Quyển Một - Phần 3

19 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 9947)

Theo Gót Chân Bụt

ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG
Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, California, USA



Chương 11
TIẾNG SÁO CANH KHUYA

Udayin, Devadatta, Kimbila, Mahnama, Kaludayi và Anuruddha là những người bạn thường đến chơi với Siddhatta để luận bàn chính trị và đạo đức cùng với Ananda và Nanda, họ sẽ là những người thần tử thân cận nhất của Siddhatta sau này khi chàng lên nối ngôi vua. Những cuộc đàm luận kéo dài sau tiệc rượu, và chiều ý các bạn, Siddhatta đã để cho những đoàn vũ nhạc của hoàng gia trình diễn có khi đến suốt đêm. Devadatta thường nói thao thao bất tuyệt về chính trị. Udayin và Mahanama là những người hưởng nứg nhiều nhất và thảo luận về những điểm mà Devadatta đưa ra ma không biết mệt mỏi. Siddhatta nói rất ít. Có khi giữa một hội ca vũ, nhận thấy Anuruddha ngồi ngủ gục không tỏ ý gì tha thiết với các cuộc vui, chàng nắm tay Anuruddha đưa ra vườn.

Hai người im lặng ngắm trăng và nghe tiếng suối róc rách chảy. Anuruddha là em ruột của Mahanama. Hai người đều là con trai của thân vương Amiriodana, chú ruột của Siddhatta. Anuruddha tính tình hòa nhã, diện mạo xinh đẹp, thường được các công nương để ý theo dõi, nhưng chàng không để tâm tới chuyện tình duyên. Có khi Siddhatta và Anuruddha ngồi chơi ngoài ngự viên thật khuya, và khi tiếng đàn hát trong cung đã im bặt chàng mới lấy ống sáo ra thổi dưới ánh trăng vằng vặc. Lúc này các vương tử và bạn bè đều say sưa hoặc mệt mỏi nên đã được mời vào an nghỉ trong cung tại các phòng dành cho tân khách. Sau khi sắp đặt đâu đấy xong xuôi và cho bọn người hầu đi ngủ, Copa thường đi đốt một lò trầm nhỏ và đem ra vườn. Nàng lặng lẽ đặt lư trầm lên bệ đá rồi ngồi xuống trên một chiếc ghế gần bên để lắng nghe tiếng sáo dìu dặt bỗng trầm trong canh khuya.

Thấm thoát mà đã đến ngày Yasodhara mãn nguyệt khai hoa. Vương phi khuyên con ở lại nội cung để sinh nở mà đừng về quê ngoại ở Ramagama, bởi chính bà cũng đang cư trú ở Kapilavatthu. Bà bàn với hoàng hậu ma và sắp đặt mời các bà mụ giỏi nhất trong kinh đô về cung để giúp Yasodhara. Ngày Yasodhara lâm bồn, hoàng hậu Gotami có mặt mà vương phi Pamita mẹ của Yasodhara cũng có mặt. Mọi người yên lặng chuẩn bị giờ ra đời của em bé. Trong cung, một bầu không khí nghiêm trọng bao phủ. Vua Suddhodana không có mặt ở đây nhưng Siddhatta biết rằng phía bên kia cung điện phụ vương chàng cũng đang khắc khoải chờ đợi.

Mới vừa đây, Yasodhara còn ngồi với chàng, khi bắt đầu kêu đau, Yasodhara đã được các thị nữ vực vào phòng trong. Bây giờ là vào giữa trưa, nhưng bỗng dưng trời tối sầm lại như có bàn tay ai che mát mặt trời. Siddhatta ngồi ngoài này, cách nàng tới hai lớp cửa, nhưng những tiếng rên siết của nàng từ bên trong đưa ra chàng đều nghe rõ mồn một. Càng lúc niềm lo lắng của chàng càng lớn thêm, rồi những tiếng đau đớn của Yasodhara vọng lên không ngớt. Siddhatta nóng ruột, những tiếng gào của nàng làm nát cả tâm can thái tử. Chàng không thể ngồi yên một chỗ. Chàng đứng dậy đi bộ trong phòng, có khi Yasodhara thét lên những tiếng lanh lảnh làm cho chàng hốt hoảng.

Mẹ sinh ra chàng, hoàng hậu Mahamaya, ngày xưa vì sinh chàng mà đã mệnh chung; chàng không bao giờ quên sự thật nát lòng này. Bây giờ đến Yasodhara. Bây giờ đến đứa con của chàng. Sinh đẻ là một cửa ải mà người đàn bà có chồng phải có lúc vượt qua: một cửa ải nguy hiểm không cùng. Qua được là sống mà không qua được là chết, mà có khi chết cả hai mẹ con. Nhớ đến lời dạy của vị sa môn mà chàng đi thăm mấy tháng về trước, chàng ngồi lại trong tư thế hoa sen để bắt đầu điều phục tâm ý. Đây là một giây phút thử thách. Chàng phải giữ được tâm bình lặng trước những tiếng thét của Yasodhara.

Chàng vừa ngồi lại thì bỗng thấy hình bóng của một em bé sơ sinh hiện ra trong óc. Hình bóng của đứa con chàng. Ai cũng mong ước cho chàng có một đứa con, và sẽ vui mừng cho chàng vì chàng có một đứa con. Chính chàng, chàng cũng đã ao ước có một đứa con, nhưng bây giờ đây, trong giờ phút quyết liệt này, chàng cảm thấy có một đứa con là một biến cố vô cùng quan trọng. Mình chưa tìm ra được đường đi cho chính mình, mình chưa biết mình đi về đâu, mà mình sinh con ra há chẳng phải tội nghiệp cho con lắm sao?

Bỗng nhiên tiếng la hét của Yasodhara im bặt. Chàng bật người đứng dậy, Cái gì đang xảy ra? Trái tim của chàng đập mạnh. Để lấy lại bình tĩnh chàng chú tâm vào hơi thở. Chính vào lúc ấy có tiếng oe oe của một đứa trẻ vọng ra. Biết là em bé đã sinh, Siddhatta đưa tay lên mồ hôi trên trán.

Bà Gotami mở cửa đi ra nhìn chàng, miệng bà mỉm cười. Siddhatta biết rằng mẹ con Yasodhara đã được bình yên. Hoàng hậu ngồi xuống phía trước mặt chàng. Bà nói:

- Gopa đã sinh con trai.

Siddhatta mỉm cười, nhìn mẹ với cặp mắt cám ơn. Chàng nói:

- Con đặt tên cho nó là Rahula.

Chiều hôm đó, Siddhatta được vào thăm hai mẹ con Rahula. Hai mắt sáng ngời nhìn chàng, tràn đầy hạnh phúc. Bên cạnh nàng là em bé. Em bé đã được bọc trong lụa, và chàng chỉ thấy được khuôn mặt bụ bẫm của con. Siddhatta nhìn Yasodhara. Nàng ra đấu ưng thuận. Chàng cúi xuống bế Rahula lên và ôm con vào trong hai tay. Yasodhara nhìn theo. Cũng như hồi nãy, chàng vừa có cảm giác phơi phới lâng lâng mà cũng vừa có cảm giác lo lắng nặng nề.

Yasodhara được tĩnh dưỡng nhiều ngày trong cung. Hoàng hậu Gotami săn sóc nàng thật kỹ lưỡng từ thức ăn đến lò sưởi. Mỗi buổi chiều, khi về đến tư cung, Siddhatta lại vào thăm hai mẹ con. Ôm Rahula trong tay, Siddhatta cảm thấy sự quý giá và mong manh của một mầm sống. Chàng nhớ lại hôm đi đám hỏa táng của em bé ở xóm nghèo. Em bé là một em bé trai chỉ chừng bốn tuổi. Xác nó còn để trên giưòng, khi chàng với Yasodhara tới. Em bé không có một chút sinh khí nào. Thân hình nó vừa trắng bệch, vừa xanh xao, vừa gầy ốm. Mẹ của em bé vẫn còn ngồi bên giường vừa chùi nước mắt vừa khóc kể. Một lát sau, ông thầy Bà la môn tới.

Mấy người láng giềng đã túc trực tại đó từ bao giờ. Họ quấn xác em bé vào trong vải hồng rồi đặt em bé vào trong một cái cáng tre mà họ đã làm sẵn để đưa em ra bờ sông. Siddhatta và Yasodhara đi theo sau, trong đám người nghèo khổ. Ngoài bờ sông, đã có dựng một hỏa đàn nhỏ, rất đơn giản. Theo sự chỉ dẫn của ông thầy cúng, người ta khiêng cáng xuống sông và nhúng xác em bé vào dòng nước. Đó là lễ tẩy tịnh; người ta tin rằng nước sông Banganga thiêng liêng sẽ rửa sạch nghiệp chướng của em bé. Rồi người ta đem cáng lên bờ đặt xuống để nước giọt đi bớt. Một người đàn ông đi chế dầu thơm vào hỏa đàn.

Thi thể của em bé được đạt lên giàn hỏa. Ông thầy Bà la môn, tay cầm đuốc, vừa đi quanh hỏa đàn vừa đọc kinh, Siddhatta nhận ra những đoạn trong kinh Vệ Đà. Đi quanh được ba vòng, ông thầy châm lửa vào giàn hỏa. Lửa phật cháy, Mẹ và các anh chị của đứa bé òa lên khóc. Lửa đã bắt đầu táp vào thi thể em bé. Siddhatta nhìn Yasodhara. Mắt nàng đẫm lệ. Siddhatta bất giác cũng muốn khóc. Bé ơi, bé ơi, bé đang đi về đâu?

Siddhatta trả Rahula lại cho mẹ nó. Chàng đi ra vườn ngự, và chàng ngồi ở ghế đá một mình cho đến khi màn đêm buông xuống và một cô thị nữ ra tìm chàng:

- Tâu điện hạ, lệnh bà cho con đi tìm điện hạ. Hoàng thượng ngự giá sang thăm.

Siddhatta đi vào. Đèn đuốc đã được thắp lên sáng trưng trong cung điện.
 
 

Chương 12
CON NGỰA KANTHAKA

Sức khẻo của Yasodhara trở lại bình thường, và nàng đã có thể bắt đầu lại công việc, tuy rằng nàng để khá nhiều thì giờ lo cho bé Rahula. Một sáng mùa Xuân nọ, Channa đánh xe song mã đưa Siddhatta và Yasodhara đi ra ngoài thành du ngoạn, theo lời khuyên nhủ của bà Gotami. Rahula cũng được ẵm theo và một cô thị nữ tên Ratna cũng được đi theo để săn sóc bé.

Nắng ấm đã lên. Lá cây xanh mơn mởn. Hoa nở khắp nơi, những cây vô ưu và những cây hồng táo nở hoa đầy mình. Chim chóc ca hát bốn phía. Channa cho xe đi chậm. Có những người dân quê nhận ra được Siddhatta và Yasodhara. Họ đứng dậy đưa cả hai tay lên vẫy. Xe đã ra tới bờ sông Banganga. Bỗng nhiên, Channa ghim cương ngựa lại. Mọi người nhìn về phía trước mặt. Một người đang nằm chặn giữa đường, tay chân người đó co quắp lại. Toàn thân người đó run rẫy. Miệng người đó không ngớt kêu rên. Siddhatta nhảy xuống, lại gần. Channa cũng buộc cương ngựa vào thành xe, nhảy xuống. Người nằm bên đường là một người đàn ông, tuổi chưa tới ba mươi. Siddhatta cầm lấy tay người ấy và ngước mắt hỏi Channa:
- Ngưòi này trúng gió phải không, Channa? Anh hãy giúp ta xoa bóp và đánh gió cho ông ta.
Channa lắc đầu:
- Thưa điện hạ, đây không phải là triệu chứng của người trúng gió. Người này mắc phải chứng dịch hạch. Chứng này hiện chưa có thầy thuốc nào biết cách chữa.
- Khổ chưa, thái tử Siddhatta nhìn kỹ lại người bệnh. Ta có nên chở ông ta về cho ngự y xem xét không?
- Thưa điện hạ, bệnh này ngự y cũng không trị nổi, mà bệnh này lại hay lây. Nếu ta chở người này lên xe thì bệnh có thể lây tới lệnh bà, tới cậu Rahula, và tới cả điện hạ nữa. Xin điện hạ buông tay người ấy ra đi, kẻo nguy hiểm lắm.

Siddhatta vẫn không buông tay người bệnh. Chàng nhìn tay người bệnh rồi nhìn lại tay chàng. Chàng biết chàng là một người mạnh khẻo, nhưng nhìn thấy người bệnh trạc tuổi mình đang nằm trước ngưỡng cửa của cái chết, bao nhiêu sự tự hào về sức khẻo và sự may mắn của riêng mình đột nhiên tan biến hết nơi chàng. Từ bờ sông, bỗng có tiếng khóc than vọng lại. Chàng đưa mắt nhìn lên. Lại một đám ma. Lại một giàn hỏa. Tiếng đọc kinh đã vọng lên chen lẫn với tiếng khóc than và tiếp đến là tiếng phần phật của giàn lửa bốc cháy.

Siddhatta nhìn xuống thì người bệnh dưới chân mình đã tắt thở. Hai con mắt ông ta còn trợn trừng. Chàng đặt bàn tay người ấy xuống, đưa tay vuốt mắt người chết. Khi đứng dậy thì chàng thấy Yasodhara đã đứng dẵn sau lưng chàng không biết từ lúc nào.
Nàng nói giọng nhỏ nhẹ:
- Xin điện hạ xuống rửa tay dưới bến sông. Channa, anh cũng nên xuống sông rửa tay đi. Rồi chúng ta đánh xe vào xóm báo cho nhà chức trách địa phương biết để họ lo liệu.

Cuộc du hành mùa Xuân tới dây là chấm dứt. Siddhatta báo Channa đánh xe trở về cung điện. Trên đường về không ai nói với ai một lời nào. Tối hôm ấy, Yasodhara nằm mơ thấy toàn là những ác mộng. Trong giấc mơ đầu, nàng thấy một con bò mộng trắng, trên đầu có gắn một viên ngọc lớn lấp lánh như sao Bắc đẩu. Con bò đi từng bước thong thả qua đường phố thành Kapilavatthu và hướng về cổng thành. Từ đền thờ Indra, có tiếng thiên thần la lớn: “Nếu không giữ được con bò này lại thì kinh đô này còn đâu là ánh sáng”. Mọi người trong thành đều chạy đến cố sức giữ bò lại, nhưng rốt cuộc, không ai giữ được nó. Con bò thoát ra khỏi thành và đi mất.

Trong giấc mộng thứ hai, nàng thấy bốn vị vua trời từ trên đỉnh núi Tu Di phóng hào quang ngay thành Kapilavatthu. Ngọn cờ đang bay phấp phới trên đền thờ Indra bỗng dưng đập mạnh và rơi xuống đất. Hoa ở trên trời rơi xuống như mưa, hoa đủ năm màu, chói lọi. Khắp nơi như mở đại hội, và tiếng nhạc từ trên không vang dội khắp kinh kỳ.

Trong giấc mộng thứ ba, nàng nghe tiếng hô to trong không gian: “Giờ đã đến! Giờ đã đến!”. Nàng hoảng hốt nhìn sang chỗ Siddhatta ngồi thì không còn thấy Siddhatta ở đấy. Những chiếc hoa lài cài trên tóc nàng bỗng rơi xuống sàn nhà và biến thành tro bụi. Tất cả những áo mão và đồ trang sức mà Siddhatta để lại trên ghế chàng bây giờ bỗng biến thành một con rắn đang trườn ra phía cửa. Trong hoảng hốt, nàng nghe tiếng rống của con bò trắng từ phía ngoài thành. Nàng nghe tiếng phần phật của ngọn cờ trên đền thờ Indra, và nàng nghe tiếng hô lớn trong không gian: “Giờ đã đến! Giờ đã đến!”.
Yasodhara thức giấc. Trán nàng toát mồ hôi. Quay sang phía Siddhatta, nàng lay chàng dậy:
- Anh, anh ơi, anh thức dậy đi anh.
Siddhatta vẫn còn thức. Chàng đưa tay vỗ về Yasodhara. Chàng nói:
- Em vừa mới mơ thấy gì đó? Hãy kể cho anh nghe đi.
Yasodhara kể lại những giấc mộng của nàng, và nàng hỏi chàng:
- Có phải những giấc mộng ấy báo trước rằng anh sẽ ra đi tìm đạo và bỏ em ở nhà một mình phải không anh?
Siddhatta im lặng nghe. Chàng an ủi nàng:
- Này Gopa, em đừng buồn. Anh biết em là một người có chí khí. Anh biết em là người cộng sự của anh, và em có thể giúp anh hoàn thành được chí nguyện. Em hiểu anh hơn ai hết trong những người thân thuộc của chúng ta. Vậy nếu mai này mà anh phải đi và phải xa em, xa em trong một thời gian, anh mong rằng em sẽ có đủ can đảm để tiếp tục công việc của em. Em sẽ chăm sóc con và nuôi con lớn lên, dù anh có đi, dù anh có ở xa em thì tình thương của anh đối với em bao giờ cũng thế. Anh sẽ chẳng bao giờ không yêu em. Nếu em biết như thế thì em có thể chịu đựng được sự xa cách. Khi anh tìm được đạo, anh sẽ trở về với em, với con. Thôi em ngủ lại đi.

Tiếng Siddhatta ôn tồn, ngọt ngào và vỗ về đi thẳng vào lòng Yasodhara. Nàng có đủ đức tin nơi chàng. Nàng ngoan ngoãn nhắm mắt lại.
Sáng hôm sau, Siddhatta vào gặp vua cha. Chàng tâu:
- Thưa phụ vương, con xin phép phụ vương xuất gia để tìm đạo.
Vua Suddhodana giật mình, tuy đã từng nghĩ đến biến cố có thể xảy ra này, nhưng vua chưa bao giờ nghĩ nó xảy ra một cách đột ngột như vậy. Trầm ngâm hồi lâu, ngài nhìn con rồi nói:
- Ngày xưa trong giòng họ ta thỉnh thoảng cũng có người đi xuất gia làm sa môn, nhưng không ai bỏ nhà ra đi vào tuổi của con cả. Ai cũng đợi đến sau tuổi năm mươi. Sao con không làm như thế? Con của con còn nhỏ, và nước nhà đang trông cậy vào con ...
- Thưa phụ vương, một ngày con ngồi trong cung cũng như một ngày con ngồi trên đống lửa. Tâm con không an thì làm sao con có thể đáp lại sự trông cậy của phụ vương, của nước nhà, cũng như của bất cứ ai? Con thấy ngày tháng qua rất mau, tuổi trẻ của con cũng vậy. Xin phụ vương cho phép con ...
Vua ôn tồn:
- Con nên nghĩ đến sơn hà, xã tắc, đến ta, đến Yasodhara và đến đứa con còn trứng nước của con.
- Thưa phụ vương, chính vì con nghĩ đến cho nên con mới xin phép phụ vương cho con ra đi. Con đi đây không phải là để cho một mình con. Con không ích kỷ đi trốn tránh nhiệm vụ của con. Chính phụ vương cũng biết rằng phụ vương không giúp được cho con giải tỏa những khổ đau dằn vặt trong con. Ngay cả những khổ đau dằn vặt trong lòng phụ vương, phụ vương cũng chưa giải tỏa được.
Vua đứng dậy nắm lấy tay chàng:
- Con biết rằng ra rất cần con. Con là người mà ta đặt hết kỳ vọng của ta. Con đừng bỏ ta.
- Con không bao giò bỏ phụ vương. Con chỉ xin phụ vương đi xa. Chừng nào đạt đạo con sẽ trở về.

Nét mặt Suddhodana dàu dàu. Ngài không nói gì nữa. Ngài bỏ vào biệt điện. Chiều hôm đó, hoàng hậu Gotami qua ở lại suốt buổi với Yasodhara. Cũng chiều hôm đó, Udayin bạn của Siddhatta đến chơi. Chàng rủ theo Devadatta, Ananda, Anuruddha, Kimbila và Bhadrika, những người trai trẻ đòi tổ chức cuộc vui. Udayin đã mời được đoàn vũ công tài ba nhất trong kinh thành đến. Đèn đuốc thắp lên sáng rực cả cung điện.

Bà Gotami cho Yasodhara biết là Udayin đã được vua cho triệu tới và giao trách nhiệm làm đủ mọi cách để ngăn Siddhatta bỏ nhà ra đi. Cuộc vui tối nay nằm trong chương trình hành động của chàng. Yasodhara ra lệnh cho các thị nữ đi lo thức ăn và thức uống cùng các nhu cầu khác cho cuộc vui và nàng ở lại bên trong đàm đạo với phu nhân Gotami trong khi bên ngoài công viên Siddhatta tiếp đãi các bè bạn. Hôm đó là ngày trăng tròn tháng Uttarasalha. Khi tiếng nhạc của cuộc vui bắt đầu trổi đậy thì trăng cũng bắt đầu nhô lên trên rặng cây phía trời Đông Nam.
Bà Gotami tâm sự với Yasodhara cho tới khuya mới về cung an nghỉ. Khi đưa bà ra sân. Yasodhara thấy trăng đã lên tới đỉnh đầu. Cuộc vui còn tiếp diễn với tiếng trống tiếng nhạc và tiếng nói cười. Đưa hoàng hậu Gotami khỏ ngõ, nàng trở vào đi tìm Channa. Người hầu cận này đang ngủ. Nàng đánh thức Channa dậy, thầm thì:
- Có thể đem nay thái tử cần đến ngươi. Hãy chuẩn bị cho con Kanthaka, yên cương dầy đủ, và cũng nên chuẩn bị một con ngựa khác cho chính ngươi.
- Thưa lệnh bà, thái tử đi dâu vào giờ này?
- Ngươi đừng hỏi, cứ việc chuẩn bị như lời ta dặn vì thái tử có thể cần đến ngươi trong đêm nay.

Channa vâng dạ đi vào tàu ngựa. Yasodhara đi trở vào trong cung. Nàng sắp đặt sẵn giày nón và áo dạ hành cho thái tử. Nàng lại đi lấy thêm một chiếc chăn mỏng để đắp thêm cho Rahula, rồi nàng thay áo và lên giường. Nằm trên giường, nằng lắng nghe tiếng nhạc, tiếng ca, tiếng nói và tiếng cười. Cuối cùng, cuộc vui tan. Có lẽ mọi người đều đã tìm nơi an nghỉ. Yasodhara nằm yên lắng nghe sự im lặng trở về trong cung cấm. Nằm nằm yên chờ đợi, nhưng lâu lắm nàng vẫn không thấy Siddhatta đi vào.

Trong khi đó, Siddhatta ngồi một mình thật lâu ngoài vườn ngự. Chàng nhìn lên trời. Trăng sáng vằng vặc, ngàn sao nhấp nháy. Chàng quyết định đêm nay phải rời bỏ hoàng cung. Chàng đi vào, mang giày và mặc áo. Chàng vén rèm nhìn vào phòng ngủ , Rahula nằm ngay bên cạnh. Chàng muốn vào nói lời từ biệt nàng, nhưng chàng lưỡng lự, những lời dặn dò cần thiết nhất, chàng đã nói với nàng rồi. Thức nàng dậy chàng biết chàng sẽ làm cho phút biệt ly khó khăn hơn, và não lòng hơn, Chàng buông rèm xuống, định bước chân ra, nhưng chàng đứng lại vén rèm lần nữa, để nhìn hai mẹ con một lần cuối. Chàng nhìn thật kỹ như để thu lấy thêm một lần nữa cái hình ảnh quen thuộc và thân yêu ấy. Cuối cùng chàng buông rèm, bước ra.

Khi đi ngang qua phòng khánh tiết. Siddhatta thấy bọn vũ nữ nằm ngủ la liệt và ngã nghiêng trên nệm thảm. Đầu tóc họ xổ tung, có người mở rộng miệng ra như những con cá chết, những cánh tay mềm mại của họ bây giờ cứng đơ như những thanh củi, và chân họ gác ngang gác ngửa như trên một bãi chiến trường. Họ trông giống như những cái xác chết không hồn. Siddhatta có cảm tưởng mình đang bước ngang qua một cái nghĩa địa.
Chàng mở cửa ra đi ra phía chuồng ngựa. Channa đang thức. Chàng bảo:
- Channa, đem con Kanthaka ra đây.
Channa vâng dạ. Channa đã chuẩn bị mọi sự chu đáo rồi. Con Kanthaka đã có đủ yên cương. Channa thưa lại:
- Con có đi với điện hạ không?
Siddhatta gật đầu. Channa đi vào tàu, dắt ra một con ngựa khác. Con ngựa này cũng đã có đủ yên cương.
Hai thầy trò dắt ngựa ra khỏi cung. Siddhatta dừng lại, vuốt ve con Kanthaka. Chàng nói với ngựa:
- Này Kanthaka, chuyến đi này là một chuyến đi quan trọng. Con hãy hết lòng đưa ta đi.
Chàng nhảy lên mình ngựa. Channa cũng nhảy lên ngựa của mình. Hai thầy trò cho ngựa đi thong tha để đừng gây nên nhiều tiếng động.
Những người lính gác cửa thành đang ngủ say. Hai thầy trò vượt qua cổng thành một cách dễ dàng. Ra khỏi cổng thành, được chừng một dặm, Siddhatta dừng ngựa. Chàng quay nhìn lại kinh đô đang nằm im lìm dưới ánh trăng. Chính nơi kinh đô này mà Siddhatta đã sinh ra và lớn lên. Chính nơi kinh đô này mà chàng đã trải qua bao nhiêu buồn vui và thao thức. Chính trong kinh đô ấy, phụ hoàng, bà Gotami, Yasodhara, Rahula và tất cả những người thân yêu khác hiện đang ngủ say. Chàng thầm bảo:
- Nếu không tìm ra được con đường, ta sẽ không trở về Kapilavatthu nữa.
Chàng quay ngựa về phương Nam. Con Kanthaka bắt đầu phi nước đại.
 
 
Chương 13
ĐẠO TRÀNG ĐẦU TIÊN

Hai thầy trò đi như thế cho đến khi trời rạng sáng thì vượt khỏi biên giới vương quốc Sakya. Trước mặt họ là con sông Anoma. Hai thầy trò cho ngựa đi dọc theo bờ sông kiếm chỗ nước cạn để vượt qua bên kia sông. Qua bên kia sông, họ đi thêm một chặng đưòng nữa thì ngưng lại. Trước mặt dàn trải một khu rừng. Thấp thoáng trong rừng có bóng một con nai đi qua. Chim chóc bay quanh không hề biết sợ hãi. Siddhatta nhảy xuống ngựa. Chàng mỉm cười đưa tay vuốt bờm con Kanthaka:
- Kanthaka, con giỏi lắm. Con đã giúp ta tới được nơi đây, ta cám ơn con.
Con ngựa quý nghểnh cổ nhìn chàng. Siddhatta rút thanh kiếm đeo bên yên ngựa. Với tay trái, chàng nắm mớ tóc mây, và với tay mặt đang cầm kiếm chàng cắt ngang mái tóc. Channa đã xuống ngựa. Chàng đưa mớ tóc và thanh kiếm cho Channa. Rồi chàng cởi tràng ngọc đang đeo trên cổ ra:
- Channa ơi, anh hãy đem chuỗi ngọc, thanh kiếm và mớ tóc này về cho phụ vương ta. Anh thưa với ngài là ngài hãy có đức tin nơi ta. Ta bỏ nhà ra đi như thế này không phải vì ta íck kỷ, vì ta trốn tránh bổn phận. Ta đi vì mọi người và mọi loài. Anh hãy an ủi phụ vương giùm ta. Anh hãy an ủi hoàng hậu. Anh hãy an ủi Yasodhara. Ta nhờ anh ...
Channa tiếp lấy chuỗi ngọc, hai dòng nước mắt chảy ròng ròng:
- Điện hạ ơi, mọi người chắc là sẽ khổ lắm. Con chẳng biết sẽ ăn nói ra sao với hoàng đế, với hoàng hậu và với lệnh bà Yasodhara. Điện hạ ơi, làm sao mà điện hạ có thể sống được trong rừng và ngủ dưới gốc cây như những ông thầy tu khổ hạnh? Điện hạ từ xưa tới nay chỉ quen với nệm ấm chăn êm trong cung vàng điện ngọc?
Siddhatta mỉm cười:
- Anh đừng lo. Người khác sống như thế nào thì ta cũng sẽ sống được theo như thế ấy. Channa ơi! Thôi anh về đi, về để kịp báo tin cho những người thân, kẻo họ sốt ruột. Hãy để ta ở lại đây một mình.
Channa đưa tay chùi nước mắt:
- Xin điện hạ cho con ở lại đây để hôm sớm hầu hạ ngài. Xin điện hạ ra ơn làm phúc! Xin đừng bắt con trở về mang cái tin dữ này về cho những người mà con kính yêu!
Siddhatta vỗ vai người hầu cận: giọng chàng nghiêm nghị:
- Này Channa! Anh biết là ta cần anh trở về báo tin cho những người thân thuộc. Nếu anh thực sự thương ta thì anh nghe lời ta. Ta không cần anh ở đây. Người xuất gia tu hành đâu có cần tới kẻ hầu cận. Ta cần anh về với những người thân thuộc. Thôi anh về đi!
Channa miễn cưỡng vâng lời. Chàng trân trọng cất mớ tóc và chuỗi ngọc trong áo, và treo thanh gương vào trên yên con Kanthaka, rồi chàng đưa cả hai tay nắm lấy cánh tay Siddhatta: 
- Con xin nghe lời điện hạ nhưng xin điện hạ thưong con, thương mọi người. Xin điện hạ đừng quên trở về ngay sau khi tìm ra được đạo.
Siddhatta gật đầu. Chàng mỉm cười nhìn Channa với một cái nhìn khuyến khích. Chàng vỗ đầu Kanthaka:
- Kanthaka, con về nhé.
Channa cầm lấy giây cương của con Kanthaka và leo lên lưng ngựa của mình. Con Kanthaka nghểnh cổ nhìn Siddhatta một lần chót trước khi quay gót. Hai mắt nó cũng ướt như hai mắt của người dắt nó.
Đợi cho Channa và hai con ngựa đi khuất rồi Siddhatta mới ngoảnh mặt về phía rừng. Chàng đã đi vào cuộc sống lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu. Khu rừng này sẽ là nhà của Siddhatta hôm nay. Một cảm giác thoải mái và tự tại phát sinh trong chàng.
Vừa lúc ấy có một người từ trong rừng đi ra. Thoạt nhìn, Siddhatta tưởng rằng đó là một vị sa môn, bởi vì người này khoác một cái áo màu chàm thường là màu áo của người ẩn tu, nhưng nhìn kỹ Siddhatta thấy tay người ấy cầm cung và lưng người ấy đeo một bó tên.
- Anh là thợ săn phải không. Siddhatta hỏi.
- Vâng, người ấy trả lời.
- Anh là thợ săn, vậy tại sao anh mặc áo sa môn?
Người thợ săn mỉm cười:
- Tôi có khoác áo này thì bọn thú rừng mới không sợ. Nhờ đó tôi mới dễ dàng bắt chúng.
Siddhatta lắc đầu:
- Như vậy là anh lợi dụng lòng thương của người tu hành rồi. Anh có muốn tôi đổi cái áo này của tôi cho anh không?
Ngưòi thợ săn nhìn Siddhatta. Chiếc áo mà người đối diện mình đang mặc là một chiếc áo trị giá ngàn vàng.
- Ông muốn đổi thật không, người thợ săn hỏi lại.
- Thật chứ sao không, Siddhatta mỉm cười. Có cái áo này, anh có thể đem bán làm vốn để tìm một nghề khác làm ăn mà khỏi phải đi săn, còn tôi, tôi muốn làm sa môn cho nên tôi cần cái áo của anh.

Người thợ săn mừng rỡ. Hai người đứng ở cửa rừng cởi áo và đổi áo cho nhau. Người thợ săn được áo, hấp tấp đi ngay. Siddhatta trong chiếc áo mới đã có dáng dấp một vị sa môn. Chàng bước vào rừng. Tìm một gốc cây, chàng ngồi xuống tĩnh tọa lần đầu trong cuộc sống không nhà không cửa.

Sau một ngày dài ở trong cung và một đêm thâu trên lưng ngựa, giờ đây Siddhatta cảm thấy thoải mái lạ thường trong tư thế thiền tọa. Chàng ngồi như để nghỉ ngơi và nuôi dưỡng cảm giác thảnh thơi mà chàng đã nếm được khi mới bước vào rừng.
Nắng đã lên cao, một tia nắng xuyên qua được rừng cây và đến đậu trên mí mắt Siddhatta. Chàng mở mắt. Trước mặt Siddhatta hình như có người. Chàng ngửng lên và thấy một vị sa môn đang đứng ngắm chàng. Vị sa môn này khuôn mặt khắc khổ, thân hình gầy ốm, Siddhatta đứng dậy chắp tay chào hỏi. Chàng cho vị sa môn biết là chàng vừa mới bỏ nhà đi làm sa môn, nhưng chưa có dịp được một vị đạo sư nào thu nhận cả. Chàng nói chàng có ý định về miền Nam để tìm tới đạo tràng của đạo sư Alar Kalama để thụ giáo.

Vị sa môn cho Siddhatta biết là ông đã từng tu học dưới sự chỉ dẫn của đạo sĩ Alara Kalama. Ông cho biết hiện thời đạo sĩ đang mở đạo tràng ở phía Bắc thành phố Vesali, và dạy trên bốn trăm vị đệ tử. Ông biết đường đi về đạo tràng này và sẵn sàng đưa Siddhatta tới đó.
Chàng theo vị sa môn vượt khu rừng già rồi theo một con đường mòn lên lên một ngọn đồi để đi tới một khu rừng già khác. Đi như vậy tới trưa. Vị sa môn bảo Siddhatta ngừng lại. Rồi ông ta rủ Siddhatta cùng đi tìm hái những trái rừng và những đọt lá rừng để hai người ăn cho đỡ đói. Siddhatta hỏi để biết tên của những trái cây rừng và những đọt lá rừng này. Vị sa môn cho biết nhiều khi phải đi đào những rễ cây để ăn nếu không hái được trái và lá. Biết rằng mình phải sống lâu ngày trong rừng núi. Siddhatta ghi nhớ kỹ lưỡng những lời chỉ dẫn của vị sa môn. Siddhatta được biết rằng vị sa môn này tu theo lối khổ hạnh, chỉ sống bằng trái rừng, đọt cây và rễ cây. Ông tên là Bhargava. Vị này cho biết rằng các vị sa môn tu theo đạo sĩ Alara Kalama không theo lối khổ hạnh bởi vì họ cũng đi khất thực hoặc nhận thực phẩm của dân cư các vùng lân cận đem đến cúng dường.

Chín hôm sau, hai người tới Anupiya rồi đi dần về phía đạo tràng của đạo sĩ Alara Kalama. Đạo tràng này được thiết lập trong một khu rừng. Họ đến vừa lúc đạo sĩ Alara đang giảng đạo cho các đệ tử. Hơn bốn trăm người đang vây quanh. Đạo sĩ Alara tuổi chừng bảy mươi. Người ông gầy yếu nhưng mắt ông còn sáng và giọng ông ngân vang như tiếng chuông đồng. Siddhatta và người bạn đồng hành đứng chờ bên ngoài vòng và lắng nghe hết những lời giảng dạy. Buổi giảng dạy chấm dứt, mọi người đi tứ tán trong rừng để thực tập. Siddhatta tiến tới làm lễ đạo sĩ Alara, tự giới thiệu mình, rồi cung kính nói:
- Bạch thầy, xin thầy cho phép con được gia nhập vào đoàn thể các vị sa môn ở đây và tu học dưới sự hướng dẫn của thầy.
Đạo sĩ chăm chú ngồi nghe Siddhatta, ngắm nhìn chàng hồi lâu và tỏ vẻ hài lòng:
- Siddhatta, thầy rất vui mà chấp nhận con. Con cứ ở lại đây. Nếu con hành được theo pháp và luật của thầy thì chỉ trong một thời gian thôi là con đắc đạo.

Siddhatta vui mừng lạy tạ. Đạo sĩ Alara ở trong một túp lều do các vị đệ tử dựng lên. Trong rừng rải rác cũng có những chòi lá khác của các sa môn đệ tử. Tối hôm đó, Siddhatta tìm một nơi bằng phẳng để ngủ. Chàng gối đầu lên trên một cái rễ cây. Vì mệt quá nên Siddhatta ngủ say cho đến sáng ngày mai. Khi thức dậy, nắng đã lên, và chim chóc đã ca hát vang rừng.

Siddhatta chỗi dậy. Các bạn đồng tu đã dậy từ lâu và đã hoàn tất buổi ngồi thiền đầu tiên trong ngày. Họ đang chuẩn bị để đi vào thôn làng khất thực. Siddhatta được trao cho một chiết bát và dạy cho phương pháp đi vào thôn làng xin ăn.
Theo các vị sa môn, Siddhatta ôm bát đi vào thành phố Vesali. Lần đầu tiên ôm bát đi khất thực, Siddhatta cảm thấy cuộc đời của người đi tu có dính liú rất nhiều với xã hội con người. Chàng học cách ôm bát, học cách đi, cách đứng, cách nhận thức cúng dường và cách chú nguyện để cảm tạ người thí chủ. Hôm ấy, Siddhatta đã được cúng dường một ít cơm nóng và nước cà ri chan lên trên.

Khi Siddhatta theo các đồng tu về tới rừng thì mọi người đã bắt đầu ngồi thọ thực. Sau buổi ăn, chàng đi tìm đạo sư Alara để được chỉ giáo về phương pháp tu. Lúc chàng tới thì Alara đang ngồi nhập định. Để chờ đợi, Siddhatta cũng ngồi nhiếp tâm trước mặt thầy. Lâu lắm, đạo sĩ Alara mới mở mắt. Siddhatta cúi lạy, xin thầy chỉ giáo cho mình.

Đại sĩ Alara gọi Siddhatta là sa môn, bởi vì Siddhatta đã chính thức là một vị sa môn khi được chấp nhận vào giáo đoàn. Ngài dạy cho vị sa môn về lòng tin, về sự tinh cần, về cách thở và về sự tập trung tâm ý. Ông bảo:
- Giáo lý của ta không phải chỉ là lý thuyết. Giáo lý của ta là sự hành trì. Cái biết của ta là cái biết của sự tự tri, tự chứng, tự đạt mà không phải là cái biết của lý luận. Con phải thực hiện cho được những trạng thái thiền định, mà muốn thực hiện cho được những trạng thái thiền định thì phải bỏ hết những vọng tưởng về quá khứ, về tương lai và chỉ nhắm về hướng giải thoát mà thôi.

Sa môn Siddhatta hỏi thêm về cách điều phục thân thể và cảm giác rồi bái tạ vị đạo sư đi tìm một góc rừng để hành trì. Ông đi bẻ cây bẻ lá che một mái lều dưới một gốc cây để làm nơi nương náu mà thực tập thiền định. Siddhatta thực tập rất chuyên cần. Cứ năm bảy hôm, ông lại trở về với Alara Kalam để thỉnh giáo về những chỗ còn kẹt. Tu như vậy trong ít lâu, ông đạt được nhiều tiến bộ đáng kể.

Ngồi lại trong tư thế thiền định ông buông bỏ hết mọi suy tư và mọi ám ảnh về quá khứ cũng như về tương lai và thực hiện được sự thanh tịnh an lạc. Tuy nhiên trong niềm an lạc này, ông vẫn thấy có bóng dáng và mầm mống của những suy tư. Mấy tuần sau, trong một trạng thái thiền định cao hơn. Siddhatta loại trừ được các mầm mống của suy tư, rồi ông đi vào được một trạng thái trung tâm ý trong đó ý niệm về an lạc và không an lạc cũng không còn. Trong trạng thái tập trung ý đó, hình như năm cánh cửa cảm giác đã hoàn toàn đóng lại. Tâm ông tĩnh lặng như một mặt hồ khi không có gió.

Khi đem trình bày kết quả sự thực tập của mình cho đạo sĩ Alara Kalama, sa môn Siddhatta được đạo sĩ hết lời ca ngợi. Đạo sĩ bảo rằng ông đã bước những bước tiến bộ rất lớn trong một khoảng thời gian rất ngắn. Đạo sĩ bắt đầu dạy ông về phương pháp thực hiện một trạng thái thiền định gọi là không vô biên xứ, trong đó tâm của hành giả được đồng nhất với không gian vô biên. Trong không gian vô biên ấy mọi hiện tượng vật chất và mọi hình sắc đều tan biến, và không gian trở nên nền tảng của vũ trụ vạn hữu.

Sa môn Siddhatta vâng lời thầy về cố công thực tập. Trong vòng chưa đầy ba hôm, vị sa môn trẻ đạt tới sự thành công, nhưng Siddhatta có cảm tưởng định không vô biên xứ không giúp cho ông giải tỏa được những tâm tư sâu kín nhất của mình. An trú trong định đó, ông vẫn còn thấy bế tắc. Ông trở lại với Alara và trình bày tri kiến mình.
- Con phải bước lên thêm một nấc nữa, đạo sĩ nói. Cái hư không vô biên mà con đạt tới đó, nó cũng cùng một chất liệu với tâm thức con. Nó không phải là đối tượng của tâm thức con mà nó chính là tâm thức con. Vậy con hãy nổ lực mà đạt cho được trạng thái thiền định kế tiếp là thức vô biên xứ.

Siddhatta trở về góc rừng của mình. Chỉ trong vòng hai hôm, ông thực hiện được thiền thức vô biên xứ. Ông thấy được tâm thức mình trong một hiện tượng vũ trụ. Song le, ông vẫn không giải tỏa được những sầu đau và thao thức của mình.
Siddhatta trở về với vị đạo sĩ và trình bày chỗ kẹt của mình. Alara nhìn ông bằng một con mắt kính phục. Vị đạo sĩ nói:
- Con đã đi gần tới đích. Hãy trở về quán chiếu về tính cách hư giả của vạn pháp. Mọi hiện tượng trong vũ trụ đều do tâm thức ta tạo nên. Tâm thức là khuôn đúc của tất cả mọi hiện tượng. Hình sắc, âm thanh, hương, vị, và những xúc chạm, nóng lạnh, cứng mềm đều là những sáng tạo của tâm thức. Chúng nó không có như ta thường tưởng, Tri giác của chúng ta là vị họa sư; nó vẽ ra hết mọi hình tượng. Phải đạt cho được cảnh giới vô sở hữu xứ thì con sẽ thành công. Vô sở hữu xứ là cảnh giới trong đó ta thấy được rằng không có một hiện tượng nào thật sự hiện hữu như tri giác của ta tưởng tượng.

Vị sa môn trẻ tuổi này chắp tay lĩnh giáo. Ông lại trở về góc rừng của ông. Trong thời gian tu học với đạo sĩ Alara, Siddhatta đã làm quen với nhiều vị sa môn đồng đạo. Tánh tình ông hòa nhã nên ai cũng mến yêu. Có ngày Siddhatta không cần đi kiếm thực phẩm mà vẫn có thức ăn lót dạ vào buổi trưa. Có khi xuất thiền, ông thấy thức ăn đã để sẵn một bên, hoặc là một vài trái chuối, hoặc là một mâm cơm tín thí cúng dường mà một vị sa môn bạn đã kín đáo chia xẻ lại. Đạo sĩ Alara đã có lần hỏi về gốc tích của ông, và sau đó có người cũng đã biết được tung tích ông. Siddhatta chỉ mỉm cười mỗi khi có một bạn đồng tu hỏi ông về cái gốc tích vương giả ấy. Ông khiêm nhượng nói:
- Cái đó không quan trọng gì. Có lẽ chúng ta chỉ nên chia xẻ với nhau về kinh nghiệm hành đạo mà thôi.

Rất nhiều vị sa môn đồng tu ưa được làm bạn với Siddhatta để được học hỏi với ông. Họ đã được nghe lời ca tụng Siddhatta, trực tiếp từ vị đạo sư của họ. Trong khoảng thời gian chưa đầy một tháng, Siddhatta thực hiện được định vô sở hữu xứ. Ông rất vui mừng thấy mình đạt tới cái thấy này. Trong nhiều tuần lễ kế tiếp, Siddhatta ngồi khai thác cái thấy ấy để giải quyết những bế tắc lâu ngày của tâm ý, nhưng định vô sở hữu xứ, dù là một trạng thái thiền định khá sâu sắc vẫn không giúp ông được. Cuối cùng Siddhatta phải trở về thỉnh ý đạo sư Alara.
Đạo sư Alara ngồi nghe Siddhatta một cách chăm chú. Mặt ông sáng rỡ lên. Đổi cách xưng hô, ông nói:
- Sa môn Siddhatta, ngài là một vị tài ba lỗi lạc. Ngài đã đạt tới chỗ cao nhất mà tôi đã đạt. Cái gì mà tôi đạt tới, ngài cũng đã đạt tới. Sa môn Siddhatta, xin ngài ở lại đây. Hai chúng ta sẽ cùng nhau dìu dắt giáo đoàn tu sĩ này.

Siddhatta im lặng. Ông suy nghĩ. Định vô sở hữu xứ tuy là một hoa trái quý giá của sự tu học nhưng không giải quyết được vấn đề sinh tử, không giải phóng được cho ta khỏi những sầu đau và thao thức căn bản, không đưa ta đến chỗ giác ngộ hoàn toàn. Mục đích của ta không phải là làm giáo chủ một giáo đoàn. Mục đích của ta là tìm con đường giải thoát đích thực.
Nghĩ như thế, Siddhatta chắp tay lại trình đạo sĩ:
- Thưa thầy, định vô sở hữu xứ không phải là mục đích tìm cầu của con. Con muốn tìm con đường đích thực để giải thoát sanh tử. Con xin cảm ơn thầy đã có lòng chiếu cố và yêu mến con. Xin thầy cho phép con được đi du phương tìm đạo. Thầy đã dạy dỗ con hết lòng trong những tháng vừa qua. Con xin ghi nhớ ơn thầy đời đời.
Đạo sĩ Alara Kalama tỏ ý buồn bã và tiếc nuối nhưng ý của Siddhatta đã quyết. Ngày hôm sau, ông lại lên đường.
 
 
Chương 14
VƯỢT SÔNG HẰNG

Siddhatta vượt sông Ganga và đi sâu vào nội địa Magaha. Đây là một vương quốc nổi tiếng có nhiều vị ẩn tu bậc lớn. Siddhatta quyết đi tìm cho được vị chân sư có thể trao truyền cho bí quyết siêu sinh thoát tử. Phần lớn những nhà tu hành này đều cư trú trong chốn núi rừng. Theo sự chỉ dẫn của các bạn đồng tu, Siddhatta đi tìm họ để tham vấn, học hỏi, thực tập. Hễ nghe nơi nào có vị chân sư là Siddhatta tìm tới, dù phải vượt núi băng ngàn, dù phải dầm sương dãi nắng tháng này qua tháng khác.

Siddhatta đã gặp những người tu thuộc phái lõa thể. Họ không có một mảnh áo quần tối thiểu nào trên người họ. Ông cũng đã gặp những nhóm người tu khổ hạnh. Những người này không nhận thức ăn cúng dường của nhân gian. Họ chỉ ăn rễ cây, đọt cây và trái rừng. Họ để cho nắng gió và mưa bão hành hạ xác thân họ. Họ tin rằng chịu đựng được những khổ hạnh như thế thì sau khi chết họ sẽ sinh lên cõi trời. Có một hôm Siddhatta nói với họ:
- Dù các bạn có sinh lên cõi trời đi nữa thì những đau khổ trên trần gian vẫn còn nguyên vẹn. Chúng ta tu đạo tức là đi tìm phương thuốc giải khổ cho cuộc đời chứ không phải tìm cách trốn tránh cuộc đời. Đã đành là nếu ta o bế thân thể ta như những người chủ trương ăn chơi kia, thì ta không giúp được gì cho cuộc đời, nhưng nếu ta hành hạ thân thể ta, ta cũng chẳng giúp được gì hơn cho cuộc đời là mấy.

Nói xong, Siddhatta từ giã họ và tiếp tục con đường tham cứu học hỏi của mình. Ông tìm tới nhiều đạo tràng khác nhau. Có nơi ông lưu trú lại trong ba tháng để thực tập. Có nơi ông lưu trú lại sáu tháng. Niệm lực và định lực của ông nhờ sự thực tập càng ngày càng tăng tiến, nhưng đạo lớn của sự vượt thoát tử sinh ông vẫn chưa tìm được. Đôi khi ngồi thiền tập trong rừng, hình ảnh của vua cha, của Yasodhara và Rahula cũng như những hình ảnh của quãng đời niên thiếu hiện về. Năm tháng qua thật mau. Mới đó mà hai năm đã trôi qua từ ngày Siddhatta rời bỏ xứ sở. Siddhatta nhiều khi không khỏi sốt ruột. Tuy vậy, đức tự tin vẫn còn rất mạnh trong ông.

Một thuở nọ, Siddhatta ẩn cư trên sườn đồi Pandava cách kinh đô Rajagaha của vương quốc Magadha không xa. Một hôm, ông cầm bát xuống núi, đi vào kinh thành khất thực. Dáng đi của ông nghiêm túc và khoan thai. Phong thái của ông trầm tĩnh. Hai bên đường người ta dừng lại để nhìn vị sa môn khất sĩ. Ông đang đi trên đường phố mà ung dung như một con sư tử đang đi giữa chốn sơn lâm. Tình cờ xa giá của quốc vương Magadha đi ngang qua đó. Vua Bimbisara cho dừng xe lại để quan sát ông. Rồi vua ra lệnh cho một thủ hạ đem thức ăn đến cúng dường vị sa môn khất sĩ này, và tìm cách theo dõi ông ta về nơi ẩn cư của ông cho biết chỗ.

Chiều hôm sau, vua Bimbisara tìm lên nơi ẩn cư của Siddhatta. Để xe tứ mã dưới chân đồi, vua leo lên cùng với một tên thị vệ. thấy Siddhatta đang ngồi dưới một gốc cây, vua tiến tới chào. Siddhatta đứng dậy. Nhìn cách ăn mặc của vua, ông biết đây là quốc vương Magadha. Ông chỉ một phiến đá gần đó và chắp tay mời vua ngồi, và ông cũng ngồi xuống bên một phiến đá đối diện.

Thấy dáng điệu và tư cách thanh tao đặc biệt của ông thầy tu, vua Bimbisara rất đỗi ngạc nhiên và khâm phục. Vua nói:
- Trẫm là quốc vương xứ Magadha. Trẫm đến để kính mời sa môn về kinh thành với trẫm. Trẫm ước ao có sa môn bên mình để được thấm nhuần đạo đức của ngài. Có được ngài bên trẫm, chắc chắn nước Magadha sẽ có hòa bình và thịnh trị.
Siddhatta mỉm cười:
- Tâu đại vương, bần đạo đã quen sống ở chốn núi rừng.
- Sa môn ở đây thật là cực khổ. Giường chiếu không có, người hầu hạ cũng không. Nếu ngài chấp nhận về với trẫm, trẫm sẽ để dành cho ngài riêng một cung điện. Ngài về để dạy dỗ ...
- Đại vương, đời sống cung điện không thích hợp với bần đạo. Bần đạo đang cố công tìm cho ra con đường giải thoát để có thể cứu độ cho mình và cứu độ cho những kẻ khác. Đời sống cung điện không thích hợp với hoài bảo của kẻ tu hành này.
- Ngài còn trẻ, mà quả nhân lại cần một tâm hồn bạn hữu. Mới trông thấy ngài lần đầu, trẫm đã đem lòng mến yêu. Ngài hãy về với trẫm. Nếu cần trẫm sẽ chia một nửa giang sơn này cho ngài trị vì, rồi đến khi tuổi cao, ngài sẽ trở về cuộc đời của kẻ xuất gia, như vậy cũng chưa muộn.
- Bần đạo xin cảm ta tấm lòng chiếu cố của đại vương, nhưng quả thật giờ đây bần đạo chỉ có một ước vọng mà thôi: đó là ước vọng tìm cho ra chánh đạo để cứu giúp muôn loài. Thì giờ đi qua rất mau, tâu bệ hạ. Nếu ta không xử dụng năng lực của tuổi trẻ để thực hiện điều ta mong ước thì không mấy chốc tuổi già sẽ đến và ta sẽ hối tiếc, với lại, cuộc sống rất vô thường. Cái khổ của sinh lão bệnh tử luôn luôn rình rập ta. Những ngọn lửa phiền não nội tâm như tham vọng, giận dữ, oán thù, si mê, ganh ghét, và kiêu mạn đang nung nấu tâm hồn ta. Ta chỉ có thể đạt tới an lạc thật sự nếu ta tìm được con đường. Chỉ khi nào Đạo Lớn được tìm ra, mọi loài mới có một đường thoát. Nếu bệ hạ có lòng yêu mến bần đạo thì xin bệ hạ để cho bần đạo được theo đuổi con đường mà kẻ tu hành này đã hướng đến từ lâu.

Càng nghe, vua Bimbisara càng lấy làm cảm phục vị sa môn khất sĩ. Vua nói:
- Quả nhân rất sung sướng được nghe những lời nói đầy cương nghị và đầy đạo hạnh của ngài. Kính bạch đại đức sa môn! Ngài là người xứ nào, dòng họ của ngài là dòng họ nào? Ngài có thể cho quả nhân được biết hay không?
- Tâu đại vương, bần đạo xuất thân từ vương quốc Sakya. Dòng họ của bần đạo là Sakya. Vua Suddhodana là người thân sinh ra bần đạo, hiện trị vì ở Kapilavatthu, và mẹ của bần đạo là phu nhân Mahamaya. Bần đạo vốn là thái tử Đông cung, nhưng vì muốn xuất gia tìm Đạo mà phải rời bỏ cha mẹ, vợ con và cung điện, kể đã được hơn ba năm trời.

Vua Bimbasara rất đỗi ngạc nhiên. Vua thốt lên:
- Thế ra ngài cũng là người thuộc giới cành vàng lá ngọc! Trẫm hân hạnh được gặp ngài. Bạch sa môn! Giữa hoàng gia xứ Sakya và hoàng gia xứ Magadha đã có liên hệ thân hữu lâu đời! Trẫm đã dại dột dám đem danh lợi ra mà thuyết phục một vị đại sa môn! Xin sa môn tha thứ cho trẫm. Trẫm chỉ xin ngài một ân huệ là thỉnh thoảng viếng thăm cung điện để trẫm được cơ duyên cúng dường, rồi khi nào tìm ra được Đạo lớn, xin ngài từ bi trở về chỉ dạy cho đệ tử. Xin ngài hứa cho.
Siddhatta chắp tay đáp lễ:
- Bần đạo xin hứa là khi nào tìm ra được đạo, bần đạo sẽ trở về chia xẻ với đại vương.
Cuộc tiếp kiến chấm dứt. Vua Bimbasara cúi đầu chào vị sa môn rất thấp và cùng tên cận vệ xuống núi.
Sa môn Siddhatta rời bỏ chỗ ẩn cư của ông ngay sau ngày hôm đó. Ông không muốn bị bận rộn vì sự lui tới cúng dường của hoàng gia. Hướng về phía Nam, ông đi tìm một nơi khác thuận lợi cho sự tu tập. Nhờ người mách bảo, ông tìm tới đạo tràng của đạo sĩ Uddaka Ramaputta. Ông nghe nói đạo sĩ có chứng đắc cao siêu lắm. Đạo tràng của đạo sĩ Ramaputta không xa thủ đô Rajagaha mấy. Đạo sĩ có tới gần bảy trăm vị đệ tử, ba trăm tu học tại chỗ và gần bốn trăm tu học tại những cơ sở địa phương.
 
 
Chương 15
KHỔ HẠNH LÂM

Đạo sĩ tuổi đã bảy mươi lăm. Ông được mọi người tôn sùng như một vị thánh sống. Ông muốn mọi người phải tu học theo từng giai đoạn từ thấp lên cao, và vì vậy sa môn Siddhatta phải làm lễ nhập môn và học lại từ những bài thực tập dễ dàng nhất. Chỉ trong vòng vài tuần lễ, Siddhatta đã chứng minh được cho vị đạo sư mới của mình rằng định vô sở hữu xứ ông đã thành tựu được và ông mong rằng đạo sư sẽ dạy cho ông con đường có thể đi xa hơn nữa.

Trông thấy diện mạo của Siddhatta, và nghe Siddhatta trình bày kiến giải của mình, đạo sĩ Uddaka rất đỗi vui mừng. Ông thấy nơi vị sa môn trẻ này con người có thể kế sự nghiệp của ông một cách xuất sắc. Ông đổi cách tiếp đãi với Siddhatta và bắt đầu xem Siddhatta như một người tri kỷ. Ông ôn tồn chỉ dạy cho Siddhatta rất cặn kẽ:
- Này sa môn Siddhatta Gotama, trong định vô sở hữu xứ, cái không không còn là không gian, cái không cũng không còn là tâm thức nói chung, mà chỉ còn là tri giác. Tri giác tức là tưởng, mà còn tưởng tức là còn đối tượng của tưởng, còn tri giác là còn đối tượng của tri giác. Vậy thì con đưòng thoát của chúng ta là vượt được tri giác.
Siddhatta cung kính hỏi lại:
- Thưa thầy, nếu loại bỏ tri giác thì cái gì còn lại? Không có tri giác thì khác gì vật gỗ đá vô tri?
- Gỗ đá vô tri cũng không phải là không tri giác. Gỗ đá vô tri vẫn là tri giác. Ta phải đạt tới một trạng thái tâm lý trong đó cả hai niệm về hữu tri và vô tri đều được loại trừ. Đó là trạng thái phi tưởng phi phi tưởng. Sa môn Siddhatta Gotama, ông hãy về thực hiện cho được trạng thái đó của tâm.

Siddhatta lĩnh ý. Chỉ trong vòng mười lăm hôm, ông đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng. Định này, theo Siddhatta, cho ta có cảm tưởng là ta đạt tới một cảnh giới của nhận thức vượt ra ngoài mọi nhận thức thông thường, nhưng mỗi khi ra khỏi định, ông thấy cái nhận thức phi thường vẫn không thay đổi cái tình trạng của thực tại sinh tử. Định ấy chỉ là một nơi trú ẩn mà không phải là một chìa khóa mở cửa thực tại.

Khi Siddhatta trở lại với đạo sư Uddaka Ramaputta thì được ông này hết sức khen ngợi. Sau khi biết Siddhatta đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng. Uddaka nắm tay Siddhatta:
- Sa môn Gotam là người hành giả thông minh nhất mà tôi đã được gặp từ trước đến giờ. Ngài đã đi những bước thật lớn, và đi rất mau lẹ. Ngài đã đạt được cái quả vị cao nhất mà tôi đã đạt. Tôi đã già rồi, và đã gần đất xa trời. Nếu ngài ở lại đây, chúng ta sẽ cùng nhau quản lý đại chúng này và mai kia khi tôi qua đời rồi ngài sẽ thay tôi lãnh đạo đồ chúng.

Cũng như lần trước, Siddhatta ngỏ lời khéo léo để từ tạ. Ông biết định phi tưởng phi phi tưởng không phải là chìa khóa mở được cánh cửa giải thoát sanh tử. Ông phải từ giã, nhưng trước khi từ giã, ông hết lòng cảm tạ vị thầy mới và các vị bạn đạo mới. Ai cũng cỏ vẻ quyến luyến và tiếc rằng vị sa môn đỉnh ngộ và tài năng này không ở lại với họ.

rong thời gian tu học tại đạo tràng Uddaka Ramaputta, Siddhatta đã làm quen với một vị sa môn trẻ tên Kondanna, Kondanna rất mến phục Siddhatta, không những xem Siddhatta là một người bạn mà còn xem Siddhatta là một bậc thầy. Trong đồ chúng, chưa ai đạt được tới định vô sở hữu xứ chứ đừng nói đạt tới phi tưởng phi phi tưởng xứ như Siddhatta. Vị sa môn tân học Siddhatta đã được thầy của Kondanna đối xử như một người tri kỷ, Kondanna biết như thế. Mỗi lần nhìn Siddhatta, Kondanna lại thấy thêm vững niềm tin. Bởi vậy nên ông đã nhiều lần tìm cách thân cận Siddhatta để học hỏi. Do đó mối tình đồng đạo giữa hai người mỗi ngày mỗi trở nên khắng khít. Bây giờ Siddhatta ra đi, Kondanna không khỏi không buồn tiếc. Ngày Siddhatta lên đường, vị ssa môn này đã đưa ông xuống núi. Đợi cho Siddhatta đi khuất ông mới trở lên.
Biết rằng có đi tham vấn bao nhiêu vị đạo sư đi nữa mình cũng không học hỏi thêm được điều gì đáng kể, sa môn Siddhatta quyết định trở về tìm kiếm chìa khóa giác ngộ ngay trong tự tâm mình.

Hướng về phía Tây, Siddhatta vượt những cánh đồng lúa, những vũng bùn lầy lội, những đầm nước đọng và những dòng suối đục ngàu. Lội qua sông Neranjara, ông đi băng qua một cánh đồng nữa thì tới ngọn núi Dungsiri, thuộc địa phận tụ lạc Uruvela. Ở đây có nhiều hang động. Có những tảng đá cheo leo, có những rặng núi hình răng cưa, có nhữn tảng đá thật lớn, lớn bằng những túp nhà của dân nghèo trong tụ lạc. Siddhatta quyết định lưu lại đây một thời gian để hạ thủ công phu, quyết tìm cho ra nẻo thoát. Ông tìm được một cái hang động khá tốt để ngồi tĩnh tọa. Ông nhớ rằng ông đã từng khuyên các nhà tu khổ hạnh đừng hành hạ xác thân họ, vì hành hạ xác thân như thế chỉ gây thêm khổ đau, trong khi cuộc đời đã có nhiều đau khổ rồi, nhưng hôm nay ông muốn xét lại điều ấy một cách kỹ lưỡng hơn. Ngồi trong hang đá, ông tự bảo:
- Với một miếng gỗ mềm và ướt thì ta không thể nào cọ xát làm cho lửa phát sinh được. Thân thể ta cũng vậy, nếu thân thể ta còn bị vật dục khống chế thì tâm ta khó có thể đạt tới giải thoát. Ta hãy tìm cách chế ngự thân thể ta xem sao.
Sa môn Gotama, bắt đầu thực hành những phương pháp chế ngự thân thể. Có những hôm, ông tìm tới những nơi thật thanh vắng trên rừng sâu, những nơi mà có người chỉ nghĩ đến thôi cũng để để rợn óc trên người và tóc sau gáy dựng lên, để ngồi suốt đêm. Thỉnh thoảng cái sợ đến và xâm chiếm cả thân tâm ông, nhưng ông vẫn ngồi yên, không hề nhúc nhích.

Có khi trong đêm tối đen, một con nai sột soạt tới gần. Cái sợ của ông nói với ông rằng đó là một con quỷ dạ xoa hiện đến đoạt mạng, nhưng ông vẫn gan lì ngồi yên không nhúc nhích. Có khi trong đêm đen, một con chim phụng đạp gãy một cành cây khô. Cái sợ của ông nói với ông rằng đó là một con trăn sắp trườn xuống và quấn chặt lấy ông, nhưng ông vẫn gan lì ngồi không nhúc nhích, mặc cho cái sợ chạy rần rần trên da đầu ông như một bầy kiến lửa.
Ông tập như vậy để có thể vượt thắng sự sợ hãi. Ông nghĩ rằng một khi xác thân vượt thoát được những cám dỗ rồi thì tâm ý cũng có thể vượt thoát được những ràng buộc của khổ đau.

Có khi ông ngồi ngậm miệng cứng lại, để lưỡi sát vào họng trên, dùng tâm ông để điều phục niềm thao thức bồn chồn trong tâm ông, như hai người lực sĩ đè bẹp một người yêu đuối, và bắt người yếu đuối này phải thốt lời khuất phục. Dùng tâm mà đàn áp tâm kiểu ấy trong một hồi thì mồ hôi chảy ra ướt hết cả mình mẩy ông. Tuy vậy, dù niệm lực có mạnh, dù ý chí đầy dẫy, dù những đau khổ gây ra trên thân xác có da diết tới cách nào đi nữa thì tâm ông vẫn không đạt tới sự an tịnh.

Có khi ông vừa thực tập vừa nín thở, không thở ra cũng không thở vào. Khi thực tập như thế, ông nghe tiếng gió mạnh như vũ bão phát ra trong đầu ông, từ hai lỗ tai đi vào, âm thanh giống như âm thanh của một chiếc lò rèn đang được thụt lửa. Những luồng gió hung dữ xoáy mạnh trong đầu óc ông và đầu ông đau như có ai lấy lưỡi rìu bửa ra làm hai mảnh. Có khi đầu ông đau như bị ai lấy một cái niềng sắt niềng lại. Bụng ông đau như một con bò bị người đồ tể lách lưỡi dao nhọn quanh sườn. Thân thể ông đau như bị người ta túm lấy và đem nướng trên một lò than đang cháy rực. 

Những lúc thực tập để chế ngự thân thể như thế, dù ý chí và năng lượng đầy dẫy, dù niệm lực hùng hậu, dù xác thân ông có đau đớn cực độ, tâm ông cũng không nhờ vậy mà được an ổn hơn lên. Sa môn Gotama thực tập khổ hạnh như vậy trong gần sáu tháng. Trong ba tháng đầu chỉ có một mình ông thực tập khổ hạnh trên núi. Đến tháng thứ tư, có năm vị sa môn đệ tử của đạo sư Kondanna là người lãnh đạo nhóm này. Gặp lại Kondanna, Siddhatta rất vui. Kondanna cho biết là một tháng sau khi Siddhatta từ giã, chính Kondanna cũng đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng xứ và nghĩ rằng mình sẽ không học được gì thêm từ đạo sĩ Uddaka. Nghĩ vậy, ông đã rủ bốn người bạn thân đi tìm Siddhatta. Sau hơn một tháng trời tìm kiếm họ đã may mắn tìm ra Siddhatta. Họ ngõ ý muốn ở lại tu học với ông dưới sự hướng dẫn của ông bởi vì họ tin tưởng nơi ông. Siddhatta đành phải chấp nhận. Ông giải thích cho họ biết tại sao ông đang thí nghiệm con đường điều phục thân xác. Nghe xong, cả năm người cũng quyết thực tập theo.

Bốn vị sa môn đi theo Kondanna cũng đều là những vi sa môn còn trẻ. Họ tên là Vappa, Bhaddiya, Assaji và Mahanama. Mỗi người tìm một cái hang đá để ở; hang của họ không xa nhau mấy. Mỗi ngày chỉ một người đi khất thực thôi, và phần ăn của một người được chia ra làm sáu. Thức ăn hàng ngày của mỗi người rất ít, và có thể để gọn trong bàn tay trái khẳng khiu của một người.

Ngày tháng qua đi. Thân thể cả sáu người đều hao gầy đi rất nhiều. Có những lúc Siddhatta thực tập khống chế hình hài đến nước năm người bạn tu phải khiếp đảm. Họ thấy trong bất cứ pháp môn tu tập nào họ cũng không theo kịp Siddhatta. Những tháng gần đây, Siddhatta bỏ luôn cả việc đi tắm dưới sông Neranjara. Ông bỏ luôn một phần thực phẩm được chia cho ông. Có ngày, ông chỉ ăn một trái ổi thối mà ông lượm được dưới chân ông. Có khi ông chỉ ăn miếng phân bò khô trên bờ ruộng. Thân hình ông tiều tuỵ quá, chỉ còn da bọc lấy xương. Bao nhiêu xương sườn của ông đều lộ rõ ra. Ông không hề cạo. Có khi ông đưa tay lên sờ đầu và thấy tóc ông rụng xuống từng mảng như là những sợi tóc ấy không còn chỗ để đứng trong da đầu ông.

Cho đến một hôm đó ngồi thiền dịnh trong bãi tha ma dưới chân núi, Siddhatta bừng tỉnh, thấy được rằng con đường khổ hạnh là con đường sai lầm. Nắng đã tắt và gió chiều nhè nhẹ tới mơn trớn trên làn da ông. Đã ngồi trọn một ngày trong nắng, bây giờ Siddhatta thấy làn gió mát dịu lạ thường, và ông thấy tâm hồn ông sảng khoái hơn ban ngày nhiều lắm. Ông nhận ra rằng thân và tâm là một thực thể không thể tách rời ra được và sự an lạc của thân có liên hệ tới sự an lạc của tâm, hành hạ xác thân cũng là hành hạ tâm trí.

Ông nhớ đến thời niên thiếu, hồi ông mới lên chín tuổi, lần đầu tiên ông ngồi yên lặng dưới bóng mát cây hồng táo trong ngày lễ cày ruộng đầu năm. Cảm giác hồi ấy là một cảm giác an lạc, làm cho ông tỉnh táo và sáng suốt lạ thường. Ông cũng nhớ lại lúc ông ngồi tập thiền lần đầu tiên trong rừng ngay khi Channa người hầu cận ông vừa từ giã ông, và những ngày đầu khi tập thiền với đạo sư Alara Kalama; những buổi thiền tập ấy nuôi dưỡng thân tâm ông, tạo cho ông rạt rào nghị lực. Ông nhớ sau đó nghe lời đạo sĩ Alara Kalama ông phải bỏ pháp lạc trong thiền để đạt tới những trạng thái thiền định trong cõi vô sắc như không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, và phi tưởng phi phi tưởng xứ, luôn luôn tìm cách tách rời khỏi thế giới của thọ và tưởng, nghĩa là của cảm giác và tri giác. Ông tự bảo:
- “Tại sao ta phải mãi mãi nương theo truyền thống của kinh điển? Tại sao ta lại sợ hãi những an lạc do thiền định đưa tới? Những an lạc ấy không dính líu gì hết với năm loại dục lạc thường có tác dụng che lấp tâm trí. Trái lại, những an lạc ấy có thể nuôi dưỡng hình hài và tâm hồn ta để ta có thể có đủ sức mạnh mà đi xa trên đường giác ngộ".

Sa môn Gotama quyết định sẽ bồi dưỡng lại sức khỏe và sẽ sử dụng thiền duyệt làm thức ăn cho thân tâm. Ông định ngày mai sẽ đi khất thực trở lại, và ông sẽ tự mình làm thầy cho mình, không muốn nương tựa vào một ai khác. Nghĩ như thế, ông ngã lưng dựa trên một mô đất, an tâm tìm giấc ngủ. Lúc ấy trăng mười bốn vừa lên. Trời trong không một gợn mây,và dòng ngân hà hiện ra rất rõ.

Ông thức dậy sáng hôm sau, khi chim chóc đã bắt đầu ca hát. Sa môn Gotama đứng dậy, và nhớ lại những suy tưởng chiều qua. Ông nhìn lại thân ông. Thân thể dính dầy bụi đất, vì đã lâu ông hề tắm gội. Chiếc áo cà sa của ông đã rách nát không đủ che thân. Ông chợt nhớ ngày hôm qua khi tới nghĩa địa để ngồi thiền, ông có thấy thi thể một người chết được quàng tại đó và trên thi thể ấy người ta đã phủ lên một tấm vải lớn màu gạch non. Ông đưa mắt nhìn. Cái xác vẫn còn đó và tấm vải màu gạch vẫn còn đó. Có thể là hôm nay hoặc ngày mai người ta sẽ đau xác này ra bờ sông để làm lễ hỏa táng và tấm vải sẽ không cần thiết. Sa môn Gotama quyết định tới xin tấm vải kia để dùng làm chiếc cà sa mới. Ông bước tới. Ông đứng yên mật niệm, quán tưởng về sanh tử, rồi ông đua tay nhẹ rút tấm vải lên. Thi hài của một cô gái chừng hai mươi tuổi lộ ra, tím bằm.

Cầm tấm vải, Siddhatta đi về hướng bờ sông. Ông có ý định xuống sông tắm gội cho sạch sẽ và đồng thời giặt sạch tấm vải để quàng lên người thay thế cho chiếc ca sa đã rách bươm.
Nước sông rất mát và Siddhatta thấy rất dễ chịu. Ông chấp nhận cảm giác dễ chịu của ông, ông đón chào cảm giác này với một tâm trạng mới. Ông tắm khá lâu. Rồi ông dem tấm vải ra giặt và vắt cho thật khô.
Khi ông lội vào bờ thì sức ông đã kiệt. Bờ sông hơi cao và ông không đủ sức tự mình leo lên. Ông phải đứng yên lặng hồi lâu để thở. Nhìn sang bên trái ông thấy có một cây sà xuống, có những đọt lá xòe ra gần đụng mặt nước. Ông lội từng bước về phía ấy, rồi níu lấy cành cây leo lên bờ.

Leo được lên bờ sông ông ngồi xuống nghỉ. Nắng đã lên. Ông trải tấm vải ra để phơi. Nắng bắt đầu gay gắt. Thấy tấm vải đã khô, sa môn Siddhatta choàng nó vào người. Ông đã có ca sa mới. Theo con đường đưa vào xóm Uruvela, ông đi tới.
Nhưng đi chưa được nửa đường thì sa môn Gotama kiệt sức. Ông thở hào hển, và cuối cùng ông ngã xuống, bất tỉnh.

Ông nàm bất tỉnh như vậy một hồi lâu thì có một cô bé trong xóm đi tới. Cô bé chừng mười ba tuổi. Sujata được mẹ giao phó đem sữa bánh và đề hồ vào khu rừng bên sông để cúng cho thần linh, và Sujata thấy vị sa môn nằm bất tỉnh trên con đường bờ sông, bụng còn thoi thóp thở. Nhìn Siddhatta, cô bé biết nhà tu khổ hạnh này đã kiệt sức. Cô quỳ xuống đổ sữa vào miệng ông.

Khi những giọt sữa ngon ngọt thấm được vào lưỡi và cổ họng. Siddhatta đáp ứng ngay. Ông chấp nhận cảm giác dễ chịu do sữa tạo nên và chầm chậm uống hết bát sữa. Chỉ trong vòng mấy mươi hơi thở sau đó ông tỉnh táo hẳn và ngồi dậy được. Và ông ra hiệu cho Sujata rót thêm cho ông một bát sữa thứ hai. Những bát sữa phục hồi được sức lực của ông rất mau chóng, Siddhatta quyết định bỏ hang động nơi ông tu khổ hạnh và dời về khu rừng êm mát bên bờ sông để hành đạo. Ông ăn uống trở lại bình thưòng. Có khi Sujata đem thức ăn vào rừng để cúng dường. Có khi ông cầm bát đi vào làng để khất thực. Mỗi buổi chiều ông đều có xuống tắm ở sông Neranjara. Mỗi ngày ông đều có đi thiền hành bên bờ sông. Thì giờ còn lại ông dành cho việc thiền tọa.

Tự mình tìm kiếm con đường, buông bỏ mọi uy quyền của truyền thống và kinh điển. Siddhatta trở về sử dụng tất cả những kinh nghiệm thành bại của chính ông. Ông không e ngại gì nữa về sự sử dụng thiền duyệt để nuôi dưỡng thân tâm. Mức độ an lạc của ông tăng triển hàng ngày. Không tìm cách xa lìa và trốn tránh cảm giác và tri giác, và dùng định lực quán chiếu vào cảm giác cùng với những đối tượng của chúng.

Một hơi thở, một tiếng chim kêu, một tờ lá, một tia nắng mặt trời ... tất cả đều có thể trở thành đối tượng của công trình quán chiếu. Rời bỏ ý định thoát ly thế giới hiện tượng, ông trở về để có mặt sâu sắc trong thế giới hiện tượng. Ông bắt đầu thấy rằng chìa khóa của sự giải thoát nằm ngay trong từng hơi thở, từng bước chân hoặc từng hạt sỏi bên đường. Ông thấy rằng thế giới hiện tượng và thế giới bản thể là một.

Sa môn Gotama đi từ sự quán chiếu cơ thể qua sự quán chiếu cảm giác, rồi đi từ sự quán chiếu cảm giác sang sự quán chiếu tri giác cùng những hiện tượng sinh diệt khác của tâm ý. Cuối cùng ông tìm thấy tính cách bất nhị của thân tâm. Thân thể không còn là một thực tại riêng biệt nữa. Mỗi sợi tóc cũng là tâm, mỗi tế bào trong cơ thể đều chứa đựng đủ trí tuệ của vũ trụ và hành giả chỉ cần nhìn sâu vào một hạt bụi, chân tướng của vũ trụ cũng phải hiện nguyên hình trước ánh sáng quán chiếu của hành giả. Chân tướng của hạt bụi chính là vũ trụ và ngoài hạt bụi, vũ trụ không thể nào có mặt.

Sa môn Gotama vượt thoát ý niệm về ngã, về atman, và ông giật mình thấy rằng đã từ bao nhiêu lâu nay ông đã từng bị ý niệm về atman của tư tưởng Vệ Đà khống chế. Thực tướng của vạn hữu là vô ngã, là anatman. Một từ ngữ không phải để chỉ định một vật thể, mà là một lưỡi búa tầm sét đập tan xích xiềng của sự cố chấp. Nắm lấy nguyên tắc vô ngã, Siddhatta như vị tướng lãnh có lưỡi gươm thần trong tay, đi vào trận địa của thiền quán như đi vào chỗ không người. Dưới gốc cây cổ thụ, ngày cũng như đêm, ông đạt tới những cái thấy lóe sáng như sấm sét trên thái không.

Trong khi ấy, năm người bạn đồng tu đã bỏ ông đi mất. Họ từng thấy ông thọ lãnh thức cúng dường bên bờ sông Họ đã thấy ông cười nói với một cô bé, ăn cơm và mang bát vào làng khất thực. Kondanna đã nói với các bạn: Siddhatta không còn là kẻ mà ta có thể trông cậy. Siddhatta đã nửa chừng bỏ dỡ công phu tu hành. Siddhatta bây giờ chỉ lo bồi dưỡng xác thân và sống những ngày nhàn hạ. Chúng ta hãy bỏ Siddhatta và tìm tới nơi khác tu hành. Ta cũng không cần tiếp tục tu theo phương pháp mà Siddhatta đã đề nghị mấy tháng về trước.

Chỉ khi năm người bỏ đi rồi, sa môn Gotama mới thấy sự vắng mặt của họ. Được khích lệ bởi cái nhìn mới, Siddhatta đã để hết thời gian vào viẹc hạ thủ công phu mà chưa có dịp nào đi giải thích với các bạn đồng tu. Ông tự nhủ: các bạn hiểu lầm ta, nhưng ta không cần lo tới việc minh oan. Ta hãy dốc lòng tìm cho ra đạo. Rồi sau đó ta sẽ đi tìm họ và giúp họ. Nghĩ như thế, ông trở về với công phu thiền quán hàng ngày của mình.

Chính trong những ngày mà ông đạt tới những tiến bộ lớn trên con đường tầm đạo thì chú bé chăn trâu Svatika tìm tới. Ông đã vui vẻ nhận những nắm cỏ tươi của chú bé mười một tuổi dâng cúng. Tuy Sujata, Svatika và bạn bè của các em là những đứa bé, Siddhatta đã cũng có thể chia xẻ được một phần nhỏ cái thấy của ông với chúng, và ông mừng rỡ thấy bọn trẻ thiếu học ở thôn quê có thể hiểu được và thấy được ánh sáng của những điều ông mới tìm ra. Ông linh cảm rằng chỉ trong một thời gian ngắn nửa là cánh cửa giác ngộ hoàn toàn sẽ mở rộng, bởi vì ông đã nắm trong tay chiếc chìa khóa mầu nhiệm của cánh cửa ấy: tự tính duyên sinh và vô ngã của vạn hữu. 
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn