm nếu không có đam mê – đam mê là mãnh liệt. Nó không là sự mãnh liệt của mong muốn thay đổi cái gì đó, mong muốn làm việc gì đó, sự mãnh liệt mà có một nguyên nhân để cho khi bạn không còn nguyên nhân đó, sự mãnh liệt tan biến. Nó không là một trạng thái của nhiệt thành. Vẻ đẹp chỉ có thể hiện diện khi có một đam mê mà là mộc mạc. Cái trí tôn giáo, bởi vì trong trạng thái này, có một chất lượng đặc biệt của sinh lực.

 Bạn biết, đối với chúng ta, sinh lực là kết quả của ý muốn, của vô vàn ham muốn được đan kết vào sợi dây của ý muốn. Và ý muốn đó là một kháng cự đối với hầu hết chúng ta. Qui trình của đang kháng cự cái gì đó hay đang theo đuổi một kết quả phát triển ý muốn và thường thường ý muốn đó sẽ được gọi là sinh lực. Nhưng sinh lực của cái mà chúng ta đang nói không liên quan gì với ý muốn. Nó là một sinh lực không có một nguyên nhân. Nó không thể bị sử dụng, nhưng nếu không có nó, không gì có thể tồn tại.

 Vì vậy, nếu người ta đã thâm nhập sâu thẳm trong khám phá cho chính mình, lúc đó cái trí tôn giáo có hiện diện; và nó không phụ thuộc bất kỳ cá thể nào. Nó là cái trí đó; nó là cái trí tôn giáo vượt khỏi tất cả những nỗ lực, những đòi hỏi, những thôi thúc cá thể, những ép buộc của con người, và mọi việc còn lại. Chúng ta chỉ đang diễn tả tổng thể của cái trí đó, mà dường như có lẽ bị tách rời bởi sự sử dụng những từ ngữ khác nhau, nhưng nó là một vật tổng thể mà trong đó tất cả điều này được chứa đựng. Thế là, một cái trí tôn giáo như thế có thể thâu nhận cái mà không thể đo lường được bởi bộ não. Cái đó không thể đặt tên; không đền chùa, không giáo sĩ, không giáo hội, không giáo điều nào có thể giam cầm nó. Phủ nhận tất cả điều đó và sống trong trạng thái này là cái trí tôn giáo thực sự.

 Từ Bản tin 52, 1987

 

Những Vấn đề của Tuổi trẻ

Saanen, Thụy sĩ, tháng 8 năm 1967

 

T

ôi không nghĩ những vấn đề của tuổi trẻ, tuổi trung niên và tuổi già có thể bị tách rời; tuổi trẻ không có một vấn đề đặc biệt. Dường như người ta hiểu khác biệt, bởi vì những nguời trẻ chỉ đang bắt đầu những sống của họ. Hoặc chúng ta tạo ra một vô trật tự ngay từ khi bắt đầu, và thế là bị trói buộc trong một bãi lầy của những vấn đề, những rối loạn, những bất mãn và tuyệt vọng, hoặc khi chúng ta còn nhỏ – và tôi nghĩ có lẽ nó là thời gian duy nhất – chúng ta đặt một nền tảng đúng đắn. Tôi không có ý rằng những người lớn tuổi không thể hoàn toàn phá vỡ cái bẫy mà họ bị trói buộc trong nó, nhưng dường như sẽ dễ dàng hơn nhiều cho những người trẻ để bắt đầu hiểu rõ rằng sống là một việc lạ thường ra sao. Sống không chỉ là tình dục, dùng thuốc kích thích, LSD, đi nhà thờ hay tạo ra một danh tiếng cho bạn trong kinh doanh; hay tuyệt vọng quẳng đi tất cả những việc này và theo một loại của sự tồn tại vô định, phóng đãng, nổi loạn. Tôi nghĩ có cái gì đó còn quan trọng hơn nhiều trong sống, một việc sâu thẳm hơn nhiều, mà đòi hỏi nhiều nghiêm túc. Và chỉ khi nào người ta còn trẻ thì người ta mới có thể gieo những hạt giống của nghiêm túc mà sẽ nở hoa và nở rộ khi người ta đang sống. Nhưng muốn gieo những hạt giống này của sự minh bạch, sự nghiêm túc và cư xử đúng đắn, người ta cần đến sự quan sát cẩn thận, sự nhìn ngắm kỹ càng.

 Khi người ta còn trẻ, người ta phải cách mạng, không chỉ đang phản kháng; điều đó khá dễ dàng, điều đó là việc gì mọi người đều làm. Nhưng để cách mạng thực sự, trong ý nghĩa đúng đắn của từ ngữ đó, không phải trong ý nghĩa của Cộng sản hay Trung quốc, nhưng để cách mạng thuộc tâm lý, có nghĩa sự không chấp thuận bất kỳ khuôn mẫu nào được xếp đặt bởi chính người ta hay một người khác, không ý thức của sự tuân phục và cũng không chấp nhận bất kỳ loại uy quyền nào, mà có nghĩa sự tự do khỏi sợ hãi. Và từ sự tự do đó người ta có thể sống một loại sống hoàn toàn khác hẳn; không phải một sống được thiết lập bởi thế hệ già nua cùng những chiến tranh của họ, đang sống so sánh của họ, những thượng đế của họ, những tôn giáo của họ, những đấng cứu rỗi và những giáo sĩ của họ. Tất cả những thứ đó đều chết rồi và chấm dứt.

 Vì vậy, dường như đối với tôi, khi người ta còn nhỏ, khi người ta còn chưa cam kết đến một gia đình, đến một việc làm cùng tất cả những hoạt động và những đau khổ, chỉ lúc đó người ta mới có thể gieo một hạt giống mà sẽ nở rộ suốt sống của người ta, thay vì bị nuốt chững trong tất cả những theo đuổi vô lý và vô nghĩa của sự tồn tại hàng ngày. Và thật ra điều đó có nghĩa một hành động liên tục, mà có thể xảy ra chỉ khi nào có mãnh liệt, khẩn thiết và đam mê; không phải sự khẩn thiết hời hợt của sự thỏa mãn tình dục nào đó, cũng không phải sự khẩn thiết để tuân phục vào một khuôn mẫu của sử dụng cần sa hay uống thuốc kích thích. Những hình thức khác nhau này của lạm dụng và buông thả làm biến dạng cái trí và, khi người ta lớn lên, những biến dạng này trở thành tồi tệ hơn. Đó là lý do tại sao người ta không nên chỉ nhận biết những sự việc phía bên ngoài, nhưng cũng còn phải nhận biết sự chuyển động sâu thẳm phía bên trong của những ham muốn, những theo đuổi, những động cơ, những sợ hãi và những lo âu.

 Nó giống như đang cày bừa một cánh đồng và sau đó gieo hạt; bất hạnh thay, hầu hết chúng ta luôn luôn đang cày bừa và đang đào bới, nhưng dường như không bao giờ chúng ta gieo hạt. Gieo hạt là hành động, nhưng nếu hành động đó là kết quả của một khuôn mẫu đặc biệt, vậy thì nó không những không trọn vẹn, nhưng nó còn nuôi dưỡng mọi loại vấn đề và lo âu. Tôi không hiểu liệu có khi nào bạn đã nhận thấy rằng khi bạn làm việc gì đó một cách trọn vẹn, không những cùng mảnh trí năng nhưng còn cả cùng tất cả quả tim và cái trí của bạn, vậy thì một hành động như thế – mà là một hành động trọn vẹn – không có cả quá khứ lẫn tương lai. Nó là trọn vẹn; và trong hành động trọn vẹn đó có vẻ đẹp và có tình yêu. Và đó là điều gì đang mất mát trong sống của chúng ta; chúng ta không biết hành động trọn vẹn này mà không có cả quá khứ lẫn cái bóng của tương lai. Nó là hành động mà là tổng thể, tức khắc và cấp bách. Và trong hành động đó có một ngọn lửa; nó có lẽ sáng tạo một cách mạng lạ thường cả phía bên ngoài lẫn phía bên trong. Bạn đã nhận thấy một con sông thay đổi dòng chảy như thế nào khi nó bị ngăn cản bởi một tảng đá lớn; toàn con sông đã chuyển sang một phương hướng hoàn toàn khác hẳn. Trong cùng cách một hành động mà là tổng thể, trọn vẹn, không bị ô uế bởi môi trường sống của chúng ta, bởi những thành kiến và khuynh hướng cá nhân, một hành động như thế có sáng tạo một cách sống khác hẳn. Và, rốt cuộc, đó là điều gì chúng ta quan tâm trong những bàn luận này, đang sống thực sự hàng ngày, và cũng cả đối thoại mà người ta có với chính người ta vào ngày mai hay tháng tới. Trong đang sống đó có quá ít vẻ đẹp, không bao giờ có một hành động trọn vẹn và, vì vậy, không ý thức của hương thơm đó mà người ta có lẽ gọi là tình yêu. Hầu hết chúng ta đều tự cho mình là trung tâm; tất cả những hoạt động của chúng ta được vây quanh bởi sự khao khát này mà là chính trung tâm của sự tồn tại của chúng ta, mà là ‘cái tôi’.

 Tôi cảm thấy rất quan trọng phải học hành rất đơn giản với chính chúng ta – và đơn giản là một việc khó khăn nhất. Chúng ta không bao giờ đơn giản. Cái trí của chúng ta quá phức tạp, mảnh trí năng của chúng ta quá được trau chuốt, ngụy biện; nó có vô vàn lý do để làm và không làm. Đơn giản mà chúng ta đang nói không phải là sống bất kỳ cách cũ kỹ nào trong bẩn thỉu và tồi tàn cùng một ít quần áo, nhưng đơn giản của sự nhận biết hiệp thông – thấy cái gì đó rất rõ ràng – và đang thấy là đang hành động. Việc này có sáng tạo một đơn giản lạ thường của hành động. Khi bạn làm việc gì đó mà không có nhiều tâm trạng, nhưng bởi vì bạn có thể thấy rất rõ ràng mà không có bất kỳ biến dạng, vậy thì nó hiện diện ở đó, một cách thực sự ‘cái gì là’. Và chính đang thấy và đang làm này sáng tạo một ý thức lạ thường của sự tự do. Nếu không có sự tự do này – không phải như một ý tưởng, nhưng thực sự được tự do phía bên trong – tôi hoàn toàn không thấy làm thế nào sống, cùng sự phức tạp vô biên của nó của những vấn đề, những đòi hỏi, những hoạt động và những theo đuổi, lại có thể được hiểu rõ. Nhưng bất hạnh thay, hầu hết chúng ta đều không muốn được tự do; tự do là một nguy hiểm, cái gì đó phải được lẩn tránh, hoặc khi nó hiện diện ở đó, phải được kiểm soát, phải được nhốt lại trong một cái chuồng. Và cái trí làm việc đó thật phi thường, giăng bẫy sự tự do và giam cầm nó.

 Chúng ta có quá nhiều câu hỏi. Đang sống trong thế giới này, mà là bạo lực, dốt nát, nhẫn tâm và độc ác, tôi sẽ làm gì? Sự liên hệ của tôi với phần còn lại của thế giới là gì? Tôi sẽ hành động như thế nào trong sự liên hệ đó? Đây là tất cả những vấn đề rất nghiêm túc. Hầu hết chúng ta đều cố gắng tạo ra hoạt động ngoại biên nào đó; chúng ta muốn đổi mới hay sửa chữa thế giới. Chúng ta nói, ‘Tôi thấy rất rõ ràng sự cần thiết của không bạo lực, vì vậy trong chừng mực nào đó tôi phải gây ảnh hưởng thế giới.’ Tôi nghĩ người ta có gây ảnh hưởng lạ thường vào thế giới nếu, trong chính người ta, người ta không bạo lực, không phải như một ý tưởng, nhưng thực sự. Sống mỗi ngày an bình bên trong chính người ta, một sống không ganh đua, không tham vọng hay ganh tị, một sống không tạo ra thù địch. Vậy là đang sống trong thế giới này, tôi có một hiệp thông cùng nó.

 Bạn thấy, tôi là gì có sự quan trọng cực kỳ, bởi vì tôi đã tạo ra thế giới này; tôi đã sắp xếp nó vào chung bởi những đòi hỏi của tôi, những thành kiến của tôi, những thù hận của tôi, những tôn giáo của tôi và chủ nghĩa quốc gia của tôi. Tôi đã phân chia thế giới thành những mảnh và nếu tôi, trong chính tôi, bị phân chia, sự liên hệ của tôi cùng thế giới sẽ bị vỡ vụn; nó sẽ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Nhưng nếu tôi không vận hành trong những mảnh, nhưng hành động một cách tổng thể, trọn vẹn, vậy thì tôi có một liên hệ khác hẳn cùng thế giới. Nhưng chúng ta muốn được chỉ bảo sự liên hệ đó sẽ là gì qua những từ ngữ, qua những hình ảnh, qua những biểu tượng; chúng ta muốn khuôn mẫu của sự liên hệ này của một cá thể mà được tự do, mà hành động của nó là trọn vẹn. Nhưng từ ngữ, biểu tượng, không là sự kiện; tuy nhiên chúng ta thỏa mãn bởi những từ ngữ và những giải thích. Nhưng nếu chúng ta, như những con người, có thể thực hiện một thế giới không-tách rời phía bên trong của chúng ta, vậy thì tôi nghĩ tất cả mọi liên hệ sẽ trải qua một cách mạng lạ thường. Và, rốt cuộc, bất kỳ chuyển động nào mà xứng đáng, bất kỳ hành động nào mà có ý nghĩa sâu thẳm, phải bắt đầu phía bên trong chính người ta, phía bên trong mỗi người chúng ta. Đầu tiên, tôi phải thay đổi. Tôi phải thấy điều gì được hàm ý trong bản chất, cấu trúc của sự liên hệ đó cùng thế giới; và ngay đang thấy của nó là đang làm. Và vì vậy, như một con người đang sống trong thế giới này, tôi sáng tạo một chất lượng hoàn toàn khác hẳn, và chất lượng đó, dường như đối với tôi, là một cái trí tôn giáo.

Tôi không biết liệu bạn đã cảm thấy sâu thẳm từ ngữ ‘tôn giáo’ đó hàm ý điều gì. Chắc chắn, nó không là tôn giáo của sự tuyên truyền và niềm tin có tổ chức, của những giáo hội, những giáo sĩ, những nghi thức và những nghi lễ. Đó không là tôn giáo. Tôi cảm thấy tôn giáo là điều gì đó hoàn toàn khác hẳn. Nó không liên quan gì đến điều gì con người đã sáng chế bởi sự sợ hãi. Điều tạm gọi là tôn giáo này là cái gì đó mà con người đã tìm kiếm và đã bị trói buộc trong cái bẫy của những tôn giáo có tổ chức. Chúng ta đang nói về cái trí tôn giáo, mà rất khó khăn để giải thích bởi vì quá nhiều điều được bao hàm. Chắc chắn, một cái trí tôn giáo hàm ý một trạng thái của cái trí trong đó không có sợ hãi, và vì vậy không ý thức của an toàn tại bất kỳ thời điểm nào; trong một cái trí tôn giáo như thế không có niềm tin gì cả, chỉ cái gì là, cái gì thực sự là. Và trong cái trí đó có một trạng thái của yên lặng mà không bị sáng chế bởi sự suy nghĩ, nhưng mà là kết quả tự nhiên của nhiều tỉnh táo và chú ý. Nó là trạng thái của thiền định mà trong đó người thiền định không hiện diện; vậy là từ đó một yên lặng hiện diện mà trong nó không có cả người quan sát lẫn vật được quan sát. Và trong yên lặng đó, người ta bắt đầu khám phá cho chính người ta nguồn gốc và khởi đầu của sự suy nghĩ. Sau đó, người ta nhận ra rằng sự suy nghĩ luôn luôn cũ kỹ và vì vậy nó không bao giờ có thể khám phá bất kỳ điều gì mới mẻ. Và tìm ra tất cả điều này từ yên lặng đó – mà là bộ phận của cái trí tôn giáo – người ta biết một năng lượng mà không là năng lượng của sự xung đột, cũng không là năng lượng được sản sinh qua cố gắng, tham vọng, tham lam và ganh tị. Nó là năng lượng không bị vấy bẩn bởi bất kỳ loại xung đột nào. Tất cả điều đó, dường như đối với tôi, là trạng thái của cái trí tôn giáo.

Nếu không bắt gặp cái đó, bạn có lẽ sử dụng LSD, có vô số tầm nhìn và trải nghiệm, ở trong một trạng thái của nhạy cảm cao độ, hay tự thôi miên chính bạn qua sự lặp lại của những giáo điều và những tín điều khác nhau; nhưng những cảm xúc này không chứa đựng chất lượng đó của cái trí tôn giáo. Vì vậy, điều gì quan trọng – dù người ta còn rất trẻ hay đã rất già – là đưa toàn tiến hành thuộc sống của người ta đến một mức độ khác hẳn, đến một kích thước khác hẳn – ngay lúc này, trong hiện tại, tại chính khoảnh khắc này.

  

 Từ Bản tin 12, 1971-2

 

Một chất lượng của cái trí

 không phân chia

Bombay, Ấn độ, tháng hai năm 1968

D

ường như đối với tôi, điều đầu tiên phải hiểu rõ – trong thế giới hỗn loạn và khá điên rồ này – là lắng nghe những kết luận, những diễn tả, những phân tích mà người ta đưa ra liên quan đến những vấn đề mà tất cả chúng ta đều có. Chúng ta có quá nhiều vấn đề. Không chỉ trong quốc gia đang thoái hóa này, nhưng còn cả khắp thế giới, những con người đối diện với những vấn đề phức tạp lạ lùng. Những chuyên gia, những người trí năng, những đạo sư, những người thần học, những giáo sĩ, đưa ra những giải thích, mỗi người tùy theo tình trạng bị quy định đặc biệt của họ, sự tin tưởng đặc biệt của họ. Và người ta càng rối loạn nhiều bao nhiêu, người ta càng đau khổ nhiều bao nhiêu, người ta càng tìm kiếm nhiều bao nhiêu, vậy thì người ta càng mong muốn sự thanh thản, sự an toàn hay sự rõ ràng nhiều bấy nhiêu. Có những người cống hiến sự an toàn hay sự rõ ràng, và tôi nghĩ nó sẽ thông minh để học hành làm thế nào lắng nghe điều gì được cống hiến bởi họ (làm thế nào lắng nghe, không những họ, nhưng còn cả người nói), bởi vì chúng ta quá nhẹ dạ, chúng ta muốn chấp nhận, chúng ta muốn được lừa dối, chúng ta muốn được thôi miên bởi những từ ngữ, chúng ta muốn dễ dàng thoát khỏi sự hoang mang và sự đau khổ của chúng ta. Chúng ta háo hức – bất hạnh nhất – để chấp nhận, đặc biệt từ những người mà, phụ thuộc vào một công thức, giải thích làm thế nào để gặp gỡ sự khủng hoảng đang tồn tại khắp thế giới; những công thức của họ thay đổi tùy theo tình trạng bị quy định của họ mà trong đó họ đã được nuôi nấng.

 Những con người khắp thế giới đã và đang bị quy định tùy theo những công thức và những ý tưởng suốt hàng ngàn năm và khi sự sống – mà là một chuyển động – đòi hỏi sự chú ý tổng thể của bạn, bạn không thể thực hiện nó, bởi vì bạn đang vận hành và đang suy nghĩ tùy theo một công thức, dù được cống hiến bởi Shankara hay Marx hay Lenin, hay vị đạo sư mới nhất mà bạn có. Vì vậy, người ta phải hỏi: tại sao những con người khắp thế giới sống phụ thuộc vào những công thức? Tôi không biết liệu có khi nào bạn hỏi tại sao bạn luôn luôn sống tại mức độ ý tưởng, tại sao bạn luôn luôn hình thành một học thuyết và cố gắng sống và suy nghĩ tại mức độ đó; ngược lại, thực sự là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn. Thực sự là đang sống hàng ngày mà không liên quan gì đến những ý tưởng; đó là điều đầu tiên phải nhận ra. Người ta phải xóa sạch hoàn toàn tất cả những công thức, tất cả những phương pháp; người ta phải suy nghĩ toàn sự việc mới mẻ lại; người ta không còn có thể là một người Ấn giáo, một người Thiên chúa giáo, một người Phật giáo, một người Hồi giáo. Như một con người – đang sống trong quốc gia này, trong thị trấn chán ngấy này cùng tất cả những đau khổ, tồi tàn, dơ bẩn của nó – người ta không còn có thể suy nghĩ dựa vào những công thức nếu người ta muốn sống một sống từng giây phút mà là trọn vẹn, tổng thể.

 Đang sống là liên hệ. Bạn không thể có liên hệ cùng một người khác tùy theo một công thức – bạn hiểu chứ? Nó rất đơn giản. Bạn phải sống, bạn phải đi đến văn phòng hay nhà máy và lao động, phấn đấu; nhưng nếu bạn cố gắng sống phụ thuộc một hình ảnh hay ý tưởng, được thiết lập bởi những vị thầy cổ xưa của bạn, bạn không có liên hệ gì cả – bạn chỉ đang sống tùy theo một ý tưởng. Nó cũng giống y hệt trong một chính thể Cộng sản mà trong đó họ đã thiết lập một học thuyết, bởi sự chuyên chế, bởi những con người đang quy định – như những người Thiên chúa giáo đã thực hiện, như những người Ấn giáo đã thực hiện; họ đã quy định những con người của họ bởi những từ ngữ, bởi tuyên truyền, bởi sự lặp lại không ngừng nghỉ.

 Cái trí của bạn vận hành tại một mức độ thuộc học thuyết, tại một mức độ trừu tượng, thuộc ý tưởng, ngược lại đang sống là một tiếp xúc hàng ngày, sự phiền muộn, sự đau khổ, sự cô độc, sự tuyệt vọng hàng ngày là điều gì chúng ta phải hiểu rõ, không phải sự trừu tượng, không phải những bài phân tích nổi tiếng được viết bởi những tác giả khôn ngoan. Khi sống hàng ngày của chúng ta bị che đậy quá dầy dặc bởi những học thuyết, nó trở nên tầm thường, rối loạn, vô nghĩa.

 Điều gì người ta phải thực hiện là nhận biết tình trạng bị quy định của người ta – chỉ biết rằng người ta bị quy định, rằng người ta đã bị quy định hàng thế kỷ. Nếu bạn không nhận ra điều này, vậy thì bạn sẽ tiếp tục tạo ra sự hỗn loạn kinh hoàng, sự đau khổ kinh hoàng, cho những người khác và cho chính bạn.

 Chúng ta không biết tình yêu là gì; chúng ta không biết thương yêu, chúng ta đã trở nên tàn nhẫn, độc ác, dửng dưng, hung tợn. Nếu không có tình yêu, bạn không thể giải quyết được việc gì cả. Bạn có khi nào đã tự hỏi chính mình lý do tại sao bạn không có tình yêu gì cả? Bạn biết tôi có ý gì qua từ ngữ tình yêu? – chỉ ân cần mà không có bất kỳ động cơ nào; chỉ quảng đại; cảm thông cho những người khác; cảm thấy sự xấu xí của một đường phố bẩn thỉu; cảm thấy sự nghèo khổ; thấy sự bùng nổ dân số này đang xảy ra khắp thế giới, cảm thấy nó, tìm ra tại sao, khóc than, không phải vì gia đình nhỏ nhoi đau khổ riêng của bạn, hay một cái chết nhỏ nhoi của người nào đó mà bạn ưa thích, nhưng khóc than cho sự hỗn loạn hoàn toàn của thế giới này.

 Tất cả cảm thấy đã bị mất đi bởi vì chúng ta đã trở nên quá ranh ma. Sự ranh ma là thế giới vật chất – làm ơn hãy nhận ra điều này. Khi chúng ta ranh ma chúng ta thực sự theo vật chất; chúng ta đã trở thành ranh ma bởi vì sự dư thừa dân số ép buộc chúng ta phải vật lộn để sống còn – ganh đua, chà đạp những người khác bởi sự ranh ma của chúng ta, bởi vượt qua những kỳ thi và có được một việc làm. Chúng ta đã trở nên ranh ma qua sự ham muốn duy nhất là sống còn – hãy nhìn ngắm về chính bạn. Chúng ta không bao giờ bàn luận về những thực tế – làm thế nào để kết thúc chiến tranh, làm thế nào để tử tế, làm thế nào để quảng đại – tuy nhiên chúng ta luôn luôn sẵn lòng bàn luận những vấn đề trừu tượng.

 Tôi có ý qua từ ngữ tình yêu, một chất lượng của cái trí không phân chia – bạn hiểu chứ? Bởi vì khi có sự tách rời có xung đột, có ganh tị, có ghen tuông, hận thù, sự ham muốn quyền hành, địa vị – những hậu quả của thế giới vật chất ranh ma của chúng ta. Khi có sự phân chia giữa bạn và một người khác, không có sự liên hệ – mặc dù bạn có lẽ lập gia đình, có con cái, có tình dục – và khi bạn cảm thấy tách rời khỏi một người khác, bạn không có tình yêu, và nếu không có tình yêu bạn sẽ không thể giải quyết được những vấn đề của thế giới hay bất kỳ vấn đề nào mà bạn phải đối diện. Làm ơn, hãy nhận ra nghi vấn cơ bản này: bạn không có tình yêu – và tại sao? Tại sao nó không bừng bừng trong bạn khi bạn thấy vẻ đẹp của một hoàng hôn hay một cái cây, khi bạn thấy sự phiền muộn, đau khổ, hỗn loạn, sự tồn tại khắc nghiệt của con người? Tại sao bạn không có tình yêu? Đó là nghi vấn cốt lõi – không phải liệu Thượng đế có tồn tại hay không, không phải việc gì sẽ xảy đến cho bạn khi bạn chết; nhưng tại sao bạn, như những con người, không có chất lượng này của cái trí mà vượt khỏi tất cả sự phân chia, mà vượt khỏi tất cả những áp lực, tất cả những tôn giáo và những niềm tin của chúng, những giáo điều của chúng và tất cả những sáng chế mà con người đã tạo ra để bảo vệ chính anh ấy? Tại sao? Làm ơn, hãy tự chất vấn bạn. Thật ra, đây là một nghi vấn rất quan trọng – đừng lơ là nó.

 Tại sao bạn, như một con người – quá tài giỏi, quá khôn ngoan, quá ranh mãnh, quá ganh đua, đã thành tựu quá nhiều công nghệ, có thể đi đến mặt trăng hay sống nhiều tuần lễ dưới đại dương, sáng chế bộ não điện tử phi thường – tại sao bạn không có nghi vấn duy nhất này mà phải quan tâm? Nếu không có tình yêu bạn trở nên cay đắng, bạn bị sợ hãi, tất cả những liên hệ là sự xung đột. Tôi không hiểu liệu có khi nào bạn đã nghiêm túc đối diện nghi vấn này: tại sao quả tim của bạn lại trống rỗng.

 Đây không là một họp mặt thuộc cảm tính, cảm xúc. Tình yêu không thuộc cảm tính, hay cảm xúc, nó không liên quan gì đến hiến dâng, hay trung thành. Người ta phải tìm ra tại sao người ta không có tình yêu; và trong tìm ra có lẽ người ta sẽ bắt gặp nó. Người ta không thể vun đắp tình yêu, người ta không thể kiếm được tình yêu qua luyện tập một phương pháp; không có trường học nào mà bạn có thể đi đến và học hành về tình yêu. Và nếu không có tình yêu – dù bạn làm bất kỳ việc gì, viếng thăm tất cả những đền chùa trong thế giới, đọc tất cả những quyển sách tạm gọi là thiêng liêng – nếu không có tình yêu, sống của bạn sẽ trong hỗn loạn, sống của bạn sẽ trong đau khổ.

 Sống hàng ngày của bạn là gì, xã hội của bạn là như thế. Bạn hiểu chứ, thưa bạn? Xã hội không khác biệt với bạn, với bạn là gì, với bạn đã là gì – đó là, cộng đồng trong đó bạn sống. Vô trật tự xã hội tồn tại bởi vì bạn vô trật tự trong sống riêng của bạn. Tuy nhiên, trật tự không thể hiện diện qua sự tổ chức thuộc trí năng, qua một kế hoạch – chúng ta đã thử tất cả những việc này được hàng ngàn năm; vì vậy, nhiều con người đã cố gắng tạo ra một xã hội mới mẻ, một cộng đồng mới mẻ, một cách sống mới mẻ, và tất cả họ đã thất bại, và họ sẽ luôn luôn thất bại, bởi vì họ xây dựng trên một công thức, trên một ý tưởng, trên một học thuyết.

 Vì vậy, chúng ta sẽ tìm ra liệu chúng ta có thể trao những quả tim của chúng ta để giải quyết vấn đề này của sự tồn tại – hành hạ hàng ngày của sống, đau khổ hàng ngày, rối loạn hàng ngày, hân hoan thoáng chốc, vui thú thoáng chốc mà được gọi là sống. Bạn không thể giải quyết được nó nếu không hiểu rõ nó, mà là thương yêu nó. Bạn không thể thương yêu nếu bạn không biết điều gì được bao hàm trong sự tách rời, và sự liên hệ có nghĩa gì; chúng ta sẽ thâm nhập điều đó, không thuộc trí năng, không thuộc từ ngữ, nhưng thực sự. Thâm nhập điều này là quan sát, nhìn ngắm sự liên hệ thực sự của bạn là gì – sự liên hệ hàng ngày cùng người vợ của bạn, cùng gia đình của bạn, cùng ông chủ của bạn, cùng người hàng xóm của bạn – và thấy liệu có thể vượt khỏi sự tồn tại tách rời, nhỏ nhen này.

 Trước hết, đừng bị trói buộc bởi những từ ngữ – bạn hiểu chứ? Từ ngữ không là sự việc thực sự, từ ngữ ‘cái cây’ không là cái cây thực sự – điều đó đơn giản. Từ ngữ sẽ không giúp bạn tiếp xúc cái cây; bạn phải hiệp thông cùng nó, đặt tay của bạn trên nó. Chúng ta là những nô lệ cho những từ ngữ, những nô lệ cho những ý tưởng, những hình ảnh và những biểu tượng. Để hiệp thông cùng cái gì đó, từ ngữ phải không được can thiệp. Vì vậy, người ta phải học hành nghệ thuật của đang thấyđang nghe, và phải tìm ra nhìn ngắm như thế nào; làm thế nào nhìn ngắm thế giới mà bạn sống trong đó; làm thế nào nhìn ngắm cái cây, một đám mây, vẻ đẹp của hoàng hôn. Muốn thấy cái gì đó rất rõ ràng bạn phải nhạy cảm – bạn hiểu chứ? – và nếu hai bàn tay của bạn tàn nhẫn, độc ác, cứng rắn, bạn không thể tiếp xúc cái cây. Nếu hai mắt của bạn bị mù lòa bởi những lo âu của bạn, bởi những thượng đế của bạn, bởi người vợ của bạn, bởi tình dục của bạn, bởi những sợ hãi của bạn, bạn không thể thấy đám mây, vẻ đẹp của hoàng hôn.

 Người ta phải học hành làm thế nào để nhìn ngắm, làm thế nào để thấy, và nghệ thuật này không thể được học hành từ một người khác, bạn phải tự thực hiện nó. Khi người nói đang giải thích, đừng bị cuốn trôi bởi sự giải thích, nhưng thực sự làm nó. Đừng nói, ‘Tôi sẽ cố gắng làm nó’ – đó là một trong những câu nói lẩn tránh nhất mà bạn có thể thốt ra. Hoặc bạn làm nó, hoặc bạn không làm nó – không có đang cố gắng, hay đang làm hết sức của bạn.

 Khi bạn thấy một chiếc lá, bạn nhìn ngắm nó như thế nào? Chắc chắn, bạn không chỉ nhìn ngắm nó bằng hai mắt của bạn, nhưng bạn cũng nhìn ngắm nó cùng cái trí của bạn – cái trí mà có ký ức riêng của nó về chiếc lá đó, cái tên thực vật của chiếc lá đó. Vì vậy, bạn không chỉ nhìn ngắm bằng hai mắt của bạn, nhưng bạn cũng nhìn ngắm qua những kỷ niệm được kết hợp – đúng chứ? Có một qui trình tách rời đang xảy ra. Bạn thấy bằng hai mắt của bạn và bạn cũng thấy qua ký ức của bạn, qua hình ảnh mà bạn có về chiếc lá, hay về người vợ hay người chồng của bạn, bạn nhìn ngắm cô ấy hay anh ấy cùng hình ảnh mà bạn đã hình thành qua nhiều năm từ những kỷ niệm của tình dục, của vui thú, của bực dọc, của càu nhàu, của những từ ngữ tức giận, và vân vân; các bạn đã dựng lên những hình ảnh về lẫn nhau – đó là một sự kiện thực sự. Lúc này, chính là hai hình ảnh này có liên hệ cùng nhau, và bởi vì lý do này các bạn không có sự liên hệ hiệp thông; có một tách rời – phải có một tách rời – thế là xung đột, và thế là không còn tình yêu. Chừng nào bạn còn không nhận biết hệ thống máy móc, cấu trúc và bản chất của hình ảnh, vậy thì bạn sẽ không bao giờ được tự do khỏi nó và bạn sẽ luôn luôn trong xung đột.

 Thế giới cần sự đồng-hợp tác – quốc gia này cần đến nó nhiều lắm. Quốc gia này, mà đang tự phân chia nó quá thảm khốc qua sự phân chia thuộc ngôn ngữ, qua sự phân chia thuộc quốc gia nhỏ nhoi, và vân vân, phải có đồng hợp tác để sống. Làm thế nào bạn có thể đồng hợp tác cùng người khác nếu bạn không có tình yêu? Làm thế nào bạn có thể sử dụng từ ngữ ‘đồng hợp tác’ đó khi bạn có tham vọng, tách rời, ganh đua, đang tự phân chia bạn bởi những từ ngữ, bởi những niềm tin, bởi những giáo điều? Vẫn vậy, khi bạn biết làm thế nào để đồng hợp tác đúng đắn, vậy thì bạn sẽ biết làm thế nào để không-đồng hợp tác – bạn phải biết cả hai. Khi bạn biết ý nghĩa và chiều sâu và sự quan trọng của đồng hợp tác, vậy thì bạn sẽ biết khoảnh khắc cho hành động đúng đắn của không đồng hợp tác. Nhưng đầu tiên, bạn phải biết làm thế nào để đồng hợp tác, và không thể có đồng hợp tác nếu có sự tách rời. Sự tách rời sẽ luôn luôn hiện diện – dù bạn sống trong một gia đình, dù bạn ngủ cùng người vợ hay người chồng của bạn – nếu bạn có một hình ảnh. Đầu tiên, hãy thấy rằng bởi vì hình ảnh của tham vọng, tham lam, ganh tị và thành công của bạn – mặc dù bạn có lẽ sống trong cùng ngôi nhà, sinh ra con cái – cả hai bạn đều tách rời, các bạn không đang đồng hợp tác. Đồng hợp tác chỉ có thể hiện diện khi có tình yêu; tình yêu không là cảm tính, nó không liên quan đến cảm xúc; tình yêu không là vui thú, tình yêu không là ham muốn. Muốn bắt gặp cái sự việc lạ thường này, vẻ đẹp của nó, bạn phải học hành làm thế nào để nhìn ngắm, nhìn ngắm cái cây, nhìn ngắm người vợ hay những người con của bạn.

 Tại sao những con người đã gây ra sự khủng hoảng lạ lùng này, sự khủng hoảng của vô tổ chức hoàn toàn này, vô trật tự này, sự rối loạn bên trong chính họ này mà được diễn tả phía bên ngoài trong xã hội? Tại sao con người, mà đã sống qua hàng ngàn năm và hàng ngàn năm, đã trở thành đau khổ và xung đột như thế? Tại sao? Sự hỗn loạn này đã trở nên quá kinh khủng. Lý do sinh ra nó là gì? Bạn sẽ nói, ‘Do bởi dư thừa dân số’ – mười hai triệu rưỡi người được sinh ra mỗi năm ở Ấn độ, mà đã dư thừa dân số sẵn rồi. Bạn sẽ nói, ‘Do bởi vô luân lý mà theo cùng sự hiểu biết thuộc công nghệ.’ Bạn sẽ nói, ‘Do bởi thiếu thông tin.’ Đây là những câu trả lời khéo léo, dễ dàng. Trong một trả lời dễ dàng như thế, bạn sẽ không tìm được chiều sâu hay sự thật của vấn đề. Tại sao bạn, trong quốc gia này, mà đã sống quá lâu, cùng những người thầy của bạn, cùng những Shankara, Gita, những đạo sư của bạn, cùng những vị thánh thiếu chín chắn của bạn, tại sao lúc này bạn phát giác chính bạn thực sự đang ở trong tình trạng này, trong vô trật tự này, trong hỗn loạn này? Tại sao? Nếu bạn gạt đi những giải thích dễ dàng của dư thừa dân số, vô luân lý, mà theo cùng sự hiểu biết thuộc công nghệ, và không có sự hiệp thông trực tiếp này – mà có lẽ đúng thực – vậy thì, lý do cơ bản, nguyên nhân cơ bản của sự đau khổ này, là gì? Tại sao một quốc gia như thế này, mà đã có truyền thống của tốt lành, của quảng đại, của không giết chóc, của không nhẫn tâm – không phải rằng bạn đã sống cùng nó – tại sao và do đâu mà cái gì đó đã theo chiều hướng hoàn toàn sai lầm?

 Muốn hiểu rõ nó, bạn phải thâm nhập rất chậm rãi; muốn thâm nhập, bạn không được có thành kiến; muốn tìm ra, bạn phải tự do và không sợ hãi. Chúng ta sẽ tìm ra – đó là, tìm ra nguyên nhân; nhưng tìm ra nguyên nhân đó sẽ không giúp bạn được tự do khỏi nguyên nhân – làm ơn hiểu rõ điều này. Bạn có lẽ biết rằng bạn cảm thấy yếu ớt bởi vì bạn bị ung thư; nhưng biết rằng bạn bị ung thư không giúp đỡ bạn thoát khỏi căn bệnh đó, bạn có lẽ phải giải phẫu. Tương tự, bạn có lẽ tìm được nguyên nhân của sự đau khổ, nhưng việc này không làm tự do bạn khỏi hậu quả của nó; việc gì làm tự do bạn khỏi hậu quả của nó là sự hiểu rõ tức khắc của nguyên nhân – thực hiện cuộc giải phẫu nó. Bạn phải nhìn ngắm, bạn phải thâm nhập nguyên nhân, và với việc này phải có sự tự do; bạn có lẽ sợ hãi, bởi vì sự tự do hàm ý sự phủ nhận tổng thể của quá khứ, sự phủ nhận tổng thể của những thượng đế của bạn, những niềm tin của bạn, những nghi thức của bạn – sự phủ nhận tổng thể của tất cả điều đó. Hầu hết mọi người đều bị sợ hãi để được tự do, tuy nhiên chỉ cái trí tự do – cái trí háo hức, cái trí thức dậy – thực sự mới có thể tìm được làm thế nào thảm kịch này, sự đau khổ vô hạn này đã ập vào con người.

 Vì vậy, việc đầu tiên khi thực hiện chuyến hành trình bạn phải bảo đảm rằng bạn lướt đi thật nhẹ nhàng, không có tất cả những gánh nặng của bạn, không có tất cả những thành kiến và những lo âu của bạn. Và đó là sáng tạo một cách mạng tổng thể trong chính chúng ta; một đột biến tổng thể của cái trí phải xảy ra; và nó không thể xảy ra nếu bạn không được tự do để tìm ra, nếu bạn sợ hãi việc gì có lẽ xảy ra.

 Nếu bạn đủ may mắn và tìm được lắng nghe như thế nào, nhìn ngắm như thế nào, vậy là bạn sẽ tự phát giác cho chính bạn rằng có một ân lành trong chính hành động của đang thấy, trong ngay hành động của đang lắng nghe – không phải ân lành từ một thượng đế, không phải ân lành từ những thần thánh, không phải ân lành từ những lời cầu nguyện, hay từ những đền chùa – một ân lành mà hiện diện chỉ khi nào bạn biết tình yêu là gì. 

 Từ Bản tin 20, 1973-4

Tình yêu không thể được dạy bảo

Bombay, Ấn độ, tháng 1 năm 1968

 

T

ại sao chúng ta lắng nghe bất kỳ người nói nào? Để nhận được những ý tưởng nào đó, để học hành điều gì đó? Nó chỉ là sự hiếu kỳ? Hay liệu chúng ta lắng nghe để khám phá cho chính chúng ta, trong những từ ngữ của người nói, chúng ta thực sự là gì? Bất kỳ nơi nào người nói viếng thăm, quả là một sự kiện gây kinh ngạc là rằng dường như khán giả chỉ đang lắng nghe những từ ngữ, những lý thuyết và những khả năng xảy ra. Và tôi e rằng nó là cùng sự việc ở đây: khi bạn đang ngồi ở đó và người nói đang ngồi trên cái bục, người ta cảm thấy kinh ngạc về hiện tượng lạ lùng này; nó hoàn toàn lạ lùng, bởi vì nếu chúng ta biết làm thế nào để nhìn ngắm, và cũng biết làm thế nào để nhìn ngắm về chính chúng ta, vậy thì tôi nghĩ chúng ta sẽ không bao giờ tham dự một gặp gỡ, chúng ta sẽ không bao giờ lắng nghe một người khác để học hành, bởi vì trong chính chúng ta toàn lịch sử của con người được viết ra; trong chính chúng ta, nếu chúng ta biết làm thế nào để nhìn ngắm, làm thế nào để lắng nghe, chúng ta có thể đọc rất rõ ràng toàn câu chuyện, sự đau khổ và sự đấu tranh của con người. Chúng ta nghĩ rằng nguời nào khác sẽ dạy bảo chúng ta phương cách và cứu thoát chúng ta khỏi sự đau khổ và sự đấu tranh vô tận của chúng ta. Nếu bạn quan sát, cả bên ngoài lẫn bên trong, bạn sẽ nhận ra rằng không người nào có thể trao tặng cho chúng ta chìa khóa, sự hiểu rõ về sống đau khổ, phức tạp, rối loạn vô cùng này. Nhưng chúng ta khước từ nhìn ngắm, chúng ta khước từ lắng nghe những nhắc nhở, những gợi ý của cái vật đó mà đang kể cho chúng ta câu chuyện cả trong chi tiết lẫn trong tổng thể, toàn diện – cái đó đang kể cho chúng ta việc gì đang thực sự xảy ra.

 Và vì vậy, nếu tôi được phép vạch ra, người nói không liên quan gì đến việc dạy bảo bạn, và ông ta thực sự có ý điều đó – không triết lý mới mẻ, không hệ thống mới mẻ hay con đường mới mẻ dẫn đến sự thật. Không có con đường dẫn đến sự thật; nhiều con đường mà con người đã sáng chế đến sự thật được sinh ra từ sự sợ hãi; thật ra, không có con đường nào cả. Một con đường hàm ý cái gì đó mà vĩnh cửu, đứng yên, nó hiện diện ở đó, bất động; tất cả mọi việc mà bạn phải làm là bước đi trên con đường đó và bạn sẽ đến đó. Tôi e rằng nó không giống như thế. Nó phức tạp hơn nhiều, tinh tế hơn nhiều, và đẹp đẽ lạ thường, nếu người ta hiểu rõ rằng không có con đường, rằng không có đấng cứu rỗi, rằng không ai có thể giúp đỡ chúng ta tự do khỏi sự hỗn loạn riêng của chúng ta, sự đấu tranh của chúng ta và sự tìm kiếm vô tận. Bởi vì, như chúng ta đã nói, mọi thứ hiện diện ở đó, nếu bạn biết làm thế nào để thâm nhập, làm thế nào để nhìn ngắm; tất cả nó ở trong chính chúng ta, bởi vì chúng ta là kết quả của thời gian, kết quả của vô vàn trải nghiệm, của vô vàn truyền thống.

 Chúng ta muốn được dạy bảo làm thế nào để nhìn ngắm, làm thế nào để lắng nghe, phải làm việc gì. Đừng đưa ra những câu hỏi đó, mãi mãi, cho bất kỳ người nào – phải làm việc gì, làm thế nào để lắng nghe, làm thế nào để nhận biết. Tất cả mọi việc mà bạn phải làm là nhìn ngắm. Nó không là vấn đề của nhìn ngắm như thế nào – chỉ nhìn ngắm, cùng quả tim của bạn, cùng cái trí của bạn, để cho bạn thấy những sự việc như chúng thực sự là. Chúng ta khước từ nhìn ngắm bởi vì những quả tim của chúng ta quá chật cứng bởi những sự việc của cái trí – cái trí, mà có quá nhiều những hình ảnh đến độ chúng ta không thể nhìn ngắm bằng sự rõ ràng lẫn tình yêu. Và tình yêu không thể được dạy bảo; không trường học, không người thầy, không sách, để sáng tạo chất lượng của tình yêu này. Và nếu không có nó – dù làm bất kỳ việc gì bạn muốn, đi đến tất cả những đền chùa, tất cả những nhà thờ, tất cả những thánh đường, hy sinh chính bạn, cam kết chính bạn đến một nguồn đặc biệt của hành động nào, phụ thuộc vào một đảng phái chính trị nào đó – nhưng nếu không có tình yêu, sự đau khổ của bạn, sự rối loạn, sự cô độc và tuyệt vọng dằn vặt sẽ không bao giờ tiêu tan.

 Tự do không thể được trao tặng, tự do là cái gì đó mà hiện diện khi bạn không tìm kiếm nó; nó hiện diện chỉ khi nào bạn biết rằng bạn là một tù nhân, khi bạn biết cho chính bạn, một cách trọn vẹn, tình trạng của bị quy định, khi bạn biết làm thế nào bạn bị giam cầm bởi xã hội, bởi văn hóa, bởi truyền thống, bị giam cầm bởi điều gì bạn được dạy bảo. Tự do là trật tự – nó không bao giờ là vô trật tự – và người ta phải có tự do, tuyệt đối, cả bên ngoài lẫn bên trong; nếu không có tự do, không có sự rõ ràng; nếu không có tự do, bạn không thể thương yêu, nếu không có tự do, bạn không thể tìm được sự thật; nếu không có tự do, bạn không thể vượt khỏi sự giới hạn của cái trí. Bạn phải có tự do, và bạn phải đòi hỏi nó bằng toàn thân tâm của bạn. Khi bạn đòi hỏi nó như thế, bạn sẽ khám phá cho chính bạn trật tự là gì – và trật tự không là sự tuân phục của một khuôn mẫu, một thiết kế; nó không là kết quả của thói quen.

 Làm ơn, lắng nghe tất cả điều này – chỉ lắng nghe, không chấp nhận lẫn phủ nhận.

 Nếu không có tự do, chỉ có vô trật tự. Vô trật tự, bên trong xã hội, không bao giờ là luân lý; xã hội này, như nó là, phát triển vô trật tự. Hãy quan sát nó! Bạn có thể quan sát mỗi con người đang ganh đua cùng một người khác; mỗi con người đang ganh tị với một người khác; mỗi con người đang tìm kiếm sự an toàn riêng của anh ấy; mỗi con người đang tìm kiếm quyền hành, vị trí và thanh danh cho chính anh ấy và gia đình của anh ấy. Và từ sự đấu tranh và xung đột này, con người đã phát triển một luân lý nào đó, luân lý của sự điều chỉnh đến vô trật tự – luân lý đó được coi như đạo đức, được coi như kính trọng. Nhưng luân lý như thế, luân lý của xã hội, không là luân lý gì cả; nó là vô luân lý mà đã tạo ra khuôn mẫu của xã hội, văn hóa của nó, những tôn giáo của nó, giáo dục của nó, chính phủ của nó. Bạn có thể thấy, nếu bạn hơi chú ý nó, mỗi con người bị sợ hãi biết chừng nào, mỗi con người đang tìm kiếm sự an toàn riêng của anh ấy, mỗi con người đang mong muốn thành tựu cho chính anh ấy (tuy nhiên lại không bao giờ cố gắng tìm ra liệu có một việc như thành tựu), mỗi con người mong muốn leo lên đỉnh của rất nhiều người, mà được coi như là thành công.

 Chúng ta phải có tự do để sáng tạo trật tự, bởi vì xã hội, như nó là, là vô trật tự hoàn toàn, và trong chính chúng ta chúng ta là vô trật tự. Chúng ta phải sáng tạo trật tự, không phải trật tự của chính phủ, không phải trật tự của luật pháp, của một xã hội không hợp nhất, nhưng trật tự đó mà hiện diện khi người ta nhận biết và hiểu rõ vô trật tự này cả bên trong lẫn bên ngoài; nếu không có trật tự, không có đạo đức; chỉ có cái việc khủng khiếp đó được gọi là sự kính trọng.

 Muốn phát hiện trật tự tuyệt đối này (không phải rằng người ta tìm được nó) – như có trật tự trong toán học, trật tự tuyệt đối – người ta phải bất chợt bắt gặp nó, và việc đó chỉ có thể được khi người ta hiểu rõ vô trật tự phía bên trong. Chúng ta là vô trật tự, chúng ta nói một việc, nghĩ một việc khác, và làm việc gì khác nữa; chúng ta không chân thật với chính chúng ta. Vô trật tự này là sự tìm kiếm để tìm ra sự an toàn thuộc tâm lý. Chắc chắn, người ta phải có sự an toàn phía bên ngoài, người ta phải có một cái nhà, quần áo, lương thực – sự an toàn đó là cần thiết; nhưng sự an toàn bên ngoài đó bị phá hoại bởi sự đòi hỏi cho sự an toàn thuộc tâm lý, phía bên trong, sự an toàn trong niềm tin, sự an toàn trong những học thuyết và trong những liên hệ. Không có sự an toàn thuộc tâm lý; không có sự vĩnh cửu của bất kỳ loại nào phía bên trong; những thượng đế, những niềm tin, những học thuyết mà đã được sáng chế, là sản phẩm của sự tìm kiếm cho an toàn phía bên trong này; và những thượng đế được tôn thờ quá vô ích đến độ chúng không có ý nghĩa, tất cả chúng đều là những sáng chế của những cái trí nhỏ nhen tầm thường của chúng ta.

 Người ta có thể thấy làm thế nào tất cả vô trật tự này hiện diện: khi con người tham vọng, đấu tranh, ganh đua để có được sự thành công, anh ấy phải nhẫn tâm; một con người tham vọng nuôi dưỡng vô trật tự và anh ấy sẽ không bao giờ biết tình yêu là gì. Khi bạn, từ sự sợ hãi, tin tưởng một việc, và khi một người khác, từ sự sợ hãi của anh ấy, tin tưởng việc nào đó – thượng đế của anh ấy và thượng đế của bạn, quốc gia của anh ấy và quốc gia của bạn, bạn một người Ấn độ, anh ấy một người Pakistan – đó là vô trật tự. Vì vậy, những niềm tin của bạn, những tôn giáo và những học thuyết của bạn, những cộng đồng của bạn, những gia đình của bạn, đã tạo ra vô trật tự này – làm ơn, hãy quan sát nó. Trong vô trật tự này, chúng ta cố gắng tạo ra trật tự; chúng ta nói ‘chúng ta phải’ và ‘chúng ta không phải’, ‘điều này đúng’, ‘điều kia sai’ – tất cả đều ở trong khuôn mẫu của vô trật tự. Và trật tự, mà là đạo đức, cũng rõ ràng và tuyệt đối như trật tự trong toán học. Bạn phải có trật tự, ngược lại không có hòa bình, ngược lại bạn sẽ không bao giờ biết thiền định là gì. Trật tự như thế không là thói quen – sự lặp lại của cái gì đó tiếp tục và tiếp tục. Nó hiện diện khi bạn đã hiểu rõ vô trật tự, và đã hoàn toàn phủ nhận nó trong chính bạn; nó hiện diện khi bạn không còn tham lam và ganh tị, khi bạn không còn sợ hãi, khi bạn đã hoàn toàn phủi sạch học thuyết nhỏ nhen đặc biệt của bạn, những thượng đế và quốc gia của bạn; từ sự phủ nhận tổng thể của vô trật tự đó, trật tự hiện diện; qua sự tiêu cực, điều tích cực hiện diện. Muốn có sự tiêu cực đó bạn phải có cái trí kỷ luật cao độ, một kỷ luật mà không là sự kiềm hãm, không kiểm soát, không bắt chước. Hiểu rõ vô trật tự, cả bên ngoài lẫn bên trong, quan sát, lắng nghe sự không hòa hợp, sự hỗn loạn, kỷ luật, đúng chứ? Lắng nghe người nói là kỷ luật; nó có nghĩa rằng bạn đang trao sự chú ý của bạn, nó có nghĩa rằng bạn hoàn toàn đang trao trọn quả tim và cái trí của bạn – tôi hy vọng bạn như thế. Trao trọn quả tim và cái trí của bạn, trong chính nó là kỷ luật; và có vẻ đẹp trong kỷ luật. Bạn phải trở thành một người học trò – không phải học trò của người nào khác – một người học trò mà đang học hành, đang học hành để thấy vô trật tự; trong đang thấy vô trật tự đó có trật tự; bạn không phải thực hiện một việc nào cả, tuy nhiên bạn phải làm việc thật gian khổ để nhìn ngắm.

 Khi bạn trao trọn sự chú ý – chú ý cùng quả tim và cái trí của bạn – chú ý đó là kỷ luật và nó là đạo đức. Không có đạo đức nếu bạn không chú ý; do bởi không chú ý mới tạo ra vô trật tự.

 Vì vậy, đây là nền tảng cho thiền định, một trong những sự việc lạ thường nhất.

 Đừng chú ý quá đặc biệt đến từ ngữ ‘thiền định’. Tôi thấy bạn quen thuộc với từ ngữ đó, nhưng từ ngữ không là sự việc. Bỗng nhiên tôi thấy trong những khuôn mặt của các bạn một chất lượng nghiêm túc đang từ từ biểu lộ, và khi đề cập từ ngữ đó bỗng nhiên các bạn ngồi thẳng băng thêm. Những con người là nô lệ cho những từ ngữ lạ lùng làm sao! – bạn không biết nó có nghĩa gì. Tất cả mọi điều mà bạn biết là rằng từ ngữ đó hàm ý sự tưởng tượng nào đó mà bạn có. Bạn biết có những trường học đó và những thầy giảng đạo và những yogi đó đang đi khắp thế giới giảng thuyết về vô số hình thức của thiền định – đừng cười, tất cả các bạn đều đang thực hện nó trong cách riêng của các bạn. Bạn nghĩ rằng bằng cách lặp lại những từ ngữ nào đó bạn sẽ đến được trạng thái lạ thường nhất, bằng cách lặp lại một câu thần chú bạn sẽ đạt được sự trải nghiệm huyền bí nhất. Đó không là thiền định gì cả, nó là vô lý, nó là tự-dối gạt và tự-thôi miên. Thiền định là cái gì đó bao la vô hạn, thâm sâu vô cùng. Nhưng bạn không thể đến với nó bằng cách chỉ đùa giỡn cùng ‘những từ ngữ’ và ‘những năng lượng’; tuy nhiên, bạn phải đến được nó, bởi vì nếu không có nó, bạn sẽ không bao giờ biết tình yêu là gì, bạn sẽ không bao giờ có những giọt nước mắt từ sự hân hoan tuyệt đối, bạn sẽ không bao giờ biết vẻ đẹp là gì. Bạn có lẽ có những trải nghiệm nhỏ nhoi tầm thường qua thuốc men, qua sự lặp lại những từ ngữ, qua sự tôn thờ một hình ảnh, và những trải nghiệm đó, mà những con người khao khát, là những tự-chiếu rọi riêng của họ – điều gì họ trải nghiệm là từ điều gì đã được biết. Làm ơn, thâm nhập nó và bạn sẽ thấy; bạn không thể ‘trải nghiệm’ cái gì đó nếu bạn không công nhận nó là gì. Nếu bạn công nhận nó, nó đã là cái cũ kỹ rồi. Vì vậy, khi bạn khao khát sự trải nghiệm vô hạn và có thể công nhận nó, nó đã từ ký ức rồi, một chiếu rọi lại của cái đã là, một hồi tưởng; và đây không là thiền định.

 Thiền định là trạng thái của cái trí mà tự do; không phải tự do khỏi bất kỳ thứ gì, nhưng tự do mà không có bất kỳ động cơ nào – nó không là một kết quả. Nó chỉ có thể hiện diện khi có trật tự tuyệt đối, không phải trật tự tùy theo một khuôn mẫu hay trật tự được thiết lập qua thói quen hay truyền thống. Khi có trật tự, có đạo đức, đạo đức mà không thuộc xã hội, mà không liên quan gì với sự kính trọng, với truyền thống, hay với luân lý được phát triển qua vô trật tự.

 Đạo đức là một vật đang sống; nó giống như một bông hoa, tràn đầy vẻ đẹp, dư thừa hương thơm, tuy nhiên nó không thể được vun đắp. Đạo đức là một chuyển động, và giống như tất cả những vật đang sống, bạn không thể đạt được nó, giam cầm nó, và nói bạn có đạo đức. Và nếu không có tự do, trật tự, kỷ luật, đạo đức – thật ra là cùng sự việc – thiền định chỉ tạm gọi là, nó là một tẩu thoát thuần túy, một tẩu thoát khỏi sự thật, một tẩu thoát khỏi sống hàng ngày. Nhưng trật tự, tự do và kỷ luật ở trong sống hàng ngày; vì vậy, sống hàng ngày là thiền định – bạn hiểu chứ? Tôi hy vọng bạn hiểu rõ nó. Thiền định ở trong sống hàng ngày, trong cách bạn mỉm cười, cách bạn nhìn ngắm một người khác, nó ở trong sự ân cần, sự dịu dàng, sự quảng đại; nó nhận biết sự tức giận, sự tàn nhẫn, sự bạo lực, sự hung hăng, đó là – có cái trí thiền định.

 Khi bạn có trật tự tổng thể này – không phải trật tự từng mảnh; không phải trật tự trong một bộ phận của cái trí của bạn và phần còn lại trong vô trật tự; trật tự không phân chia, trật tự là tuyệt đối giống như hai cộng hai bằng bốn, chúng không bằng năm – có thông minh. Có vô trật tự bởi vì chúng ta dốt nát do những niềm tin của chúng ta, do những giáo điều của chúng ta, do những sở hữu và những quyến luyến của chúng ta; chúng ta dốt nát bởi vì tại gốc rễ của tất cả nó có sự sợ hãi. Vì vậy, khi qua thiền định, chúng ta đã đặt nền tảng trong sống hàng ngày – những từ ngữ bạn sử dụng, những cử chỉ, sự cảm giác, sự đam mê trong sống hàng ngày – vậy thì bạn đặt nền tảng của trật tự và chúng ta có thể tiến tới.

 Bạn sẽ thấy rằng thiền định không là tập trung. Tập trung – mà là một qui trình tách rời, loại trừ, chật hẹp – không liên quan gì đến thiền định. Bạn thấy, thưa các bạn, muốn tìm ra sự thật bạn phải phủ nhận mọi thứ đã được thuyết giảng bởi bất kỳ người nào, phủ nhận đạo sư của bạn, tôn giáo của bạn, những quyển sách của bạn. Phủ nhận là một người Ấn độ, một người Hồi giáo, một người Thiên chúa giáo, một người Anh hay một người Đức, phủ nhận hoàn toàn nó; vậy thì trong sự phủ nhận đó (và nó phụ thuộc bạn phủ nhận nó như thế nào, bởi vì nếu bạn phủ nhận từ phản ứng, vậy thì bạn sẽ tạo ra một vô trật tự khác), bạn thấy sự thật như sự thật trong vô trật tự, bởi vì có sự thật trong đang thấy vô trật tự hiện diện như thế nào – giống như bạn thấy những giả dối trong những thực sự.

 Vì vậy lúc đó, bởi vì tự do – cùng trật tự, đạo đức và kỷ luật – không là phân chia, không còn sự tách rời trong cấu trúc và bản chất của cái trí. Vì vậy, cái trí không còn sống trong một trạng thái của đấu tranh hay xung đột; vì vậy, một cái trí như thế không có kết thúc, nó bao la, thăm thẳm vô cùng, nó không thể đo lường được. Một cái trí như thế – mà trong chính nó đã trở thành cái không thể đo lường được – sống trong thương yêu, cùng tình yêu và cùng vẻ đẹp. Và khi có vẻ đẹp và tình yêu, có sự thật, và không thượng đế mà cái trí của con người đã sáng chế.

 Cái trí mà đã hiểu rõ sống hàng ngày và đã sáng tạo trật tự trong sống hàng ngày đó, và thế là vẻ đẹp và tình yêu, là một cái trí tôn giáo. Một cái trí như thế không có đau khổ, một cái trí như thế là một ân lành, và có hạnh phúc vô hạn, vô tận.

 Bất biến này là tình yêu, nhưng từ ngữ không là sự việc. Bất biến này có chuyển động riêng của nó, vẻ đẹp riêng của nó, mà sự suy nghĩ – dù nhạy cảm cực kỳ, tinh tế cực kỳ – không bao giờ có thể nắm bắt. Sự suy nghĩ phải hoàn toàn bặt tăm, và vậy là có lẽ bất biến này có thể hiện diện để hiệp thông cùng nó. Thiền định là đang nhận biết hai điều này như không-phân hai.

 Thiền định là thấy bất biến này đang hiệp thông chuyển động luôn thay đổi đó của sự sống. Cái người mà đã thăng hoa qua một người tội lỗi đến một vị thánh, đã thăng hoa từ một ảo tưởng sang một ảo tưởng. Toàn chuyển động này là một ảo tưởng. Khi cái trí thấy ảo tưởng này, nó không còn tạo ra bất kỳ ảo tưởng nào, nó không còn đang đo lường. Vì vậy sự suy nghĩ, liên quan đến đang trở thành tốt lành hơn, phải kết thúc. Từ điều này hiện diện một trạng thái của giải thoát – và đây là thiêng liêng. Cái này, một mình nó có thể, có lẽ, thâu nhận bất biến này. 

 Từ Bản tin 22, 1974

 

Hiểu rõ Sự Đau khổ

Bombay, Ấn độ, tháng 2 năm 1968

 

T

ôi không biết có khi nào bạn đã nghiêm túc tự hỏi chính bạn liệu sự đau khổ có thể kết thúc. Con người đã đau khổ – không chỉ thuộc thân thể, nhưng phía bên trong, thuộc tâm lý – trong thời gian không kể xiết. Anh ấy đã theo sau một khuôn mẫu của sự đau khổ vô tận, khuôn mẫu của sống và chết – cả hai đều tạo ra sự đau khổ sâu thẳm. Con người đã không thể, qua hàng thế kỷ, giải quyết được vấn đề này.

 Liệu con người – luôn luôn đang sống trong sự thoái hóa, trong một xã hội đang phân rã – có thể sống một sống hạnh phúc, thông minh, mà có nghĩa nhạy cảm, cùng sự hân hoan vô cùng bên trong, một hân hoan mà không bao giờ đã bị ô uế bởi sự đau khổ? Nếu người ta có thể thực sự đặt ra nghi vấn đó của chính người ta, tôi không hiểu người ta có thể trả lời như thế nào. Có thể người ta trả lời rằng điều đó không thể được, chúng ta hãy quên điều đó đi, người ta sẽ nói rằng người ta phải sống trong thế giới xấu xa này, cùng sự đau khổ, tuổi già và chết, cùng sự hân hoan thoáng chốc mà không có động cơ, hay rằng người ta bị trói buộc trong một vòng tròn hiểm độc mà không có lối thoát.

 Nhưng nếu không kết thúc sự đau khổ, tôi không thấy làm thế nào người ta có thể được khai sáng, làm thế nào người ta có thể có thông minh. Thông minh không là cái gì đó mà bạn mua được trong một tiệm sách, hay cái gì đó mà đã được tích lũy; nó không được sinh ra từ truyền thống, nó cũng không đến qua sự trải nghiệm. Thông minh hiện diện chỉ qua sự kết thúc của đau khổ; sự kết thúc của đau khổ thông minh. Nhưng chúng ta không biết làm thế nào để kết thúc sự đau khổ; chúng ta đã chưa bao giờ trao trọn những quả tim và những cái trí của chúng ta để tìm ra liệu con người có thể kết thúc sự đau khổ, sống một sống khác hẳn, một sống mà không sản sinh sự đau khổ, sự hỗn loạn, và sự sợ hãi vô cùng này. Chúng ta đã trở nên rất khôn ngoan trong sự tìm hiểu thuộc phân tích, rất có trí năng, rất lanh lợi trong đưa ra những giải thích – giống như một con người mà luôn luôn đang cày bừa và không bao giờ, không bao giờ gieo hạt. Lanh lợi này đã khiến cho chúng ta rất thế tục; tình trạng thế tục là sự vun quén tách rời này của cái trí mà đã trở nên quá nhạy bén, quá hiểu biết – không bao giờ nói, ‘Tôi không biết.’ Tình trạng thế tục là không khiêm tốn này. Khiêm tốn không là một sự việc phải được vun đắp như bạn vun đắp một cái cây, một ngôi vườn hay một mảnh của cái trí. Khiêm tốn không thuộc thời gian; vì lý do này bạn không thể nói, ‘Tôi sẽ khiêm tốn; trong thời gian tôi sẽ có trạng thái đơn giản, lạ thường đó của cái trí mà luôn luôn là một chuyển động của đang học hành, đang thấy, đang lắng nghe.’

 Thông minh hiện diện cùng khiêm tốn. Có khiêm tốn khi bạn biết về chính bạn như bạn thực sự là; nhưng khi bạn có một lý thuyết, được đặt nền tảng trên cái tôi cao quý hơn, cái tôi thấp hèn hơn, đại ngã và mọi chuyện của nó, được sáng chế bởi sự tưởng tượng, đó là hão huyền. Chỉ một cái trí được tự do khỏi trạng thái của đau khổ mới có thể thương yêu và biết vẻ đẹp của tình yêu; nó có thể thấy điều gì đó một cách trọn vẹn chỉ trong một nháy mắt – toàn vẻ đẹp của quả đất và bầu trời, sao hôm hay một đàn chim tung cánh trong buổi sáng. Nó có thể thấy tất cả việc đó trong một nháy mắt và biết chất lượng của vẻ đẹp, mà là tình yêu.

 Khiêm tốn phải cần đến để đặt ra nghi vấn: liệu có khi nào một cái trí, mà đã sống được 10.000 năm, có thể ở trong một trạng thái nơi sự đau khổ không bao giờ tiếp xúc nó? Để đặt ra nghi vấn đó và tìm ra chất lượng đó của cái trí mà hoàn toàn hồn nhiên, chúng ta phải hiểu rõ toàn cấu trúc và bản chất của sự trải nghiệm. Con người đã trải qua, và đang trải qua hàng ngày, từng giây phút, hàng ngàn và hàng ngàn trải nghiệm; anh ấy không thể lẩn tránh sự trải nghiệm, nó hiện diện ở đó dù anh ấy ưa thích hay không ưa thích nó, nó đang hằn sâu trong cái trí của anh ấy, dù anh ấy nhận biết hay không nhận biết được nó. Liệu có khi nào cái trí của anh ấy – mà là kết quả của thời gian, của truyền thống, kết quả của sự đau khổ không kể xiết của con người – có thể được tự do khỏi sự trải nghiệm? Bất hạnh vô cùng khi chúng ta nghĩ rằng sự trải nghiệm là cần thiết, chúng ta nghĩ rằng chúng ta phải có vô vàn những trải nghiệm thuộc mọi loại để làm phong phú cái trí, để cho cái trí trở nên mềm mỏng, rõ ràng lạ thường, bởi vì đã trải qua quá nhiều, đọc quá nhiều, đã sống quá nhiều. Chúng ta nghĩ sự trải nghiệm, dù sâu đậm hay hời hợt, là một bộ phận cốt lõi của sống; chúng ta liên tục đòi hỏi trải nghiệm nhiều hơn – sự trải nghiệm của tình dục, của Thượng đế, của đạo đức, của gia đình, của đi lại – và chúng ta cam chịu kéo dài sự trải nghiệm cô độc, đơn điệu, hàng ngày đó khi chúng ta chỉ có một mình. Chúng ta đã chấp nhận cách sống này.

 Sự so sánh hiện diện cùng sự trải nghiệm. Tôi không hiểu liệu bạn đã sống mà không có sự so sánh, mà không so sánh chính bạn với một người khác thông minh hơn, sáng láng hơn, có một địa vị cao hơn, nhiều quyền hành và thanh danh hơn, mà không so sánh chính bạn với một người khác có khuôn mặt đẹp đẽ hơn, có một nụ cười tươi tỉnh hơn, một cái nhìn trong sáng hơn. Sự so sánh không ngừng nghỉ tiếp tục bên trong chính người ta; điều đó tốt đẹp hơn, nhiều hơn; sự so sánh của cái gì đã là với cái gì nên là; sự đo lường mà liên tục không ngớt, không chấm dứt, như khi bạn đọc một mục quảng cáo: ‘Hãy mua thứ này, nó sẽ làm cho bạn tươi trẻ hơn’; ‘Hãy sử dụng thứ này, nó sẽ cho bạn thứ khác nữa’. Khi có sự so sánh, chắc chắn bạn phải mời mọc sự trải nghiệm; chúng ta nghĩ rằng nếu chúng ta không so sánh, nếu chúng ta không đo lường, chúng ta bị trì trệ, chúng ta bị dốt nát, và không tiến bộ. Chúng ta so sánh một bức tranh với một bức tranh khác, một tác giả với một tác giả khác, một gia tài với một gia tài khác; chúng ta nghĩ chúng ta đến được sự hiểu rõ nào đó về sự tồn tại của con người qua sự tìm hiểu so sánh của những tôn giáo và sự tìm hiểu thuộc nhân chủng học. Liệu chúng ta trì trệ nếu chúng ta không so sánh? Hay chúng ta chỉ biết sự trì trệ qua sự so sánh – bởi vì một người khác có nhạy cảm, có hai mắt sáng rực, sống mà không có sự rối loạn? Liệu trong so sánh chính bạn với người đó mà bạn trở nên nhận biết được rằng hai mắt của bạn bị đờ đẫn, rằng chất lượng của cái trí của bạn bị rối loạn? Sự so sánh đó giúp đỡ bạn hiểu rõ thực sự? Thuộc công nghệ phải có sự so sánh, ngược lại sự hiểu biết thuộc khoa học sẽ không tồn tại, nhưng ngoại trừ việc đó, tại sao bạn so sánh? – và nếu bạn không so sánh, việc gì sẽ xảy ra?

 Khi bạn đang lắng nghe, hãy thả cho cái trí của bạn tự nhìn ngắm về chính nó; bạn sẽ thấy rằng nó luôn luôn bị trói buộc trong so sánh và đo lường; điều này tạo ra sự không thỏa mãn, và, bởi vì không thỏa mãn, bạn muốn nhiều hơn. Bạn muốn tìm được sự mãn nguyện và thế là mời mọc sự trải nghiệm vô tận này.

 Trải nghiệm là gì? Bạn phải hiểu rõ nó là gì trước khi chúng ta thâm nhập sâu thêm vào cái gì đó mà đòi hỏi nhiều hiểu rõ; chúng ta sẽ nói về một cái trí mà hoàn toàn hồn nhiên, cái trí rất, rất đơn giản, mà có thể thấy điều gì là sự thật, mà có thể thấy rõ ràng. Một cái trí đầy trải nghiệm là một cái trí phức tạp; mọi trải nghiệm đã để lại một dấu vết trên cái trí đó, và một cái trí như thế, dù nó làm bất kỳ việc gì, không bao giờ có thể biết sự hạnh phúc của hồn nhiên.

 Người ta phải thâm nhập bản chất của sự trải nghiệm; từ ngữ đó có nghĩa ‘đi qua’, tuy nhiên cái trí không bao giờ ‘đi qua’ một trải nghiệm, không bao giờ ‘đi qua’ nó và kết thúc nó. Mỗi trải nghiệm đều để lại một dấu vết, và bởi vì có những dấu vết khác, những vết hằn khác của những trải nghiệm có sẵn, thế là mọi trải nghiệm được diễn giải bởi trải nghiệm có sẵn, bởi vết hằn trước, bởi kỷ niệm trước. Làm ơn, hãy nhìn ngắm điều này trong chính bạn. Người ta khám phá rằng sự trải nghiệm không bao giờ có thể khiến cho cái trí tự do – không bao giờ; người ta thấy rằng bất kỳ trải nghiệm nào mà người ta công nhận chỉ có thể được công nhận bởi vì người ta đã trải nghiệm nó trước rồi – ngược lại người ta không thể công nhận nó.

 Sự trải nghiệm để lại một dấu vết; đây là một sự kiện rõ ràng. Bạn đã sỉ nhục tôi và sự phản ứng của tôi đến sự sỉ nhục đó đã để lại một kỷ niệm; lần sau khi tôi gặp gỡ bạn, tôi gặp gỡ bạn cùng trải nghiệm đó, và qua gặp gỡ bạn người đã sỉ nhục tôi mà kỷ niệm đó trở nên dầy dặc thêm; hay nếu bạn khen ngợi tôi, nói rằng, ‘Bạn là người tử tế quá,’ lại nữa sự nịnh nọt đó để lại một dấu vết, một kỷ niệm, và lần tới khi tôi gặp gỡ bạn có một dầy dặc thêm của kỷ niệm đó; chúng ta trở thành bạn bè. Sự trải nghiệm đã để lại những dấu vết, cả vui vẻ lẫn buồn bã. Lúc này, liệu trải nghiệm có thể được sống, được trải qua khi nó xảy ra, để cho khi bạn sỉ nhục tôi tôi thâu nhận sự sỉ nhục đó trọn vẹn đến độ nó không lưu lại trên cái trí, để cho nó không lưu lại kỷ niệm, hay, tương tự, khi bạn nịnh nọt tôi, sự nịnh nọt đó không lưu lại dấu vết? – mà có nghĩa cái trí không còn đang tích lũy sự trải nghiệm. Làm ơn, hãy hiểu rõ bản thể của điều này. Cái trí, khi sự sỉ nhục hay sự khen ngợi được trao cho nó, đã quá rõ ràng, quá nhạy bén, đến độ nó gặp gỡ một cách trọn vẹn, bởi vì nó đã khước từ sự trải nghiệm. Làm ơn, hãy áp dụng nó lần tới – làm nó, không phải cố gắng làm nó, hay vận dụng hết sức để làm nó, nhưng thực sự làm nó bởi vì bạn hiểu rõ rất thông suốt rằng sự trải nghiệm không bao giờ trao tặng cái trí sự tự do.

 Những con người tôn giáo muốn sự trải nghiệm; họ lặp lại từ ngữ nào đó mà nhờ nó một cuồng loạn được sinh ra, mà sẽ trao tặng một trải nghiệm của cái gì đó vượt khỏi; và nhiều người của thế hệ trẻ đã sử dụng thuốc men để có loại trải nghiệm thăng hoa nào đó. Nó luôn luôn là cùng vấn đề: con người – mà đã sống một sống quá vô nghĩa, quá tuyệt vọng, nghèo khó phía bên trong, quá đơn điệu, đã được cố định trong lề thói bắt chước như thế – một cách tự nhiên, mong muốn cái gì đó mà sẽ trao tặng anh ấy sự hân hoan lớn lao hơn, tầm nhìn lớn lao hơn, ý nghĩa lớn lao hơn; vì thế anh ấy luôn luôn đang tìm kiếm sự trải nghiệm – mà bạn đang làm. Bạn muốn chứng cớ, bạn muốn tìm kiếm nó, tìm được nó; đó là bạn muốn trải nghiệm nó. Nhưng khi bạn thực sự hiểu rõ bản chất của sự trải nghiệm, khi bạn thấy nó được hình thành như thế nào, thấy sự thật của nó, và, bởi vì đang thấy sự thật của nó, không còn so sánh nữa, vậy thì bạn không còn theo sau nữa, vậy thì không còn uy quyền; bạn thấy rằng không còn người nào sẽ dẫn dắt bạn đến những thăng hoa cao cả hơn của sự trải nghiệm.

 Nếu bạn hiểu rõ rằng tất cả sự đo lường đều mời mọc sự trải nghiệm, rằng sự ham muốn cho trải nghiệm nhiều hơn nuôi dưỡng những người đó mà đảm trách uy quyền – vị giáo sĩ, người thầy tu, người mà biết nhiều hơn; nếu bạn hiểu rõ điều đó, vậy thì bạn có thể thâm nhập nghi vấn này của sự đau khổ và của tại sao con người đau khổ, không chỉ thuộc thân thể từ những căn bệnh trầm trọng, nhưng còn cả tại sao anh ấy đau khổ khi người nào đó chết, tại sao anh ấy đau khổ khi anh ấy không thể đạt được, thành tựu, tại sao anh ấy bỗng nhiên cảm thấy cô độc khi không có sự nâng đỡ và không có người nào để phụ thuộc, khi anh ấy bị bỏ lại hoàn toàn một mình – tại sao anh ấy đau khổ. Và, như chúng ta đã nói, muốn hiểu rõ điều này phải có sự khiêm tốn; nhưng bạn không khiêm tốn, bạn đã đọc quá nhiều sách báo, đang tìm kiếm lý do tại sao sự đau khổ hiện diện và nó không được kết thúc. Thế là, trong tìm kiếm sự kết thúc của đau khổ, bạn đã trở thành rất thế tục; bạn đã học hành làm thế nào để lẩn tránh sự đau khổ – lẩn tránh nó một cách ranh ma.

 Để hiểu rõ sự đau khổ và sự kết thúc của đau khổ, bạn phải hiểu rõ sự sợ hãi; không phải ‘hiểu rõ’ thuộc trí năng hay từ ngữ, nhưng hiểu rõ bằng cách thực sự nắm chặt sợ hãi để cho bạn được đối diện chính sự kiện. Khi bạn được đối diện sự kiện, sự suy nghĩ không vận hành; khi bạn được đối diện một chấn động kinh hoàng, một khủng hoảng nghiêm trọng, sự suy nghĩ không can thiệp. Tôi không hiểu liệu bạn đã nhận thấy điều đó. Ngay khi sự suy nghĩ can thiệp, thời gian được mang vào. (Tôi phải giải thích tất cả điều này – làm thế nào sự suy nghĩ nuôi dưỡng thời gian, làm thế nào thời gian là sự đau khổ, làm thế nào thời gian là sự sợ hãi? Liệu tôi cần phải giải thích nó? Có à? Tệ quá! Bởi vì bạn biết nó thể hiện điều gì – một cái trí mà đã sống dựa vào những từ ngữ và những giải thích, một cái trí mà đã bị khiến cho đờ đẫn và vì vậy không thể thấy mau lẹ, tức khắc, sự thật của cái gì đó, nhưng bạn nghĩ bạn sẽ hiểu rõ sự thật khi nó được giải thích. Sự giải thích và định nghĩa chỉ khiến cho cái trí đờ đẫn thêm. Tôi sẽ giúp đỡ bạn bằng một giải thích vắn tắt, nhưng sự giải thích không là sự kiện. Đừng ở cùng sự giải thích, quẳng nó đi như món đồ ăn nào đó mà không nếm ngon.)

 Sự suy nghĩ là thời gian, và sự suy nghĩ là sự sợ hãi. Bạn phải hiểu rõ điều này, không phải bằng từ ngữ nhưng thực sự, bởi vì khi bạn bắt gặp nghi vấn vô hạn này của chết, để hiểu rõ nó, sống cùng nó, thấy toàn vẻ đẹp của nó, sự suy nghĩ như thời gian phải được hiểu rõ, sự suy nghĩ như sợ hãi phải được hiểu rõ. Đã có một trải nghiệm hạnh phúc ngày hôm qua và sự suy nghĩ nói, ‘Tôi hy vọng tôi sẽ có lại trải nghiệm đó ngày mai.’ Hãy theo dõi điều gì đã xảy ra: bạn có một trải nghiệm vui vẻ ngày hôm qua và bạn muốn nó được lặp lại ngày mai; sự suy nghĩ giữ lại trải nghiệm đó như kỷ niệm và sự suy nghĩ muốn trải nghiệm đó được lặp lại ngày hôm sau. Đó là điều gì bạn làm liên quan đến tình dục – trải nghiệm ngày hôm qua bạn muốn được lặp lại ngày mai. Sự suy nghĩ đã tạo ra ngày hôm qua và ngày mai. Nhưng ngày mai không chắc chắn, ngày mai có lẽ là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn. Tất cả mọi điều mà sự suy nghĩ thực sự biết là ngày hôm qua. Vì vậy, sự suy nghĩ thuộc về ngày hôm qua, sự suy nghĩ là cũ kỹ, không bao giờ mới mẻ.

 Sự suy nghĩ – mà là trải nghiệm, hiểu biết, một mớ được lưu trữ của những kỷ niệm mà từ đó sự suy nghĩ là phản ứng – tạo ra thời gian như ngày hôm qua. Tôi đã rất hạnh phúc ngày hôm qua, tôi đã nhìn ngắm hoàng hôn diệu kỳ đó, mặt trời đang rực sáng, đang kết lại trong biển cả lộng lẫy và đám mây trôi qua bởi màu sắc hoa hồng, vẻ đẹp lạ thường – nó đã ở đó và lúc này nó là một kỷ niệm, và ngày mai tôi sẽ đi đến đó và mặt trời có lẽ lặn mà không có màu sắc, mà không có vẻ đẹp như thế. Sự suy nghĩ đã tạo ra thời gian, như ngày hôm qua và ngày mai. Điều đó rất đơn giản. Thế là, liệu sự suy nghĩ tạo ra sự sợ hãi của chết? Ngày mai, trong tương lai, sẽ có một kết thúc bởi vì bạn đã thấy chết quá thường xuyên ngoài đường phố; bạn biết về chết, nó đó kìa, kề cận mỗi ngày bên cạnh bạn. Và sự suy nghĩ nghĩ về nó như tương lai, tại thời gian nào đó sẽ đến; vì thế có một khoảng trống, thời gian, giữa sống và chết. Khoảng trống đó, thời gian đó, là sự sợ hãi. Thời gian đó, khoảng trống đó, được tạo ra bởi sự suy nghĩ.

 Chúng ta biết sống và chúng ta biết chết. Chúng ta biết sống mà chúng ta theo đuổi – một sống của những xung đột, đấu tranh, đau khổ, những quả tim quằn quại, không có tình yêu và vẻ đẹp – và có sự việc đó được gọi là chết, sự kết thúc đột ngột. Con người đã sáng chế vô vàn lý thuyết về chết như việc gì xảy ra sau khi chết; toàn Châu á tin tưởng thuyết luân hồi; đó chỉ là một hy vọng, bởi vì nếu niềm tin đó thực sự là bộ phận thuộc sống của người ta, vậy thì bạn sẽ sống đúng đắn ngày hôm nay, những hành động và những suy nghĩ của bạn sẽ có đạo đức, bạn sẽ tử tế, rộng lượng, ân cần, bởi vì, nếu bạn không, vậy thì trong cuộc đời kế tiếp bạn sẽ phải trả lại nó – mà là điều gì thuyết luân hồi dạy bảo. Nhưng bạn không tin tưởng nó, nó chỉ là một ý tưởng, một hy vọng – hy vọng cho con người bị sợ hãi. Vì vậy, bạn phải xem xét lại toàn sự việc, suy nghĩ lại những niềm tin của bạn. Những niềm tin, dù dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, đều không có giá trị gì cả.

 Một con người có một niềm tin là một người sợ hãi. Sống mà người ta sống – sự trống rỗng, sự đau khổ, sự phiền muộn, sự xung đột không ngừng nghỉ – là một chiến trường; và đó là tất cả mà chúng ta biết. Chiến trường đó và sự sợ hãi của chấm dứt chiến trường đó, mà chúng ta gọi là chết, là tất cả mà chúng ta biết. Vì vậy, chúng ta phải tìm hiểu, thâm nhập, suy nghĩ mới mẻ lại, quan sát nó mới mẻ lại để cho nhờ đó một cái trí mới mẻ có thể hiện diện.

 Liệu sự đau khổ có thể kết thúc? – mà có nghĩa, liệu sự sợ hãi có thể kết thúc. Khi bạn khóc lóc bởi cái chết của người nào đó, bạn đang khóc lóc vì chính bạn hay vì một người khác? Có khi nào bạn đã khóc lóc vì một người khác? – đã khóc lóc vì người đàn bà hay nguời đàn ông tội nghiệp đó ngoài đường phố với chỉ một mảnh vải, quá bẩn thỉu; có khi nào bạn đã khóc lóc vì họ? Có khi nào bạn đã khóc lóc vì người con trai của bạn bị giết chết ngoài chiến trường? Bạn đã khóc lóc, nhưng liệu khóc lóc đó do bởi tự-thương xót, hay liệu bạn đã khóc lóc bởi vì một con người đã bị giết chết? Nếu bạn khóc lóc vì tự-thương xót, những giọt nước mắt của bạn không có ý nghĩa gì cả bởi vì bạn quan tâm đến chính bạn; và ‘chính bạn’ là một mớ của những kỷ niệm, những trải nghiệm, truyền thống quá khứ; bạn đang khóc lóc bởi vì bạn đã bị mất đi anh ấy mà bạn đã thương yêu nhiều – nó thực sự không là tình yêu. Bạn khóc lóc vì người em của bạn đã chết, khóc lóc vì em ấy, không phải vì chính bạn. Rất dễ dàng để khóc lóc vì chính bạn bởi vì em ấy đã chết rồi. Liệu có khi nào bạn đã hỏi điều gì đã xảy ra cho em ấy, tại sao em ấy đã chết? Tôi biết tất cả những trả lời bạn sẽ đưa ra cho tôi. Bạn sẽ nói em ấy chết vì bệnh tật, tai nạn; nó là nghiệp lực của em ấy, nó là số mạng của em ấy, em ấy đã không sống đúng cách: những giải thích, những giải thích, những giải thích. Liệu bạn đang khóc lóc vì những giải thích, hay liệu bạn đang khóc lóc vì một con người khác? Có khi nào bạn đã quan tâm đến một người khác? Làm ơn, bạn phải trả lời những câu hỏi này cho chính bạn, bởi vì bạn đã trở nên quá thô tục, quá nhẫn tâm hoàn toàn. Và nếu bạn khóc lóc vì một người khác, vậy thì bạn sẽ làm việc gì đó. Nhưng nếu bạn khóc lóc vì chính bạn, từ tự-thương xót, bạn trở nên nhẫn tâm hơn. Mặc dù rõ ràng bạn khóc lóc bởi vì quả tim của bạn bị xúc động, nó không bị xúc động, ngoại trừ do tự-thương xót. Tự-thương xót khiến cho bạn cằn cỗi, khép kín chính bạn, nó khiến cho bạn đờ đẫn, dốt nát; đó là điều gì những con người đã trở thành, bởi vì họ đã rơi nước mắt vì chính họ, vì số mạng của họ, và số mạng của họ luôn luôn quá nhỏ nhoi khi được so sánh với điều gì khác.

 Sự kết thúc của đau khổ là sự khởi đầu của thông minh; thông minh hiện diện một cách tự nhiên, dễ dàng, khi có hiểu rõ về chính mình. Nó hiện diện khi bạn biết rằng bạn chỉ đang khóc lóc vì chính bạn, đang khóc lóc vì tự-thương xót do bởi bạn cảm thấy cô độc, do bởi bạn đã bị bỏ lại. Luôn luôn bạn rơi nước mắt; nếu bạn hiểu rõ điều đó, hiểu rõ nó, mà có nghĩa rằng bạn hiệp thông trực tiếp cùng nó – giống như bạn sờ một cái cây, giống như bạn chạm cái cột đó hay cầm một bàn tay – vậy thì bạn sẽ thấy rằng sự đau khổ tự cho mình là trung tâm, bạn sẽ thấy rằng sự đau khổ bị tạo ra bởi sự suy nghĩ, mà là kết quả của thời gian. Cách đây nhiều năm tôi đã mất cậu con trai của tôi, cậu ấy chết rồi; lúc này tôi cảm thấy cô độc, không còn ai để tôi có thể tìm kiếm sự thanh thản, tình bầu bạn; việc đó làm cho tôi rơi lệ, mà là tự-thương xót của tôi, và thực sự tôi không quan tâm đến cậu con trai của tôi gì cả. Nếu tôi có quan tâm, tôi sẽ thấy rằng cậu ấy sống đúng đắn, được cho thức ăn hợp lý, vận động hợp lý, giáo dục đúng cách, rằng cậu ấy có thể một mình, rằng cậu ấy là một người tự do. Nhưng bạn đã không quan tâm. Bạn không khóc lóc vì một người khác, bạn khóc lóc vì cái tôi nhỏ nhen, tầm thường, xấu xa riêng của bạn, mà đã trở nên khôn ngoan lạ lùng vì sự gian manh của nó. Bạn có thể thấy điều này đã xảy ra phía bên trong bạn – và bạn có thể thấy nó nếu bạn quan sát nó – bạn có thể thấy nó trọn vẹn, tổng thể, bằng một chớp mắt. Bạn có thể thấy toàn cấu trúc bằng một chớp mắt, không phải mất thời gian bởi nó, không phân tích nó, bạn có thể thấy bản chất của cái vật nhỏ nhen gian manh này được gọi là ‘tôi’, ngôi nhà ‘của tôi’, những giọt nước mắt ‘của tôi’, gia đình ‘của tôi’, quốc gia ‘của tôi’, niềm tin ‘của tôi’, tôn giáo ‘của tôi’, dân tộc ‘của tôi’ – tất cả xấu xa đó, tất cả nó đều ở bên trong bạn. Thế là, bạn có thể thấy rằng, bạn chịu trách nhiệm cho mọi chiến tranh, cho mọi bạo lực đang xảy ra trong quốc gia này, và trong những quốc gia khác. Khi bạn thấy tất cả điều đó bằng quả tim của bạn, không phải bằng cái trí của bạn, khi bạn thấy nó từ tận đáy quả tim của bạn, vậy là bạn có chìa khóa mà sẽ kết thúc sự đau khổ. Một chìa khóa như thế mở cánh cửa đến một cái trí mà tuyệt đối không bị ô uế bởi sự trải nghiệm và thế là hồn nhiên, và cái trí hồn nhiên không là một cái trí được làm cho hồn nhiên bởi sự suy nghĩ, sự suy nghĩ không thể làm gì cả, sự suy nghĩ là cũ kỹ; vẻ đẹp của hồn nhiên là rằng nó luôn luôn mới mẻ và vậy là luôn luôn tươi trẻ – chỉ sự hồn nhiên tổng thể đó mới có thể thấy cái vô hạn, trạng thái không thể đo lường được đó của cái trí, mà con người đã tìm kiếm suốt hàng thế kỷ sang hàng thế kỷ.

 Từ Bản tin 29, 1976

 

Cái trí thanh thản

New Delhi, tháng 11 năm 1969

 

C

ó nhiều vấn đề. Ngôi nhà đang cháy, không chỉ cái vị trí nhỏ nhoi riêng biệt của bạn, nhưng ngôi nhà của mọi người; không đặt thành vấn đề người ta sống ở đâu – trong thế giới Cộng sản hay trong thế giới của sự thịnh vượng hay trong quốc gia nghèo đói này, ngôi nhà đang cháy. Đây không là một lý thuyết, không là một ý tưởng, không là điều gì đó mà người chuyên môn, người chuyên viên giải thích. Có những cách mạng, những xung đột chủng tộc, sự nghèo khổ vô cùng, sự bùng nổ dân số. Không còn những giới hạn nào để băng qua nữa – hoặc đi đến mặt trăng hoặc trong phương hướng của vui thú. Những tôn giáo có tổ chức, cùng những giáo điều, những tin tưởng, những nghi lễ và những giáo sĩ của chúng, đã hoàn toàn thất bại và không còn ý nghĩa gì cả. Có chiến tranh, và hòa bình mà những người chính trị đang cố gắng sáng chế không là hòa bình gì cả.

 Bạn thấy tất cả việc này? – không như một lý thuyết, không như điều gì đó được giải thích cho bạn để chấp nhận hay phản đối, nhưng như điều gì đó mà từ nó bạn không thể lẩn tránh, bằng cách nương nhờ vào hoặc tu viện nào đó hoặc ý tưởng truyền thống quá khứ nào đó. Sự thách thức hiện diện ở đó cho bạn phải trả lời: nó là trách nhiệm của bạn. Bạn phải hành động, bạn phải làm việc gì đó hoàn toàn khác hẳn; và, nếu có thể, tìm ra liệu có một hành động mới mẻ, một cách mới mẻ của quan sát toàn hiện tượng của sự tồn tại.

 Bạn không thể quan sát những vấn đề này bằng một cái trí cũ kỹ, đang sống trong một sống thuộc cá thể, thuộc quốc tịch, bị quy định. Từ ngữ ‘cá thể’ có nghĩa một hiện diện không bị phân chia, không thể tách rời được. Nhưng những cá thể bị phân chia trong chính chúng; chúng bị tách rời, chúng bị mâu thuẫn. Bạn là gì, xã hội là và thế giới là. Vì vậy, thế giới là bạn, không phải cái gì đó tách rời. Và khi bạn quan sát hiện tượng này khắp thế giới, sự hỗn loạn được tạo ra bởi những người chính trị cùng sự ham muốn quyền hành của họ, và bởi vị giáo sĩ đang quay lại những phản ứng cũ kỹ của anh ấy, lầm bầm một vài từ ngữ tiếng Latin, hay tiếng Phạn, tiếng Hy lạp hay tiếng Anh, bạn không còn tin tưởng hay tin cậy bất kỳ thứ gì hay bất kỳ người nào nữa. Bạn càng quan sát việc gì xảy ra phía bên ngoài nhiều bao nhiêu và bạn quan sát phía bên trong nhiều bao nhiêu, bạn càng không tin cậy điều gì bạn có trong bất kỳ thứ gì nhiều bấy nhiêu, và bạn cũng mất sự tin cậy trong chính bạn nhiều bấy nhiêu.

 Vì vậy, câu hỏi là liệu có thể xóa sạch ngay tức khắc tất cả tình trạng bị quy định. Điều đó có nghĩa, bởi vì sự khủng hoảng lạ lùng lắm, bạn phải có một cái trí mới mẻ, một quả tim mới mẻ, một chất lượng mới mẻ trong cái trí, một trong sáng mới mẻ, một hồn nhiên. Và từ ngữ ‘hồn nhiên’ đó có nghĩa không thể bị tổn thương. Nó không là một biểu tượng, nó không là một ý tưởng; nó là phải thực sự tìm ra liệu cái trí của bạn có thể không bị tổn thương bởi bất kỳ sự kiện nào, bởi bất kỳ căng thẳng, áp lực, ảnh hưởng thuộc tâm lý nào, để cho nó hoàn toàn được tự do. Nếu có bất kỳ hình thức nào của kháng cự, vậy thì nó không là hồn nhiên. Nó phải là một cái trí có thể quan sát sự khủng hoảng này như thể lần đầu tiên, bằng một cái trí trong sáng, một cái trí tươi trẻ, tuy nhiên không phải một cái trí đang phản kháng. Những sinh viên đang phản kháng chống lại khuôn mẫu, sự trật tự được thiết lập, nhưng sự phản kháng không giải đáp những vấn đề của con người, mà còn rộng lớn hơn sự phản kháng của những sinh viên.

 Liệu cái trí, mà bị quy định quá nặng nề, có thể phá vỡ, để cho nó có chiều sâu thăm thẳm, một chất lượng mà không là kết quả của luyện tập, tuyên truyền, của sự hiểu biết được thâu lượm? Và liệu quả tim, mà bị chất đầy bởi sự đau khổ, mà nặng nề bởi tất cả những vấn đề của sống – những xung đột, sự hỗn loạn, sự phiền muộn, sự tham vọng, sự ganh đua – liệu quả tim đó có thể biết tình yêu có nghĩa gì? Tình yêu mà không ghen tuông, không ganh tị, không bị sai khiến bởi mảnh trí năng, tình yêu mà không là ham muốn. Liệu cái trí có thể được tự do để quan sát, để thấy? Liệu cái trí có thể lý luận một cách thông minh, hợp lý, khách quan, và không là một nô lệ cho những quan điểm, những kết luận? Liệu cái trí có thể không sợ hãi? Liệu quả tim có thể biết tình yêu là gì? – không phải tùy theo luân lý xã hội, bởi vì luân lý xã hội là vô luân lý. Theo xã hội, tất cả các bạn đều rất có luân lý, nhưng thật ra các bạn là những người rất vô luân lý. Đừng cười. Đó là một sự kiện. Bạn có thể tham vọng, tham lam, ganh tị, tham lợi, hận thù, tức giận, và những điều đó lại được nghĩ rằng rất có luân lý. Nhưng nếu bạn mê đắm tình dục, điều đó lại được nghĩ rằng bất bình thường, và bạn phải giấu giếm. Và bạn có khuôn mẫu của những hành động và những ý tưởng – bạn nên làm những việc gì, một khất sĩ nên cư xử ra sao, rằng anh ấy không được lập gia đình, rằng anh ấy phải theo đuổi một sống độc thân; đây là tất cả sự vô lý.

 Lúc này, bạn sẽ đối diện vấn đề này như thế nào? Bạn nên làm gì? Trước hết, tất cả các bạn phải nhận ra rằng tất cả các bạn đều là những nô lệ cho những từ ngữ. Từ ngữ ‘là’ đã quy định cái trí của bạn. Toàn tình trạng bị quy định của bạn đều được đặt nền tảng trên động từ ‘là’ đó: tôi đã là, tôi là, tôi sẽ là. ‘Tôi đã là’ quy định và định hình ‘Tôi là’, mà kiểm soát tương lai. Tất cả những tôn giáo của bạn đều được đặt nền tảng trên điều đó. Tất cả sự thăng hoa thuộc ý tưởng của bạn đều được đặt nền tảng trên thuật ngữ ‘là’ đó. Khoảnh khắc bạn sử dụng thuật ngữ đó, không chỉ bằng từ ngữ nhưng còn cả bằng ý nghĩa, chắc chắn bạn khẳng định đang là như ‘Tôi là’ – ‘Tôi là Thượng đế’, ‘Tôi là vĩnh cửu’, ‘Tôi là một người Ấn giáo hay một người Hồi giáo’. Khoảnh khắc bạn sống trong ý tưởng đó hay trong cảm thấy của đang là hay đang trở thành hay đã là, bạn là một nô lệ cho thuật ngữ đó.

 Sự khủng hoảng trong hiện tại. Sự khủng hoảng không bao giờ trong tương lai, cũng không trong quá khứ: nó trong hiện tại, trong hiện tại thực sự, đang sống của cái trí, mà bị quy định bởi thuật ngữ ‘là’ đó và không thể gặp gỡ vấn đề. Khoảnh khắc bạn bị trói buộc trong thuật ngữ đó và ý nghĩa của thuật ngữ đó, bạn có thời gian. Và bạn nghĩ thời gian sẽ giải quyết được vấn đề. Liệu bạn đang theo sát tất cả điều này, không phải bằng từ ngữ, nhưng trong quả tim của bạn, trong cái trí của bạn, trong thân tâm của bạn? – bởi vì nó là một vấn đề có ý nghĩa và giá trị và quan trọng vô cùng. Bởi vì khoảnh khắc bạn được tự do khỏi thuật ngữ đó và khỏi ý nghĩa của điều gì đằng sau thuật ngữ đó – quá khứ, của đã là – mà quy định hiện tại và định hình tương lai, vậy thì phản ứng của bạn đến hiện tại là tức khắc.

 Nếu bạn thực sự hiểu rõ điều này, có một cách mạng lạ thường trong tầm nhìn của bạn. Đây thực sự là thiền định, được tự do khỏi chuyển động của thời gian đó.

 Làm thế nào cái trí, bởi vì nhận biết được chính nó, nhận biết sự thật của điều này? – không phải thuộc trí năng, bởi vì điều đó không có ý nghĩa gì cả. Bạn biết rằng khi có sự nguy hiểm, toàn phản ứng của bạn đến sự nguy hiểm là tức khắc. Bạn thấy một chiếc xe buýt chạy nhanh về hướng bạn, và phản ứng của bạn là tức khắc. Khi bạn nói, ‘Tôi sẽ thương yêu’, nó không là tình yêu. Làm ơn đừng chấp nhận điều này như một lý thuyết hay như một ý tưởng để suy nghĩ. Bạn không suy nghĩ về sự nguy hiểm. Không có thời gian, chỉ có hành động. Một cái trí không còn đang suy nghĩ dựa vào thời gian, mà là ‘là’, đang hành động khỏi thời gian. Và sự khủng hoảng đòi hỏi hành động không thuộc thời gian.

 Đây là một trong những việc khó khăn nhất. Đừng nói bạn đã hiểu rõ nó. Đừng nói chúng ta hãy hợp nhất cùng nó. Bởi vì toàn văn hóa của bạn được đặt nền tảng trên những thuật ngữ ‘Tôi là’ đó. Khoảnh khắc bạn có cảm giác ‘Tôi là’ này, bạn phải ở trong sự mâu thuẫn, trong sự phân chia – ‘Tôi là’ và ‘bạn là’, ‘chúng tôi và chúng nó’. Khoảnh khắc sự phân chia xảy ra, một tách rời trong sự khẳng định rằng ‘bạn là’, bạn không còn là một cá thể nữa – mà là, một đơn vị tổng thể, duy nhất. Bạn biết từ ngữ ‘tổng thể’ có nghĩa gì? Tổng thể có nghĩa lành mạnh và nó cũng có nghĩa thiêng liêng. Vì vậy, cá thể hoàn toàn không bị phân chia trong chính anh ấy là lành mạnh, thiêng liêng, mà có nghĩa anh ấy không xung đột.

 Liệu bạn đang làm việc gian nan như người nói, hay liệu bạn chỉ đang lắng nghe những từ ngữ? Chuyển tải có nghĩa cùng nhau xây dựng, sáng tạo, và đó là vẻ đẹp của chuyển tải. Và việc đó chấm dứt khi người nói trở thành một uy quyền và bạn đang lắng nghe chỉ như những học trò hay những môn đồ. Không người thầy, không môn đồ. Chỉ có đang học hành. Điều gì bạn đã học hành là thuộc quá khứ, và đang hành động từ điều gì đã được tích lũy là một qui trình của kiếm được, ngược lại đang học hành phải là một chuyển động, không là một tích lũy.

 Nếu bạn đã hiểu rõ điều này cùng quả tim và cái trí của bạn, bạn sẽ theo một sống khác hẳn. Thử nghiệm và chứng cớ của đang học hành là sống của bạn. Một cái trí mà đang đối diện sự khủng hoảng này luôn luôn mới mẻ, trong sáng, dư thừa sinh lực. Nhưng nếu bạn đang phản ứng nó dựa vào ‘Tôi là’, dựa vào quá khứ, vậy thì phản ứng của bạn sẽ tạo ra nhiều đau khổ hơn, nhiều bất ổn hơn, nhiều chiến tranh hơn. Chừng nào bạn còn là một người Ấn giáo, một người Hồi giáo, chừng nào bạn còn khẳng định rằng ‘Tôi là’, bạn đã tạo ra sự thoái hóa trong chính bạn và trong thế giới.

 Chất lượng mới mẻ của cái trí và quả tim mà phản ứng một cách tức khắc, không dựa vào quá khứ, không dựa vào tương lai, là gì? Khoảnh khắc nó phản ứng dựa vào quá khứ, nó vẫn còn đang sống trong cái khung của thuật ngữ ‘Tôi là’ đó. Hãy cho phép tôi giải thích nó khác hẳn. Hành động của chúng ta được đặt nền tảng trên ý tưởng, hiểu biết, truyền thống; nó là ký ức. Trong thế giới công nghệ, điều đó là cần thiết. Toàn sự hiểu biết khoa học, sự phát triển công nghệ, đều được đặt nền tảng trên sự trải nghiệm, sự tích lũy và sự hiểu biết. Điều đó tuyệt đối cần thiết. Nhưng một cái trí mà có một chất lượng mới mẻ, một kích thước mới mẻ, phải hành động không có quá khứ và không dựa vào tương lai – mà có nghĩa tự do. 

 Làm thế nào sự tự do để hành động đó sẽ xảy ra? Làm thế nào cái trí hành động không quá khứ – quá khứ là tình trạng bị quy định như một người Ấn giáo, quá khứ là kết quả của ảnh hưởng, giáo dục, chủng tộc? Nếu bạn hành động trong những quy định này, vậy thì bạn không đang gặp gỡ sự khủng hoảng. Câu hỏi là: làm thế nào một cái trí hành động mà được tự do khỏi quá khứ, tự do khỏi sự hàm ý của động từ ‘là’?

 Nếu bạn đã hiểu rõ câu hỏi, vậy thì bạn sẽ thấy rằng điều gì quan trọng là sự nhận biết, đang thấy, đang quan sát. Nếu có một khoảng trống giữa sự nhận biết và hành động, khoảng trống đó là thời gian. Khi bạn thấy sự nguy hiểm, mà có lẽ gây ra sự tổn thương thân thể, phản ứng của bạn là tức khắc; không có suy nghĩ về nó. Không có khoảng trống giữa sự nhận biết và hành động, không khoảng ngừng; có phản ứng và hành động tức khắc.

 Lúc này, bởi vì thấy rằng một vấn đề không thể được giải quyết từ quá khứ, rằng trong bất kỳ hoàn cảnh nào người ta không thể đáp lại một cách tổng thể, trọn vẹn sự thách thức rộng lớn này dựa vào quá khứ, bởi vì thấy điều này, hành động nảy ra là hoàn toàn mới mẻ. Liệu bạn đã hiểu rõ? Liệu bạn thấy sự phản ứng đó? Hay liệu bạn thấy nó chỉ thuộc trí năng, mà có nghĩa bằng từ ngữ? Nếu bạn thấy nó bằng từ ngữ, bạn đang thấy nó một cách phân chia, và vì vậy nó không là một phản ứng tổng thể. Nhưng nếu bạn thực sự thấy sự nguy hiểm của tình trạng bị quy định của bạn, của văn hóa mà bạn đã được nuôi dưỡng, có hành động tức khắc đó của tự do.

 Lúc này, cái trí – qua từ ngữ cái trí chúng ta có ý ‘tổng thể’ mà trong đó không có sự phân chia như mảnh trí năng, như bộ não, như tham vọng, như cảm tính, nhưng ‘nguyên vẹn’ – một cái trí như thế thấy sự nguy hiểm của chủ nghĩa quốc gia, của điều vô lý này được gọi là tôn giáo. Nó thấy rằng tất cả những con người tạm gọi là tôn giáo đều đang lặp lại dựa vào quá khứ, cùng hình ảnh mà họ có về Christ, hay về Buddha, hay về Krishna; nó thấy rằng nếu bạn hành động dựa theo quá khứ, bạn không những đang thêm vào sự hỗn loạn, sự đau khổ, nhưng bạn còn đang hoàn toàn thoái hóa. Sự thoái hóa hiện diện chỉ khi nào bạn thấy sự nguy hiểm và không hành động.

 Nếu bạn thấy sự nguy hiểm, bạn sẽ hành động; và chỉ cái trí mà thấy, lắng nghe, học hành mới luôn luôn hạnh phúc. Vì vậy, không bao giờ có sự hành động, nhưng đang hành động. Trong đang hành động, nguyên lý năng động – không có sự phân chia và thế là không xung đột. Đang học hành ở trong chuyển động và cái mà đang chuyển động được tự do. Nhưng một cái trí mà có những kết luận, những công thức, những quan điểm, những nhận xét, những cam kết, không là một cái trí tự do; khi nó gặp gỡ vấn đề phức tạp, rộng lớn của đang sống, nó không thể gặp gỡ vấn đề đó một cách tổng thể, trọn vẹn, cùng cảm thấy của thiêng liêng đó.

 Vì vậy, đó là nghi vấn trước mặt bạn. Ngôi nhà đang cháy và tất cả những nỗ lực của bạn dựa vào quá khứ sẽ không dập tắt ngọn lửa đó. Dập tắt ngọn lửa đó đòi hỏi một chất lượng mới mẻ của cái trí và một chuyển động dư thừa sức sống của quả tim đó mà hoàn toàn khác hẳn.

 Tình yêu không là vui thú. Tình yêu không là ham muốn. Đây là chất lượng mà bạn phải có – ngay lúc này, không phải ngày mai – một chất lượng mà bạn không thể luyện tập, mà bạn không thể vun đắp. Cái mà bạn luyện tập, vun đắp, trở thành máy móc.

 Sự thật không là sự thật của bạn hay sự thật của tôi; nó không ở trong đền chùa, không ở trong nhà thờ, nó không ở trong một hình ảnh, nó không ở trong một biểu tượng. Nó hiện diện ở đó cho bạn thấy và biết. Nó là một cái trí tự do – cái trí nhận biết, rõ ràng, thương yêu – cái trí đó thấy và hành động.

 Từ Bản tin 17, 1973

 

Ánh sáng của Từ bi

Madras, Ấn độ, 1970

C

húng ta quan tâm đến sự thay đổi, thuộc tâm lý, phía bên trong, của những con người. Nếu ý thức của chúng ta không trải qua một thay đổi cơ bản thuộc tâm lý, không có sự hy vọng cho con người. Đây là một vấn đề nghiêm túc – cùng nhau thực hiện chuyến hành trình vào toàn vấn đề này của sự tồn tại hàng ngày của chúng ta và thấy liệu có thể thay đổi, sáng tạo một cách mạng cơ bản, thuộc tâm lý trong ngay bản chất của sự suy nghĩ của chúng ta, đang hành động của chúng ta, cách cư xử của chúng ta và tầm nhìn của chúng ta. Chúng ta quan tâm đến những sống riêng của chúng ta, hiểu rõ những sống của chúng ta, những sống bất hạnh, xung đột, đau khổ hàng ngày của chúng ta, và thấy liệu chúng ta có thể sáng tạo một thay đổi bền vững, sâu thẳm trong chính chúng ta.

 Cùng nhau người nói và bạn sắp sửa thâm nhập vấn đề của bộ não, bộ não con người của chúng ta mà đã bị hư hại – quá biến dạng, quá xuyên tạc – qua sự áp lực liên tục của tuyên truyền, của văn hóa, bởi những tham vọng của chúng ta, bởi những lo âu, những sợ hãi, những phiền muộn của chúng ta, và cũng bởi những vui thú của chúng ta. Đã có sự áp lực liên tục trên bộ não. Đó là một sự kiện. Và khi có áp lực vào bộ não, phải có sự biến dạng nếu bộ não không thể tự làm mới mẻ chính nó, không thể hồi phục sau khi áp lực chấm dứt, mà chẳng bao nhiêu người có khả năng.

 Có nghệ thuật của lắng nghe, nghệ thuật của quan sát, thấy, và nghệ thuật của học hành. Có lẽ qua nghệ thuật này của lắng nghe, quan sát, học hành, áp lực vào bộ não có thể không bao giờ được cảm thấy, đến độ bộ não vẫn còn ban sơ, linh hoạt, tươi trẻ, trong sáng, hồn nhiên. Chỉ một cái trí hồn nhiên mới có thể thấy sự thật. Những áp lực xảy ra trong bộ não khi có tham vọng, bạo lực hay kháng cự, tức giận, tuyên truyền, truyền thống – tất cả điều này là những áp lực khủng khiếp trong bộ não. Vì vậy, chắc chắn một bộ não sống trong những áp lực này phải bị biến dạng, bị méo mó và bị hư hỏng. Qua sự hiểu rõ của ‘cái gì là’ trong nghệ thuật của lắng nghe, nghệ thuật của thấy, nghệ thuật của học hành, trong thông suốt toàn ý nghĩa của ba nghệ thuật này, những áp lực này có thể được hiểu rõ và bộ não vẫn giữ nguyên không bị dao động.

 Người ta có thể quan sát ảnh hưởng của vô vàn hình thức của áp lực vào bộ não. Một bộ não bị hư hỏng phải bị trói buộc trong sự ảo tưởng, và nó có thể thiền định suốt hàng ngàn năm nhưng nó sẽ không tìm được sự thật. Rất quan trọng phải hiểu rõ liệu một bộ não đã bị quá hư hỏng có thể được hồi phục chất lượng khởi đầu của trong sáng, rõ ràng, có khả năng quyết định tức khắc, không bị đặt nền tảng trên lý luận, lý lẽ. Lý luận, lý lẽ, có một giá trị nào đó, nhưng chúng bị giới hạn. Lúc này, nếu bạn cảm thấy sự áp lực này, điều gì chúng ta đang cùng nhau thực hiện là không những phải nhận ra, phải nhận biết nó, nhưng còn phải hiểu rõ cho chính chúng ta liệu sự suy nghĩ có ý thức của chúng ta có là kết quả của vô số áp lực, và vì vậy sự suy nghĩ là hậu quả của một bộ não bị biến dạng. Vậy thì vấn đề nảy sinh, liệu có thể khôi phục bộ não về lại tình trạng khởi đầu không bị hư hỏng của nó, và thế là có thể vận hành một cách tự do. Chúng ta nói nó có thể chỉ khi nào bạn hiểu rõ hay học hành nghệ thuật của lắng nghe, làm thế nào để lắng nghe, khi có sự kháng cự đến điều gì đang được nói; sự kháng cự đó là hậu quả của sự áp lực của bạn. Học hành nghệ thuật của lắng nghe rất đơn giản.

 Có một kỳ diệu lạ thường trong đang lắng nghe khi không có sự diễn giải của điều gì bạn đang nghe, không quay nó vào một ý tưởng và theo đuổi ý tưởng đó, bởi vì nếu như thế bạn hoàn toàn rời khỏi mấu chốt. Nhưng nếu bạn lắng nghe cùng quả tim của bạn, cùng ân cần, cùng chú ý, vậy là chính đang lắng nghe đó giống như một đang nở hoa. Có vẻ đẹp trong đang lắng nghe đó. Trong cùng cách muốn quan sát thế giới như nó là, thế giới bên ngoài, cùng tất cả đau khổ, nghèo khó, thoái hóa, thô tục, những việc hung bạo và những việc thảm khốc đang xảy ra trong thế giới khoa học, trong thế giới công nghệ, trong thế giới của những tổ chức tôn giáo, những gian manh, tham vọng, tiền bạc và quyền hành – quan sát tất cả việc này mà không mang vào sự chỉ trích hay chấp nhận, hay phủ nhận thuộc cá nhân của bạn, chỉ quan sát nó mà không diễn đạt bằng từ ngữ, mà không mong muốn thấy vẻ đẹp, chỉ quan sát. Và kế tiếp, quan sát một cách bình đẳng sự việc đang xảy ra phía bên trong, những suy nghĩ của bạn, những tham vọng, sự tham lam của bạn, sự bạo lực của bạn, sự thô tục của bạn, tình dục của bạn – chỉ quan sát, và vậy là bạn sẽ thấy, nếu bạn quan sát như thế, rằng sự tham lam và tất cả điều đó đều nở hoa và chết, và có một kết thúc đến nó.

 Cũng có một nghệ thuật của học hành. Đối với hầu hết chúng ta, thông thường học hành hàm ý sự tích lũy của hiểu biết được lưu trữ trong bộ não và hành động dựa theo hiểu biết đó. Chúng ta đang giới thiệu cái gì đó hoàn toàn khác hẳn, đó là học hành mà không có sự tích lũy. Học hành có nghĩa có một thấu triệt vào sự kiện. Thấu triệt hàm ý nắm bắt ý nghĩa trọn vẹn của, ví dụ, sự tham lam của bạn, nắm bắt toàn cấu trúc và bản chất của sự tham lam, có một thấu triệt vào nó, một hiểu rõ tổng thể của phản ứng đó được gọi là sự tham lam. Khi bạn có một thấu triệt, không còn nhu cầu để học hành. Bạn vượt khỏi nó. Rất quan trọng phải hiểu rõ ba hành động này – quan sát, lắng nghe và học hành – bởi vì nếu bạn thông suốt toàn ý nghĩa của ba hành động này, vậy thì sự áp lực trong bộ não có thể được hiểu rõ và được xóa sạch khi bạn tiếp tục thâm nhập. Và sự áp lực tồn tại trong bộ não chỉ khi nào không có không gian trong bộ não.

 Mọi thứ tồn tại trong không gian – những cái cây, những con cá, những đám mây, những vì sao, những con chim và những con người. Chúng phải có không gian nào đó để sống. Thế giới đang quá dư thừa dân số, không gian đang trở nên quá giới hạn. Đó là một sự kiện rõ ràng, và có lẽ rằng sự áp lực tác động vào những con người không có đủ không gian, đang sống trong một thành phố, trong một thị trấn, là một trong những nhân tố của sự bạo lực. Và, phía bên trong, hầu như chúng ta không có bất kỳ không gian nào. Đó là, những bộ não của chúng ta quá bị bận rộn, những cái trí của chúng ta quá bận rộn bởi chính chúng ta, bởi sự tiến bộ của chúng ta, bởi uy tín của chúng ta, bởi quyền hành của chúng ta, bởi tiền bạc của chúng ta, bởi tình dục của chúng ta, bởi lo âu của chúng ta, đến độ chính sự bận rộn này ngăn cản không gian. Tất cả thế giới bên trong của chúng ta ở trong tình trạng của sự bận rộn liên tục cùng điều này hay điều kia. Không có không gian và bởi vì không có không gian, sự áp lực của bận rộn trở nên mỗi lúc một thoái hóa. Chỉ khi nào bạn có sự thong dong thì bạn mới có thể học hành. Nhưng khi cái trí hay bộ não quá bị bận rộn, bạn không có sự thong dong, thế là bạn không bao giờ học hành bất kỳ cái gì mới mẻ. Không có không khí trong lành nào có thể len lỏi vào, và vì vậy sự thoái hóa của bộ não do bởi áp lực trở nên mỗi lúc một nghiêm trọng hơn. Đó là một trong những vấn đề của thiền định – liệu ý thức có thể được tự do khỏi tất cả sự áp lực, mà có nghĩa một cái trí tự do.

 Chúng ta đang thâm nhập thiền định là gì, không phải làm thế nào để thiền định. Đó là câu hỏi dốt nát nhất mà bạn có thể đặt ra – bảo cho tôi làm thế nào để thiền định. Điều đó có nghĩa bạn muốn một hệ thống của thiền định. Đối với người nói, không có hệ thống của thiền định. Trong thiền định, hành động của ý muốn phải hoàn toàn chấm dứt. Ý muốn là bản thể của sự ham muốn, một hình thức cao độ của sự ham muốn. Tất cả những sống của chúng ta, chúng ta hành động qua ý muốn: ‘Tôi sẽ làm việc này’, ‘Tôi không được làm việc kia’, ‘Tôi sẽ trở thành cái gì đó quan trọng’. Bản thể của ý muốn là tham vọng, bạo lực. Trong sống hàng ngày liệu có thể hành động mà không có hành động của ý muốn, mà có nghĩa không có sự kiểm soát?

 Liệu có thể hành động trong sống, trong sống hàng ngày, mà không có ý muốn, không có sự kiểm soát? Người kiểm soát là bản thể của sự ham muốn, thay đổi từ thời gian sang thời gian. Vì vậy, luôn luôn có sự xung đột giữa người kiểm soát và vật được kiểm soát. Khi bạn chấp nhận thiền định theo truyền thống, bạn cố gắng tập trung, cố gắng kiểm soát những suy nghĩ của bạn. Trong thiền định, nếu bạn theo đuổi nó tới chiều sâu và chiều cao tột cùng, cái trí phải hoàn toàn được tự do khỏi tất cả hành động của ý muốn. Hành động của ý muốn hiện diện khi có sự chọn lựa. Khi có một chọn lựa, có sự hoang mang. Chỉ khi nào bạn bị hoang mang, bạn bắt đầu chọn lựa. Chỉ khi nào bạn rõ ràng, không có sự chọn lựa. Vì vậy, chọn lựa, ý muốn, kiểm soát theo cùng nhau và ngăn cản sự tự do tổng thể của cái trí. Đó là một mấu chốt.

 Mấu chốt còn lại là bạn nghĩ rằng ý thức riêng biệt của bạn khác hẳn ý thức của tôi hay của một người khác. Đó là như thế sao? Ý thức của bạn chứa đựng tất cả văn hóa mà đã được đổ vào cái trí đó, truyền thống, những quyển sách bạn đã đọc, đấu tranh, xung đột, đau khổ, hỗn loạn, những ảo tưởng, những hung hăng, những tàn nhẫn, phiền muộn, âu sầu, vui thú – tất cả điều đó là ý thức của bạn như một người Ấn giáo, như một người Phật giáo, như một người Hồi giáo. Nội dung của tất cả điều đó tạo thành ý thức của bạn. Lúc này, liệu có thể được tự do khỏi nội dung? Liệu cái trí, ý thức như chúng ta biết nó, có thể được tự do khỏi nội dung của nó? Hiểu rõ điều này rất quan trọng: không phải làm thế nào để làm trống không ý thức khỏi nội dung của nó, nhưng trước hết hãy nhận biết nó. Sự nhận biết hàm ý quan sát thế giới như nó là, biết thế giới, những cái cây, thiên nhiên, vẻ đẹp và xấu xí, nhận biết người láng giềng của bạn, anh ấy hay chị ấy đang mặc gì, và cũng cả nhận biết bạn là gì, phía bên trong. Và nếu bạn nhận biết như thế, bạn sẽ thấy rằng có nhiều phản ứng, ưa thích và không ưa thích, hình phạt và phần thưởng, trong sự nhận biết đó. Liệu người ta có thể nhận biết mà không có bất kỳ chọn lựa nào, một nhận biết không chọn lựa, chỉ nhận biết mà không chọn lựa, mà không thành kiến? Hoàn toàn nhận biết ý thức của bạn – mà có nghĩa, liệu ý thức tự nhận biết chính nó? Mà cũng có nghĩa, liệu sự suy nghĩ, đang suy nghĩ của bạn, tự nhận biết chính nó?

 Bộ não giống như một máy tính. Nó đang ghi lại, đang ghi lại những trải nghiệm của bạn, những hy vọng của bạn, những ham muốn của bạn, những tham vọng của bạn; nó đang ghi lại mọi ấn tượng, và từ ấn tượng đó, từ ghi lại đó, sự suy nghĩ nảy sinh. Lúc này, chúng ta đang hỏi, liệu có thể có một nhận biết của sự suy nghĩ đang nảy sinh, như bạn có thể nhận biết sự tức giận đang nảy sinh? Bạn có thể nhận biết nó, đúng chứ? Bởi vì người ta có thể nhận biết sự tức giận đang nảy sinh, vì thế liệu bạn có thể nhận biết sự suy nghĩ đang nảy sinh? Mà có nghĩa nhận biết sự việc đó đang nở hoa, đang tăng truởng. Trong cùng cách, liệu có một nhận biết của ý thức của bạn, tổng thể của nó? Đây là bộ phận của thiền định. Đây là bản thể của thiền định – nhận biết, không có bất kỳ chọn lựa nào, của thế giới phía bên ngoài bạn, và sự xung đột vô cùng của thế giới phía bên trong bạn. Khi bạn đến mấu chốt này, bạn sẽ thấy rằng thế giới không tách rời bạn; thế giới là bạn. Cùng ý thức đang trở nên nhận biết chính nó, những bộ phận tạo thành ý thức tan biến. Vậy là, ý thức trở thành một vật hoàn toàn khác hẳn. Vậy là, nó là ý thức của tổng thể, không phải của bộ phận.

 Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với những hệ thống, những hình thức khác nhau của yoga, những hình thức khác nhau của chính phủ, những hình thức khác nhau của luật lệ hành chánh, và tất cả chúng đều được đặt nền tảng trên những hệ thống. Vị đạo sư của bạn sẽ trao tặng cho bạn một hệ thống của thiền định; hay bạn nhặt lên một quyển sách và học hành một hệ thống từ quyển sách đó. Hệ thống đó hàm ý sự hiểu biết về tổng thể qua bộ phận. Bằng cách tìm hiểu bộ phận, bạn hy vọng hiểu rõ tổng thể của sự tồn tại. Bộ não của bạn, cái trí của bạn, được đào tạo để tuân theo những hệ thống, những hệ thống chính trị, những hệ thống tôn giáo, những hệ thống yoga hay những hệ thống riêng của bạn. Khi bạn đang tuân theo một hệ thống, bạn bị kẹt trong một khe rãnh, và đó là cách dễ dàng nhất của sống. Một hệ thống giống như một đường rầy xe lửa, và những người theo sau một hệ thống không nhận biết rằng họ giống như chiếc xe lửa trên đường rầy mà cứ tiếp tục, bị kiềm chế vào hai đường rầy.

 Vì vậy, sự tập trung là sự kháng cự đối với tất cả những hình thức khác của sự suy nghĩ. Bạn vun đắp sự kháng cự, ngược lại chúng ta đang nói rằng sự tập trung tại một mức độ nào đó là cần thiết. Thậm chí tại mức độ đó, nếu chúng ta có thể học hành làm thế nào để tham gia, sự tập trung trở thành rất dễ dàng. Chúng ta sẽ tìm ra tham gia có nghĩa gì, trao trọn quả tim của bạn, cái trí của bạn, tất cả những giác quan của bạn một cách hoàn toàn vào cái gì đó. Khi bạn tham gia như thế, khi tất cả những giác quan của bạn được thức dậy hoàn toàn và đang quan sát, vậy là trong sự tiến hành đó hay trong chất lượng của sự chú ý đó không có trung tâm. Khi không có trung tâm, không có sự giới hạn đối với không gian. Hầu hết chúng ta đều có một trung tâm, mà là hình thức của ‘cái tôi’, cái vị kỷ, cái cá nhân, cái nhân cách, cái khuynh hướng, cái đặc điểm, cái riêng biệt và vân vân. Có một trung tâm trong mỗi người, mà là bản thể của cái tôi, mà là tánh ích kỷ. Bất kỳ nơi nào có một trung tâm, không gian phải luôn luôn bị giới hạn. Đó là lý do tại sao chúng ta đang nói một cái trí bị bận rộn luôn luôn đang hình thành một trung tâm, và vì vậy sự bận rộn của nó đang kiềm hãm không gian. Khi có sự chú ý tổng thể, khi bạn quan sát, lắng nghe, học hành, cùng tất cả những giác quan được thức dậy, không có trung tâm.

 Hãy thực hiện nó trong sống hàng ngày, trong sự liên hệ của bạn với người vợ của bạn, với người hàng xóm của bạn, trong sự liên hệ của bạn với thiên nhiên. Sự liên hệ có nghĩa có liên quan. Bạn chỉ có thể có liên quan với một người khác nếu bạn không có hình ảnh về chính bạn hay về một người khác; lúc đó bạn có liên quan hiệp thông. Từ việc này từ bi hiện diện; đó là, từ bi cho tất cả. Nó chỉ có thể xảy ra khi có hương thơm này, chất lượng này của tình yêu, mà không là sự ham muốn, mà không là sự vui thú, mà không là hành động của sự suy nghĩ. Tình yêu không là một việc được sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ, bởi môi trường sống, bởi cảm xúc. Tình yêu không là cảm xúc, tình yêu không là cảm giác. Tình yêu có nghĩa tình yêu những tảng đá, tình yêu những cái cây, tình yêu một con chó lạc chủ, tình yêu những bầu trời, vẻ đẹp, hoàng hôn, tình yêu người hàng xóm của bạn, tình yêu mà không có tất cả cảm giác của tình dục mà hiện nay nó được đồng hóa. Tình yêu không thể hiện diện nếu bạn có tham vọng, khi bạn đang tìm kiếm quyền hành, vị trí, tiền bạc. Làm thế nào một người đàn ông có thể thương yêu bạn, nếu bạn là một người vợ, khi tất cả cái trí của anh ấy bị tập trung vào trở thành cái gì đó, vào có quyền hành trong thế giới? Anh ấy có thể ngủ với bạn, có con cái, nhưng đó không là tình yêu. Đó là nhục dục, cùng tất cả đau khổ của nó. Và nếu không có tình yêu, bạn không thể có từ bi. Khi có từ bi, có sự rõ ràng, ánh sáng mà đến từ từ bi. Mọi hành động đều minh bạch, và từ sự minh bạch đó kỹ năng hiện diện, kỹ năng trong chuyển tải, kỹ năng trong nghệ thuật của lắng nghe, học hành, quan sát.

Thiền định là sự thức dậy của thông minh đó mà được sinh ra từ từ bi, minh bạch, và kỹ năng đó mà thông minh sử dụng. Thông minh đó không thuộc cá nhân, không thể vun đắp; nó hiện diện chỉ từ từ bi và sự minh bạch. Tất cả điều này là thiền định và nhiều hơn nữa, và nhiều hơn nữa là khi cái trí được tự do và vì vậy hoàn toàn yên lặng. Nó không thể yên lặng nếu không có không gian. Vì vậy, yên lặng có thể hiện diện, không qua luyện tập, không qua kiểm soát, không giữa hai nhiễu loạn, không hòa bình giữa hai chiến tranh; yên lặng hiện diện chỉ khi nào thân thể và cái trí hoàn toàn hòa hợp mà không có bất kỳ xung đột. Vậy thì, trong yên lặng đó có một chuyển động tổng thể mà là sự kết thúc của thời gian. Còn thâm sâu hơn nữa trong thiền định, mà là tìm được cái thiêng liêng nhất; không phải sự thiêng liêng của những bức tượng của đền chùa hay trong nhà thờ hay trong thánh đường – những thứ đó đều được tạo ra bởi con người, được tạo ra bằng bàn tay, được tạo ra bởi cái trí, bởi sự suy nghĩ. Có sự thiêng liêng mà không bị ô uế bởi sự suy nghĩ. Cái đó chỉ có thể hiện diện một cách tự nhiên, dễ dàng và hạnh phúc khi chúng ta đã sáng tạo trật tự tuyệt đối trong sống hàng ngày của chúng ta. Khi có trật tự như thế trong sống hàng ngày của chúng ta – trật tự có nghĩa không xung đột – vậy thì từ đó hiện diện chất lượng này của tình yêu, từ bi, minh bạch. Và thiền định là tất cả điều này – không phải một tẩu thoát khỏi sống, khỏi đang sống hàng ngày của bạn. Và những người có chất lượng của thiền định này được ân lành.

 

 Từ Bản tin 45, 1983

 

Về Thiền định

Ấn độ, 1970

 

C

ái trí con người, mà đã sống hàng ngàn năm, phải tự thay đổi một cách cơ bản và cởi bỏ tình trạng bị quy định. Chỉ như thế nhiều vấn đề phức tạp của sự tồn tại mới có thể được giải quyết. Liệu cái trí có thể trải qua một giải phẫu cơ bản, một thay đổi triệt để, không chỉ cấu trúc của chính những tế bào não nhưng còn cả chất lượng của quả tim và cái trí? Liệu cái trí như thế có thể sống trong sự hỗn loạn, sự độc ác và sự bạo lực, mà xã hội hiện đại tạo ra, có thể được tự do để vận hành một cách yên lặng, không bị quấy nhiễu, không có bất kỳ sự kháng cự nào có thể xảy ra, nhưng không rút lui khỏi xã hội?

 Người ta nhận thấy sự cần thiết vô cùng phải sáng tạo một cái trí trong sáng, không phải một cái trí mà đã có một ngàn trải nghiệm, hay bị trói buộc trong khuôn mẫu của một văn hóa thuộc tôn giáo, kinh tế hoặc xã hội đặc biệt. Khuôn mẫu này đang được lặp lại vô tận suốt lịch sử, đang thay đổi một chút xíu đó đây. Thật ra, những cách mạng thuộc xã hội và kinh tế không là những cách mạng gì cả. Như một con người, đang sống một tồn tại vô nghĩa trong thế giới của hỗn loạn này, trong thế giới của đau khổ, xấu xa, bạo lực này, người ta không hiểu liệu cái trí con người có thể thực sự tự thay đổi. Trong đó, một mình, là sự giải đáp của tất cả những vấn đề của chúng ta, của tình yêu, của sự thật, của liệu có hay không có Thượng đế hay chân lý, của liệu những con người có thể sống cùng nhau mà không xung đột. Để thực sự tìm ra điều này cùng quả tim của bạn, cùng thân tâm của bạn, phải có tự do – tự do để nhìn ngắm, để thâm nhập, để nhận biết. Chắc chắn, đó là việc đầu tiên – tự do để quan sát – bởi vì tự do đó bị khước từ khi có bất kỳ hình thức nào của thành kiến, kết luận, bất kỳ hình thành ý tưởng, niềm tin và trên tất cả bất kỳ sợ hãi.

 Nếu có bất kỳ hình thức của sợ hãi nào, chắc chắn không thể thấy tổng thể nguyên vẹn của cái trí. Chúng ta đã đi đến mặt trăng; đó là một thành tựu lạ thường. Những bộ não của chúng ta có khả năng thực hiện nó. Nhưng phía bên trong chúng ta là những nô lệ, và không có tự do; chúng ta lặp lại cùng khuôn mẫu hàng ngàn lần, thuộc xã hội, thuộc tôn giáo, thuộc kinh tế. Và trong cái tinh thần, trong ngay chiều sâu của thân tâm chúng ta, không có thay đổi gì cả. Chúng ta là những quái vật hiện đại.

 Liệu có khi nào cái trí có thể thực hiện sự cách mạng tức khắc, lạ thường này, để cho nó có thể sống cùng chất lượng mới mẻ, để cho không có động cơ cho vui thú này, mà hoàn toàn khác hẳn vẻ đẹp và sự nở hoa của hân hoan? Vui thú không bao giờ là hân hoan, bởi vì trong vui thú luôn luôn có sự sợ hãi. Và một cái trí không ngây ngất không thể được tự do. Vui thú là sản phẩm của sự suy nghĩ, và sự suy nghĩ luôn luôn cũ kỹ; sự suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, sự suy nghĩ không bao giờ tự do, mặc dù người ta có thể nói về tự do. Tại bất kỳ mức độ nào, sự suy nghĩ không thể tự do, bởi vì sự suy nghĩ là phản ứng của ký ức và ký ức luôn luôn thuộc quá khứ. Nó có những gốc rễ trong thời gian, mà thuộc quá khứ. Làm ơn quan sát điều này trong chính bạn khi người nói đang trình bày nó, đừng chỉ đồng ý hay không đồng ý – mà không có giá trị gì cả.

 Cái trí con người, mà có khả năng kinh ngạc, không bao giờ khởi sự tìm ra cho chính nó liệu có khi nào nó có thể được tự do – tự do, một cách cơ bản, khỏi sự sợ hãi, bởi vì chúng ta bị chất nặng bởi vô vàn sợ hãi. Muốn tìm ra, người ta phải quan sát những sợ hãi mà người ta có – không phải chỉ trích chúng, kiềm chế chúng hay tẩu thoát chúng. Trong quan sát đó không có sự phân chia giữa người quan sát và vật được quan sát. Quan sát chúng mà không có quá khứ, ‘cái tôi’, mà là người quan sát.

 Làm ơn hãy thử nó, trong khi người nói đang trình bày nó, bởi vì chiều nay chúng ta đang thâm nhập vào cái gì đó rất phức tạp. Nếu từ lúc đầu bạn không thực hiện điều này, bạn sẽ không theo sát điều gì sẽ xảy ra tại khúc cuối (tôi cũng không biết điều gì sẽ xảy ra tại khúc cuối.) Một cái trí bị sợ hãi không thể tinh tế, rõ ràng, bình thản, và vì vậy nó không bao giờ có thể biết chất lượng của hân hoan, của ngây ngất là gì.

 Phải có tự do khỏi sự sợ hãi, không chỉ tại mức độ nhận biết, nhưng còn cả trong những tầng sâu thẳm của cái trí mà tạm gọi là tầng ý thức bên trong. Hầu hết chúng ta đều không thể phân tích về chính chúng ta từng bước một để cho chúng ta rất rõ ràng; chúng ta phải thực hiện một chuyến hành trình ngắn ngủi vào nó để thấy sự vô lý hoàn toàn của nó. Toàn qui trình của sự phân tích hoàn toàn sai lầm, nếu chúng ta được phép sử dụng từ ngữ ‘sai lầm’ đó. Bởi vì, trong đó, luôn luôn có người phân tích, mà là quá khứ, mà là sự hiểu biết được tích lũy; và anh ấy, một mảnh thuộc tổng thể của cái trí, đang phân tích những mảnh khác, đang phân tích từ điều gì anh ấy đã tích lũy. Quan sát sự chuyển động thuộc phân tích trong chính người ta, thực hiện một chuyến hành trình rất ngắn ngủi vào nó và thấy sự vô lý hoàn toàn của nó, trao tặng cái trí một chất lượng của nhận biết.

Người phân tích và vật được phân tích là hai trạng thái tách rời, hai chuyển động tách rời của sự tách rời tổng thể của cái trí. Một mảnh, được gọi là người phân tích, phân tích mảnh còn lại, đạt được một kết luận và từ kết luận đó phân tích thêm nữa. Nhưng sự kết luận chẳng có giá trị bao nhiêu. Và sự phân tích hàm ý thời gian bởi vì phải mất nhiều, nhiều ngày để phân tích.

 Sự phân tích nội tâm, hay sự phân tích bởi một người khác qua những giấc mộng và vân vân, chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Nếu bạn loạn thần kinh nhiều hay hơi hơi, vậy thì có lẽ có một chút ý nghĩa trong giúp đỡ bạn điều chỉnh vào xã hội thoái hóa của bạn, dù là xã hội Cộng sản hay xã hội Ấn giáo đặc biệt riêng của bạn. Vì vậy, sự phân tích không mang lại tự do. Nó giống như đang đào bới mỗi lúc một sâu vào chính người ta và đang bị trói buộc trong một cái hố; người ta không bao giờ có thể tự do. Hay cái trí nói rằng có tự do trong thiên đàng hay niết bàn, mà, lại nữa, là một tẩu thoát.

Quan sát mà không có bất kỳ sự biến dạng chỉ có thể được nếu có sự chú ý hoàn toàn cùng thân thể của bạn, những dây thần kinh của bạn, cái trí của bạn, quả tim của bạn, hai tai của bạn. Vậy thì nếu bạn chú ý như thế, bạn sẽ thấy rằng không có thực thể hay không có đang được gọi là người quan sát. Vậy là chỉ có sự chú ý.

 Chính chất lượng và bản chất của bộ não là sinh tồn – điều đó hiển nhiên. Bộ não khăng khăng đòi sinh tồn, ngược lại bạn không thể tồn tại; nó đã phát triển những phản ứng nào đó từ thế kỷ sang thế kỷ của bị quy định. Điều gì chúng ta đang cố gắng thâm nhập là liệu chính cấu trúc và bản chất của bộ não có thể sáng tạo một thay đổi trong chính nó. Và chúng ta sẽ giải thích cho bạn – không phải giải thích cho bạn – chúng ta sẽ cùng nhau học hành, nếu điều đó có thể được. Đây không là một vô lý, hay sự tưởng tượng kỳ cục, bởi vì sự tưởng tượng không có nơi chỗ nào cả khi bạn đang thâm nhập thăm thẳm lạ thường; không có lý thuyết, không kết luận, nhưng chỉ đang chuyển động từ sự kiện sang sự kiện.

 Chất lượng của cái trí phải nhạy cảm cực kỳ – và nó không thể nhạy cảm nếu có sợ hãi, nếu có bất kỳ kết luận, giáo điều, niềm tin – để cho chính bộ não, mà đã bị quy định quá nặng nề, có thể hoàn toàn yên lặng và không phản ứng tùy theo cách truyền thống riêng của nó. Nghi vấn là làm thế nào sáng tạo một chất lượng của nhạy cảm cho cái trí và vì vậy cho toàn hệ thần kinh và thân thể, và cũng sáng tạo một bất động của những tế bào não, một yên lặng tuyệt đối, để cho cái trí thức dậy, thông minh, nhạy cảm cao độ. Thức dậy và thông minh và nhạy cảm: tất cả chúng đều là cùng sự việc, không phải ba sự việc tách rời. Và bộ não phải tuyệt đối yên lặng để cho nó nhận biết mà không có người quan sát. Đây là thiền định, thấy bộ não yên lặng, hoàn toàn yên lặng, và một cái trí nhạy cảm cao độ và thế là thông minh. Bắt gặp sự chuyển động này là thông minh.

 Liệu có thể có một hệ thống cho thiền định, một hệ thống là một phương pháp, một luyện tập, sự lặp lại của cái gì đó liên tục? Liệu điều đó khiến cho cái trí nhạy cảm, sinh động, năng động, thông minh? Trái lại, nó khiến cho cái trí máy móc.

 Vì vậy, bất kỳ hệ thống, hệ thống Zen, hệ thống Ấn giáo hay hệ thống Thiên chúa giáo, tất cả đều vô nghĩa. Một cái trí luyện tập một hệ thống, một phương pháp, một bùa chú, không thể nhận biết cái gì là sự thật. Bạn biết bạn đang nghe âm nhạc đó [âm thanh của điệu nhạc đang được nghe từ khu nhà]. Có một âm điệu và nếu bạn lắng nghe nó rất cẩn thận, lắng nghe nó – không phải những từ ngữ, nhưng nốt nhạc, âm thanh – âm thanh đó có thể được sinh ra bên trong chính bạn. Và cái trí có thể lướt trên chuyển động đó của nốt nhạc, của âm thanh, và việc đó trao tặng bạn một ý thức lạ thường của chuyển động. Và việc đó có lẽ được gọi là thiền định, một lặp lại của một bộ những từ ngữ mà sản sinh âm thanh, một âm thanh phía bên trong, và bạn có thể chuyển động hay lướt trên hay ở cùng âm thanh đó.

 Nhưng liệu đó là thiền định, đang chơi trò lừa bịp giống như thế, đang mê hoặc chính bạn bởi một âm thanh hay bởi những từ ngữ? Những hình thức của thiền định như thế là những hình thức của tự thôi miên. Nó không dẫn bạn đến bất kỳ nơi nào. Ngược lại, nó khiến cho cái trí của bạn đờ đẫn cực kỳ, một cái trí không luân lý trong ý nghĩa sâu thẳm của từ ngữ đó – không phải luân lý xã hội, mà không là luân lý gì cả.

 Chất lượng của đạo đức chỉ có thể hiện diện khi không có xung đột gì cả. Lúc đó có đạo đức. Nhưng một con người đang cố gắng trở thành đạo đức bị chết rồi bởi vì anh ấy đang sống trong xung đột. Bạn có thể loại bỏ tất cả những hệ thống, bởi vì những hệ thống hàm ý uy quyền; một cái trí bị kiềm chế bởi uy quyền thuộc bất kỳ loại nào không được tự do và vì vậy không thể quan sát. Trong tạm gọi là thiền định, trong thiền định mà thông thường được luyện tập, luôn luôn có sự ham muốn để trải nghiệm sự thật, những tầm nhìn, những trạng thái khác nhau và vân vân.

 Sự trải nghiệm hàm ý một người trải nghiệm, một thực thể như người trải nghiệm. Vì vậy khi anh ấy trải nghiệm, anh ấy phải công nhận điều gì anh ấy trải nghiệm; ngược lại nó không là một trải nghiệm. Và khi anh ấy công nhận, nó luôn luôn được biết rồi; vì vậy sự trải nghiệm thuộc quá khứ. Cái trí tìm kiếm trải nghiệm qua thuốc men – như hiện nay nó là thời trang ở phương Tây – thuốc men thuộc vô số loại với mục đích để có được những chuyến đi tuyệt vời vào thiên đàng. Phải có, luôn luôn có, người trải nghiệm mà đang khao khát, đang tìm kiếm, đang ao ước, đang hy vọng có sự trải nghiệm, sự thăng hoa, siêu vũ trụ và những thứ cùng loại.

Và khi bạn đang tìm kiếm những trải nghiệm, bạn sẽ luôn luôn tìm thấy chúng trong khuôn mẫu, trong tình trạng bị quy định của cái trí của người trải nghiệm. Vì vậy, có sự phân chia giữa người trải nghiệm và vật được trải nghiệm và thế là luôn luôn một tìm kiếm, mong muốn, dò dẫm, một xung đột. Và chúng ta nói rằng đó không là thiền định. Hình thức tột đỉnh của nhạy cảm cùng bộ não tuyệt đối yên lặng là chất lượng của tình yêu. Bạn biết tình yêu là một điều lạ thường nhất nếu bạn có nó trong quả tim của bạn. Tình yêu không là vui thú. Tình yêu không liên quan đến sợ hãi. Tình yêu không liên quan đến tình dục. Nó là chất lượng của cái trí mà tự do, nhạy cảm, thông minh cùng bộ não không đang phản ứng dựa theo quá khứ và vì vậy bất động. Lúc đó, quả tim bắt gặp hương thơm này được gọi là tình yêu. Sự hiểu rõ của điều đó là thiền định. Đó là nền tảng của thiền định.

 Nếu không có nó, không có đạo đức; đạo đức là một chuyển động trong nó không có xung đột gì cả. Và phải có tự do đó, ý thức của tình yêu đó, để tìm ra cho chính bạn liệu có hay không có một sự thật, liệu có hay không có cái sự việc đó mà những con người suốt hàng thế kỷ đã gọi là ‘Thượng đế’; tìm ra, không phải nói, ‘Tôi tin tưởng Thượng đế,’ như người chính trị thoái hóa xấu xa đang lợi dụng; nó đem lại lợi lộc cho anh ấy. Nhưng sự diễn tả không là vật được diễn tả. Và muốn tìm được chất lượng không thời gian đó, chuyển động không thời gian đó, phải có năng lượng và không xung đột, năng lượng đó mà nhận biết kinh ngạc và thông minh. Và vì vậy, thiền định không là một sự việc có thể được luyện tập. Thiền định là phương cách của sự sống, đang thiền định suốt ngày, đang quan sát, đang nhìn ngắm, đang chuyển động, đang học hành. Và muốn quan sát điều đó, phải có một cái trí bất động.

 Vô số vấn đề của sống, sự bất công thuộc xã hội và kinh tế, sự xung đột giữa con người và con người, giữa người đàn ông và người đàn bà, sự xung đột giữa những nhóm và những phân chia thuộc xã hội, sự phân chia của những tôn giáo – tất cả những thứ đó chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Một cách mạng, cách mạng phía bên trong của cái trí, là cần thiết để giải đáp tất cả những vấn đề đó. Và thiền định trong cách chúng ta vừa diễn tả là cần thiết để hiểu rõ sống phức tạp lạ lùng này.

 Chúng ta là những con người, không phải những nhãn hiệu, và như những con người đang sống trong thế giới chất đầy đau khổ phiền muộn này, chúng ta phải hiểu rõ nó, sự liên hệ của chúng ta với nó, sự tiếp xúc của chúng ta với nó. Chúng ta là thế giới, thế giới không tách khỏi chúng ta. Những chiến tranh đang xảy ra là những chiến tranh của chúng ta bởi vì chúng ta, những con người, đang đóng góp cho chúng. Bạn phải hiểu rõ người quan sát này mà là chính bạn, hiểu rõ về chính bạn, không qua sự phân tích. Trong sự quan sát đó, bạn sẽ phát hiện rằng đang làm là đang thấy. Chỉ một cái trí như thế mới có thể tìm được cho chính nó liệu có một sự thật hay không. Nó không có phỏng đoán, không những lý thuyết, không những quyển sách, không những người thầy, không những môn đồ. Và một cái trí như thế là một cái trí hưởng thụ sự ngây ngất. 

 Từ Bản tin 7, 1970

 

Tự do

Saanen, Thụy sĩ, ngày 19 tháng 7 năm 1973

 

B

ởi vì biết thế giới là gì, mà mỗi người chúng ta đã tạo ra, cùng tất cả sự tách rời và phân chia của nó, cùng những tàn nhẫn, tranh luận, lừa bịp, bạo lực và những chiến tranh của nó và tất cả những kinh hoàng đang xảy ra, chúng ta có hai vấn đề mấu chốt. Thứ nhất, liệu có thể thoát khỏi thế giới này – đó là thoát khỏi văn hóa, văn minh, tất cả mọi việc mà con người đã sắp xếp vào chung qua hàng thế kỷ, và làm tự do cái trí khỏi tình trạng bị quy định đó? Đó là một vấn đề. Thứ hai, liệu trong sự tiến hành cởi bỏ tình trạng bị quy định của cái trí, vẫn có thể sống trong thế giới này, tuy nhiên không thuộc về nó, không dính dáng nó?

 Tôi không hiểu liệu bạn đã suy nghĩ điều này nghiêm túc đến chừng nào. Nó không là một giải trí, cái gì đó mà người ta tìm kiếm từ vui thú, hay từ tuyệt vọng, nhưng ngược lại, nhận biết toàn tình huống, những phức tạp khác nhau trong chuyển động của thế giới, thuộc lịch sử, phía bên ngoài và bên trong, những vấn đề này là một vấn đề của sự quan tâm khẩn cấp. Con người đã phá hoại thiên nhiên, hủy diệt những chủng loại nào đó của thú vật và chim chóc. Anh ấy đã tạo ra những đền chùa, nhà thờ, thánh đường nguy nga, những văn chương, âm nhạc, hội họa vĩ đại. Và đó là bộ phận thuộc văn hóa của chúng ta, vẻ đẹp, xấu xí, độc ác, sự hủy diệt kinh hoàng của con người bởi con người. Đó là bộ phận thuộc văn minh của chúng ta, mà chúng ta là bộ phận. Tôi không hiểu liệu bạn có thực sự nhận ra việc gì được bao hàm trong tất cả điều này, kinh tế, xã hội, tôn giáo. Nếu bạn đã thâm nhập nó trong chiều sâu nào đó, bạn phải quan tâm liệu cấu trúc đó có thể được thay đổi, cấu trúc mà đã tạo ra thế giới này; chắc chắn bạn đã hỏi điều gì đã tạo ra cấu trúc này, và liệu bằng cách chỉ thay đổi cấu trúc con người sẽ được thay đổi? Đây đã là một trong những lý thuyết của thế giới: thay đổi những quy định phía bên ngoài, sau đó con người sẽ được thay đổi phía bên trong – đó luôn luôn đã là một trong những tranh luận. Nhưng bạn thấy nó không vận hành theo cách đó. Vì vậy, chính là con người mà phải thay đổi và thế là thay đổi cấu trúc.

 Lúc này, liệu cái trí, cái trí của bạn, có thể được tự do khỏi văn hóa này? Và được tự do khỏi văn hóa có nghĩa gì? Liệu nó là một vấn đề của sự phân tích? Liệu nó là một vấn đề của thời gian? Liệu nó là một vấn đề của những kết luận hợp lý hơn, có lý trí hơn của sự suy nghĩ? Hay nó là một bất động của sự suy nghĩ? Làm ơn, hãy thâm nhập nghi vấn này cùng tôi một chút xíu. Nó có lẽ hơi khó khăn – bạn có lẽ không quen thuộc loại suy nghĩ này, bạn có lẽ đã không suy nghĩ về nó. Vì vậy, làm ơn hãy có một chút kiên nhẫn và thế là cùng nhau chia sẻ nghi vấn lạ thường này. Liệu tình trạng bị quy định này của cái trí, mà đã được tạo ra qua thời gian, trải nghiệm và hiểu biết, có thể được xóa sạch bởi sự phân tích? Đó là một mấu chốt.

 Sự phân tích, chính từ ngữ đó là phá vỡ. Và qua sự phân chia, chúng ta hy vọng hiểu rõ và xóa sạch vấn đề phức tạp của tình trạng bị quy định, cả tại mức độ ý thức bên ngoài lẫn bên trong. Liệu việc này có thể được thực hiện qua sự phân tích, giữa người phân tích và vật được phân tích, phải mất hàng tháng, hàng năm? Tất cả điều đó bao hàm thời gian, và trước thời gian hoàn tất bạn sẽ chết rồi! Tôi có thể tự phân tích về chính tôi rất, rất cẩn thận, từng bước một, tìm hiểu nguyên nhân, hậu quả, hậu quả trở thành nguyên nhân, mà là sợi dây xích trong nó sự phân tích bị trói buộc. Liệu cái trí có thể tự phân tích về chính nó và xóa sạch tất cả những đặc điểm, sự bạo lực, những mê tín, những mâu thuẫn khác nhau, và thế là sáng tạo sự hòa hợp tổng thể?

 Như chúng ta đã nói, sự phân tích bao hàm thời gian, và thời gian là gì? Thời gian vừa là một chuyển động thuộc vật chất lẫn một chuyển động thuộc tâm lý – thuộc vật chất, một chuyển động từ đây đến đó, thuộc tâm lý một chuyển động từ ‘cái gì là’ sang ‘cái gì nên là’, đang thay đổi ‘cái gì là’ qua một học thuyết, mà là một chuyển động trong thời gian. Đúng chứ? Làm ơn, chúng ta đang cùng nhau chia sẻ nghi vấn này, không phải bạn đang lắng nghe tôi; chúng ta đang cùng nhau thực hiện chuyến hành trình, đang thâm nhập, đang cùng nhau tìm ra sự thật là gì. Bạn không phải chấp nhận điều gì người nói đang trình bày; điều đó không có giá trị gì cả, không giá trị cả thuộc từ ngữ lẫn thuộc thực tế. Điều gì có thực tế là khi chúng ta, qua sự thâm nhập, qua sự quan sát, qua sự nhận biết rất cẩn thận, chia sẻ điều mà chúng ta tự khám phá cho chính chúng ta. Điều đó có giá trị; nó có thực chất, ý nghĩa. Không có ý nghĩa trong chỉ lắng nghe một bộ những từ ngữ và diễn giải chúng thành những ý tưởng, và sau đó đưa những ý tưởng này vào hành động.

 Vì vậy, như chúng ta đang nói, thời gian là chuyển động. Thuộc vật chất, chuyển động từ đây đến đó phải mất thời gian. Thuộc tâm lý nó cũng là một chuyển động, đang chuyển động từ ‘cái gì là’ và đang thay đổi thành ‘cái gì nên là’. ‘Cái gì là’ mà là kết quả của quá khứ, là một chuyển động trong thời gian sang hiện tại, và ‘cái gì nên là’ là một chuyển động vào tương lai. Toàn chuyển động là thời gian, đúng chứ? Và sự suy nghĩ luôn luôn là một qui trình trong thời gian, bởi vì sự suy nghĩ là một phản ứng của ký ức, mà là quá khứ, được đặt nền tảng trên hiểu biết mà cũng là quá khứ, và tùy theo tình trạng bị quy định đó nó phản ứng, mà là một chuyển động. Vì vậy sự suy nghĩ là một chuyển động trong thời gian. Và sự phân tích là một chuyển động trong thời gian, chuyển động của sự suy nghĩ đang tự tìm hiểu về chính nó. Và chúng ta đang bị quy định để phân tích. Bạn sẽ thấy, nếu bạn thâm nhập vào nó sâu thẳm, rằng nó là tình trạng bị quy định của chúng ta. Chúng ta không bao giờ thấy rằng nguyên nhân trở thành kết quả, và kết quả trở thành nguyên nhân. Đó là một chuyển động trong thời gian. Sự phân tích không làm tự do cái trí, mà là kết quả của thời gian.

 Tôi không hiểu liệu bạn thấy điều này? Nó khá đơn giản nếu bạn quan sát nó trong chính bạn. Tôi bị tức giận. Tôi phân tích nguyên nhân, và trong qui trình của sự phân tích tôi đạt được một kết luận, mà là kết quả. Và kết luận đó trở thành nguyên nhân của kết quả kế tiếp. Tất cả việc đó là một chuyển động của sự suy nghĩ trong thời gian. Sự suy nghĩ thời gian. Và sự suy nghĩ đã tạo ra tình trạng bị quy định này. Tất cả văn hóa của chúng ta là kết quả của sự suy nghĩ, như cảm giác, những phản ứng thuộc thân thể và vân vân. Vì vậy, sự phân tích không thể xóa sạch tình trạng bị quy định của cái trí con người. Tôi hy vọng điều đó rõ ràng – không phải câu nói bằng từ ngữ, nhưng sự thật của nó, sự kiện thực sự, không phải sự khẳng định hay sự lặp lại của một câu nói, rằng sự phân tích sẽ không làm tự do cái trí. Điều đó không có giá trị.

 Vì vậy cái trí, đang thấy sự giả dối của phân tích, khám phá sự thật rằng sự phân tích không làm tự do cái trí – đó là, nó khám phá sự thật trong cái giả dối. Lúc này, sự phân tích bao hàm không những cái trí tầng ý thức bên ngoài nhưng còn cả những tầng sâu thẳm hơn của tầng ý thức bên trong, mà cũng là kết quả của thời gian. Sự phân chia này giữa tầng ý thức bên ngoài và tầng ý thức bên trong là giả dối. Ý thức là tổng thể. Chúng ta có lẽ phân chia nó, chúng ta có lẽ phá vỡ nó để tìm hiểu nó, nhưng nó là một chuyển động tổng thể bên trong lãnh vực của thời gian. Và tầng ý thức bên trong mất đi sự quan trọng của nó khi bạn có thể nhìn ngắm tổng thể của ý thức và nội dung của nó. Bạn hiểu chứ? Chúng ta nhìn ngắm về chính chúng ta một cách phân chia. Chúng ta nhìn ngắm về chính chúng ta qua hành động của sự suy nghĩ.

 Hãy quan sát, thưa các bạn, ý thức của tôi là một chuyển động tổng thể. Nó có thể bị tách rời như tầng ý thức bên ngoài và tầng ý thức bên trong, như hành động và không hành động, như tham lam, ganh tị, không ganh tị; nhưng nó là một tổng thể, một chuyển động tổng thể mà có thể bị tách rời chỉ với mục đích tìm hiểu nó. Và tôi thấy rằng một tìm hiểu của những mảnh không tạo ra một hiểu rõ của tổng thể. Đúng chứ? Điều gì được cần đến là hiểu rõ của tổng thể, không phải chỉ là những mảnh, nhận biết chuyển động tổng thể của ý thức, mà ở trong lãnh vực của thời gian. Liệu sự suy nghĩ có thể, liệu tôi, như sự suy nghĩ, có thể thâm nhập ý thức này? Bạn thấy, điều gì tôi đang cố gắng trình bày là như thế này: thuộc cá nhân, tôi không bao giờ đã phân tích về chính tôi. Điều gì đã xảy ra là sự quan sát, và trong chính sự quan sát đó tổng thể được phơi bày bởi vì không có ý định của vượt khỏi ‘cái gì là’. Vượt khỏi ‘cái gì là’ là chuyển động của thời gian. Liệu điều đó rõ ràng?

 Vậy là, tôi thấy rõ ràng rằng cái trí có thể, mà không phân tích, khám phá, quan sát, chuyển động tổng thể của ý thức. Đó là một mấu chốt. Điều gì chúng ta quan tâm là liệu cái trí có thể tự làm tự do chính nó khỏi tình trạng bị quy định của nó. Tôi thấy nó không thể làm tự do chính nó khỏi tình trạng bị quy định của nó qua sự phân tích bởi vì việc đó bao hàm thời gian, và xóa sạch thời gian nhờ vào thời gian là điều không thể được. Vậy thì, liệu sự suy nghĩ có thể xóa sạch nó? Liệu sự suy nghĩ có thể thay đổi, làm tự do cái trí khỏi tình trạng bị quy định của nó? Lúc này, làm ơn lắng nghe điều này. Sự suy nghĩ là chuyển động trong thời gian; sự suy nghĩ là chuyển động và vì vậy thời gian. Và sự tìm hiểu bằng sự suy nghĩ về tình trạng bị quy định vẫn còn trong lãnh vực của thời gian, vì vậy sự suy nghĩ không thể xóa sạch tình trạng bị quy định bởi vì chính là sự suy nghĩ như hiểu biết, trải nghiệm, ký ức, mới tạo ra văn minh này mà trong nó cái trí đã được giáo dục. Điều đó rõ ràng. Vì vậy sự suy nghĩ không thể xóa sạch nó. Sự phân tích cũng không thể. Sau đó, bạn còn lại cái gì? Bạn hiểu chứ? Chúng ta đã sử dụng sự suy nghĩ như một phương tiện của chinh phục, hủy diệt, thay đổi, phân tích, vượt qua. Và tôi thấy rằng sự suy nghĩ không thể mang lại sự tự do cho cái trí. Sự suy nghĩ là chuyển động. Do đó không-chuyển động là tự do khỏi thời gian. Đúng chứ? Bất động của sự suy nghĩ là một trạng thái trong đó cái trí được tự do khỏi thời gian. Lúc này, tôi sẽ thâm nhập điều này; bạn sẽ thấy nó.

 Tình trạng bị quy định của văn minh, văn hóa, đã nhấn mạnh rằng tôi phải ganh đua, đã dạy bảo tôi bạo lực, hay, nói khác hơn, đã khuyến khích tôi nhiều bạo lực hơn. Vì vậy, cái trí là bạo lực; đó là ‘cái gì là’. Liệu cái trí có thể được tự do khỏi bạo lực, mà là ‘cái gì là’, mà không có chuyển động của sự suy nghĩ? Bạn hiểu rõ câu hỏi của tôi? Tôi bạo lực và sự suy nghĩ nói, ‘Khuất phục bạo lực đó, kiềm chế bạo lực đó, sử dụng bạo lực đó’, vì vậy đang khuyến khích hay đang kiềm chế, đang định hình bạo lực đó cho những mục đích riêng của nó. Đó là điều gì chúng ta luôn luôn đang làm. Vì vậy, sự suy nghĩ, là một chuyển động, liên tục đang hành động vào ‘cái gì là’, mà cũng là kết quả của thời gian và sự suy nghĩ. Đúng chứ? Lúc này, liệu sự suy nghĩ có thể không có chuyển động gì cả để cho chỉ ‘cái gì là’ còn y nguyên mà không có bất kỳ sự can thiệp nào của sự suy nghĩ? Hãy quan sát, thưa các bạn, tôi bạo lực; tôi biết tất cả những nguyên nhân, làm thế nào sự bạo lực đã xảy ra. Điều đó khá rõ ràng, nó là bộ phận của văn hóa, được khuyến khích bởi hoàn cảnh thuộc kinh tế, sự giáo dục và vân vân. Tôi bạo lực, đó là ‘cái gì là’. Liệu cái trí có thể nhìn ngắm ‘cái gì là’ mà không có bất kỳ chuyển động nào? Bất kỳ chuyển động nào là thời gian. Vì vậy, liệu cái trí có thể quan sát sự bạo lực đó cùng không-suy nghĩ, đó là, không-thời gian?

 Ít ra bạn đã hiểu rõ câu hỏi của tôi? Tình trạng bị quy định của tôi nói, ‘Hãy sử dụng sự suy nghĩ để kiểm soát bạo lực, để định hình nó, để loại bỏ nó, để đấu tranh chống lại nó; xấu xa lắm khi bạo lực, những con người phải hòa bình.’ Thế là, nó cung cấp tất cả những lý do, những bênh vực, những chỉ trích, mà tất cả đều là những chuyển động của sự suy nghĩ, và sự suy nghĩ là thời gian, và sự chuyển động là thời gian. Tuy nhiên chỉ có sự kiện rằng con người này là bạo lực. Trong chừng mực nào đó, điều đó đã rõ ràng.

 Liệu cái trí có thể nhìn ngắm ‘cái gì là’ mà không có bất kỳ chuyển động nào? ‘Cái gì là’ là bạo lực. Lúc này, tôi đã sử dụng một từ ngữ để chỉ rõ một cảm giác mà tôi đã đặt tên là ‘bạo lực’, và từ ngữ đó cùng ý nghĩa của nó tôi đã sử dụng trước kia rồi. Thế là, tôi đang công nhận cảm thấy đó dựa vào cái cũ kỹ. Bất kỳ lúc nào tôi công nhận cái gì đó nó phải là cũ kỹ. Thế là, ‘cái gì là’ là kết quả của sự suy nghĩ. Lúc này, cái trí bất động, mà có nghĩa không-thời gian, gặp gỡ việc đó mà đã được sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ, mà tôi đã gọi là ‘bạo lực’. Thế là, khi bất động gặp gỡ sự suy nghĩ, mà là chuyển động của thời gian, vậy thì điều gì xảy ra? Bạn đang theo sát chứ?

 Hãy quan sát, thưa các bạn, con trai của tôi chết; tôi đau khổ vô cùng vì vô vàn lý do, cô độc, tuyệt vọng và vân vân. Tiếp theo, sự suy nghĩ xuất hiện và nói, ‘Tôi phải vượt qua nó’. ‘Cái gì là’ đang chịu đựng đau khổ, và chuyển động của sự suy nghĩ là thời gian. Cái trí gặp gỡ sự đau khổ đó và cố gắng làm cái gì đó về nó, để chạy trốn nó, tìm kiếm sự thanh thản trong sự cầu hồn, trong những người đồng bóng, trong những niềm tin; nó trải qua tất cả qui trình đó, mà tất cả đều là một chuyển động của thời gian như sự suy nghĩ. Lúc này, trong gặp gỡ đang chịu đựng đau khổ đó mà không có bất kỳ chuyển động nào, điều gì xảy ra? Có khi nào bạn đã thử nó? Nếu bạn đã, bạn sẽ thấy rằng trạng thái bất động đó hoàn toàn thay đổi những chuyển động của thời gian, và cái mà chúng ta gọi là đau khổ thời gian. Điều đó có nghĩa đau khổ không lưu lại một dấu vết trên cái trí bởi vì bất động là không-thời gian, và cái đó không thể tiếp xúc cái mà không thuộc về chính nó.

 Vì vậy, cái trí bị quy định qua văn hóa, qua môi trường sống, qua hiểu biết, qua trải nghiệm – tất cả điều đó là chuyển động của thời gian, và sự suy nghĩ cũng là một chuyển động của thời gian. Do đó, sự suy nghĩ không thể thay đổi hay làm tự do cái trí khỏi tình trạng bị quy định của nó, cũng giống như sự phân tích không thể. Nghi vấn là: liệu cái trí có thể quan sát tình trạng bị quy định này, thực thể được giáo dục này, bằng sự bất động? Nếu bạn thực hiện nó, vậy thì bạn sẽ thấy rằng tất cả ý thức của kiểm soát, bắt chước, tuân phục, hoàn toàn tan biến. 

 Từ Bản tin 21, 1974

 

Vượt khỏi Sự Suy nghĩ và Thời gian

Brockwood Park, Anh, ngày 8 tháng 9 năm 1974

 

N

ếu chúng ta quan tâm nghiêm túc đến sự thay đổi của cái trí và quả tim con người, chúng ta phải hoàn toàn hiến dâng cho sự giải quyết những vấn đề của chúng ta bởi vì nội dung của ý thức chúng ta là nội dung của thế giới. Mặc dù có những biến thể, ý thức của mỗi người chúng ta là phần còn lại của thế giới. Và nếu có một thay đổi cơ bản trong ý thức đó, ý thức đó sẽ gây ảnh hưởng phần còn lại của thế giới. Đó là một sự kiện hiển nhiên. Chúng ta đã hao tổn nhiều năng lượng trong những nỗ lực để giải quyết những vấn đề của chúng ta – năng lượng trí năng, năng lượng cảm xúc, năng lượng thân thể – và tất cả năng lượng này, cùng những mâu thuẫn của nó, cùng những xung đột của nó, cùng hoạt động hủy diệt cố ý khác nhau của nó, trong bất kỳ cách nào đã không giải quyết được những vấn đề thuộc tâm lý của con người chúng ta. Tôi nghĩ đây là một sự kiện mà không ai có thể chối cãi.

 Chúng ta quan tâm tìm ra liệu có một loại năng lượng khác hẳn mà sẽ, nếu chúng ta có thể sử dụng nó, giải quyết những vấn đề của chúng ta. Vì vậy, chúng ta đang cùng nhau dò dẫm, thâm nhập vào khả năng của một loại năng lượng khác hẳn mà không-mâu thuẫn trong chính nó, mà không bị đặt nền tảng trên hoạt động phân chia của sự suy nghĩ, không phụ thuộc vào môi trường sống, vào sự giáo dục, vào sự ảnh hưởng văn hóa. Chúng ta đang hỏi liệu có một hoạt động khác hẳn, một chuyển động khác hẳn mà không phụ thuộc vào những hoạt động tự cho mình là trung tâm, những hoạt động và những năng lượng mà cái ngã, ‘cái tôi’ tạo ra cùng tất cả những mâu thuẫn của nó. Liệu có một năng lượng mà không có nguyên nhân? Bởi vì nguyên nhân hàm ý thời gian.

 Chúng ta đã sử dụng chỉ một khu vực nhỏ xíu của bộ não, và khu vực nhỏ xíu đó bị kiểm soát và bị định hình bởi sự suy nghĩ, và sự suy nghĩ, thuộc trí năng, thuộc cảm xúc, thuộc thân thể, đã tạo ra một năng lượng mâu thuẫn, ‘cái tôi’ và ‘cái bạn’, ‘chúng tôi’ và ‘chúng nó’, chúng ta là gì và chúng ta nên là gì, cái lý tưởng, cái tiêu chuẩn hoàn hảo. Tôi hy vọng bạn đang theo sát điều này. Tôi nghĩ rất quan trọng phải hiểu rõ rằng chúng ta đang cùng nhau làm việc, rằng người nói không đang chỉ bảo bạn phải làm gì, bởi vì người nói không có uy quyền. Uy quyền trong những vấn đề thuộc tinh thần đã rất phá hoại bởi vì uy quyền hàm ý tuân phục, sợ hãi, vâng lời, đang tuân theo và đang chấp nhận, nhưng khi chúng ta đang cùng nhau thâm nhập nó có nghĩa rằng không có ý thức của theo sau, không có ý thức của đồng ý hay không đồng ý, nhưng chỉ đang quan sát, đang thâm nhập. Cùng nhau chúng ta đang thực hiện việc này. Vì vậy khi chúng ta cùng nhau, ‘bạn’ và ‘tôi’ tan biến. Chính là công việc mới quan trọng, không phải bạn và tôi. Vì vậy, chúng ta đang cùng nhau vận hành để tìm ra liệu có một loại năng lượng hoàn toàn khác hẳn, mà không bị đặt nền tảng trên một nguyên nhân mà phân chia hành động của hiện tại bởi quá khứ.

 Lúc này, sự thâm nhập hàm ý rằng chúng ta đang thắc mắc liệu có một khu vực trong bộ não mà không bị ô uế bởi sự suy nghĩ, mà không là sản phẩm của sự tiến hóa, không bị vấy bẩn bởi văn hóa. Từ những thời xa xưa, con người đã sử dụng chỉ một khu vực nhỏ xíu của bộ não, mà trong nó đã có sự xung đột giữa tốt lành và xấu xa. Bạn có thể thấy điều đó trong tất cả những bức họa, trong tất cả những biểu tượng, trong tất cả những hoạt động của con người. Sự xung đột này giữa tốt lành và xấu xa, giữa ‘cái gì là’ và ‘cái gì nên là’, giữa ‘cái gì là’ và lý tưởng, đã sản sinh một văn hóa, Thiên chúa giáo, Ấn giáo, Phật giáo và vân vân. Và bởi văn hóa đó, khu vực nhỏ xíu này của bộ não bị quy định. Liệu cái trí có thể tự làm tự do chính nó khỏi tình trạng bị quy định đó, khỏi khu vực bị giới hạn đó, và chuyển động vào một khu vực không bị kiểm soát bởi thời gian, bởi hình thành nguyên nhân, bởi phương hướng?

 Vì vậy, người ta phải bắt đầu bằng cách tìm ra thời gian là gì, phương hướng là gì, và những con người đang cố gắng đạt được cái gì trong lãnh vực thuộc tâm lý. Thời gian thuộc tâm lý là gì? Có thời gian tuần tự, bằng đồng hồ, nhưng thuộc tâm lý liệu có thời gian? Thời gian có nghĩa chuyển động – đúng chứ? Thời gian cũng hàm ý phương hướng. Thuộc tâm lý chúng ta nói rằng ‘cái gì là’ chỉ có thể được thay đổi qua một qui trình dần dần, và việc đó cần đến thời gian. Và qui trình dần dần ở trong một phương hướng xác định, phương hướng được thiết lập bởi lý tưởng. Muốn đạt được điều đó bạn phải có thời gian như một chuyển động từ đây đến đó, và trong lãnh vực của thời gian đó chúng ta bị trói buộc. Đó là, tôi là cái gì tôi là, tôi phải thay đổi cái đó thành cái gì tôi nên là, và để thực hiện việc đó tôi cần đến sự chuyển động của thời gian. Và phương hướng bị kiểm soát, bị định hình bởi lý tưởng, bởi công thức, bởi ý tưởng mà sự suy nghĩ đã tạo ra. Đó là, lý tưởng bị tạo ra bởi sự suy nghĩ, sự suy nghĩ mà nói, ‘Tôi là cái này, và tôi nên là cái kia,’ và chuyển động hướng về cái kia. Đây là sự tiếp cận thuộc truyền thống đến sự thay đổi của con người. Lúc này, chúng ta đang hoàn toàn nghi ngờ điều đó.

 Vậy là, thời gian là một chuyển động trong một phương hướng riêng biệt được thiết lập bởi sự suy nghĩ – đúng chứ? Và vì vậy chúng ta luôn luốn sống trong xung đột. Qui trình phân chia này của tôi là gì và tôi nên là gì là chính hành động của sự suy nghĩ mà tự phân chia, tự tách rời trong chính nó. Sự suy nghĩ đã phân chia con người qua những quốc tịch, những tôn giáo, ‘bạn’ và ‘tôi’, và vì vậy chúng ta luôn luôn trong xung đột, và chúng ta đang cố gắng giải quyết những vấn đề bên trong lãnh vực của thời gian đó.

 Vì vậy liệu cái trí, mà bị quy định sâu thẳm trong truyền thống này, có thể phá vỡ nó và chỉ giải quyết ‘cái gì là’ chứ không phải ‘cái gì nên là’? Để làm việc đó bạn cần đến năng lượng, và năng lượng đó hiện diện và tự duy trì và tự nuôi dưỡng chính nó nơi nào không có chuyển động của sự suy nghĩ tách khỏi ‘cái gì là’. Liệu cái trí của bạn, mà là cái trí của nhân loại, bởi vì bạn là tập thể đó, bạn không là một cá thể – cá thể có nghĩa tổng thể đó, không thể phân chia, không bị tách rời, không bị vỡ vụn, như những con người hiện nay – liệu cái trí của bạn cùng hoạt động tự cho mình là trung tâm của nó có thể tự cởi bỏ tình trạng bị quy định của chính nó, không phải trong tương lai, nhưng ngay tức khắc? Liệu cái trí của bạn có thể tự cởi bỏ tình trạng bị quy định của chính nó mà không có sự suy nghĩ của thời gian?

 Thời gian là người quan sát mà là quá khứ, và vật được quan sát là hiện tại. Bạn hiểu chứ? Cái trí của tôi bị quy định và người quan sát nói, ‘Tôi có tất cả những vấn đề này và tôi không thể giải quyết được chúng, vì vậy tôi sẽ quan sát tình trạng bị quy định của tôi, tôi sẽ nhận biết nó và vượt khỏi nó.’ Đây là truyền thống đang phản ứng – đúng chứ? Vì vậy, người quan sát, mà là quá khứ, mà có nghĩa anh ấy là bản thể của thời gian, đang cố gắng khuất phục, thăng hoa và vượt khỏi cái gì anh ấy quan sát, mà là tình trạng bị quy định của anh ấy – chắc chắn. Thế là, anh ấy quan sát bằng sự suy nghĩ mà là kết quả của thời gian, và anh ấy đang cố gắng giải quyết vấn đề qua thời gian. Nhưng người ta thấy rằng người quan sát vật được quan sát.

 Hãy theo dõi, thưa các bạn, tôi sẽ trình bày nó rất đơn giản. Liệu bạo lực khác biệt người quan sát mà nói ‘Tôi bạo lực’? Liệu bạo lực khác biệt người hành động mà là bạo lực? Chắc chắn, cả hai đều giống nhau, đúng chứ? Vì vậy, người quan sát là vật được quan sát, và chừng nào còn có sự phân chia giữa người quan sát và vật được quan sát phải có sự xung đột. Sự phân chia này hiện diện khi người quan sát công nhận rằng anh ấy khác hẳn vật được quan sát. Có một chút thấu triệt vào điều này và bạn sẽ thấy điều gì được hàm ý trong nó.

 Chúng ta sống trong hỗn loạn và vô trật tự hoàn toàn, thuộc thân thể, thuộc tâm lý và thuộc trí năng, hỗn loạn là mâu thuẫn: nói một việc, làm một việc khác, suy nghĩ điều gì đó và hành động một cách khác. Nhưng trật tự rất cần thiết cho bộ não vận hành đúng cách, khách quan. Rõ ràng rằng, giống như một cái máy, nếu nó không đang vận hành đúng cách nó trở thành vô dụng. Lúc này, liệu trật tự có thể hiện diện từ sự khám phá này? Trật tự, không phải tùy theo vị giáo sĩ hay tùy theo trật tự xã hội – mà là vô luân lý – nhưng trật tự mà không xung đột, không kiểm soát, không cho phép thời gian. Liệu trật tự hoàn hảo đó, mà là đạo đức, có thể hiện diện từ sự quan sát của vô trật tự này mà chúng ta sống trong nó? Điều đó có nghĩa, liệu cái trí có thể quan sát, nhận biết vô trật tự này, không đang tìm kiếm làm thế nào để giải quyết nó hay thăng hoa nó, nhưng nhận biết nó một cách không chọn lựa? Và muốn nhận biết một cách không chọn lựa, người quan sát phải không can thiệp vào sự quan sát. Người quan sát, mà là quá khứ, mà nói, ‘Điều này đúng, điều này sai, tôi phải chọn lựa điều này, tôi không được chọn lựa điều kia, điều này nên chọn lựa, điều kia không nên,’ phải không can thiệp vào sự quan sát.

 Lúc này, liệu bạn có thể quan sát vô trật tự của bạn mà không can thiệp, mà không có chuyển động của sự suy nghĩ, mà là thời gian – chỉ quan sát? Chắc chắn, sự quan sát hàm ý chú ý, và khi bạn đang chú ý trọn vẹn, liệu có vô trật tự? Vì vậy, trật tự trở thành giống như hình thức tột đỉnh của toán học, mà là trật tự tuyệt đối. Vì vậy, liệu có một cách sống không có bất kỳ sự kiểm soát nào, mà có nghĩa quan sát không có sự chuyển động của sự suy nghĩ như thời gian? Thâm nhập nó và bạn sẽ thấy điều này. Cái gì tạo ra thời gian là sự phân chia giữa người quan sát và vật được quan sát, và bạn đã xóa sạch sự phân chia này khi có sự chú ý và nhận biết tổng thể. Thế là, sự liên hệ trong sống hàng ngày của bạn, mà chúng ta đã bàn luận trong những nói chuyện trước, là một liên hệ thực sự trong đó hình ảnh của ‘bạn’ và hình ảnh của ‘cô ấy’ hay ‘anh ấy’ không tồn tại. Lúc này, bởi vì đã thiết lập điều này, mà là trật tự, chúng ta đang hỏi liệu bộ não, khu vực nhỏ xíu đó mà bị kiểm soát chặt chẽ, bị định hình sâu thẳm bởi văn hóa, bởi thời gian, liệu bộ não đó, cái trí đó, có thể được tự do khỏi tất cả điều đó, tuy nhiên vẫn vận hành có hiệu quả trong lãnh vực của sự hiểu biết?

 Cho phép tôi trình bày nó một cách khác. Liệu có một bộ phận của bộ não mà không bị tiếp xúc bởi nỗ lực của con người, bạo lực, ham muốn, hy vọng của con người và mọi chuyện còn lại của nó? Bạn hiểu rõ câu hỏi của tôi? Cái trí đã tạo ra trật tự bên trong khu vực nhỏ xíu đó, và nếu không có trật tự đó không có tự do để thâm nhập. Chắc chắn, trật tự có nghĩa tự do. Trật tự có nghĩa an toàn để cho không có sự nhiễu loạn. Lúc này, cái trí nói, ‘Tôi thấy sự cần thiết của trật tự, của trách nhiệm trong sự liên hệ, và vân vân – nhưng những vấn đề của con người không giải quyết được.’ Sau đó, cái trí hỏi, ‘Liệu có một loại năng lượng khác?’ Bạn đang theo kịp điều này chứ? Đây là thiền định – không phải ngồi yên lặng, hít thở trong một cách nào đó, tuân theo một hệ thống, một đạo sư, tất cả đều vô lý cực kỳ. Thiền định là tìm ra liệu có một khu vực của bộ não nơi có lẽ có một loại năng lượng khác, nơi có lẽ có một khu vực mà thời gian không tồn tại và thế là không gian vô hạn. Làm thế nào cái trí sẽ tìm ra liệu có một sự việc như thế?

 Đầu tiên, phải có sự nghi ngờ. Nghi ngờ là một tác nhân tẩy rửa nhưng nó phải được kiểm soát chặt chẽ. Không những bạn phải nghi ngờ nhưng còn cả kiểm soát nó chặt chẽ – ngược lại bạn sẽ nghi ngờ mọi thứ, mà sẽ quá ngu xuẩn. Vì vậy, nghi ngờ là cần thiết – nghi ngờ bất kỳ điều gì bạn trải nghiệm, bởi vì trải nghiệm của bạn được đặt nền tảng trên người trải nghiệm. Người trải nghiệm là trải nghiệm – bạn hiểu chứ? – vì vậy sự tìm kiếm cho trải nghiệm nhiều hơn trở thành vô lý. Cái trí phải rất rõ ràng để không tạo ra những ảo tưởng; người ta có thể tưởng tượng rằng người ta phải có loại năng lượng mới mẻ, rằng người ta đã đạt được trạng thái không thời gian, vì vậy người ta phải rất rõ ràng về không có những ảo tưởng. Lúc này, ảo tưởng hiện diện chỉ nơi nào có một ham muốn để đạt được cái gì đó – chúng ta đang nói về tâm lý. Khi tôi ham muốn đạt được Thượng đế, dù Thượng đế có lẽ là gì, Thượng đế đó mà tôi đã sáng chế từ chính tôi, có một ảo tưởng. Vì vậy, tôi phải hiểu rõ sự ham muốn này, và động cơ lẫn năng lượng mà sự ham muốn đó thúc đẩy. Vì vậy, phải có sự nghi ngờ và không có nhân tố của ảo tưởng. Bạn hiểu chứ? Điều này rất nghiêm túc, đây không là một đùa giỡn. Tất cả những tôn giáo đã tạo ra những ảo tưởng, bởi vì những tôn giáo là sản phẩm của những ham muốn của chúng ta, bị trục lợi bởi những giáo sĩ.

 Thế là, muốn bắt gặp năng lượng này, nếu có năng lượng như thế, nếu có một tình trạng vô hạn như thế, sự suy nghĩ phải tuyệt đối bất động – mà không kiểm soát. Liệu điều đó có thể được? Sự suy nghĩ của chúng ta đang huyên thuyên liên tục, đang hành động liên tục: ‘Tôi muốn tìm ra liệu có tình trạng đó; được rồi, tôi sẽ nghi ngờ, tôi sẽ không có những ảo tưởng, tôi sẽ sống một sống của trật tự bởi vì tình trạng khác lạ đó có lẽ tuyệt vời lắm, vì vậy tôi phải có nó.’ Nó đang huyên thuyên liên tục. Liệu huyên thuyên đó có thể kết thúc mà không có bất kỳ sự kiểm soát nào, mà không có bất kỳ sự kiềm chế nào, bởi vì bất kỳ hình thức nào của kiểm soát hay kiềm chế đều gây biến dạng toàn chuyển động của bộ não? Tất cả sự biến dạng phải kết thúc, ngược lại bộ não kết thúc trong một ảo tưởng loạn thần kinh của sự an toàn.

 Nếu bộ não không thể tuyệt đối bất động, nó không thể chuyển động vào bất kỳ lãnh vực khác lạ, nó sẽ mang động lực riêng của nó vào cái khác lạ, nếu có ‘cái khác lạ’, bởi vì tôi luôn luôn đang nghi ngờ ‘cái khác lạ’, bởi vì lý do rằng tôi không muốn bị trói buộc trong bất kỳ ảo tưởng nào, mà quá dễ dàng, quá thô tục, quá ti tiện. Tôi đang đưa ra vấn đề này cho bạn để giải quyết, để vận dụng khả năng của bạn, bộ não của bạn, để tìm ra liệu cái trí của bạn có thể tuyệt đối bất động, mà có nghĩa sự kết thúc của thời gian, sự kết thúc của suy nghĩ, mà không cần nỗ lực, kiểm soát, mà không cần bất kỳ hình thức nào của sự kiềm chế. Liệu cái trí của bạn có khi nào bất động? Không phải mơ mộng, không phải ráo hoảnh, nhưng yên lặng, chú ý, nhận biết? Bạn không bao giờ biết nó thỉnh thoảng xảy ra, hay sao? Muốn thấy bất kỳ thứ gì, muốn nghe bất kỳ thứ gì, cái trí phải bất động, đúng chứ? Sự quan tâm của bạn trong điều gì đang được nói tạo ra sự bất động này của cái trí mà sẽ lắng nghe. Tôi quan tâm điều gì bạn đang nói bởi vì nó gây ảnh hưởng sống của tôi, cách tôi đang sống, và tôi muốn lắng nghe bạn trọn vẹn, không chỉ qua những từ ngữ, chuyển động ngữ nghĩa của sự suy nghĩ, nhưng điều gì nằm sau nó. Tôi muốn tìm ra chính xác điều gì bạn nói, không phải diễn giải nó, trình bày nó tùy theo vui thú hay ảo tưởng của tôi. Thế là trong chính sự mãnh liệt của lắng nghe bạn của tôi, tôi phải có một cái trí bất động. Tôi không hiểu liệu bạn thấy điều này? Tôi đã không ép buộc cái trí của tôi phải bất động; chính sự chú ý của lắng nghe bạn trạng thái bất động. Và bất động này của cái trí là cần thiết; sự bất động không bị rèn luyện, bởi vì sự bất động bị rèn luyện là sự nhiễu loạn. Nó vô nghĩa. Vì vậy, thiền định không là một hoạt động bị điều khiển, bị kiểm soát; nó là một hoạt động của ‘không suy nghĩ’.

 Vậy thì, bạn sẽ tìm ra cho chính bạn liệu có hay liệu không có cái gì đó mà không thể đặt tên, mà không ở trong lãnh vực của thời gian. Nếu không tìm ra cái đó, nếu không bắt gặp nó, nếu không thấy sự thật của nó hay sự giả dối của nó, sống trở thành một sự việc trống rỗng, nông cạn. Bạn có lẽ có trật tự hoàn hảo trong chính bạn, bạn có lẽ không có xung đột bởi vì bạn đã trở nên rất tỉnh táo, rất cảnh giác, nhưng tất cả điều đó trở thành hoàn toàn giả dối nếu không có cái khác lạ.

 Vậy là, thiền định, suy ngẫm – không phải trong ý nghĩa Thiên chúa giáo hay ý nghĩa Châu á – có nghĩa sự suy nghĩ vận hành chỉ trong lãnh vực của cái đã được biết và sự suy nghĩ tự nhận ra cho chính nó rằng nó không thể chuyển động vào bất kỳ lãnh vực khác lạ nào. Vì vậy sự kết thúc của suy nghĩ có nghĩa sự kết thúc của thời gian. 

 Từ Bản tin 25, Mùa xuân 1975

Thời gian, Hành động và Sợ hãi

Saanen, Thụy sĩ, ngày 20 tháng 7 năm 1975

 

C

húng ta đang cùng nhau nói chuyện về một đề tài rất nghiêm túc, đó là: liệu có thể có tự do, tự do tổng thể, khỏi những sợ hãi thuộc tâm lý? Muốn thâm nhập nó rất sâu thẳm, người ta phải không những hiểu rõ thời gian là gì, nhưng còn cả hành động là gì, bởi vì hành động nuôi dưỡng sự sợ hãi, được lưu trữ như ký ức, và ký ức đó kiềm hãm, kiểm soát, định hình hành động. Vì vậy, nếu bạn muốn được tự do khỏi sự sợ hãi, bạn phải hiểu rõ rằng sự sợ hãi là thời gian. Nếu không có thời gian, bạn sẽ không có sợ hãi. Tôi không hiểu liệu bạn thấy điều đó? Nếu không có ngày mai, chỉ ngay lúc này, sợ hãi, như một chuyển động của sự suy nghĩ, kết thúc.

 Có thời gian tuần tự cũng như tâm lý. Trong lãnh vực đó chúng ta sống. Trong lãnh vực thuộc chuyển động của sự suy nghĩ như thời gian đó, có hành động, đang hành động như một người Thiên chúa giáo, hay một người Cộng sản, một người xã hội, hay một người Phật giáo, hay một người Ấn giáo, và vân vân, luôn luôn bên trong chuyển động của sự suy nghĩ như thời gian và đo lường. Tôi nghĩ, điều này rõ ràng, vì vậy lúc này chúng ta có thể thâm nhập vào tìm ra cái nguồn của sợ hãi là gì.

 Đang ngồi ở đây, lúc này bạn có lẽ không sợ hãi điều gì cả. Nhưng chắc chắn, trong ý thức của bạn có sợ hãi. Trong tầng ý thức bên trong, hay trong tầng ý thức bên ngoài, có cái sự việc khủng khiếp này được gọi là lo âu, đau khổ, buồn bã, phiền muộn và sợ hãi. Thuộc tâm lý người ta có lẽ sợ hãi về ngày mai, điều gì có lẽ xảy ra hay điều gì có lẽ không đạt được. Liệu sự liên hệ đó mà đã trao tặng sự vui thú nhiều, sự thanh thản nhiều, sẽ tiếp tục, sẽ vĩnh cửu? Hay liệu sẽ có thay đổi? – mà cái trí sợ hãi bởi vì cái trí, bộ não cần đến sự ổn định, cần đến sự an toàn để vận hành. Làm ơn, theo sát điều này. Bộ não sẽ sáng chế bất kỳ kết luận nào bởi vì điều đó trao tặng nó sự an toàn. Nó có lẽ là một kết luận hợp lý hay không hợp lý, một niềm tin ngu xuẩn hay một quan sát hợp lý. Bộ não sẽ bám vào điều này bởi vì chúng trao tặng hành động một ý thức hoàn toàn của sự an toàn.

 Vì vậy, có những sợ hãi, nhận biết được cũng như không nhận biết được, những sợ hãi giấu giếm trong những ngõ ngách của cái trí riêng của người ta, mà đã không bao giờ được tìm hiểu, mà đã không bao giờ được phát giác. Sợ hãi, giống như đau khổ, là một đám mây đen mà gây biến dạng mọi hành động. Nó nuôi dưỡng tuyệt vọng, bi quan, hay hy vọng – tất cả đều không hợp lý. Và sợ hãi là chuyển động của sự suy nghĩ như thời gian, vì vậy nó thực sự, nó không là ảo tưởng.

 Lúc này, vấn đề của chúng ta là làm thế nào một cái trí, làm thế nào bạn, xóa sạch sợ hãi này mà được giấu giếm quá sâu thẳm? Liệu có khi nào nó có thể được xóa sạch? Hay nó luôn luôn hiện diện ở đó, thỉnh thoảng lộ diện khi một khủng hoảng hay một biến cố nào đó xảy ra, khi một thách thức được phơi bày? Hay nó có thể hoàn toàn được gây ra? Chúng ta đã nói rằng sự phân tích là một qui trình của tách rời. Khi cái trí nhận ra rằng phải có sự tự do tổng thể khỏi sợ hãi, một con người sẽ làm gì? Liệu anh ấy sẽ chờ đợi một gợi ý, những dấu hiệu lờ mờ của tầng ý thức bên trong qua những giấc mộng, mất thời gian qua sự phân tích? Nếu bạn loại bỏ tất cả điều đó, không phải trong lý thuết nhưng thực sự loại bỏ nó bởi vì nó không có ý nghĩa, vậy thì tổng thể, toàn cấu trúc của sợ hãi là gì? Nếu cái trí có thể nhìn ngắm, có thể hiểu rõ, tổng thể của sợ hãi, vậy thì tầng ý thức bên trong chẳng quan trọng lắm, vậy thì cái quan trọng hơn xóa sạch cái ít quan trọng hơn. Bạn không thấy điều này hay sao? Chờ một tí.

 Làm ơn, theo sát điều này. Sự suy nghĩ đã sáng chế cái micrô, nhưng cái micrô lại độc lập khỏi sự suy nghĩ đó mà đã sáng chế nó – đúng chứ? Hòn núi không được sáng chế bởi sự suy nghĩ, nó độc lập khỏi sự suy nghĩ. Sợ hãi được sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ. Liệu sự suy nghĩ đó độc lập khỏi sợ hãi? Liệu sợ hãi độc lập khỏi sự suy nghĩ mặc dầu sợ hãi đã sáng chế sự suy nghĩ? Nếu nó độc lập khỏi sự suy nghĩ, như hòn núi, vậy thì sợ hãi đó không bị sáng chế bởi sự suy nghĩ sẽ tiếp tục sống. Nếu nó bị sáng chế bởi sự suy nghĩ, như cái micrô, vậy thì có một nhận biết của toàn chuyển động của sự suy nghĩ như sợ hãi. Liệu điều này chuyển tải bất kỳ điều gì sang bạn?

 Làm thế nào người ta nhận biết tổng thể của bất kỳ việc gì? Tổng thể của sợ hãi, không phải những mảnh vỡ vụn của sợ hãi trong những hình thức khác nhau, cũng không phải sợ hãi của tầng ý thức bên ngoài hoặc tầng ý thức bên trong, nhưng tổng thể của sợ hãi? Làm thế nào tôi nhận biết tổng thể của tôi, ‘cái tôi’ được kết cấu bởi sự suy nghĩ, bị cô lập bởi sự suy nghĩ, bị tách rời bởi sự suy nghĩ, mà trong chính nó là tách rời, để cho nó sáng chế ‘cái tôi’ và nghĩ rằng ‘cái tôi’ độc lập khỏi sự suy nghĩ? ‘Cái tôi’ suy nghĩ nó độc lập khỏi sự suy nghĩ, nhưng sự suy nghĩ đã sáng chế ‘cái tôi’, ‘cái tôi’ cùng tất cả những lo âu, những sợ hãi, những ảo tưởng, những vui thú, những hy vọng của nó. ‘Cái tôi’ đó, bị sáng chế bởi sự suy nghĩ, nghĩ rằng nó có sống riêng của nó, giống như cái micrô được sáng chế bởi sự suy nghĩ và tuy nhiên lại độc lập khỏi sự suy nghĩ. Hòn núi bị sáng chế bởi sự suy nghĩ và tuy nhiên nó lại độc lập. ‘Cái tôi’ bị sáng chế bởi sự suy nghĩ, nói, ‘Tôi độc lập khỏi sự suy nghĩ!’ Lúc này, liệu điều đó rõ ràng?

 Vì vậy, làm thế nào người ta thấy tổng thể của sợ hãi? Muốn thấy cái gì đó tổng thể, hay muốn lắng nghe cái gì đó trọn vẹn, phải có tự do, tự do khỏi thành kiến, tự do khỏi kết luận của bạn, tự do khỏi mong muốn được tự do khỏi sợ hãi của bạn, tự do khỏi giải thích lý luận của sợ hãi, tự do khỏi ham muốn kiểm soát nó. Liệu cái trí có thể được tự do khỏi tất cả điều đó? Ngược lại, nó không thể thấy tổng thể. Liệu người ta có thể nhìn ngắm tất cả những sợ hãi mà người ta có – làm ơn lắng nghe – liệu người ta có thể nhìn ngắm chúng mà không có bất kỳ chuyển động của sự suy nghĩ, mà là thời gian, mà gây ra sợ hãi? Bạn hiểu chứ? Tôi sợ hãi không trở thành cái gì đó bởi vì tôi đã bị giáo dục, bị quy định bởi xã hội mà nói rằng tôi phải là cái gì đó, như một họa sĩ, một kỹ sư, một bác sĩ, một người chính trị, bất kỳ người nào bạn thích, tôi phải là cái gì đó. Và ở đó nảy mầm một trong những hạt giống của sợ hãi. Sau đó, có sợ hãi của sự suy nghĩ không được vĩnh cửu – và sự suy nghĩ không bao giờ có thể vĩnh cửu bởi vì trong chính nó, nó là một mảnh. Sự suy nghĩ không bao giờ có thể thấy tổng thể bởi vì, là một mảnh, nó chỉ có thể quan sát một cách tách rời. Người ta có thể diễn tả những hình thức khác nhau của sợ hãi, mỗi hình thức đều không thể giải đáp được bởi vì chúng bị tách rời bởi sự suy nghĩ. Thế là, người ta hỏi: gốc rễ của sợ hãi là gì? Liệu người ta có thể thấy không những toàn cái cây của sợ hãi nhưng còn cả gốc rễ của sợ hãi?

 Bạn nghĩ cái gì là gốc rễ của sợ hãi, cả tầng ý thức bên ngoài lẫn bên trong? Nếu bạn được thách thức, bạn trả lời như thế nào? Chúng ta đang thách thức bạn. Bạn trả lời như thế nào? Liệu bạn thấy, nhận biết, nguyên nhân tổng thể của cái sự việc được gọi là sợ hãi là gì, hay liệu bạn đang chờ đợi người nào đó chỉ bảo cho bạn, và sau đó chấp nhận nó. Và bạn nói, ‘Vâng, tôi thấy nó’ – mà có nghĩa rằng bạn thực sự không thấy nó. Bạn thấy sự giải thích. Liệu thời gian là gốc rễ của sợ hãi, gốc rễ của thời gian là chuyển động của sự suy nghĩ? Liệu nguồn gốc của sợ hãi không chắc chắn, và vì vậy không ổn định, không an toàn thuộc tâm lý, mà sẽ gây ảnh hưởng hành động của thân thể và thế là xã hội? Nếu có an toàn hoàn toàn thuộc tâm lý, không có sợ hãi. Tôi không hiểu liệu bạn thấy điều này.

 Vì vậy, cái trí tìm được sự an toàn hoàn toàn – tuyệt đối, không phải tương đối, ở đâu? Sự suy nghĩ muốn được an toàn. Bộ não đòi hỏi sự an toàn hoàn toàn bởi vì chỉ đến lúc đó nó mới có thể vận hành một cách hợp lý. Vì vậy, nó đã tìm kiếm sự an toàn trong hiểu biết, trong khoa học, trong liên hệ, trong Giáo hội, trong những kết luận và nó đã không tìm được an toàn trong bất kỳ những thứ này. Lúc này, bạn tìm được nó ở đâu? Liệu nó ở ngoài đó? Hay nơi nào khác? Chúng ta đang cùng nhau học hành sự vô lý của an toàn trong những chiếu rọi của sự suy nghĩ, dù nó là bất kỳ điều gì. Tôi muốn học hành tìm được an toàn tuyệt đối ở đâu – nếu người ta có an toàn đó, toàn vấn đề của sợ hãi kết thúc, sợ hãi tổng thể, cả thuộc thần kinh cơ thể lẫn thuộc tâm lý.

 Những cái trí của chúng ta luôn luôn năng động, đang theo đuổi một suy nghĩ kế tiếp một suy nghĩ. Trong sự chuyển động của sự suy nghĩ của chúng, những cái trí của chúng ta có những khoảng trống giữa những suy nghĩ, một khoảng ngừng, một khoảng ngừng thời gian. Và sự suy nghĩ luôn luôn cố gắng tìm ra một phương tiện nơi nó có thể trú ngụ, trú ngụ trong ý nghĩa của giam cầm. Điều gì sự suy nghĩ sáng chế, bởi vì tách rời, là không-an toàn tổng thể. Tôi không hiểu liệu bạn thấy điều này? Vì vậy, có sự an toàn tuyệt đối trong hoàn toàn không là gì cả – mà có nghĩa không là một việc bị sáng chế bởi sự suy nghĩ. Tuyệt đối không là gì cả, có nghĩa một mâu thuẫn tổng thể của mọi thứ mà bạn đã học hành, mọi thứ mà sự suy nghĩ đã sắp xếp vào chung. Không là một vật. Nếu bạn không là gì cả, bạn có sự an toàn tuyệt đối. Chỉ trong đang trở thành, đang mong muốn, đang khao khát, đang theo đuổi mới có không-an toàn.

 Vì vậy, thấy bản chất của thời gian, mà là chuyển động của sự suy nghĩ, tách khỏi thời gian tuần tự; thấy tổng thể bản chất của sợ hãi như sự chuyển động của sự suy nghĩ – như sự thành tựu của một ý tưởng, hay như đang sống trong quá khứ, trong quá khứ tình cảm, lãng mạn, ngu xuẩn, hay như đang sống trong hiểu biết, mà cũng là tách rời – chúng ta thấy rằng hành động luôn luôn tách rời, không bao giờ trọn vẹn. Hành động có nghĩa hành động ngay lúc này, và việc đó chỉ có thể xảy ra khi có sự an toàn tuyệt đối. Sự an toàn mà sự suy nghĩ đã sáng chế là không an toàn. Đó là một sự thật tuyệt đối. Và sự thật tuyệt đối là khi không có gì cả, khi bạn không là gì cả. Bạn biết không là gì cả có nghĩa gì? Không tham vọng – mà không có nghĩa bạn như cây cỏ – không ganh đua, không hung hăng, không kháng cự, không những rào cản được dựng lên bởi sự tổn thương. Bạn tuyệt đối không là gì cả. Vậy thì, điều gì xảy ra cho những liên hệ của chúng ta khi chúng ta không là gì cả? Bạn hiểu chứ? Lúc đó, có liên hệ với một người khác là gì? Có khi nào bạn suy nghĩ về tất cả điều này? Hay nó mới mẻ đến mức kinh hoàng?

 Sự liên hệ của chúng ta không bao giờ ổn định, và vì vậy nó là một trận chiến liên tục, phân chia liên tục, mỗi người đang tìm kiếm những theo đuổi riêng của anh ấy, những thưởng thức riêng của anh ấy, cô lập. Sự liên hệ đó, bởi vì không an toàn, chắc chắn phải tạo ra sự phân chia và thế là xung đột – đúng chứ? Khi trong sự liên hệ đó có sự an toàn tuyệt đối, không có xung đột. Nhưng bạn có lẽ tuyệt đối không là gì cả, và tôi có lẽ không. Nếu bạn không là gì cả, thuộc tâm lý, phía bên trong; nếu bạn an toàn tuyệt đối bởi vì không có gì cả, nhưng tôi vẫn còn không an toàn, đang đấu tranh, đang cãi cọ, đang hoang mang, điều gì xảy ra? Sự liên hệ giữa bạn và tôi là gì? Không là gì cả của bạn không là sự bền vững bị sáng chế bởi sự suy nghĩ, không là sự bền vững của cái người mà nói, ‘Tôi tin tưởng điều đó.’ Và thiết lập sự liên hệ của anh ấy trong một niềm tin, một tình trạng bị quy định, mà nuôi dưỡng sợ hãi và vì vậy phân chia. Và điều đó luôn luôn đang xảy ra, bạn hiểu chứ? Ở đây nó hoàn toàn khác hẳn. Bạn đã nhận biết, đã nhận ra, đã hiểu rõ, đã thấy sự thật rằng trong trống không này có an toàn tuyệt đối. Và tôi lại không. Điều gì xảy ra giữa bạn và tôi? Bạn có ân cần, tình yêu, từ bi được sinh ra từ sự ổn định không thể lay động được lạ thường này, và tôi, người bạn của bạn, người vợ của bạn, người chồng của bạn, không có. Điều gì xảy ra? Phỉnh phờ tôi, nói chuyện với tôi, gây thanh thản cho tôi, bảo cho tôi rằng tôi dốt nát ra sao? Bạn sẽ làm gì?

 Lúc này, quan sát nó một cách khác. Có khoảng 1.500 người chúng ta trong cái lều này, và một số người trong các bạn, ít ra tôi hy vọng như thế, đã lắng nghe rất cẩn thận, đã trao chú ý, ân cần, tình yêu của bạn, và bạn nhận ra rằng bạn là thế giới và thế giới là bạn – không phải bằng từ ngữ, nhưng thật sâu thẳm thấy sự thật của nó. Bạn nhận ra điều đó và thấy trách nhiệm tức khắc và quan trọng phải thay đổi một cách cơ bản bởi vì bạn đã lắng nghe, không tranh luận, không bám chặt quan điểm; bạn thấy sự thật của nó. Và khi có sự thay đổi cơ bản của nó, lúc đó sự liên hệ của bạn với thế giới là gì? Nó là cùng nghi vấn, bạn hiểu chứ? Bạn làm gì? Bạn chờ đợi cái gì đó xảy ra? Nếu bạn chờ đợi cái gì đó xảy ra, vậy thì không thứ gì sẽ xảy ra.

 Nhưng nếu bạn thực sự thấy sự thật rằng bạn là thế giới và thế giới là bạn, và bạn thấy sự quan trọng lạ thường của một thay đổi cơ bản trong chính bạn, vậy thì bạn gây ảnh hưởng toàn ý thức của thế giới – nó là điều hiển nhiên. Và nếu bạn tuyệt đối, hoàn toàn được an toàn – trong ý nghĩa mà chúng ta đang nói – liệu bạn sẽ không gây ảnh hưởng tôi – tôi người mà hỗn loạn, tuyệt vọng, bám chặt, quyến luyến – liệu bạn sẽ không gây ảnh hưởng tôi? Chắc chắn, bạn sẽ. Nhưng điều quan trọng là rằng bạn, đang lắng nghe, thấy sự thật của điều này. Vậy thì nó là của bạn, không phải điều gì đó được trao cho bạn bởi bất kỳ ai khác. 

 Từ Bản tin 26, 1975

Liệu có một ý nghĩa đối với sống?

Brockwood Park, ngày 5 tháng 9 năm 1976

 

T

ôi nghĩ chúng ta nên cùng nhau nói chuyện về điều gì đó mà có sự quan trọng cốt lõi, mà mọi con người nên quan tâm, bởi vì nó liên quan đến sống của chúng ta, hoạt động hàng ngày của chúng ta, cách chúng ta lãng phí những ngày và những năm của chúng ta. Tất cả nó có ích lợi gi? Sống như thế để làm gì? Chúng ta sinh ra và chết đi, và suốt những năm tháng của đau khổ và phiền muộn, hân hoan và vui thú, có sự đấu tranh và nỗ lực liên tục, đi đến văn phòng hay cơ xưởng suốt bốn mươi hay năm mươi năm, cố gắng leo lên bậc thang của sự thành công, tích lũy tiền bạc, vui thú, trải nghiệm, hiểu biết, và cuối cùng chết. Vài người khoa học nói rằng qua sự hiểu biết có được sự thăng hoa của con người. Liệu đó là như thế? Chúng ta có một số lượng vô hạn của hiểu biết về nhiều lãnh vực – sinh học, khảo cổ học, lịch sử học và vân vân – nhưng chắc chắn hiểu biết đã không thay đổi con người một cách cơ bản, sâu thẳm; cùng xung đột, đấu tranh, đau khổ, vui thú, trận chiến liên tục cho sự sống còn đang xảy ra.

 Khi thấy tất cả việc này đang tiếp tục trong mọi quốc gia và trong mọi khía cạnh, tất cả việc đó vì mục đích gì? Rất dễ dàng để trả lời bằng một giải thích loạn thần kinh, lãng mạn, cảm tính, hay bằng một giải thích thuộc trí năng, lý luận. Nhưng nếu bạn gạt đi tất cả những điều này bởi vì quá hời hợt, dù có trí năng đến chừng nào, tôi nghĩ đây là một nghi vấn rất quan trọng phải đặt ra – rất quan trọng phải đặt ra và tìm ra một đáp án cho chính người ta, không phụ thuộc vào giáo sĩ nào, đạo sư nào, hay triết lý nào, không khẳng định bất kỳ điều gì, không tin tưởng bất kỳ thứ gì, không có bất kỳ lý tưởng gì, nhưng chỉ đang quan sát rất sâu thẳm. Ngược lại chúng ta sống một sống máy móc. Những bộ não của chúng ta đã quá quen thuộc bởi một cách sống máy móc; bộ phận của bộ não này phải máy móc, nhất thiết phải như thế, trong sự thâu lượm của hiểu biết và sử dụng khéo léo hiểu biết đó trong mọi khía cạnh của sống, trong mọi hành động phía bên ngoài, thuộc công nghệ. Nhưng hiểu biết này mà người ta đã thâu lượm – và chúng ta có thể chồng chất hiểu biết mỗi lúc một nhiều thêm – không giải đáp nghi vấn cơ bản: ý nghĩa, chiều sâu của sống của chúng ta là gì?

 Người ta thấy rằng phải có sự hợp nhất hoàn toàn của nhân loại, bởi vì đó là phương cách duy nhất mà chủng tộc con người sẽ sống sót thuộc thân thể, thuộc sinh học. Những người chính trị sẽ không giải quyết được vấn đề đó – vĩnh viễn! Trái lại, họ sẽ duy trì những phân chia – nó trao tặng nhiều lợi lộc. Phải có sự hợp nhất của tất cả con người, đó là cốt lõi cho sự tồn tại, nhưng nó không thể được tạo ra qua lập pháp, qua những giáo điều quan liêu, những luật pháp và mọi chuyện còn lại của nó. Vì vậy, khi người ta quan sát tất cả điều này như một con người đang sống trong sự hỗn loạn của một thế giới mà hầu như đã trở thành điên khùng – buôn bán vũ khí để kiếm lời, giết chết những con người nhân danh những ý tưởng, những quốc gia, Thượng đế và vân vân – người ta sẽ làm gì? Và tất cả nó vì mục đích gì?

 Những tôn giáo đã cố gắng trao tặng ý nghĩa của sống – đó là, những tôn giáo có tổ chức, tuyên truyền, lễ nghi. Nhưng bất kể 2.000 năm hay 10.000 năm, con người đã chỉ khẳng định những nguyên tắc nào đó, những lý tưởng nào đó, những kết luận nào đó; tất cả đều hời hợt, thuộc từ ngữ, không thực tế. Vì vậy, tôi nghĩ phải khám phá một ý nghĩa cho chính người ta là điều rất quan trọng, nếu người ta có sự nghiêm túc – và người ta phải nghiêm túc, ngược lại người ta thực sự không sống gì cả, mà không có nghĩa người ta không bao giờ cười đùa hay vui vẻ – nghiêm túc trong ý nghĩa của một cam kết toàn bộ đến chủ đề tổng thể của sự sống. Vì vậy, khi chúng ta hỏi ý nghĩa của sống là gì, chúng ta bị đối diện với sự kiện rằng bộ não của chúng ta bị trói buộc trong một khe rãnh, bị trói buộc trong thói quen, trong truyền thống, trong tình trạng bị quy định của giáo dục của chúng ta, chỉ đang vun đắp hiểu biết, thông tin, và thế là khiến cho nó mỗi lúc một máy móc hơn.

 Nếu chúng ta thâm nhập điều này rất sâu thẳm, phải có sự nghi ngờ vô cùng. Nghi ngờ, ngờ vực là cốt lõi, bởi vì chúng mang lại một chất lượng nào đó của sự tự do cho cái trí qua sự phủ nhận mọi thứ mà con người đã sắp xếp vào chung – những tôn giáo, những niềm tin, những nghi lễ, những giáo điều của anh ấy mà tất cả đều là những chuyển động của sự suy nghĩ. Sự suy nghĩ là một qui trình vật chất, bởi vì ngay cả những người khoa học đã đồng ý. Nhưng sự suy nghĩ đã không giải quyết được những vấn đề của chúng ta, nó đã không thể tự thâm nhập sâu thẳm vào chính nó; bởi vì chính nó là một mảnh, nó chỉ đập vỡ tất cả tồn tại thành những mảnh. Vì vậy, có chất lượng này của bộ não mà là máy móc, và chắc chắn là như thế trong những khu vực nào đó, nhưng phía bên trong, trong cấu trúc tâm lý của cái trí con người, không có tự do. Nó bị quy định, nó bị trói buộc bởi niềm tin, bởi tạm gọi là những lý tưởng, bởi sự trung thành. Thế là, khi người ta nghi ngờ tất cả điều đó, quẳng đi tất cả – không phải lý thuyết nhưng thực sự, kỹ càng – vậy thì, còn lại cái gì? Người ta sợ hãi thực hiện điều đó bởi vì người ta tự nói với mình, ‘Nếu tôi phủ nhận mọi thứ mà sự suy nghĩ đã sắp xếp vào chung, còn lại cái gì?’ Khi người ta nhận ra bản chất của sự suy nghĩ – mà là một qui trình máy móc của thời gian, sự đo lường, sự phản hồi của ký ức, một qui trình mà mang lại mỗi lúc một đau khổ hơn, lo âu hơn và sợ hãi hơn cho con người – và vượt khỏi, phủ nhận nó, vậy thì còn lại cái gì ở đó?

 Muốn tìm ra còn lại cái gì ở đó chúng ta phải bắt đầu cùng sự tự do bởi vì tự do là bước đầu tiên và bước cuối cùng. Nếu không có tự do – không phải tự do để chọn lựa – con người chỉ là một cái máy. Chúng ta nghĩ rằng qua sự chọn lựa chúng ta được tự do, nhưng sự chọn lựa hiện diện chỉ khi nào cái trí bị hoang mang. Không có sự chọn lựa khi cái trí được rõ ràng. Khi bạn thấy những sự việc rất rõ ràng mà không có bất kỳ biến dạng nào, mà không có bất kỳ ảo tưởng nào, vậy thì không có sự chọn lựa. Một cái trí không chọn lựa là một cái trí tự do, nhưng một cái trí mà chọn lựa và vì vậy thiết lập một chuỗi những xung đột và những mâu thuẫn không bao giờ được tự do bởi vì nó bị hoang mang, bị tách rời, bị vỡ vụn trong chính nó.

 Vì vậy, muốn thâm nhập trong bất kỳ lãnh vực nào phải có sự tự do, tự do tìm hiểu để cho trong chính sự tìm hiểu không có sự biến dạng. Khi có sự biến dạng, có một động cơ phía sau sự biến dạng đó, một động cơ để tìm ra một đáp án, một động cơ để đạt được một ham muốn, một giải đáp cho những vấn đề của chúng ta, một động cơ mà có lẽ được đặt nền tảng trên sự trải nghiệm quá khứ, sự hiểu biết quá khứ – và tất cả hiểu biết đều là quá khứ. Bất kỳ nơi nào có một động cơ phải có sự biến dạng. Vì vậy, liệu cái trí có thể được tự do khỏi sự biến dạng? Và tìm hiểu cái trí của chúng ta là tìm hiểu cái trí chung của chúng ta, bởi vì nội dung của ý thức của chúng ta là giống hệt như ý thức của tất cả những con người, mà, dù họ sống bất kỳ nơi nào, đều trải qua toàn qui trình của sợ hãi, phiền muộn, hành hạ, lo âu và xung đột vô tận cả phía bên trong lẫn phía bên ngoài. Đó là ý thức chung của nhân loại.

 Vì vậy, khi bạn tìm hiểu ý thức riêng của bạn, bạn đang tìm hiểu ý thức của con người, và vì vậy nó không là một tìm hiểu thuộc cá nhân, riêng tư. Ngược lại, bạn đang tìm hiểu ý thức của thế giới – mà là bạn. Và đây là một sự kiện khi bạn thâm nhập nó rất sâu thẳm. Muốn có một cái trí tự do cần đến một đòi hỏi lạ thường; nó đòi hỏi rằng bạn, như một con người phải hoàn toàn cam kết đến sự thay đổi của nội dung của ý thức, bởi vì nội dung tạo ra ý thức. Và chúng ta quan tâm đến sự thay đổi, cùng sự cách mạng tổng thể thuộc tâm lý của ý thức này. Muốn thâm nhập điều này bạn cần năng lượng vô hạn, một năng lượng hiện diện khi không có sự hao tán của năng lượng. Người ta hao tán năng lượng qua cố gắng khuất phục ‘cái gì là’, phủ nhận hay lẩn tránh ‘cái gì là’, hay phân tích ‘cái gì là’, bởi vì người phân tích là vật được phân tích, người phân tích không khác biệt điều mà anh ấy phân tích. Như chúng ta đã nói suốt nhiều nói chuyện này qua nhiều năm, đây là một sự thật cốt lõi.

 Chúng ta đang hỏi ý nghĩa và sự quan trọng của sống là gì, và liệu có bất kỳ ý nghĩa nào không. Nếu bạn nói có, bạn đã cam kết mình đến điều gì đó, vì vậy bạn không thể thâm nhập, bạn đã bắt đầu cùng sự biến dạng. Trong cùng cách nếu bạn nói không có ý nghĩa gì với sống, đó cũng là một hình thức khác của sự biến dạng. Vì vậy, người ta phải hoàn toàn được tự do khỏi cả hai điều, những khẳng định tích cực và tiêu cực. Và đây là sự khởi đầu thực sự của thiền định. Sự phát triển như nấm của những đạo sư từ Ấn độ mà đang tung hoành khắp thế giới đã cung cấp nhiều ý nghĩa cho từ ngữ đó. Có thiền định thăng hoa – và tôi ao ước họ đã không sử dụng từ ngữ đáng yêu đó – mà là sự lặp lại của những từ ngữ nào đó – được trao tặng tại một giá cả nào đó! – ba lần một ngày trong hai mươi phút mỗi lần. Sự lặp lại liên tục của bất kỳ những từ ngữ nào chắc chắn sẽ trao tặng bạn một chất lượng của yên lặng, bởi vì bạn đã thâu gọn cái trí đến một trạng thái yên lặng thuộc máy móc. Nhưng công việc đó không thăng hoa hơn bất kỳ thứ gì khác. Và qua công việc này chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ trải nghiệm cái gì đó vượt khỏi qui trình máy móc của sự suy nghĩ.

 Con người tìm kiếm sự trải nghiệm ngoài sự trải nghiệm thông thường hàng ngày. Chúng ta bị nhàm chán, hay mệt mỏi bởi tất cả trải nghiệm chúng ta đã có về sống, và chúng ta hy vọng có được trải nghiệm nào đó mà không là sản phẩm của sự suy nghĩ. Từ ngữ trải nghiệm có nghĩa ‘đi qua’, đi qua mọi thứ và kết thúc nó, không phải ghi nhớ nó và mang theo nó. Nhưng chúng ta không thực hiện việc đó. Muốn công nhận một trải nghiệm bạn phải biết nó rồi; nó không là cái gì đó mới mẻ. Vì vậy, một cái trí mà đòi hỏi sự trải nghiệm, khác hơn sự trải nghiệm thuần túy thuộc tâm lý, thuộc thân thể, đòi hỏi cái gì đó còn lớn lao hơn và vượt khỏi tất cả việc này, sẽ trải nghiệm sự chiếu rọi riêng của nó, và vì vậy nó sẽ vẫn còn thuộc máy móc, thuộc vật chất, sản phẩm của sự suy nghĩ. Khi bạn không đòi hỏi bất kỳ sự trải nghiệm nào, khi bạn đã hiểu rõ toàn ý nghĩa của sự ham muốn, mà, như chúng ta đã giải thích nhiều lần, là cảm xúc, cùng sự suy nghĩ và hình ảnh của nó – vậy thì, không có sự biến dạng và sự ảo tưởng. Chỉ đến lúc đó, cái trí, toàn cấu trúc của ý thức được tự do, mới có thể nhìn ngắm được chính nó mà không có bất kỳ chuyển động của sự biến dạng, mà không có nỗ lực? Sự biến dạng xảy ra khi có nỗ lực – đúng chứ? Nỗ lực hàm ý ‘cái tôi’ và cái gì đó mà tôi sẽ đạt được, sự phân chia giữa tôi và cái đó. Sự phân chia luôn luôn mang lại sự xung đột. Thiền định hiện diện chỉ khi nào có được sự kết thúc tuyệt đối của sự xung đột. Vậy là, mọi hình thức của thiền định nơi nào có nỗ lực, luyện tập, kiểm soát, đều không có ý nghĩa. Làm ơn, đừng chấp nhận điều gì người nói đang trình bày. Chúng ta đang cùng nhau thâm nhập, vì vậy rất quan trọng phải không chấp nhận điều gì đang được trình bày nhưng tự thâm nhập nó cho chính bạn.

 Vậy là, chúng ta phải thâm nhập nghi vấn của sự kiểm soát. Từ niên thiếu chúng ta được giáo dục để kiểm soát – toàn qui trình của kiểm soát những cảm thấy của chúng ta. Trong sự kiểm soát có người kiểm soát và vật được kiểm soát, người quan sát mà nghĩ rằng anh ấy khác biệt cái mà anh ấy ham muốn kiểm soát. Thế là, anh ấy đã tự phân chia chính anh ấy, vì vậy luôn luôn có sự xung đột. Đó là, một mảnh của sự suy nghĩ tự nói với chính nó, ‘Tôi phải kiểm soát những mảnh khác của sự suy nghĩ’, nhưng chính suy nghĩ mà nói điều đó lại là một mảnh của sự suy nghĩ. Người kiểm soát là vật được kiểm soát, người trải nghiệm là vật được trải nghiệm, chúng không là hai thực thể hay hai chuyển động khác biệt. Người suy nghĩ là sự suy nghĩ; không có người suy nghĩ nếu không có sự suy nghĩ. Điều này rất quan trọng bởi vì khi điều này được nhận ra một cách trọn vẹn, sâu thẳm, không bằng từ ngữ, không bằng lý thuyết, nhưng thực sự, sự xung đột kết thúc. Khi người ta nhận ra điều này sâu thẳm như sự thật, như một luật lệ, vậy thì tất cả nỗ lực kết thúc, và thiền định chỉ có thể hiện diện khi không có nỗ lực của bất kỳ loại nào.

 Rất cần thiết phải thiền định để tìm ra liệu có bất kỳ ý nghĩa nào đối với sống. Và thiền định cũng là đặt nền tảng của sự cư xử đúng đắn, đúng đắn trong ý nghĩa của chính xác, không phụ thuộc một lý tưởng, không phụ thuộc một khuôn mẫu, không phụ thuộc bất kỳ công thức nào, nhưng hành động mà xảy ra khi có sự quan sát trọn vẹn của điều gì đang xảy ra trong chính người ta. Và qua thiền định chúng ta phải thiết lập sự liên hệ đúng đắn giữa những con người, mà có nghĩa sự liên hệ không xung đột. Sự xung đột hiện diện khi có sự phân chia giữa hai hình ảnh, mà chúng ta đã bàn luận nhiều, hình ảnh mà bạn có về một người khác và một người khác có về bạn. Và trong thiền định phải không có sợ hãi thuộc tâm lý nào cả, và vì vậy sự kết thúc của đau khổ, và phải có điều gì mà trước khi chúng ta đã nói chuyện: từ bi và tình yêu. Đó là cơ bản, nền tảng của thiền định. Nếu không có nó, bạn có thể ngồi dưới cái cây trong suốt phần còn lại thuộc sống của bạn, hít thở đúng cách – bạn biết thừa tất cả những ranh mãnh mà người ta đùa giỡn – không thứ nào trong những ranh mãnh này sẽ giúp đỡ.

 Vì vậy, khi thực sự, sâu thẳm, bạn đã thiết lập một cách sống – mà trong chính nó không là một kết thúc, nhưng chỉ khởi đầu – vậy thì chúng ta có thể thâm nhập để tìm ra liệu cái trí, mà là tổng thể, bộ não, toàn ý thức, có thể yên lặng mà không có bất kỳ sự biến dạng nào. Chỉ khi nào cái trí yên lặng, bất động, bạn mới có thể nghe một cách đúng đắn. Có những loại khác nhau của yên lặng: sự yên lặng giữa hai tiếng ồn, sự yên lặng giữa hai suy nghĩ, sự yên lặng sau một trận chiến lâu dài cùng chính người ta, sự yên lặng giữa hai chiến tranh, mà bạn gọi là hòa bình. Tất cả những yên lặng đó là sản phẩm của sự nhiễu loạn. Đó không là yên lặng. Có một yên lặng mà không được sinh ra hay được vun quén, để cho không có ‘cái tôi’ quan sát yên lặng đó, nhưng chỉ có yên lặng, bất động.

 Chúng ta bắt đầu bằng nghi vấn: liệu có bất kỳ ý nghĩa nào đối với sống, hay không ý nghĩa gì cả? Trong yên lặng đó, thật ra bạn không đặt ra nghi vấn đó; chúng ta đã chuẩn bị cánh đồng của cái trí để có thể tìm ra. Tuy nhiên chúng ta phải tìm ra một đáp án. Chúng ta sẽ tìm ra đáp án ở đâu, và ai sẽ trả lời nó? Liệu tôi, một con người, sẽ trả lời nó? Hay, trong chính sự bất động đó là đáp án? Đó là, khi không có sự biến dạng qua động cơ, qua nỗ lực, qua một đòi hỏi cho trải nghiệm, qua sự phân chia đó giữa người quan sát và vật được quan sát, người suy nghĩ và suy nghĩ, không có sự lãng phí của năng lượng. Lúc này, trong sự bất động đó có năng lượng mãnh liệt hơn, và phải có năng lượng đó, sinh lực đó, sức mạnh đó để thấy vượt khỏi những từ ngữ. Bởi vì từ ngữ không là sự việc, sự diễn tả không là vật được diễn tả. Muốn đi đến mặt trăng, muốn tạo ra một dụng cụ có một triệu bộ phận, cần đến một năng lượng khủng khiếp và sự đồng-hợp tác của 300.000 người để sắp xếp vật đó vào chung. Nhưng năng lượng đó hoàn toàn khác biệt năng lượng mà chúng ta đang đề cập.

 Bạn thấy, người nói rất nghiêm túc về tất cả điều này. Ông ta đã nói chuyện suốt năm mươi năm và nhiều hơn nữa về đề tài này, và bởi vì hầu hết những cái trí đều bị trói buộc trong những khe rãnh, sâu hay nông, người ta liên tục đang nhìn ngắm để thấy liệu bộ não hình thành một khe rãnh và cảm thấy an toàn trong khe rãnh đó và ở lại đó, bởi vì nếu người ta ở lại trong một khe rãnh, dù đẹp đẽ đến chừng nào, dù dễ chịu đến chừng nào, dù thanh thản đến chừng nào, vậy thì cái trí trở thành máy móc, lặp lại, và thế là mất đi chiều sâu của nó, vẻ đẹp của nó. Vì vậy, chúng ta đang hỏi: liệu sự bất động là máy móc, một sản phẩm của sự suy nghĩ mà nói, ‘Phải có cái gì đó vượt khỏi tôi, và muốn tìm ra điều đó tôi phải yên lặng, tôi phải tự kiểm soát chính mình, tôi phải khuất phục mọi thứ để tìm ra’? Đó vẫn còn là chuyển động của sự suy nghĩ, đúng chứ? Thế là, chúng ta phải hiểu rõ sự khác biệt giữa tập trung, nhận biết và chú ý.

 Tập trung hàm ý sự tập hợp năng lượng của người ta trong một phương hướng đặc biệt và loại trừ tất cả những phương hướng khác, thiết lập một bức tường cản lại tất cả những thứ khác, đang kháng cự. Nhận biết khá đơn giản – nếu bạn không khiến cho nó phức tạp. Muốn nhận biết mọi thứ quanh bạn, chỉ cần quan sát. Vậy thì có chú ý. Chú ý hàm ý rằng không có trung tâm từ đó bạn đang chú ý. Trung tâm là ‘cái tôi’, và nếu bạn nhận biết từ trung tâm đó, vậy thì chú ý của bạn bị giới hạn. Trung tâm tồn tại khi có sự chọn lựa, và khi có sự chọn lựa luôn luôn có ‘cái tôi’, trải nghiệm của tôi, hiểu biết của tôi – tôi tách rời bạn.

 Lúc này, điều gì chúng ta đang nói là sự chú ý mà trong nó không có trung tâm. Lúc này, nếu bạn chú ý trong cách đó, khi bạn đang ngồi ở đó, bạn sẽ thấy rằng chú ý của bạn rất rộng lớn, không có biên giới, đến độ toàn cái trí của bạn, mọi thứ, đều hoàn toàn chú ý, không chọn lựa và thế là không trung tâm, không ‘cái tôi’ mà nói, ‘Tôi đang chú ý.’ Trong chú ý đó, có sự bất động, sự yên lặng mà chứa đựng năng lượng không còn bị hao tán nữa. Chỉ một cái trí như thế mới có thể tìm ra đáp án, mới có thể khám phá – bất hạnh thay, nếu tôi diễn tả nó, nó trở thành không thực sự – cái gì đó vượt khỏi tất cả lao dịch này, tất cả đau khổ này. Nếu bạn trao toàn năng lượng của bạn, thời gian, khả năng đến điều này, bạn không còn sống một sống vô nghĩa, nông cạn nữa. Và tổng thể của cái này là thiền định, từ khởi đầu sang kết thúc. 

 Từ Bản tin 35, 1978

Một cái trí bất động

Saanen, Thụy sĩ, ngày 22 tháng 7 năm 1979

 

C

ó khi nào bạn nhận thấy rằng những cái trí của chúng ta hiếm khi nào yên lặng lắm? Chúng ta hiếm khi nào có một cái trí tự do, không có bất kỳ vấn đề nào hay, khi có những vấn đề, có thể quẳng nó đi trong chốc lát. Có khi nào bạn đã có một cái trí không bị tắt nghẽn, không đang căng ra, không đang tìm kiếm bất kỳ thứ gì, nhưng tuyệt đối bất động và đang quan sát, không những điều gì đang xảy ra trong thế giới nhưng còn cả điều gì đang xảy ra trong thế giới của sự tồn tại phía bên trong riêng của những thái độ và những lao dịch riêng của người ta – chỉ đang quan sát? Hay liệu bạn luôn luôn đang tìm kiếm, đang sục sạo, đang hỏi han, đang phân tích, đang đòi hỏi, đang cố gắng đạt được, đang cố gắng theo sau người nào đó, ý tưởng nào đó hay điều gì khác, hay đang cố gắng thiết lập một liên hệ tốt đẹp cùng một người khác? Tại sao lại có đấu tranh, xung đột, và tìm kiếm liên tục này? Bạn đi đến Ấn độ đang tìm kiếm cái gì đó lạ thường mà bạn nghĩ sẽ xảy ra khi bạn đến đó. Theo sau người nào đó mà bảo bạn nhảy múa, ca hát hay làm bất kỳ điều gì bạn muốn. Có những người cố gắng ép buộc bạn phải thiền định trong một khuôn mẫu nào đó, chấp nhận uy quyền, thực hiện những nghi thức nào đó, reo hò khi bạn ưa thích và vân vân. Tại sao bạn đang làm tất cả điều này? Sự khao khát không ngớt của bạn là gì? Bạn đang tìm kiếm cái gì?

 Vẫn ở nguyên trong ngôi nhà riêng của người ta, hay dạo bộ một mình, liệu người ta có thể hỏi tại sao lại có sự khao khát không ngớt này? Chúng ta đã nói nhiều về sợ hãi, và về đau khổ và vui thú; chúng ta cũng đã nói nhiều về thông minh, tình yêu và từ bi. Chúng ta đã vạch rõ rằng nếu không có thông minh không thể có tình yêu hay từ bi. Chúng theo cùng nhau. Không phải sự thông minh của những quyển sách, sự sáng chế ranh mãnh của sự suy nghĩ, cũng không phải sự thông minh của cái trí rất tinh tế, lanh lợi; nhưng sự thông minh mà nhận biết một cách trực tiếp điều gì là giả dối, điều gì là nguy hiểm, và đang nhận biết, ngay tức khắc buông bỏ nó. Một chất lượng của cái trí như thế là thông minh.

 Có lẽ chúng ta có thể cùng nhau nói chuyện về bản chất của thiền định và xem thử liệu có bất kỳ thứ gì trong sống – không chỉ trong những hoạt động thuộc vật chất và những sở hữu, tiền bạc, tình dục, cảm xúc thuộc vật chất, nhưng còn vượt khỏi tất cả điều đó – cái thực sự là thiêng liêng, không phải được sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ; thực sự, cho chính chúng ta, có lẽ qua thiền định, được tự do khỏi tất cả ảo tưởng, dối gạt và đang suy nghĩ rất chân thật, tìm ra liệu có cái gì đó thiêng liêng.

 Hầu hết mọi người đều có vô số trải nghiệm, không chỉ những trải nghiệm thuộc giác quan nhưng còn cả những biến cố mà đã tạo ra những chuyển động thuộc cảm xúc, cảm tính và lãng mạn. Những trải nghiệm này mà người ta đã có đều rất nhỏ nhen; có lẽ tất cả những trải nghiệm đều rất nhỏ nhen. Khi người ta bắt đầu thâm nhập cái gì đó mà tất cả chúng ta đang tìm kiếm, đang mong muốn, đang ao ước, liệu nó không là một trải nghiệm hời hợt, thuần túy thuộc giác quan, cái gì đó mà sự ham muốn tìm kiếm, mà chắc chắn phải khá hời hợt, hay sao? Liệu chúng ta có thể, trong cùng nhau suy nghĩ điều này, chuyển động từ những hời hợt đến một thâm nhập rộng rãi hơn, sâu thẳm hơn? Đó là, tìm ra liệu tất cả những ao ước chỉ thuần túy thuộc giác quan và hời hợt; hay ao ước, tìm kiếm, khao khát cho cái gì đó, vượt khỏi tất cả điều đó?

 Làm thế nào bạn thâm nhập điều này? Qua sự phân tích? Sự phân tích vẫn còn là cùng chuyển động của sự suy nghĩ, đang quan sát trở lại. Thuộc phân tích, sự suy nghĩ tìm hiểu về chính nó và những trải nghiệm riêng của nó; sự tìm hiểu vẫn còn bị giới hạn bởi vì chính sự suy nghĩ bị giới hạn. Điều đó rõ ràng. Nhưng đó là dụng cụ duy nhất mà chúng ta có và chúng ta tiếp tục sử dụng cùng dụng cụ, khi biết rằng nó bị giới hạn, khi biết rằng nó không thể giải quyết được vấn đề hay có thể thâm nhập sâu thẳm hơn. Chúng ta không bao giờ nhận ra, tôi nghĩ, rằng dụng cụ này, không thể giải quyết được vấn đề. Dường như chúng ta không thể quẳng nó đi.

 Sự suy nghĩ đã tạo ra thế giới thuộc công nghệ. Sự suy nghĩ đã tạo ra tất cả những phân chia trong thế giới; không chỉ những phân chia quốc gia, nhưng còn cả những phân chia thuộc tôn giáo, những phân chia thuộc học thuyết và mọi hình thức của phân chia giữa hai con người, dù họ nghĩ rằng họ thương yêu nhau nhiều bao nhiêu. Sự suy nghĩ đó, trong hoạt động của nó, vì bị giới hạn, vì là kết quả của quá khứ, chắc chắn phải tạo ra sự phân chia và thế là sự giới hạn. Sự suy nghĩ không bao giờ có thể thấy tổng thể. Liệu hoạt động như thế có hời hợt? Hay liệu sự suy nghĩ, cùng sự giới hạn của nó, có thể thâm nhập sâu thẳm hơn?

 Liệu sự quan sát là dụng cụ của sự suy nghĩ? Quan sát: liệu nó liên quan đến chuyển động của sự suy nghĩ? Bạn có lẽ quan sát, sau đó hình dung và sáng chế qua sự quan sát đó. Sáng chế đó, nảy sinh từ sự quan sát đó, là chuyển động của sự suy nghĩ. Người ta thấy một màu sắc; có sự quan sát đơn giản về nó; tiếp theo phản ứng của ưa thích hay không ưa thích, thành kiến và vân vân, chuyển động của sự suy nghĩ. Liệu người ta có thể quan sát mà không có bất kỳ chuyển động nào của sự suy nghĩ? Liệu việc đó đòi hỏi một loại kỷ luật? Kỷ luật: gốc rễ của từ ngữ đó là học hành. Học hành; không phải tuân theo, không phải bắt chước, không phải khiến cho cái trí đờ đẫn trong lề thói. Lúc này, liệu người ta có thể học hành hoạt động của sự quan sát mà không có sự suy nghĩ đang sáng chế những hình ảnh từ sự quan sát đó, và tiếp theo hành động tùy theo những hình ảnh đó? Liệu người ta có thể chỉ quan sát? Mà là quan sát và học hành, hay nhận biết, về phương cách mà chuyển động của sự suy nghĩ can thiệp sự quan sát. Học hành nó. Đó là kỷ luật thực sự, học hành.

 Khi có sự quan sát của, ví dụ, ao ước hay khao khát của chúng ta cho cái gì đó, liệu người ta có thể quan sát mà không có bất kỳ động cơ, mà không có quá khứ, mà là ham muốn, hay những kết luận của sự suy nghĩ, đang can thiệp sự quan sát thực sự? Thông thường, mục đích của học hành là tích lũy hiểu biết, và từ đó hành động, khéo léo hay thô thiển – nó phụ thuộc. Hoặc, bạn hành động và sau đó học hành, mà là tích lũy hiểu biết từ hành động. Vì vậy, những hành động của chúng ta luôn luôn được đặt nền tảng trên quá khứ, hay trên quá khứ đang chiếu rọi vào tương lai và đang hành động tùy theo sự chiếu rọi đó.

 Lúc này, chúng ta đang vạch ra cái gì đó hoàn toàn khác hẳn sự tích lũy hiểu biết và sau đó hành động; cái gì đó hoàn toàn khác hẳn những hành động của người ta mà là kết quả của quá khứ hay của sự chiếu rọi của tương lai, những hành động được đặt nền tảng trên thời gian – ngày hôm qua gặp gỡ hiện tại, mà là hôm nay, đang tự bổ sung và tiến tới. Thông thường, hành động của người ta được đặt nền tảng trên điều đó, khiến cho những hành động của chúng ta luôn luôn không trọn vẹn, chắc chắn. Trong hành động như thế, có những hối tiếc, một ý thức của thất vọng, nó không bao giờ trọn vẹn.

 Lúc này chúng ta đang vạch ra cái gì đó hoàn toàn khác hẳn; một quan sát trong đó quá khứ và tương lai không hiện diện. Chỉ quan sát – như một người khoa học giỏi nghiên cứu qua một cái kính hiển vi – đang đơn giản quan sát điều gì đang thực sự xảy ra. Khi người ta quan sát điều gì đang thực sự xảy ra, cái sự việc được quan sát trải qua một thay đổi. Liệu người ta có thể quan sát sự ao ước, sự tìm kiếm, sự thôi thúc? Liệu người ta có được năng lượng mãnh liệt được cần đến chỉ để quan sát mà không có sự chuyển động của quá khứ?

 Quan sát điều gì người ta mong muốn trong sống của người ta, điều gì người ta đang tìm kiếm, đang ao ước (hầu hết các bạn đều đang tìm kiếm cái gì đó, ngược lại các bạn sẽ không ở đây). Người ta đọc những quyển sách về triết lý, tâm lý, hay tạm gọi là tôn giáo. Trong những quyển sách tôn giáo, nó luôn luôn được giải thích rằng có cái gì đó vượt khỏi, cái gì đó thâm sâu hơn và nhiều hơn. Vì đã đọc điều đó, người ta có lẽ nói, ‘Có lẽ có, tôi sẽ theo đuổi nó.’ Vậy là, người ta bị trói buộc bởi những giáo sĩ, bởi những đạo sư, bởi khuôn mẫu mới nhất và vân vân. Và người ta có lẽ nghĩ người ta đã tìm được cái gì đó gây thỏa mãn và người ta nói. ‘Tôi hạnh phúc quá, tôi không cần tìm kiếm cái gì nữa.’ Nhưng nó có lẽ là một ảo tưởng – hầu hết mọi người đều thích sống trong những ảo tưởng. Và tất cả sự tìm kiếm của bạn và những đòi hỏi của bạn và sự khao khát của bạn đã không tạo ra một xã hội tốt lành – một xã hội được đặt nền tảng trên hòa bình, trong đó không có bạo lực.

 Mục đích sự thâm nhập của chúng ta vào tất cả điều này là sáng tạo một xã hội tốt lành trong đó chúng ta, những con người, có thể sống hạnh phúc, không sợ hãi, không xung đột, không mọi đấu tranh, bạo lực và độc ác. Xã hội được thiết lập từ sự liên hệ của con người; nếu sự liên hệ của chúng ta không đúng đắn, chính xác, thực sự, tốt lành, vậy thì chúng ta tạo ra một xã hội xấu xa, không lành mạnh; và đó là điều gì đang xảy ra trong thế giới.

 Tại sao những con người tách rời? Bạn đang tìm kiếm cái gì đó, một người khác đang tìm kiếm cái gì đó hoàn toàn khác hẳn; luôn luôn có chuyển động tự cho mình là trung tâm này. Xã hội mà chúng ta đã tạo ra được đặt nền tảng trên tham vọng tự cho mình là trung tâm, tự thành tựu và sự kỷ luật tự cho mình là trung tâm mà nói, ‘Tôi phải’, và tạo ra bạo lực. Chúng ta cũng đang thâm nhập vào cái trí của bạn. Khi chúng ta sử dụng từ ngữ ‘cái trí’, nó không là cái trí của bạn hay cái trí của tôi, nhưng cái trí. Cái trí của bạn giống như cái trí của hàng ngàn và hàng triệu người – đấu tranh, xung đột, đòi hỏi, tuân phục, chấp nhận, vâng lời, lý tưởng, phụ thuộc tôn giáo nào đó, chịu đựng đau khổ, phiền muộn và lo âu; cái trí của bạn là điều đó và những cái trí khác đều giống như điều đó. Bạn có lẽ không thấy việc này, bởi vì sự kiêu ngạo của bạn, ý thức quan trọng thuộc cá nhân của bạn, có lẽ ngăn cản sự quan sát này, mà là thực sự. Những con người đều giống hệt nhau phần tâm lý; khắp thế giới, họ quá bất hạnh. Họ có lẽ cầu nguyện, nhưng lời cầu nguyện của họ không giải đáp những vấn đề của họ; họ vẫn còn đau khổ, vẫn còn đấu tranh, vẫn còn tuyệt vọng. Đây là cái trí chung. Và vì vậy, khi chúng ta đang thâm nhập, chúng ta đang thâm nhập vào con người, không chỉ tôi và bạn – chúng ta là những con người.

 Liệu người ta có thể quan sát thế giới bên ngoài cùng những phân chia của nó, những kinh hoàng và những nguy hiểm, và những tội lỗi thuộc chính trị của nó, mà không rút ra một kết luận? Nếu chúng ta quan sát điều gì đang xảy ra phía bên ngoài, và cùng mãnh liệt như thế cũng quan sát điều gì đang xảy ra phía bên trong, vậy thì những hành động của chúng ta không là những hành động của bạn và những hành động của tôi, bởi vì chúng ta đã quan sát sự việc cùng nhau.

 Hãy tự hỏi chính bạn liệu bạn đang tìm kiếm cái gì: nó là tiền bạc, nó là an toàn, nó là tự do khỏi sợ hãi để cho bạn có vui thú vĩnh cửu, bạn đang tìm kiếm để được tự do khỏi gánh nặng của đau khổ – không chỉ gánh nặng riêng của bạn nhưng còn cả gánh nặng của đau khổ của thế giới – hay liệu bạn đang tìm kiếm cái gì đó không thời gian, cái gì đó mà sự suy nghĩ đã không tiếp xúc, cái gì đó ban sơ tại cốt lõi, cái gì đó tuyệt đối không thể thoái hóa? Hãy tìm ra cho chính bạn, như một con người, giống như phần còn lại của những con người trong thế giới, bạn đang tìm kiếm cái gì, đang khao khát cái gì.

 Liệu bạn đang tìm kiếm loại mới mẻ nào đó của sự trải nghiệm bởi vì bạn đã trải nghiệm vô số loại và bạn nói, ‘Từng đó đủ rồi, tôi đã trải nghiệm những điều đó nhưng tôi muốn loại khác hẳn’ – cái gì đó thâm sâu hơn, trải nghiệm nào đó mà sẽ trao tặng hân hoan vô cùng, hiểu rõ vô tận, một khai sáng, một thay đổi? Làm thế nào bạn sẽ tìm được? Muốn tìm được bạn phải được tự do khỏi tất cả những ảo tưởng. Mà có nghĩa sự chân thật tuyệt đối để cho cái trí của bạn không tự dối gạt nó. Muốn không tự dối gạt bạn, bạn phải hiểu rõ toàn bản chất của sự ham muốn. Bởi vì chính sự ham muốn mới tạo ra ảo tưởng – qua sự ham muốn người ta muốn đạt được, người ta hy vọng cái gì đó thâm sâu hơn. Nếu bạn không hiểu rõ toàn bản chất và cấu trúc của sự ham muốn, chắc chắn cái trí sẽ tạo ra ảo tưởng. Liệu cái trí của bạn, bởi vì đã hiểu rõ hoạt động của sự ham muốn, có thể biết giá trị tương đối của nó và thế là được tự do để quan sát? Mà có nghĩa bạn quan sát không có bất kỳ loại ảo tưởng nào. Liệu bạn nhận biết những ảo tưởng? Khi cái trí tự do khỏi những ảo tưởng, nó tuyệt đối không có bất kỳ đạo đức giả nào, minh bạch và chân thật; thế là, bạn có thể bắt đầu thâm nhập, thâm nhập vào nghi vấn liệu có một tồn tại không-thời gian, một sự thật không-thời gian.

 Có thể bạn đã đùa giỡn cùng thiền định – thiền định thăng hoa, thiền định Tây tạng, thiền định Ấn giáo, thiền định Phật giáo, thiền định Zen – một cách nghiêm túc hay không nghiêm túc. Như người ta có thể hiểu rõ, toàn ý tưởng của những thiền định này là rằng sự suy nghĩ phải được kiểm soát, rằng bạn phải có kỷ luật, bạn phải khuất phục những cảm thấy riêng của bạn đến cái gì đó khác hơn ‘cái gì là’, qua sự kiểm soát, qua sự tỉnh táo liên tục. Lúc này, nếu bạn muốn tìm ra thiền định là gì, không chỉ đang chấp nhận điều gì người nào đó đang nói, vậy thì những việc hiển nhiên nào đó là cần thiết. Phải không có uy quyền, bởi vì như thế bạn phụ thuộc, bạn đấu tranh, bạn bắt chước và tuân phục. Vậy thì, người ta phải hiểu rõ bản chất của sự kiểm soát và người kiểm soát là ai. Từ niên thiếu, chúng ta đã được đào tạo, được giáo dục, để kiểm soát hay để kiềm chế; hay đi đến cực đoan khác, mà là điều gì đang xảy ra hiện nay, làm điều gì bạn ưa thích, làm việc riêng tư của bạn! Liệu có một cách sống không có bất kỳ hình thức nào của sự kiểm soát? Mà không có nghĩa làm điều gì bạn ưa thích, buông thả trong những phóng đãng và vân vân. Liệu có một cách sống trong đó không có một cái bóng của sự kiểm soát? Muốn tìm được điều đó bạn phải hỏi: ai là người kiểm soát?

 Ai là người kiểm soát mà nói ‘Tôi phải kiểm soát những cảm thấy của tôi’ hay ‘Tôi phải cho phép những cảm thấy của tôi trôi chảy’? Có người kiểm soát và vật được kiểm soát, thế là có một phân chia. Người kiểm soát này là ai? Nó vẫn không là chuyển động của sự suy nghĩ, hay sao? Sự suy nghĩ đã nói, ‘Tôi đã trải nghiệm điều này, tôi dự định làm điều này,’ mà là quá khứ; thế là, quá khứ là người kiểm soát. Việc đang xảy ra lúc này phải được kiểm soát bởi người kiểm soát, mà là quá khứ.

 Tôi không đang nói chuyện để kiếm được lợi lộc cho tôi. Mặc dù tôi đã nói chuyện suốt năm mươi hai năm, tôi không hứng thú nói gì cả. Nhưng tôi quan tâm tìm ra liệu bạn cũng có thể khám phá cùng sự việc để cho sống riêng của bạn sẽ hoàn toàn khác hẳn, được thay đổi, để cho bạn không còn những vấn đề, không những nhiêu khê, không đấu tranh hay khao khát. Đó là lý do tại sao người nói đang nói chuyện, không phải vì sự thỏa mãn riêng của ông ta, không phải vì sự thích thú riêng của ông ta, không phải vì sự thành tựu riêng của ông ta.

 Thế là, người kiểm soát là kết quả của sự suy nghĩ, sự suy nghĩ được đặt nền tảng trên hiểu biết, mà là quá khứ. Sự suy nghĩ nói, ‘Tôi phải kiểm soát điều gì đang xảy ra lúc này’ – cái thực sự. Ví dụ, cái thực sự là ganh tị, ghen tuông – mà tất cả các bạn đều biết. Sự suy nghĩ nói, ‘Tôi phải kiểm soát nó; tôi phải phân tích nó; tôi phải kiềm chế nó; hay đạt được nó.’ Thế là, có một phân chia được tạo ra bởi sự suy nghĩ. Trong sự phân chia này, có một lừa dối, lừa dối trong ý tưởng rằng người kiểm soát khác biệt điều phải được kiểm soát. Cả hai đều được sáng chế bởi sự suy nghĩ. Vì vậy, người kiểm soát là vật được kiểm soát. Nếu bạn thực sự hiểu rõ điều này, thâm nhập rất nghiêm túc điều này cho chính bạn, bạn sẽ thấy rằng người kiểm soát không cần thiết; chỉ sự quan sát là cần thiết. Khi bạn quan sát, không có người kiểm soát hay vật được kiểm soát; chỉ có đang quan sát. Quan sát sự ganh tị của bạn, ví dụ, quan sát nó mà không đặt tên nó, mà không phủ nhận nó hay chấp nhận nó, chỉ thấy cảm xúc, phản ứng nảy sinh, mà đã được gọi là sự ganh tị, và nhìn ngắm nó mà không có từ ngữ. Bởi vì từ ngữ đại diện cho quá khứ. Khi bạn sử dụng từ ngữ ‘ganh tị’, nó củng cố quá khứ.

 Có thể sống mà không có bất kỳ ý thức nào của sự kiểm soát. Tôi đang nói điều này không phải như một lý thuyết nhưng như một thực sự. Người nói trình bày điều gì ông ta đã làm, không phải điều gì ông ta sáng chế. Có một sống mà không có bất kỳ ý thức nào của sự kiểm soát và vì vậy không có bất kỳ ý thức nào của sự xung đột, không có bất kỳ ý thức nào của sự phân chia. Sống đó chỉ có thể hiện diện khi chỉ có sự quan sát thuần khiết. Hãy thực hiện nó và bạn sẽ thấy. Hãy thử nghiệm nó. Khi không có sự xung đột gì cả, điều gì xảy ra trong cái trí? Sự xung đột hàm ý sự chuyển động; sự chuyển động là thời gian – thời gian là từ đây đến đó, cả thuộc vật chất lẫn thuộc tâm lý; sự chuyển động từ một trung tâm sang một trung tâm khác; hay sự chuyển động từ một ngoại vi sang một ngoại vi khác. Có sự chuyển động liên tục này trong những sống của chúng ta. Lúc này, nếu bạn quan sát sự chuyển động này rất kỹ càng, điều gì xảy ra trong cái trí?

 Bạn đã hiểu rõ bản chất của sự suy nghĩ, làm thế nào nó là sự hiểu biết bị giới hạn được lưu trữ trong bộ não như ký ức, ký ức đó đang hành động như sự suy nghĩ trong hành động. Bạn đã hiểu rõ làm thế nào sự hiểu biết luôn luôn là bộ phận của sự dốt nát. Thế là, điều gì xảy ra trong cái trí? Cái trí, như chúng ta đã thâm nhập nó, là không chỉ khả năng để suy nghĩ rõ ràng, khách quan, không thiên vị, nhưng còn là thấy rằng nó có khả năng hành động không phải từ sự suy nghĩ nhưng còn cả từ sự quan sát thuần khiết. Từ sự suy nghĩ thuần khiết đó có hành động. Đó là thông minh. Và đó cũng là cái sự việc lạ thường được gọi là tình yêu và từ bi.

 Vậy là, cái trí có chất lượng của thông minh này và, một cách tự nhiên, theo cùng thông minh đó là tình yêu, từ bi. Tình yêu là cái gì đó khác hẳn cảm xúc; nó hoàn toàn không liên quan với những đòi hỏi và những thành tựu của chúng ta và mọi chuyện còn lại của nó. Thế là, lúc này cái trí có chất lượng này, sự bất động này. Nó giống như một tảng đá giữa một con suối, giữa một con sông, bất động. Và cái mà bất động là yên lặng. Làm ơn hãy tuyệt đối rõ ràng về mấu chốt này. Sự rõ ràng đó là bất động; vậy là sự bất động đó có thể thâm nhập bất kỳ vấn đề nào. Nếu không có sự rõ ràng này, cái trí bị rối loạn, mâu thuẫn, vỡ vụn; nó không ổn định, loạn thần kinh, đang tìm kiếm, đang đấu tranh, đang xung đột. Vì vậy, chúng ta đến một mấu chốt nơi cái trí hoàn toàn rõ ràng và thế là hoàn toàn bất động. Bất động, không phải trong ý nghĩa của một hòn núi, nhưng trong ý nghĩa rằng nó hoàn toàn không có những vấn đề; thế là nó bất động lạ thường và tuy nhiên lại linh động.

 Lúc này, một cái trí như thế là yên lặng. Và bạn cần có một cái trí tuyệt đối yên lặng – tuyệt đối, không phải tương đối. Có sự yên lặng khi một buổi chiều bạn lang thang vào cánh rừng; tất cả chim chóc yên lặng, gió và tiếng xì xào của những chiếc lá đã kết thúc; có sự yên lặng vô cùng phía bên trong. Và con người quan sát sự yên lặng này và nói, ‘Tôi phải có sự yên lặng đó,’ và họ lệ thuộc vào sự yên lặng của một mình, của cô đơn. Nhưng đó không là yên lặng. Cũng không phải sự yên lặng được sáng chế bởi sự suy nghĩ mà nói, ‘Tôi phải yên lặng, tôi phải bất động, tôi không được huyên thuyên’. Nhưng đó không là nó, bởi vì đó là kết quả của sự suy nghĩ đang vận hành vào sự nhiễu loạn. Chúng ta đang nói về một yên lặng mà không phụ thuộc vào bất kỳ thứ gì. Chính là chất lượng của sự bất động này, sự yên lặng tuyệt đối này của cái trí, mới có thể thấy cái vĩnh cửu, không thời gian, không tên tuổi – mà là thiền định. 

 

 Từ Bản tin 39, 1980

 

Sự Kết thúc của Đau khổ là Tình yêu

Bombay, Ấn độ, ngày 10 tháng 2 năm 1985

 

C

hiều nay chúng ta sẽ bàn luận nhiều vấn đề. Chiều hôm qua chúng ta đã nói chuyện về đau khổ và sự kết thúc của đau khổ. Cùng sự kết thúc của đau khổ, sự đam mê hiện diện. Chẳng có mấy người trong chúng ta thực sự hiểu rõ hay thâm nhập nghi vấn của đau khổ. Liệu có thể kết thúc tất cả đau khổ? Đây đã là một nghi vấn được đặt ra bởi tất cả những con người, có lẽ không ý thức được nhiều lắm, nhưng sâu thẳm họ đã mong muốn tìm ra, giống như tất cả chúng ta đều mong muốn, liệu có một kết thúc cho đau khổ của con người, phiền muộn và lo âu của con người. Bởi vì nếu không có sự kết thúc của đau khổ, không có tình yêu.

 Đau khổ là một chấn động nghiêm trọng đối với hệ thần kinh, giống như một cú đấm vào toàn thân tâm thuộc thân thể cũng như tâm lý. Và thông thường chúng ta cố gắng tẩu thoát khỏi nó bằng thuốc men, nhậu nhẹt hoặc tham gia những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tẩu thoát thuộc tôn giáo; hoặc chúng ta trở nên yếm thế; hoặc chấp nhận những sự việc như điều không tránh khỏi.

 Liệu người ta có thể thâm nhập nghi vấn này rất sâu thẳm, nghiêm túc? Liệu có thể không chạy trốn đau khổ? Có lẽ người con trai của tôi chết, và có đau khổ, choáng váng vô cùng, và tôi phát giác rằng tôi thực sự là một người rất cô độc. Tôi không thể đối diện nó. Tôi không thể chịu đựng nó, thế là tôi chạy trốn nó. Và có nhiều tẩu thoát – tôn giáo, thế tục hay triết lý. Liệu có thể không tẩu thoát trong bất kỳ hình thức nào khỏi đau khổ đó, đau khổ của cô độc, tiếc thương, choáng váng, nhưng hoàn toàn ở nguyên cùng sự kiện đó, cùng cái sự việc này được gọi là đau khổ? Liệu bạn có thể bám chặt bất kỳ vấn đề nào, ấp ủ nó, không cố gắng giải quyết nó, nhưng nhìn ngắm nó như thể bạn cầm một món nữ trang quí giá, được chạm khắc tinh vi? Chính vẻ đẹp của món nữ trang đã quá hấp dẫn, quá vui thú, đến độ chúng ta phải ngắm nghía nó liên tục. Trong cùng cách nếu chúng ta, không một chuyển động của sự suy nghĩ hay sự tẩu thoát, có thể ấp ủ đau khổ của chúng ta, vậy thì chính hành động của không chuyển động khỏi sự kiện đó sáng tạo một giải phóng khỏi sự việc đã gây ra đau khổ.

 Chúng ta cũng muốn suy nghĩ vẻ đẹp là gì – không phải vẻ đẹp của một con người hay vẻ đẹp của những bức tranh và những bức tượng trong bảo tàng hay những nỗ lực cổ xưa nhất của con người để diễn đạt những cảm thấy riêng của anh ấy trong đá hay trong vẽ tranh hay trong một bài thơ, nhưng tự mình thâm nhập vẻ đẹp là gì. Vẻ đẹp có lẽ là sự thật. Vẻ đẹp có lẽ là tình yêu. Nhưng nếu không hiểu rõ bản chất và chiều sâu của từ ngữ ‘vẻ đẹp’ lạ thường đó, có lẽ chúng ta không bao giờ có thể bắt gặp cái được gọi là thiêng liêng đó. Vì vậy, chúng ta phải thâm nhập vào nghi vấn của vẻ đẹp là gì này.

 Điều gì thực sự xảy ra khi chúng ta thấy cái gì đó vô cùng đẹp đẽ giống như hòn núi phủ đầy tuyết tương phản bầu trời xanh? Trong một tích tắc, sự hoành tráng của hòn núi đó, sự bao la của nó, đường nét của nó tương phản bầu trời xanh, xóa sạch tất cả tự quan tâm về chính mình. Tại tích tắc đó không có ‘tôi’ đang nhìn ngắm nó. Sự vĩ đại của hòn núi đó, trong một tích tắc, đã xóa sạch, tất cả tự cho mình là trung tâm. Chắc chắn, người ta phải nhận thấy điều này. Bạn có lưu ý một đứa trẻ cùng món đồ chơi? Cậu bé nghịch ngợm suốt ngày – điều đó đúng – và bạn cho cậu bé một món đồ chơi; vậy là, suốt một tiếng đồng hồ kế tiếp, cho đến khi cậu bé làm hư hỏng nó, cậu bé yên lặng lạ thường; món đồ chơi đã thẩm thấu sự nghịch ngợm của cậu bé; món đồ chơi đã nuốt trọn cậu bé. Tương tự như thế, khi chúng ta thấy cái gì đó đẹp đẽ lạ thường, chính vẻ đẹp đó thẩm thấu chúng ta. Đó là, có vẻ đẹp khi không có sự làm việc của cái tôi, khi không có tánh tư lợi. Bạn hiểu rõ điều đó? Nếu không bị cuốn hút hay bị rung động bởi cái gì đó đẹp đẽ lạ thường như một hòn núi hay một thung lũng trong bóng râm đậm đà, nếu không bị cuốn hút bởi hòn núi đó, liệu có thể hiểu rõ vẻ đẹp, hiểu rõ nó mà không có cái tôi? Bởi vì nơi nào có cái tôi không có vẻ đẹp; nơi nào có tánh tư lợi không có tình yêu; và tình yêu và vẻ đẹp theo cùng nhau – chúng không tách rời.

 Chúng ta cũng nên cùng nhau nói chuyện về chết là gì. Đây là một sự kiện chắc chắn mà tất cả chúng ta đều phải đối diện. Dù chúng ta nghèo nàn hay giàu có, dốt nát hay dư thừa uyên bác, trẻ tuổi hay già nua, chết đều chắc chắn xảy ra cho mỗi con người; tất cả chúng ta đều phải chết. Và chúng ta chưa bao giờ có thể hiểu rõ bản chất của chết; chúng ta luôn luôn sợ hãi chết, đúng chứ? Muốn hiểu rõ chết, chúng ta cũng phải thâm nhập sống là gì. Liệu chúng ta đang phí phạm sống của chúng ta, đang hao tán những năng lượng của chúng ta trong vô vàn hình thức, đang phung phí bởi những nghề nghiệp đặc biệt? Bạn có lẽ giàu có, bạn có lẽ có mọi loại năng lực, bạn có lẽ là một chuyên gia, một người khoa học vĩ đại hay người kinh doanh thành công; bạn có lẽ có quyền hành, địa vị, nhưng tại khúc cuối của sống liệu tất cả điều đó đã là một lãng phí? Tất cả khó nhọc này, tất cả đau khổ này, tất cả không an toàn, lo âu khủng khiếp này, những ảo tưởng ngớ ngẩn mà con người đã thâu lượm – những thượng đế của anh ấy, tất cả những thần thánh và vân vân – liệu tất cả điều đó đã là một lãng phí? Làm ơn, đây là một nghi vấn nghiêm túc mà người ta phải tự đặt ra cho chính mình. Một người khác không thể trả lời nghi vấn này.

 Chúng ta đã tách rời sống khỏi chết. Chết tại khúc cuối của sống của người ta; chúng ta đã đẩy nó ra càng xa bao nhiêu càng tốt – một khoảng cách thời gian thật dài; nhưng chúng ta, tại khúc cuối của một hành trình dài đăng đẳng, đều phải chết. Và chúng ta gọi sống là gì – kiếm tiền, đi làm từ chín giờ sáng đến năm giờ chiều? Và bạn trải qua xung đột, sợ hãi, lo âu, cô độc, phiền muộn, tuyệt vọng mãi mãi. Toàn phương cách của sự tồn tại này, mà chúng ta gọi là sống, đang sống – sự khó nhọc không kể xiết của con người, sự xung đột, dối gạt, thoái hóa không ngừng nghỉ của anh ấy – liệu đó là sống? Đây là điều gì chúng ta gọi là sống; chúng ta biết nó; chúng ta quen thuộc nó; nó là sự tồn tại hàng ngày của chúng ta. Và chết có nghĩa sự kết thúc của tất cả điều đó, sự kết thúc của tất cả những sự việc mà chúng ta đã suy nghĩ, mà chúng ta đã tích lũy, đã thụ hưởng. Và chúng ta quyến luyến tất cả điều này. Chúng ta quyến luyến gia đình của chúng ta, tiền bạc, hiểu biết, những niềm tin, những lý tưởng mà chúng ta sống cùng chúng; chúng ta quyến luyến tất cả điều đó. Và chết nói, ‘Đó là sự kết thúc của nó, người bạn thân ơi.’

 Chúng ta sợ hãi chết, mà có nghĩa buông bỏ tất cả những sự việc chúng ta đã biết, tất cả những sự việc chúng ta đã trải nghiệm, lượm lặt – đồ đạc đáng yêu mà chúng ta có và bộ sưu tập tranh đẹp đẽ. Chết đến và nói, ‘Bạn không thể có bất kỳ thứ nào nữa.’ Và chúng ta bám vào cái đã được biết, sợ hãi cái không biết được. Chúng ta có thể sáng chế sự đầu thai. Nhưng chúng ta lại không thâm nhập cái gì được sinh ra trong đời kế tiếp.

 Lúc này, nghi vấn là: tại sao bộ não đã tách rời sống và chết? Tại sao sự phân chia này đã xảy ra? Liệu sự phân chia này tồn tại khi có sự quyến luyến? Liệu người ta có thể sống cùng chết trong thế giới hiện đại – không phải tự tử, chúng ta không đang nói về điều đó – nhưng kết thúc tất cả quyến luyến, mà là chết, trong khi người ta sống? Tôi quyến luyến ngôi nhà mà tôi đang sống trong nó. Tôi đã mua nó, đã trả nhiều tiền cho nó, và tôi quyến luyến tất cả đồ đạc, những bức tranh, gia đình, tất cả những kỷ niệm của nó. Và chết đến và xóa sạch tất cả điều đó. Vì vậy, liệu bạn có thể sống mỗi ngày thuộc sống của bạn cùng chết, kết thúc mọi thứ mỗi ngày, kết thúc tất cả những quyến luyến của bạn? Bởi vì đó có nghĩa chết là gì. Chúng ta đã tách rời sống khỏi chết, vì vậy chúng ta mãi mãi sợ hãi. Nhưng khi bạn mang sống và chết lại cùng nhau – đang sống và đang chết – vậy thì bạn sẽ phát hiện rằng có một trạng thái của bộ não trong đó tất cả những hiểu biết như ký ức đều kết thúc.

 Bạn cần hiểu biết để viết một lá thư, để đến đây, để nói tiếng Anh, để giữ gìn những tài khoản, để đi về nhà của bạn và vân vân. Liệu bộ não có thể sử dụng hiểu biết khi cần thiết và tuy nhiên lại được tự do khỏi tất cả hiểu biết? Bộ não của chúng ta luôn luôn đang ghi lại; lúc này bạn đang ghi lại điều gì đang được nói. Ghi lại đó trở thành một ký ức, và ký ức đó, ghi lại đó, có cần thiết trong một lãnh vực nào đó, lãnh vực của hoạt động vật chất. Vậy là, liệu bộ não có thể sử dụng hiểu biết khi cần thiết nhưng lại được tự do khỏi hiểu biết cũ kỹ? Liệu bộ não có thể được tự do để cho nó có thể vận hành trọn vẹn trong một kích thước khác hẳn? Đó là, mỗi ngày khi bạn đi ngủ, xóa sạch mọi thứ mà bạn đã thâu lượm, chết đi tại khúc cuối của ngày.

 Bạn nghe một câu nói thuộc loại này: đang sống là đang chết; chúng không là hai sự việc tách rời gì cả. Bạn nghe câu nói đó, không những bằng đang nghe của tai nhưng, nếu bạn đang lắng nghe cẩn thận, bạn còn nghe sự thật của nó, thực sự của nó. Và trong tích tắc bạn thấy sự rõ ràng của nó. Vậy là, liệu tại khúc cuối của ngày mỗi người chúng ta có thể chết đi mọi thứ không cần thiết, mọi ký ức của sự tổn thương, những niềm tin của chúng ta, những sợ hãi của chúng ta, những lo âu của chúng ta, những đau khổ của chúng ta; kết thúc tất cả điều đó mỗi ngày? Vậy thì, bạn phát giác rằng bạn luôn luôn đang sống cùng chết, chết là kết thúc.

 Người ta quyến luyến đến quá nhiều sự việc – vị đạo sư của người ta, hiểu biết được tích lũy, tiền bạc, những niềm tin, những lý tưởng mà người ta đã sống cùng, ký ức của người con trai, người con gái của người ta và vân vân. Ký ức đó là bạn; toàn bộ não của bạn được nhét đầy ký ức, và bạn quyến luyến toàn ý thức này. Đó là một sự kiện. Sau đó chết đến và nói, ‘Đó là sự kết thúc của sự quyến luyến của bạn.’ Và chúng ta sợ hãi, sợ hãi được tự do hoàn toàn khỏi nó, sợ hãi chết, sợ hãi cắt đứt mọi thứ mà chúng ta có. Bạn có thể sáng chế và nói, ‘Tôi sẽ tiếp tục trong đời kế tiếp,’ nhưng cái gì tiếp tục? Bạn hiểu câu hỏi của tôi? Sự ham muốn để tiếp tục đó có nghĩa gì? Liệu có một tiếp tục, ngoại trừ những sự việc được sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ?

 Sự suy nghĩ bị giới hạn và vì vậy tạo ra sự xung đột; chúng ta đã thâm nhập tất cả điều đó. Và cái tôi, cái vị kỷ, cái cá nhân, là một mớ của những kỷ niệm phức tạp, hiện đại và cổ xưa. Chúng ta sống bằng những kỷ niệm. Chúng ta sống bằng sự hiểu biết, được thâu lượm hay được thừa hưởng, và sự hiểu biết đó là điều gì chúng ta là. Cái tôi là sự hiểu biết của những trải nghiệm, những suy nghĩ thuộc quá khứ và vân vân. Cái tôi là điều đó. Cái tôi có lẽ sáng chế rằng có cái gì đó thiêng liêng trong chúng ta, nhưng cái gì đó vẫn còn là hoạt động của sự suy nghĩ. Và sự suy nghĩ luôn luôn bị giới hạn. Bạn có thể tự thấy điều này cho chính bạn, bạn không phải học hành những quyển sách và những triết lý; bạn có thể thấy rõ ràng cho chính bạn rằng bạn là một mớ của những kỷ niệm. Và chết kết thúc tất cả ký ức đó. Thế là, người ta sợ hãi. Nghi vấn là: liệu người ta có thể sống cùng chết trong thế giới hiện đại?

 Vì vậy, chúng ta nên cùng nhau nói chuyện về tình yêu là gì. Liệu tình yêu là cảm xúc? Liệu tình yêu là ham muốn? Liệu tình yêu là vui thú? Liệu tình yêu được sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ? Liệu bạn thương yêu người chồng hay người vợ của bạn, hay con cái của bạn? Liệu tình yêu là ghen tuông? Đừng nói không. Liệu tình yêu là sợ hãi, lo âu, đau khổ và mọi chuyện còn lại của nó? Tình yêu là gì? Và nếu không có chất lượng đó, hương thơm đó, ngọn lửa đó – bạn có lẽ rất giàu có, bạn có lẽ có một ý thức của quyền hành, địa vị, quan trọng – nếu không có tình yêu, bạn chỉ là một cái vỏ trống rỗng. Vì vậy chúng ta nên thâm nhập nghi vấn của tình yêu này. Nếu bạn thương yêu con cái của bạn, liệu sẽ có những chiến tranh? Nếu bạn thương yêu con cái của bạn, liệu bạn sẽ cho phép chúng giết chết những người khác? Liệu tình yêu có thể hiện diện nơi nào có tham vọng? Làm ơn, đối diện tất cả điều này.

 Tình yêu không liên quan gì đến vui thú, đến cảm xúc. Tình yêu không bị sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ; vì vậy nó không ở trong cấu trúc của bộ não. Nó là cái gì đó hoàn toàn ở phía bên ngoài của bộ não, bởi vì qua chính bản chất của nó, cấu trúc của nó, bộ não là một dụng cụ của cảm xúc, của những phản ứng thuộc hệ thần kinh và vân vân. Tình yêu không thể hiện diện khi có thuần túy cảm xúc. Ký ức không là tình yêu.

 Cũng vậy, chúng ta nên cùng nhau nói chuyện về một sống tôn giáo là gì và tôn giáo là gì. Lại nữa, đây là một nghi vấn rất phức tạp. Những con người đã tìm kiếm cái gì đó vượt khỏi cái vật chất, vượt khỏi sự tồn tại hàng ngày của phiền muộn, của đau khổ hay vui thú. Họ đã tìm kiếm cái gì đó vượt khỏi, đầu tiên trong những đám mây; sấm sét là tiếng nói của thượng đế. Sau đó, họ tôn thờ những cái cây, những tảng đá. Những dân làng sống thật xa cái thị trấn quá quắt, kinh tởm, xấu xa này vẫn còn tôn thờ những tảng đá, những cái cây, những hình tượng nhỏ xíu. Con người muốn tìm ra liệu có cái gì đó thiêng liêng, và vị giáo sĩ xuất hiện và nói, ‘Ta sẽ chỉ cho ngươi,’ giống như một đạo sư nói. Giáo sĩ phương Tây có những nghi lễ của anh ấy, những lặp lại của anh ấy, chiếc áo choàng quá đáng của anh ấy và sự tôn thờ hình ảnh đặc biệt của anh ấy. Và bạn – bạn có những hình ảnh riêng của bạn. Hoặc bạn không tin tưởng việc đó, bạn nói bạn là một người vô thần. Nhưng bạn và người nói muốn tìm ra cái gì đó mà có lẽ vượt khỏi thời gian, vượt khỏi tất cả sự suy nghĩ. Vì vậy, chúng ta sẽ cùng nhau thâm nhập, vận dụng bộ não của chúng ta, lý luận của chúng ta, lý lẽ của chúng ta, để tìm ra tôn giáo là gì, một sống tôn giáo là gì, và liệu có thể sống một sống tôn giáo trong thế giới hiện đại này?

 Vậy là, chúng ta hãy tự tìm ra cho chính chúng ta một sống tôn giáo thực sự, đúng đắn là gì? Và cái đó chỉ có thể tìm ra khi chúng ta hiểu rõ những tôn giáo thực sự là gì và gạt bỏ tất cả những tôn giáo – không phụ thuộc bất kỳ tôn giáo nào, bất kỳ tổ chức nào, bất kỳ đạo sư nào, bất kỳ uy quyền tạm gọi là tinh thần nào. Không có uy quyền tinh thần nào cả; đó là một trong những trọng tội mà chúng ta đã phạm phải; chúng ta đã sáng chế một người trung gian giữa sự thật và chính chúng ta.

 Khi chúng ta bắt đầu thâm nhập tôn giáo là gì, bạn đang sống một sống tôn giáo; không phải tại khúc cuối của nó. Trong chính sự tiến hành của quan sát, nhìn ngắm, bàn luận, nghi ngờ, chất vấn, không có những niềm tin, hay sự trung thành, bạn đang theo một sống tôn giáo rồi. Lúc này, bạn sắp sửa làm việc đó.

 Dường như bạn mất đi tất cả lý do, tất cả lý luận và khôn ngoan khi nói đến những vấn đề thuộc tôn giáo. Vì vậy, chúng ta phải hợp lý, lý luận, ngờ vực, chất vấn tất cả những sự việc mà con người đã sắp xếp vào chung – những thượng đế, những đấng cứu rỗi, những đạo sư và uy quyền của họ. Đó không là tôn giáo, đó chỉ là sự nhận bừa uy quyền bởi một ít người. Bạn trao cho họ uy quyền. Vì vậy, phủi bỏ hoàn toàn nó.

 Bạn có khi nào nhận thấy rằng nơi nào có vô trật tự thuộc xã hội, thuộc chính trị, trong những liên hệ của con người, liền có một người độc tài, một người cai trị? Nơi nào có vô trật tự trong sống riêng của bạn, bạn sẽ tạo ra một uy quyền; bạn chịu trách nhiệm cho uy quyền và có những người quá sẵn lòng để chấp nhận uy quyền đó. Nơi nào có sợ hãi, chắc chắn con nguời tìm kiếm cái gì đó mà sẽ bảo vệ anh ấy, mà sẽ giam cầm anh ấy trong một ý thức của sự an toàn. Và từ sợ hãi đó chúng ta sáng chế những thượng đế. Từ sợ hãi đó chúng ta sáng chế tất cả những nghi thức, tất cả gánh xiếc đó đang xảy ra nhân danh tôn giáo. Tất cả những đền chùa trong quốc gia này, tất cả những nhà thờ và những thánh đường, đều được sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ. Bạn có lẽ nói có sự soi sáng trực tiếp. Hãy nghi ngờ sự soi sáng đó. Bạn chấp nhận nó, nhưng nếu bạn sử dụng lý luận, lý lẽ, thông minh, bạn sẽ thấy những mê tín mà bạn đã tích lũy; tất cả điều đó không là tôn giáo. Chắc chắn. Liệu bạn có thể xóa sạch điều đó để tìm ra bản chất của tôn giáo là gì, cái trí, bộ não là gì, mà duy trì chất luợng của đang sống tôn giáo? Liệu bạn, như một con người, mà sợ hãi, có thể không sáng chế, không tạo ra ảo tưởng, nhưng đối diện sợ hãi? Sợ hãi có thể hoàn toàn tan biến thuộc tâm lý khi bạn ở nguyên cùng nó, không tẩu thoát nó, nhưng trao trọn toàn chú ý của bạn vào nó. Nó giống như một ánh sáng đang chiếu vào sợ hãi, một lóe sáng cực độ, và vậy là sợ hãi đó hoàn toàn tan biến. Và khi không có sợ hãi, không có thượng đế; không có nghi thức; tất cả điều đó trở thành không cần thiết, dốt nát.

Những sự việc mà sự suy nghĩ đã sáng chế trở thành không tôn giáo, bởi vì sự suy nghĩ chỉ là một qui trình vật chất được đặt nền tảng trên trải nghiệm, hiểu biết, ký ức. Sự suy nghĩ sáng chế toàn nhiễu loạn này, toàn cấu trúc của những tôn giáo có tổ chức mà đã hoàn toàn mất đi tất cả ý nghĩa. Liệu bạn có thể xóa sạch tất cả điều đó, một cách tự nguyện, mà không đang tìm kiếm một phần thưởng tại khúc cuối của nó? Liệu bạn sẽ thực hiện nó? Khi bạn thực hiện, vậy thì không còn người nào để hỏi tôn giáo là gì.

 Liệu có cái gì đó vượt khỏi tất cả thời gian và sự suy nghĩ? Bạn có lẽ đặt ra câu hỏi, nhưng nếu sự suy nghĩ sáng chế cái gì đó vượt khỏi, cái gì đó vẫn còn là một qui trình vật chất. Sự suy nghĩ vẫn còn là vật chất bởi vì nó nuôi dưỡng sự hiểu biết trong những tế bào não. Người nói không là một người khoa học nhưng bạn có thể quan sát nó trong chính bạn; bạn có thể quan sát hoạt động trong bộ não của bạn mà là hoạt động của bộ não. Vì vậy, nếu bạn có thể xóa sạch tất cả điều đó một cách tự nguyện, dễ dàng, mà không có bất kỳ sự kháng cự, vậy thì chắc chắn bạn sẽ hỏi: liệu có cái gì đó vượt khỏi tất cả thời gian và không gian? Liệu có cái gì đó mà không bao giờ được thấy trước kia bởi bất kỳ người nào? Liệu có cái gì đó thiêng liêng vô cùng? Liệu có cái gì đó mà bộ não không bao giờ tiếp xúc? Vì vậy, chúng ta sẽ tìm ra – đó là, nếu bạn đã khởi sự bước đầu tiên và đã xóa sạch tất cả rác rưởi này được gọi là tôn giáo. Bởi vì bạn đã sử dụng bộ não của bạn, lý luận của bạn, bạn nghi ngờ, bạn chất vấn.

 Vậy thì, thiền định mà là bộ phận của tôn giáo là gì? Thiền định là gì? Tẩu thoát sự nhiễu loạn của thế giới, có một cái trí yên lặng, một cái trí an bình, một cái trí bất động? Vì mục đích đó, bạn thực hành một hệ thống, một phương pháp, một cách thức, để trở nên nhận biết, để kiểm soát những suy nghĩ của bạn. Bạn ngồi bắt chéo hai chân và bạn lặp lại những câu thần chú. Bạn lặp lại, lặp lại, lặp lại và tiếp tục cùng cách tư lợi của bạn, cách ích kỷ của bạn, và câu thần chú mất đi ý nghĩa của nó.

 Vì vậy, thiền định là gì? Liệu thiền định là một nỗ lực cố ý? Bạn thiền định cố ý, thực hành với mục đích đạt được cái gì đó – đạt được một cái trí, bộ não yên lặng, đạt được một ý thức của kích thích bộ não. Sự khác biệt giữa người thiền định đó và cái người mà nói, ‘Tôi muốn tiền bạc, vì vậy tôi làm việc để có nó’, là gì? Sự khác biệt giữa hai người này là gì? Cả hai đều đang tìm kiếm một thành tựu. Một cái được gọi là sự thành tựu tinh thần, cái còn lại được gọi là sự thành tựu trần tục – cả hai đều ở trong ranh giới của sự thành tựu. Đối với người nói, đó không là thiền định gì cả; bất kỳ sự ham muốn cố ý, nhận biết, chủ động cùng ý muốn của nó không là thiền định.

 Vì vậy, nguời ta phải hỏi liệu có thiền định mà không bị sáng chế bởi sự suy nghĩ? Liệu có thiền định mà bạn không nhận biết được? Bạn hiểu rõ tất cả điều này? Bất kỳ qui trình cố ý nào của thiền định không là thiền định. Điều đó quá rõ ràng. Bạn có thể ngồi bắt chéo chân suốt phần còn lại thuộc sống của bạn, hít thở và mọi chuyện như thế, và bạn sẽ không tiếp cận bất kỳ nơi nào gần gần cái khác lạ, bởi vì đó là một hành động cố ý để đạt được một kết quả – nguyên nhân và hậu quả. Nhưng hậu quả trở thành nguyên nhân; thế là bạn bị trói buộc trong một vòng tròn luẩn quẩn. Liệu có một thiền định không bị sắp xếp vào chung bởi ham muốn, bởi ý muốn, bởi nỗ lực? Người nói trả lời rằng có. Bạn không phải tin tuởng nó; ngược lại bạn phải nghi ngờ nó, bạn phải chất vấn nó, như nguời nói đã chất vấn nó, đã nghi ngờ nó, đã xé nát nó. Liệu có một thiền định mà không bị sáng chế, bị tổ chức? Muốn thâm nhập điều đó nguời ta phải hiểu rõ bộ não mà bị quy định, bộ não mà bị giới hạn, bộ não đó mà đang cố gắng hiểu rõ cái vô hạn, cái không thể đo lường được, cái không thời gian, nếu có một sự việc như cái không thời gian. Và muốn có nó, hiểu rõ âm thanh là điều rất quan trọng. Âm thanh và yên lặng theo cùng nhau.

 Chúng ta đã tách rời âm thanh khỏi yên lặng. Âm thanh là thế giới; âm thanh là nhịp đập quả tim của bạn; vũ trụ đầy ắp âm thanh; tất cả những bầu trời, hàng triệu vì sao, toàn bầu trời đầy ắp âm thanh. Và chúng ta đã khiến cho âm thanh đó thành cái gì đó không thể chịu đựng được. Nhưng khi bạn lắng nghe âm thanh, chính đang lắng nghe đó là yên lặng; yên lặng và âm thanh không tách rời. Vì vậy, thiền định là cái gì đó mà không bị sáng chế, không bị tổ chức. Thiền định . Nó bắt đầu cùng bước đầu tiên, mà là được tự do khỏi tất cả những tổn thương thuộc tâm lý của bạn, được tự do khỏi tất cả những sợ hãi, lo âu, cô độc, tuyệt vọng, đau khổ đã tích lũy của bạn. Đó là nền tảng, đó là bước đầu tiên, và bước đầu tiên là bước cuối cùng. Nếu bạn thực hiện bước đầu tiên đó, nó kết thúc. Nhưng chúng ta không sẵn lòng thực hiện bước đầu tiên bởi vì chúng ta không muốn tự do. Chúng ta muốn lệ thuộc – lệ thuộc vào quyền hành, vào những người khác, vào môi trường sống, vào trải nghiệm và hiểu biết của chúng ta. Chúng ta không bao giờ được tự do khỏi tất cả sự lệ thuộc, tất cả sự sợ hãi.

 Sự kết thúc của đau khổ là tình yêu. Nơi nào có tình yêu đó, có từ bi. Và từ bi đó có thông minh tổng thể riêng của nó. Và khi thông minh đó hành động, hành động đó luôn luôn đúng đắn. Không có sự xung đột nơi nào có thông minh đó. Bạn đã nghe tất cả điều này: bạn đã nghe về sự kết thúc của sợ hãi, sự kết thúc của đau khổ; bạn đã nghe về vẻ đẹp và tình yêu. Nhưng nghe là một việc và hành động là một việc khác. Bạn nghe tất cả những điều này mà là thực sự, hợp lý, thông minh, có lý lẽ, nhưng bạn sẽ không hành động tùy theo điều đó. Bạn quay về nhà và bắt đầu lại tất cả mọi chuyện cùng những lo âu của bạn, những xung đột của bạn, những đau khổ của bạn. Vì vậy, người ta hỏi: ích lợi của tất cả nó là gì? Ích lợi của đang lắng nghe người nói này và không đang sống cùng nó là gì? Đang lắng nghe và không đang làm là sự lãng phí sống của bạn; nếu bạn lắng nghe điều gì đó mà đúng thực và không hành động, bạn đang lãng phí sống của bạn. Và sống quá quý báu – nó là việc duy nhất mà chúng ta có. Và cũng vậy, chúng ta đã mất đi sự hiệp thông cùng thiên nhiên, mà có nghĩa chúng ta đã mất đi sự hiệp thông cùng chúng ta, mà là bộ phận của thiên nhiên. Chúng ta không thương yêu cây cối, chim chóc, những con sông và những hòn núi; chúng ta đang hủy diệt quả đất; và chúng ta đang hủy diệt lẫn nhau. Và tất cả điều đó quả là một lãng phí của sống.

 Khi người ta nhận ra tất cả điều này, không chỉ thuộc trí năng hay từ ngữ, vậy thì người ta sống một sống tôn giáo. Khoác vào một mảnh vải hay đi ăn mày hay gia nhập một tu viện không là một sống tôn giáo. Một sống tôn giáo bắt đầu khi không có sự xung đột, khi có ý thức của tình yêu không bị trao cho chỉ một người và vì vậy bị giới hạn. Vậy là, có, nếu bạn trao quả tim và cái trí và bộ não của bạn, cái gì đó vượt khỏi mọi thời gian. Và có ân lành của cái đó – không phải trong những đền chùa, không phải trong những nhà thờ, không phải trong những thánh đường. Ân lành đó là nơi bạn . 

 Từ Bản tin 54, 1989

 

Vẻ đẹp, Đau khổ và Tình yêu

Ojai, California, ngày 18 tháng 5 năm 1985

 

N

hững con người khắp thể giới đã tìm kiếm cái gì mà vượt khỏi những sống nhàm chán, cô độc, phiền muộn hàng ngày của họ? Có cái gì vượt khỏi, không chỉ cho cá thể nhưng còn cả cho tổng thể của nhân loại? Có cái gì mà không bị tiếp xúc bởi sự suy nghĩ, mà không có danh tánh, mà có lẽ vĩnh cửu, bất động, thường hằng? Chúng ta sẽ nói chuyện về những chủ đề này và về thiền định và yoga? Có vẻ mọi người đều quan tâm đến yoga – họ muốn giữ gìn tươi trẻ và đẹp đẽ.

 Lúc này, yoga đã trở thành một công việc kinh doanh giống như mọi thứ khác. Có những thầy giáo yoga khắp thế giới. Và họ đang in ra tiền – như thường lệ. Tuy nhiên, yoga, tại một thời điểm nào đó – tôi đã được kể lại bởi nhiều người mà biết nhiều về điều này – chỉ được dạy cho rất, rất ít người. Yoga không có nghĩa chỉ giữ gìn thân thể khỏe mạnh, bình thường, năng động và thông minh. Nó cũng có nghĩa – từ ngữ ‘yoga’ trong tiếng Phạn có nghĩa ‘kết hợp cùng nhau’ – kết hợp những cao hơn và những thấp hơn; đó là truyền thống. Có những hình thức khác nhau của yoga mà hình thức tột đỉnh được gọi là raja yoga – vua của những yoga. Cách sống đó liên quan đến không chỉ sự khỏe mạnh thuộc thân thể, nhưng còn cả, và nhiều hơn nữa, đến tinh thần. Không kỷ luật, không hệ thống, không gì được lặp lại ngày sang ngày. Nó là có một bộ não trật tự, luôn luôn năng động, nhưng không huyên thuyên – năng động. Nó là có một sống kỷ luật, đạo đức, luân lý, trật tự rất sâu thẳm, không được đặt nền tảng trên thực hiện những lời thề khác nhau. Vì vậy, mặc dù thân thể được giữ gìn khỏe mạnh, nó không có sự quan trọng cơ bản. Cái gì có sự quan trọng cơ bản là có một bộ não, một cái trí, một trạng thái của hạnh phúc, mà minh bạch, năng động; không phải năng động trong ý nghĩa của chuyển động thân thể, nhưng một bộ não trong chính nó là năng động, sinh động, tràn đầy sinh lực. Nhưng hiện nay, yoga đã trở thành quá nông cạn, một nguồn của lợi lộc, thế tục.

 Yoga tột đỉnh không phải được dạy cho những người ngẫu nhiên; nó là cái gì đó mà bạn thực hiện, có lẽ hàng ngày, để có sự nhận biết hoàn hảo về thân thể của bạn. Bạn theo dõi thân thể của bạn đến độ nó không tạo ra bất kỳ chuyển động nào, bất kỳ cử chỉ nào, mà không được quan sát. Không có sự chuyển động dư thừa của thân thể, nhưng nó không bị kiểm soát. Có lẽ bạn suy nghĩ rằng yoga là cái gì đó phải được luyện tập ngày sang ngày để phát triển bắp thịt, để có một thân thể nở nang. Nó không phải như thế. Nó là cái gì đó mà bạn sống cùng suốt ngày, đang nhìn ngắm đầy cảnh giác, đang thấu triệt.

 Ngày hôm trước chúng ta đã nói chuyện về sự liên hệ của chúng ta cùng thiên nhiên, cùng tất cả vẻ đẹp của thế giới, cùng những hòn núi, cùng những cánh rừng và cùng những quả đồi và cùng những cái bóng, cùng những cái hồ và những con sông. Chúng ta đã nói chuyện về hình ảnh được sáng chế bởi sự suy nghĩ mà hiện diện giữa chính người ta và hòn núi, những cánh đồng và những bông hoa, giống như người ta tạo ra một hình ảnh về người chồng hay người vợ của người ta và vân vân; hình ảnh đó ngăn cản sự liên hệ hiệp thông.

 Lúc này, có một liên hệ giữa bạn và người nói. Sự liên hệ đó rất quan trọng cho mục đích hiểu rõ. Người nói không đang thuyết phục bạn về bất kỳ quan điểm nào và cũng không gây ra bất kỳ áp lực nào, để cho bạn phải lắng nghe, chấp nhận hay phủ nhận. Ông ta không có uy quyền. Ông ta không là một đạo sư. Ông ta có một kinh tởm về ý tưởng của lãnh đạo, thuộc tâm lý hay tinh thần. Đối với ông ta, nó là một gớm ghiếc – và ông ta thực sự có ý điều đó. Đây là một vấn đề phải được hiểu rõ nghiêm túc .

 Chúng ta đã có những nói chuyện được chuyển tải lẫn nhau. Chúng không là những nói chuyện một phía. Thế giới là những con người sống cùng những dọa nạt, những dọa nạt thuộc tôn giáo, những báo chí, những người chính trị, những đạo sư và những giáo sĩ, những dọa nạt trong gia đình. Những dọa nạt đó khiến cho chúng ta cảm thấy tội lỗi; chúng tấn công trước và bạn phải phòng vệ. Đó là trò chơi đang xảy ra trong sự liên hệ của chúng ta và nó tạo ra một cảm thấy của tội lỗi.

 Chúng ta đã nói chuyện về sợ hãi và tại sao những con người, mà đã tiến hóa qua nhiều thiên niên kỷ, lại sống cùng gánh nặng khủng khiếp này được gọi là sợ hãi. Sợ hãi là một cảm xúc. Cảm xúc khoác vào nhiều hình thức, cảm xúc của thuốc men, nhậu nhẹt và vân vân, cảm xúc của tình dục, cảm xúc của đạt được cái gì đó, leo lên cái thang; hoặc một cái thang thế tục hoặc cái thang tạm gọi là tinh thần. Chúng ta có nhiều, nhiều sợ hãi, mà không chỉ hủy diệt khả năng của con người, nhưng còn biến dạng bộ não, mà thay đổi hay giới hạn hay tước đoạt cả khả năng thuộc sinh học lẫn thuộc tâm lý. Chúng ta đã thâm nhập nó, chúng ta đã nói gốc rễ của thời gian và sự suy nghĩ.

 Bạn có thể lắng nghe điều này một cách thản nhiên hay nghiêm túc, như bạn lắng nghe những nói chuyện của nhau. Nhưng những từ ngữ không là sự việc. Sợ hãi không là từ ngữ; nhưng từ ngữ đó có lẽ tạo ra sợ hãi. Từ ngữ là bức tranh, ý tưởng. Nhưng sự kiện của sợ hãi hoàn toàn khác hẳn. Vì vậy, người ta phải rất rõ ràng về vấn đề liệu từ ngữ đang thúc giục hay đang vun quén sợ hãi. Lúc đó, sự khuất phục của sợ hãi đó có nghĩa sự khuất phục từ ngữ đó, nhưng không phải sợ hãi.

 Và lại nữa người ta đã nói, bạn đối diện sự kiện đó như thế nào là điều quan trọng nhất: không phải chính sự kiện, nhưng làm thế nào bạn tiếp cận nó, làm thế nào bạn tiếp xúc nó. Nếu bạn tiếp cận sợ hãi cùng những kết luận, cùng những ý tưởng của làm thế nào khuất phục nó, làm thế nào kiềm chế nó, hay làm thế nào thăng hoa nó, nếu nguời ta nương dựa người nào đó để giúp đỡ khuất phục nó, vậy thì sợ hãi đó sẽ tiếp tục trong một hình thức này hay một hình thức khác. Và từ sợ hãi đó, con người đã làm những sự việc khủng khiếp. Từ sợ hãi của không có an toàn chúng ta đã hủy diệt những con người tới hàng triệu triệu người. Chiến tranh cuối cùng và chiến tranh trước đó đã phơi trần điều đó; và nơi nào có sợ hãi, có Thượng đế và tất cả sự thanh thản được rút ra từ những ảo tưởng. Nhưng khi có sự an toàn thuộc tâm lý và vì vậy sự an toàn thuộc sinh lý, có sự tự do khỏi sợ hãi. Không phải sự an toàn thuộc tâm lý trước rồi sau đó sự an toàn thuộc tâm lý. Những người xã hội và những người độc tài đã cố gắng thiết lập trật tự phía bên ngoài và họ không thành công. Họ chỉ đang đàn áp. Nhưng nếu người ta bắt đầu hiểu rõ toàn cấu trúc thuộc tâm lý của chính người ta, của mỗi con người, vậy thì người ta bắt đầu hiểu rõ bản chất của sợ hãi, và nó có thể được kết thúc.

 Bởi vì sáng hôm nay đẹp quá, chúng ta nên cùng nhau thâm nhập vào vẻ đẹp. Vẻ đẹp là gì? Nếu nguời ta được phép hỏi đầy kính trọng, bạn phản ứng ra sao đến câu hỏi: vẻ đẹp là gì? Liệu nó ở trong những hòn núi và những cái bóng, trong những ánh sáng lốm đốm nơi những cái cây này? Liệu nó là một tấm thảm nước bất động trong ánh trăng hay những vì sao của một chiều tối quang đãng? Hay khuôn mặt đẹp đẽ, cân đối, có vẻ đẹp bên trong đó? Hay nó ở trong những bức tranh và những bức tượng trong những viện bảo tàng? Có một bức tượng tuyệt vời trong viện bảo tàng Louvre, Victory of Samothrace. Đó là vẻ đẹp? Hay một người phụ nữ đẹp, trang điểm cẩn thận; đó là vẻ đẹp?

 Người ta nên đặt ra nghi vấn này cho chính người ta, bởi vì luôn luôn chúng ta đang tìm kiếm cái sự việc này. Đó là lý do tại sao những viện bảo tàng đã trở thành quan trọng như thế. Liệu nó do bởi, trong chính chúng ta, chúng ta quá xấu xa, quá vỡ vụn và bị tách rời đến độ chúng ta không bao giờ có thể thấy bất kỳ cái gì tổng thể? Chúng ta không bao giờ sống trong một cách tổng thể và vì vậy chúng ta nghĩ vẻ đẹp ở đằng đó, trong một bức tranh, trong một bài thơ dễ thương của Keats, hay trong một tác phẩm văn chương xuất sắc.

 Vì vậy, vẻ đẹp là gì? Vẻ đẹp là tình yêu? Vẻ đẹp là vui thú? Vẻ đẹp là cái gì đó mà cho bạn một cảm hứng, một cảm xúc? Khi bạn thấy quả đồi đó ở đằng kia và bầu trời xanh và những đường viền của những hòn núi đó tương phản bầu trời và những cái bóng và những cọng cỏ cháy nắng và những cái cây có bóng mát, hay thấy những đỉnh núi cao vút có tuyết phủ quanh năm, cùng bầu trời không bao giờ bị ô nhiễm, khi bạn thấy những cảnh này, khi bạn nhìn ngắm chúng, không tức khắc diễn đạt bằng từ ngữ, vậy thì điều gì xảy ra? Liệu sự hoành tráng của hòn núi đó, sự cô đơn vô cùng của nó, tại khoảnh khắc đó khi bạn thấy nó, không xóa sạch tất cả những tầm thường của bạn, tất cả những lo âu và những vấn đề của bạn và tất cả những khó nhọc của sống, hay sao? Trong tích tắc đó, bạn bặt tăm.

 Nó giống như một em nhỏ chơi đùa loanh quanh suốt ngày và khá nghịch ngợm. Điều gì xảy ra cho sự nghịch ngợm đó khi bạn cho em bé một món đồ chơi đẹp, phức tạp? Toàn năng lượng của em tập trung vào món đồ chơi đó và nó không còn nghịch ngợm nữa. Món đồ chơi đó cuốn hút em; nó trở thành quan trọng nhất. Đứa trẻ thương yêu nó và ôm ấp nó – bạn đã thấy một con gấu bông bị tơi tả. Và trong tích tắc hòn núi cuốn hút bạn và bạn quên bẵng mình. Nếu bạn thấy một bức tượng đẹp – không chỉ một trong những bức tượng Hy lạp nhưng còn cả những bức tượng của Ai cập cổ xưa cùng ý nghĩa lạ thường của chúng về quả đất, phong phú, bất động và cao quý – trong tích tắc sự cao quý và vô hạn của nó xóa sạch sự tầm thường của chúng ta. Tương tự, chúng ta, những người trưởng thành, bị mê mải bởi những món đồ chơi, nó có lẽ là kinh doanh của chúng ta, mánh khóe của chúng ta trong chính trị và vân vân. Những sự việc này cuốn hút chúng ta và nếu chúng không còn nữa, vậy thì chúng ta trở nên phiền muộn và cố gắng tẩu thoát bằng cách lẩn tránh khỏi chúng ta là gì.

 Vì vậy, liệu vẻ đẹp không là cái gì đó mà xảy ra khi ‘bạn’ không hiện diện; ‘bạn’ cùng tất cả những vấn đề của bạn, cùng không an toàn của bạn, và sự lo âu về vấn đề liệu bạn được thương yêu hay không được thương yêu? Khi ‘bạn’ cùng tất cả những phức tạp thuộc tâm lý này không hiện diện, vậy thì trạng thái đó là vẻ đẹp. Khi ‘bạn’ không hiện diện, có vẻ đẹp mà không là vui thú, và nó cũng không là cảm xúc.

 Đối với chúng ta, vui thú là một việc quan trọng lạ thường; vui thú của một hoàng hôn, vui thú của thấy người nào đó mà bạn ưa thích gần gũi anh ấy. Vì vậy, chúng ta nên cùng nhau nói chuyện về toàn ý tưởng của vui thú, bởi vì vui thú là điều gì chúng ta muốn, nếu chúng ta chân thật. Và đó là sự khó khăn của chúng ta. Bởi vì chúng ta không bao giờ chân thật một cách nghiêm túc đối với chính chúng ta. Chúng ta nghĩ rằng khi quá chân thật đối với chính chúng ta có lẽ dẫn đến sự rắc rối, không chỉ cho chính chúng ta nhưng còn cho những người khác.

 Vui thú là gì? Sở hữu một chiếc xe hơi đẹp, hay có một món đồ cổ dễ thương, để đánh bóng, để nhìn ngắm, để đánh giá? Vậy thì nguời ta đồng hóa chính người ta cùng món đồ đó; vậy thì người ta trở thành món đồ đó, bởi vì bất kỳ thứ gì người ta đồng hóa cùng nó, người ta là thứ đó. Nó có lẽ là một hình ảnh, nó có lẽ là một món đồ đạc, nó có lẽ là ý tưởng nào đó, kết luận nào đó, học thuyết nào đó, và sự đồng hóa là cái gì đó rất tiện lợi, gây thỏa mãn; nó không gây ra quá nhiều phiền muộn nhưng mang lại cho chúng ta nhiều vui thú. Tuy nhiên, vui thú theo cùng sợ hãi. Tôi không hiểu liệu bạn đã quan sát nó.

 Nó là mặt kia của đồng tiền, nhưng người ta không muốn quan sát mặt kia, tự nhủ với mình rằng vui thú là điều quan trọng nhất, ngay cả nhờ vào thuốc men, mà đang bị lạm dụng mỗi lúc một nhiều hơn khắp thế giới. Và có vui thú khi sở hữu một người đàn bà hay một người đàn ông, vui thú của quyền hành trên một người khác, trên người vợ hay người chồng. Chúng ta khao khát quyền hành; chúng ta ca tụng quyền hành; chúng ta tôn sùng quyền hành, dù nó là quyền hành thuộc tinh thần của thứ bậc tôn giáo, hay quyền hành của một người chính trị, hay quyền hành của tiền bạc. Đối với người nói, quyền hành là xấu xa. Có những người ham muốn quyền hành, qua sự hiểu biết, qua sự khai sáng. (Có sự khai sáng, nhưng không thuộc loại vô lý dốt nát mà họ giải thích và cho họ quyền hành.) Giáo dục, truyền hình, môi trường sống, tất cả đang biến chúng ta thành tầm thường. Chúng ta đọc quá nhiều về điều gì những người khác đang nói. Và thành công, thành công là sự tầm thường hoàn toàn.

 Bởi vì chính chúng ta không có quyền hành, địa vị, uy tín, chúng ta trao nó cho người nào đó và tôn sùng nó, khâm phục nó. Và chúng ta đã sống trong cách đó suốt nhiều thiên niên kỷ, tìm kiếm quyền hành, tiền bạc, và cảm thấy rằng chúng sẽ trao tặng tự do; mà không là tự do gì cả. Trong tự do đó bạn có thể chọn lựa điều gì bạn muốn và điều gì bạn thích; nhưng liệu đó là tự do? Liệu bạn đã thâm nhập nghi vấn này của tự do thực sự có nghĩa gì? Không phải trong thiên đàng? (Bạn nhớ chuyện vui đó – tôi xin phép lặp lại: Hai nguời đàn ông có cánh và hào quang ở trong thiên đàng. Một người nói với một người khác, ‘Nếu tôi chết rồi, tại sao tôi cảm thấy kinh khiếp như thế?’) Vì vậy, tất cả những hình thức của vui thú là bộ phận thuộc những sống của chúng ta, mà trở thành mỗi lúc một cảm xúc hơn, dễ dàng, thô tục và tầm thường hơn. Và thế là chúng ta tiếp tục cùng những vui thú của chúng ta và theo sau nó là sợ hãi.

 Từ ngữ ‘cảm xúc’ có nghĩa ‘hoạt động của những giác quan’. Hoạt động của những giác quan luôn luôn từng phần, giới hạn, nếu tất cả những giác quan không thức dậy trọn vẹn. Bạn muốn nhiều hơn và nhiều hơn, bởi vì cảm xúc quá khứ không đầy đủ. Liệu có một hoạt động tổng thể cho tất cả những giác quan? Những cảm xúc của chúng ta bị giới hạn và bạn lạm dụng thuốc men và vân vân để có những cảm xúc mạnh hơn. Nhưng chúng vẫn còn bị giới hạn và bạn đang thèm khát nhiều thêm. Bạn thèm khát nhiều thêm, do bởi những cảm xúc của bạn là từng phần. Vì vậy, tôi đang hỏi: liệu có một nhận biết tổng thể của tất cả những giác quan – để cho không bao giờ có một thèm khát nhiều thêm? Và nơi nào có sự nhận biết tổng thể của tất cả những giác quan này – không phải rằng ‘người ta’ nhận biết nó – nhưng một nhận biết của những giác quan trong chính chúng, vậy thì không có trung tâm từ đó có một nhận biết của trạng thái tổng thể đó. Khi bạn nhìn ngắm những quả đồi đó, liệu bạn có thể nhìn ngắm không những bằng hai mắt của bạn – những dây thần kinh thị giác đang vận hành – nhưng còn cả cùng tất cả những giác quan, cùng tất cả năng lượng của bạn, cùng tất cả chú ý của bạn? Vậy thì, không có ‘tôi’ gì cả. Khi không có ‘tôi’, không có thèm khát nhiều thêm, hay cố gắng đạt được cái gì đó to tát hơn.

 Tất cả những vấn đề chúng ta đã đề cập đều có liên quan lẫn nhau. Tội lỗi, những tổn thương thuộc tâm lý mà hầu hết chúng ta đều có, và những hậu quả của những tổn thương thuộc tâm lý đó. Sự kiêu hãnh của thông minh được vun quén riêng của người ta và những hình ảnh mà nguời ta đã xây dựng về chính người ta, chính là chúng mà bị tổn thương – không phải cái gì khác. Liên hệ, sợ hãi và vui thú; tất cả chúng đều liên quan lẫn nhau; chúng không là cái gì đó để được giải quyết từng mảnh một, hay bị tách rời, đang nói, ‘Đây là vấn đề của tôi’ hay ‘Nếu tôi có thể giải quyết vấn đề đó, tôi không cần quan tâm đến những vấn đề còn lại’. Nhưng những vấn đề khác vẫn còn y nguyên ở đó. Vì vậy, liệu người ta có thể thấy chuyển động này như một tổng thể, không chỉ là một chuyển động từng phần tại một thời điểm?

 Đau khổ là một chủ đề rộng lớn. Đau khổ đã ở trong những cái trí của những người đàn ông và những người đàn bà từ sự khởi đầu của thời gian – đau khổ mà không bao giờ đã kết thúc. Nếu bạn đi khắp mọi nơi, đặc biệt ở thế giới Châu á, hay ở Châu phi, bạn thấy sự nghèo đói khủng khiếp – khủng khiếp! Và bạn rơi nước mắt hay thực hiện sự đổi mới thuộc xã hội, hay cho lương thực hay quần áo, nhưng vẫn còn có đau khổ. Và có đau khổ vì người nào đó mà bạn đã mất. Bạn có chân dung của họ trên kệ lò sưởi, hay treo trên tường, bạn nhìn ngắm nó và nó làm sống lại tất cả những kỷ niệm liên quan đến chân dung đó và bạn rơi nước mắt. Người ta trung thành, duy trì, nuôi dưỡng, qua chân dung đó. Chân dung đó không là cái người đó; nó cũng không là những kỷ niệm; nhưng chúng ta bám vào những kỷ niệm đó mà cho chúng ta càng nhiều đau khổ thêm. Có đau khổ của những người đó mà chẳng có bao nhiêu trong những sống của họ, không tiền bạc và chỉ một ít quần áo. Họ sống trong dốt nát; không phải sự dốt nát về cái gì đó to tát hơn, nhưng sự dốt nát đơn giản của những sống hàng ngày của họ, của không có gì cả bên trong họ – không phải rằng những người giàu có cũng không có; họ có nó trong tài khoản ngân hàng, nhưng không gì cả bên trong. Tiếp theo, có đau khổ vô cùng của nhân loại, mà là chiến tranh. Hàng triệu người đã bị giết chết; ở Châu âu bạn đã thấy hàng ngàn cây thánh giá, tất cả trên một đường thẳng băng. Biết bao nhiêu đàn bà, đàn ông, trẻ em, đã khóc lóc trong mọi cộng đồng, trong mọi quốc gia, mọi chính thể. Suốt chiều dài lịch sử, hàng năm đã có những chiến tranh – những chiến tranh bộ lạc, những chiến tranh quốc gia, những chiến tranh học thuyết, những chiến tranh tôn giáo. Trong thời Trung cổ, họ đã tra tấn những người được nghĩ là dị giáo. Từ sự khởi đầu của con người, đau khổ đã tiếp tục trong những hình thức khác nhau. Đau khổ của nghèo khó, nghèo khó của không thể đạt được những ham muốn của bạn, nghèo khó của đạt được, bởi vì luôn luôn có nhiều thêm cần phải đạt được; tất cả những điều đó đã tạo ra đau khổ vô hạn – không chỉ đau khổ cá nhân, nhưng còn cả đau khổ của con người. Trong những chính thể độc tài, chúng ta đọc về việc gì đang xảy ra, nhưng không bao giờ rơi nước mắt. Chúng ta dửng dưng với tất cả nó, bởi vì chúng ta bị nuốt trọn bởi đau khổ riêng của chúng ta, cô độc riêng của chúng ta, nghèo khó riêng của chúng ta. Vậy là, chúng ta tự hỏi mình, liệu có một kết thúc cho đau khổ? Liệu có một kết thúc cho những đau khổ thuộc cá nhân của chúng ta, cùng tất cả những hàm ý của sự kết thúc đó? Nếu chúng ta có quan tâm, cam kết một cách nghiêm túc để tìm ra, liệu có một kết thúc cho đau khổ? Và nếu có một kết thúc, vậy thì có gì ở đó – bởi vì chúng ta luôn luôn muốn một phần thưởng: nếu chúng ta kết thúc cái này, chúng ta phải kiếm được cái kia? Chúng ta không bao giờ kết thúc bất kỳ thứ gì cho chính nó, chính bản chất.

 Sự liên quan của đau khổ với tình yêu là gì? Người ta biết đau khổ là gì – ý thức của cô lập, cô độc, buồn bã, phiền muộn vô cùng. Đau khổ của một người được cảm thấy là hoàn toàn khác hẳn đau khổ của một người khác. Và trong chính cảm thấy của nó người ta đã bị cô lập. Chúng ta biết, không chỉ bằng từ ngữ, nhưng trong chiều sâu, trong cảm thấy phía bên trong của chính thân tâm người ta ý nghĩa của đau khổ là gì. Và sự liên hệ của đau khổ với tình yêu là gì? Tình yêu là gì? Có khi nào bạn đã đặt ra câu hỏi này cho chính bạn? Liệu nó là cảm xúc tình dục, đọc một bài thơ hay, nhìn ngắm những cái cây cổ thụ hoành tráng đó? Tình yêu là vui thú? Làm ơn – chúng ta phải rất chân thật với chính chúng ta, ngược lại không có vui vẻ trong điều này. (Vui vẻ là cần thiết: có thể cười, có thể cùng nhau cười trong một chuyện vui, không phải khi bạn một mình, nhưng cùng nhau.) Chúng ta đang hỏi mình, tình yêu là gì? Tình yêu là ham muốn? Tình yêu là suy nghĩ? Tình yêu là cái gì đó mà bạn ấp ủ và sở hữu? Tình yêu là cái gì đó mà bạn có được khi bạn tôn thờ bức tuợng, hình ảnh, biểu tượng? Đó là tình yêu? Biểu tượng, bức tượng hay bức tranh, là kết quả của sự suy nghĩ. Những lời cầu nguyện của bạn được sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ. Đó là tình yêu? Dĩ nhiên, chắc chắn sợ hãi không là tình yêu. Có khi nào bạn đã quan sát hận thù? Nếu bạn hận thù, bạn xóa sạch sợ hãi. Nếu bạn thực sự hận thù ai đó, không có sợ hãi. Qua sự phủ nhận hoàn toàn trong chính người ta của điều gì không là tình yêu, hoàn toàn xóa sạch tất cả mọi điều không là tình yêu, vậy thì hương thơm đó hiện diện ở đó. Hương thơm đó không bao giờ có thể tan biến ngay khi bạn đã hoàn toàn xóa sạch những sự việc đó mà không là tình yêu. Lúc đó tình yêu, mà theo cùng từ bi, có thông minh riêng của nó, mà không là thông minh của bộ não khoa học. Khi người ta có tình yêu đó, từ bi đó, không có phiền muộn, không hối tiếc, không đau khổ. Tình yêu đó hiện diện ở đó khi bạn phủ nhận mọi thứ mà không là tình yêu. Nếu có tình yêu, vậy thì bạn sẽ không bao giờ giết chết một người khác – không bao giờ! Bạn sẽ không bao giờ giết chết một con thú cho lương thực của bạn. (Dĩ nhiên, cứ tiếp tục ăn thịt, tôi không đang bảo bạn đừng ăn thịt.) Quả là một việc lạ thường khi bắt gặp nó. Không ai có thể trao nó cho một người khác. Không gì có thể trao nó cho bạn. Nhưng, nếu bạn, trong thân tâm của bạn, xóa sạch tất cả mọi điều không là tình yêu, tất cả mọi điều mà sự suy nghĩ đã sắp xếp vào chung, vậy là, bạn thực sự mới mẻ lại, cùng tất cả những vấn đề của bạn hoàn toàn được xóa sạch, lúc đó cái khác lạ hiện diện. Nó là cái tích cực nhất, cái thực tế nhất. Cái không thực tế nhất trong sống là chế tạo vũ khí, giết chết con người, đúng chứ? Đó là điều gì tiền thuế của bạn đang được tiêu xài. Tôi không là một người chính trị, vì vậy đừng lắng nghe tất cả điều này. Nhưng thấy việc gì chúng ta đang làm, và việc gì chúng ta đang làm là xã hội đó mà chúng ta đã tạo ra. Xã hội không khác biệt chúng ta, chúng ta đã thiết lập nó. Tình yêu không liên quan đến bất kỳ tổ chức nào, hay bất kỳ con người nào. Giống như một cơn gió mát mẻ từ đại dương, bạn có thể không thâu nhận nó hay sống cùng nó. Khi bạn sống cùng nó, nó là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn. Không có con đường dẫn đến nó; không có con đường dẫn đến sự thật – không con đường nào cả. Người ta phải sống cùng nó. Người ta chỉ có thể hiệp thông cùng nó khi người ta đã hiểu rõ toàn bản chất và cấu trúc thuộc tâm lý của chính người ta.

 Ngày mai chúng ta nên nói về chết. Nó không là một chủ đề không lành mạnh. Nó không là cái gì đó phải bị lẩn tránh. Nếu bạn đã sống cùng cái khác lạ mà chúng ta đã và đang nói, bạn sẽ bắt gặp tất cả cái này một cách tinh tế, dịu dàng, lặng lẽ, không phải từ hiếu kỳ. Bạn sẽ tiếp cận nó một cách ngập ngừng, cùng trang nghiêm lạ thường, cùng kính trọng phía bên trong. Giống như sinh ra, nó là một việc lạ thường. Chết cũng hàm ý sáng tạo – không phải sáng chế. Những người khoa học đang sáng chế, sự sáng chế của họ được sinh ra từ sự hiểu biết. Sáng tạo là liên tục. Nó không có khởi đầu và không kết thúc. Nó không được sinh ra từ sự hiểu biết. Và chết có lẽ là ý nghĩa của sáng tạo – không phải một vấn đề của có một cuộc đời kế tiếp cùng những cơ hội tốt đẹp hơn, một ngôi nhà đẹp đẽ hơn, cái tủ lạnh hiện đại hơn. Nó có lẽ là một ý thức của sáng tạo lạ thường, vô tận, mà không khởi đầu và kết thúc. 

 Từ  Bản tin 51, 1986

_________________________________

Bắt đầu 20:00 ngày 1 tháng 3 năm 2011
Chấm dứt 08:00 ngày 8 tháng 5 năm 2011

Đã dịch:

1 – Sổ tay của Krishnamurti
Krishnamurti’s Notebook
2 – Ghi chép của Krishnamurti
Krishnamurti’s Journal
3 – Krishnamurti độc thoại
 Krishnamurti to Himself
4 – Ngẫm nghĩ cùng Krishnamurti
Daily Meditation with Krishnamurti
5 – Thiền định 1969
 Meditation 1969
6 – Thư gửi trường học
 Letters to Schools
7 – Nói chuyện cuối cùng 1985 tại Saanen
 Last Talks at Saanen 1985
8 – Nghĩ về những việc này
 Think on these things
9 – Tương lai là ngay lúc này
The Future is now
10 – Bàn về Thượng đế
 On God
11– Bàn về liên hệ
 On Relationship
12 – Bàn về giáo dục
 On Education
13 – Bàn về sống và chết
 On living and dying
14 – Bàn về tình yêu và sự cô độc [2-2009] 
 On Love and Loneliness
15 – Sự thức dậy của thông minh Tập I/II [2009 ]
 The Awakening of Intelligence
16 – Bàn về xung đột [4-2009]
 On Conflict
17 – Bàn về sợ hãi
 On Fear
18 – Vượt khỏi bạo lực [6-2009]
 Beyond Violence
19 – Bàn về học hành và hiểu biết [8-2009]
 On Learning and Knowledge
20 – Sự thức dậy của thông minh Tập II/II [12-2009 ]
 The Awakening of Intelligence
21 – Nghi vấn không đáp án [2009]
 The Impossible Question
22 – Tự do đầu tiên và cuối cùng [4-2010]
 The First and Last Freedom
23 – Bàn về cách kiếm sống đúng đắn [5-2010]
 On Right Livelihood
24– Bàn về thiên nhiên và môi trường [5-2010]
 On Nature and The Environment
25– Tương lai của nhân loại [5-2010]
 The Future of Humanity 
26– Đoạn kết của thời gian
 The Ending of Time [5-2010]
27– Sống chết của Krishnamurti – 2009
 The Life and Death of Krishnamurti 
 A Biography by Mary Lutyens [Đã dịch xong]
28–Trách nhiệm với xã hội [6-2010]
 Social Responsibility
29– Cá thể và xã hội [7-2010]
 Individual & society
30– Cái gương của sự liên hệ [11-2010]
 The Mirror of Relationship
31­– Bàn về cái trí và suy nghĩ [8-2010]
 On mind & thought
32– Tại sao bạn được giáo dục? [2-2011]
Why are you being educated?
33– Bàn về Sự thật [3-2011]
 On Truth
34– Tiểu sử của Krishnamurti – Tập I/II [5-2011]
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
35– Tiểu sử của Krishnamurti – Tập II/II [6-2011]
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
36- Truyền thống và Cách mạng [7-2011]
Tradition & Revolution
37- Khởi đầu của học hành
 Beginnings of Learning [8-2011]
38- Giáo dục và ý nghĩa của sống [9-2011]
 Education and Significance of Life
39- Cuộc đời trước mặt [10-2011]
 Life Ahead
40- Gặp gỡ cuộc sống [11-2011]
Meeting Life
______________________________

Đón đọc:
41- Giới hạn của suy nghĩ [12-2011]
 The Limits of Thought
42- Lửa trong cái trí [1-2012]
 Fire in the mind
43-The Kitchen Chronicles
 1001 Lunches with J. Krishnamurti[2-2012]
44- On Freedom [3-2012]
45-Commentaries on living-First Series [4-2012]
46- Commentaries on Living-Second Series
47- Commentaries on Living- Third Series

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn