Phần I – Từng Bước Quán Tâm

08 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 5187)


VÔ TỰ THỊ CHÂN KINH
Diệu Trân
Gió Đông xuất bản tháng 4-2005


 Phần I – Từng Bước Quán Tâm

ĐẾN CHÙA LẠY PHẬT

Ai đến chùa cũng vào lạy Phật, trừ người hảo tâm đưa giùm người khác đến cửa chùa, rồi đi. Không người nào lạy Phật mà không lâm râm khấn vái. Tôi đoan chắc những lời khấn vái đều là những điều thiện, lành, không cầu phước cầu lộc cho mình thì cầu cho chồng cho con, cho họ hàng thân thuộc, bằng hữu xa gần; người có tâm lượng rộng rãi hơn thì cầu cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình …… Người lạy Phật bận rộn cầu xin nên trong lúc cầu, ai cũng cúi rạp xuống mà tỏ lòng kính ngưỡng. Tự suy nghĩ như thế, tôi mới dám kết luận rằng, khi người Phật tử đến chùa lạy Phật, ít ai ngước mắt lên CHIÊM NGƯỠNG TÔN NHAN ĐỨC PHẬT, MẮT KHÔNG TẠM RỜI (như một câu trong Kinh A Di Đà.)

Là Phật tử sơ cơ nên khi chợt nghiệm ra như thế, tôi sửng sốt và có cảm tưởng mình chưa từng nhìn rõ tôn nhan Đức Thế Tôn mà chỉ biết qua Kinh là Ngài có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Biết như thế thì cũng như không biết vì 32 tướng tốt đó thế nào, 80 vẻ đẹp ra sao? Những lời tả đó không giúp cho Phật tử “thấy” được Phật hơn là sự chăm chú chiêm ngưỡng tôn tượng. Tất nhiên, tượng cũng chẳng chứng thực được tôn nhan Phật nhưng qua hình tướng chúng ta còn có thể “thấy” Phật. Nghĩ thế, tôi dọ dẫm, tự kiểm chứng. 

Lần đến chùa sau đó, thay vì quỳ rạp lạy Phật, tôi chắp tay, lắng tâm thanh tịnh rồi từ từ nhìn lên chánh điện. Tôi chăm chú ngắm tượng Đức Thích Ca Mâu Ni tọa trên tòa sen. Mắt tôi chạm vào đôi mắt Ngài trước nhất. Lạ thay, tôi phảng phất thấy nụ cười từ ái nơi đuôi hai con mắt nhìn xuống. Nụ cười bằng mắt tỏa ra bát ngát bao dung và thương xót. Đôi mắt đang nhìn xuống thế gian mà biểu lộ cả tấm lòng Ngài. Chính đôi mắt đó đã chứng kiến bốn nỗi khổ Sinh, Lão, Bệnh, Tử của thế gian khi đi dạo ngoài bốn cửa thành. Những cảnh khổ đó không phải chỉ riêng đôi mắt Thái Tử Tất Đạt Đa thấy, mà hàng tỷ tỷ đôi mắt nhân gian đã thấy; nhưng nhân gian thấy chỉ để mà thấy, thấy rồi lại tiếp tục ngụp lặn trong biển khổ. Chỉ có vị Thái tử con vua Tịnh Phạn thành Ca Tỳ La Vệ là băn khoăn ray rứt vì biển khổ triền miên này. 

Từ đôi mắt thấy cảnh thương đau, đôi tai Ngài đã lắng nghe bao lời rên siết. Tất cả những tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà tôi từng được nhìn thấy, tuy nét mặt, có khác đôi chút (có lẽ tùy tâm trạng nghệ nhân khi đúc tượng) nhưng hai tai Phật đều được thực hiện như nhau. Đó là vành tai lớn và dài, biểu tượng lòng từ bi lắng nghe hết thảy thống khổ của nhân gian. Sự thật nhĩ căn của Phật có như thế hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng chính là lòng Từ Bi và Trí Tuệ tuyệt luân của Ngài. Lòng từ bi đã thúc đẩy Thái tử từ bỏ cung vàng điện ngọc trở thành sa-môn Gotama, quyết đi tìm con đường giải thoát khỏi trói buộc của khổ đau. Với trí tuệ và kiên cường, sau sáu năm khổ hạnh, sa-môn Gotama đã tìm ra tên cai ngục cái nhà tù khổng lồ từng triền miên giam hãm, trói chặt nhân loại trầm luân trong thống khổ. Tên cai ngục đó là Vô Minh. Vì vô minh mà chúng sanh cho Vô Thường là Thường, Khổ là Lạc, Vô Ngã là Ngã, Không là Tịnh. Đó là đầu mối của mọi khổ đau.

Tìm ra được sự thật đó, sa-môn Gotama lập tức thoát xác! Bao giây trói vô hình chằng chịt bấy lâu như đều đứt tung ra! Bao phiền não như vừa bật rễ, trốc gốc, ào ạt lăn trôi, mất hút. Chỉ còn vầng thái dương rực rỡ, khai sinh Đạo Cả cứu độ chúng sanh. 

Và đó là lúc nụ cười mầu nhiệm nở trên môi sa-môn Gotama khi Ngài đạt Giác Ngộ, thành Phật; nụ cười ban vui, cứu khổ, nụ cười an ủi, chở che được tạc lại trên hầu hết tôn tượng Ngài. Chỉ cần tĩnh lặng chiêm ngưỡng nụ cười ấy, ta sẽ cảm ngay được lạc thọ của giòng suối trong vắt, ngọt lịm đang từ triền non cao chảy xuống miền đồng bằng nắng cháy. Nhìn kỹ thêm, hình như ẩn sau nụ cười đầy thương yêu, là lời dạy: “Ta là Phật đã thành; các con là Phật sẽ thành”. Lời dạy này cốt nhắc nhở chúng sanh phản quang tự kỷ, phải biết nhìn lại mình, phải biết gạn lọc sỏi đá cho hạt minh châu vốn sẵn có, sớm được hiển lộ. 

Từ khi tự chuyển “Đến chùa lạy Phật” thành “Đến chùa ngắm Phật”, tôi có được bao nhiêu là an vui hồi nào không hay. Này nhé, vừa tới trước cổng chùa, tôi đã dặn lòng “Không cầu xin gì cả, chỉ ngắm Phật thôi”; thế là tâm mong cầu, hờn giận biến mất. Tôi đã “XẢ” được tâm thế gian bên ngoài. Sau đó, quỳ trước Phật đài với lòng nhẹ tênh, với tâm thanh tịnh, tôi thấy được ánh điện quang Từ Bi của Phật hiển lộ rõ hơn trên mắt, trên môi Ngài, trên suốt con đường Trung Đạo Ngài đã đi, thể hiện qua chính bản thân Đức Phật, dũng mãnh mà lặng thầm, uy nghi mà điềm đạm, trí tuệ mà đơn sơ, nhẹ nhàng mà quyết liệt ……. Bằng đời sống của chính mình, Đức Phật đã dung hòa, đã hóa giải mọi trạng thái đối nghịch của thế gian để từ đó, Ngài dẫn dắt chúng sanh tìm dần về con đường Giác Ngộ. 

“Đến chùa ngắm Phật” còn vô tình giúp tôi cơ duyên liễu nghĩa được nhiều bài pháp mà trước đây càng nghe tôi càng mù tối, vì rõ ràng nghe thế, mà sao không phải thế? Tri và Hành nếu chẳng đi đôi được với nhau thì Tri đó chẳng phải tri, mà Hành kia cũng chẳng phải hành! 

Tới đây tôi mới thấm thía câu Phật dạy: “49 năm qua, ta chưa nói lời nào”.

Đóa sen đưa lên. 

Nụ cười Ca Diếp.

Đã là bài pháp vô ngôn mà bất tận. 

Tôi cứ tiếp tục cách “lạy Phật” của mình như thế. Nghĩa là, dù đến chùa nào tôi cũng lạy Phật bằng cách “Ngắm Phật” mà thôi. Chính vì chỉ ngắm Phật tôi mới khám phá ra rằng, cũng vẫn là tượng Phật Thích Ca với những nét tiêu biểu đặc thù nhưng thật ra không hề có tượng nào giống tượng nào cả, cho dù tôn tượng đó có cùng một xuất xứ. Tôi không cho là lạ vì ngoài nét tinh xảo khác nhau của mỗi nghệ nhân khi đúc tượng, còn tâm ý của Đức Thế Tôn trao cho người đúc tượng nữa. Chẳng phải ai cũng đúc tượng Phật được đâu! Tại sao có những tác phẩm nghệ thuật qua nhiều ngàn năm vẫn là vô giá? Vì đó là những tác phẩm CÓ HỒN.

Với những tác phẩm này, chúng ta chỉ có thể cảm nhận mà không thể dùng bất cứ loại ngôn từ nào để giải thích hay diễn đạt được. Tượng Phật, tự thể đã mang ý nghĩa thiêng liêng, người đúc tượng Phật nếu còn biết đặt cả lòng thành kính trên việc làm này thì khi hoàn thành, bức tượng không thể chỉ là sự kết hợp của đất đá vôi vữa. Bức tượng sẽ mang những bài thuyết pháp của Đức Thế Tôn, những bài pháp ẩn trong ánh mắt từ bi, qua môi cười độ lượng, trên vầng trán trí tuệ, nơi dáng ngồi kiết già vững chãi an nhiên, nơi vòng tay nhân ái muốn ôm hết muôn loài mà cứu độ …… 

Tôi vô cùng xúc động khi khám phá ra điều đó. Nhờ thế, mỗi khi ngắm Phật tôi lại có cảm tưởng như đang được nghe bài pháp mới. Và niềm vui bất tận khi thầm lặng theo dõi bước chân Phật đã vô tình XẢ cho tôi mọi mong cầu ước muốn vị kỷ của nhân gian. 

Ngay cả khi phải nhận những oan trái, vạ lây mà nhân thế vô tình hay cố ý ném vào, tôi cũng chỉ thấy đôi mắt Phật, nụ cười Phật bảo rằng “Hãy chọn sự im lặng của người Phật tử. Đó là sự im lặng của giòng sông”.

Tháng Hai 2005


TAM BỘ NHẤT BÁI

Người bạn đạo nói với tôi rằng, đọc sách về gương tu học của người xưa, lòng chỉ biết ngưỡng phục chứ theo thì làm sao theo nổi. Tôi nói bạn cho một thí dụ thì bạn bảo “Tam bộ nhất bái.”

Chiều hôm đó, bạn ghé tôi để mượn một cuốn sách. Tôi cũng có chút thì giờ nên pha bình trà và chúng tôi ra vườn sau, ngồi trong lều trúc, cùng trao đổi về “Tam bộ nhất bái”, là hạnh nguyện của Đại lão Hòa Thượng Hư Vân năm ngài 43 tuổi, muốn báo đáp công ơn sanh thành của cha mẹ.

Hòa Thượng Hư Vân sanh tại tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa, năm 1840. Từ thuở ấu thơ ngài đã tỏ ý chí xuất trần nên dù bao nhiêu cản trở ngài vẫn quyết một lòng lặn lội tìm thầy học đạo. Ngài từng tu khổ hạnh “Tam thường bất túc”, ngày chỉ ăn một chén cơm nhỏ và ai cho gì thêm cũng không nhận, y áo chỉ có hai bộ đổi thay dù đông hàn giá lạnh hay hè rực lửa nồng. Miệt mài nhiều năm chẳng thấy được gương tâm, ngài quyết dốc lòng tận lực thêm nữa, bèn rời nơi thị tứ, tìm vào hang động rừng sâu, ăn đọt lá, uống nước suối, màn trời chiếu đất, y áo rách rưới tả tơi chẳng đủ che thân ngài vẫn chẳng màng.

Vậy mà lạ thay, sức khỏe của ngài mỗi ngày mỗi thêm tráng kiện, tâm nhẹ như mây, bước nhanh như gió, tai nghe tiếng từ xa, mắt thấy vật nhiều dặm. Nhận ra sự đổi thay nơi công lực, ngài rời hang động, vân du đây đó để tự kiểm chứng. Trên bước đường du hóa, tình cờ ngài gặp một đạo sư. Thấy diện mạo cổ quái của ngài, vị đạo sư hỏi ngài tu theo môn phái gì? Ngài thành thật trả lời là ngài theo gương người xưa, “ép xác tìm tâm” tự tu tự chứng. Vị đạo sỹ bèn nói: “Vậy là ngài chỉ học theo cách tu thân thôi, còn người xưa tu tâm ra sao, ngài có biết hay không? Tu thân cách này, bất quá chỉ giải thoát mình chứ chẳng cứu được ai. Nếu phát Bồ Đề Tâm theo lời Phật dạy thì tuy tu đạo xuất thế gian mà phải không rời thế gian pháp mới là con đường Trung Đạo.” Nghe thế, ngài giật mình, tỉnh ngộ, từ đấy đem sở học bôn ba hoằng pháp. 

Suốt cuộc đời 120 năm, không lúc nào ngài ngưng nghỉ Phật sự, đi tới đâu cũng tu sửa chùa chiền đổ nát vì chiến tranh, thiết lập đạo tràng, dìu dắt tứ chúng. Ngài đã đạt thành 10 hạnh nghiệp lớn lao mà Tam Bộ Nhất Bái nằm trong Hạnh Hiếu Thảo.

Khi đọc lên bốn chữ Tam Bộ Nhất Bái, ai cũng có thể hiểu là “Đi ba bước, lạy một lạy” nhưng hình dung ra bốn chữ này thì thật khó tưởng tượng là đi thế nào, lạy thế nào; đi đâu và lạy ai? Hạnh nguyện của ngài quả là điều ngoài sức con người. Với bối cảnh chiến tranh, loạn lạc thời xưa, đường xá gập ghềnh, núi đồi ngăn trở, thú dữ khắp nơi, khí hậu nghiệt ngã …..một vị tăng đơn độc, lặng lẽ, cứ bước ba bước lại quỳ xuống, thành tâm lạy một lạy suốt non ba ngàn dặm gian nan, quả thật là không ai theo nổi.

Nhưng khi khởi tâm nguyện, có lẽ ngài chỉ tự nghĩ rằng, ơn cha mẹ như trời biển, làm con chẳng đền đáp được mảy may; Nay, cha mẹ không còn, muốn báo đền hãy tận dụng hết tâm hết lực mà thôi. Tâm lực ấy, nếu không thực hành thì biết thế nào mới là hết tâm hết lực. Với ý nghĩ đó, ngài tự nguyện sẽ khởi đi từ hướng đông núi Phổ Đà tới hướng bắc núi Ngũ Đài, đường thiên lý hiểm trở gian nan đó dài non ba ngàn dặm!!!!!. 

Trong lều trúc bình yên, giữa khu vườn chan hòa nắng ấm, người bạn đạo của tôi rơi nước mắt khi chúng tôi nói tới đoạn ngài suýt tử vong bên bờ sông Hoàng Hà vào mùa đông tuyết rơi ngập lối. Khi ngài quỳ lạy đến nơi này thì trời đổ bão tuyết; chung quanh hoang vắng, không nhà cửa, không bóng người, chỉ thấy một chòi lá ven sông. Ngài vào đó trốn tuyết nhưng chòi lá trống trải, bốn bề gió thốc. Tuyết tiếp tục rơi ba ngày ba đêm. Đói, lạnh đã đưa ngài dần vào hôn mê …..Giữa ranh giới của sự sống và cõi chết, ngài bỗng lờ mờ thấy dáng dấp một người hành khất bước vào chòi.

Người ấy cởi bớt y phục của mình mà đắp cho ngài, lại lấy trong túi vải một nắm gạo rang, nhóm lửa, nấu cháo rồi đỡ ngài dậy. Ngài được người hành khất đó cứu sống, không phải chỉ một lần mà hầu như suốt chặng đường gian truân, khi nào gặp hiểm nguy cùng cực thì người ấy lại tình cờ có mặt. Suốt thời gian thực hành hạnh nguyện, chỉ trừ khi qua sông, lội suối hoặc bão giông không thể cất bước, ngoài ra, ngài không hề ngưng nghỉ, chỉ Nhất Tâm bước ba bước, quỳ xuống lạy một lạy. Cuối cùng, sau ba năm ròng rã, ngài cũng tới được chùa Hiển Thông trên núi Ngũ Đài.

Nơi đây, ngài muốn tìm tung tích người hành khất ân nhân để tạ ơn thì một lão- sư, khi nghe xong câu chuyện đã điềm đạm bảo ngài rằng: “Chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đó. Bồ Tát thường hiện thân hành khất trợ duyên cho người cầu đạo.” Nghe thế, Hòa Thượng Hư Vân sụp xuống, lạy khắp mười phương tạ ơn vị Bồ Tát xuất thế gian mà không rời thế gian pháp. 

Nắng trong vườn thơm hương hoa bưởi, nắng gió ngạt ngào quyện bát ngát cõi tâm hương. Giới, Định, Huệ là đây; Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến cũng là đây. Ôn lại truyện xưa, chúng tôi cùng quán chiếu để hiểu rằng noi gương xưa không phải là noi theo đúng hình thức mới là theo, mà phải hiểu cốt lõi, tinh túy của sự việc, của hành động. Đại lão Hòa thượng Hư Vân dạy chúng ta những gì qua hạnh nguyện phi thường mà ngài đã đạt? Ngài dạy chúng ta sự quyết tâm. Phàm làm gì cũng phải quyết tâm. Quyết tâm là hùng lực đưa tới thành công vì nếu không quyết tâm thì chỉ một trở ngại nhỏ cũng đủ khiến tâm lung lay, thối chuyển; Khi tâm lung lay, thối chuyển rồi thì sự thành công sẽ ở ngoài tầm tay. 

Với hoàn cảnh xã hội khác xưa, với tâm lực yếu kém, chúng ta chẳng thể vượt ba ngàn dặm, ba bước lạy một lạy mới là tu, mà phải tỉnh thức biết rằng trong sinh hoạt hàng ngày, nếu ta cố gắng bớt một phần tập khí là thêm một phần sáng suốt; bớt mười phần phiền não sẽ chứng một phần Bồ Đề. Luôn tâm niệm như thế thì đi, đứng là tu; ăn, ngủ cũng là tu; làm việc, nghỉ ngơi cũng là tu; trong tu viện hay ngoài xã hội cũng là tu …….

Biết thế, nhưng tâm chúng sanh thường quen dễ dãi với mình mà vô tình để sự buông lung lấn át. Sau buổi uống trà ngoài lều trúc với bạn, chính tôi đã bị sự lười mỏi lấn át lúc nào không hay. Khi nhận ra thì tâm đã vẩn đục bao phiền não. Tôi cố gắng ngồi thiền nhiều thời hơn nhưng càng ngồi, phiền não càng bủa vây trùng điệp!. Biết là đang bị thử thách, một buổi, sau khi ngồi yên trong bóng đêm từ 12giờ đến 3giờ sáng, tôi đứng dậy, tấm gội sạch sẽ rồi niệm Đức Quan Thế Âm. Không biết tôi niệm hồng danh Ngài bao lâu thì bỗng một ý nghĩ lóe sáng. “Nếu định lực yếu kém, hãy dùng hình thức bên ngoài trợ lực; hình thức nào gần nhất với thân, hình thức nào ta có thể nhìn thấy, nhận thấy từng phút, từng giây mới có thể liên tục nhắc nhở ta tinh tấn.”.

Ý nghĩ đó vừa thoáng qua, tôi cảm thấy như vừa nhấc khỏi vai một gánh nặng ngàn cân!. Tôi quỳ ngay xuống, Đảnh lễ Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát đã soi sáng cho tôi. Hình thức bên ngoài nào gần nhất với thân ta mà dễ thấy, dễ nhận hơn là mái tóc? Không phút chần chờ, tôi biết rất rõ trong buổi sáng hôm nay tôi phải làm gì. Tôi chuẩn bị những thứ cần thiết. Địa chỉ một tu viện sư nữ, một tấm áo tràng, một bộ dao cạo tóc. Tôi phải tìm đến một ni sư, xin được chứng minh trước Tam Bảo, lòng sám hối và quyết tâm tinh tấn tu học. Tôi sẽ xuống tóc hôm nay, như là một hình thức tự nhắc nhở, chứ không phải xuống tóc xuất gia. Tôi biết mình chưa đủ cơ duyên lớn đó.

Trong lúc ngồi chờ bình minh, bỗng nhiên, câu chuyện trao đổi với bạn đạo ngoài lều trúc về hạnh nguyện “Tam Bộ Nhất Bái” của Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân trở thành đậm nét. Trước đây, đã đôi lần tôi có ý nghĩ xuống tóc mà chưa “dám” làm vì chưa đủ quyết tâm. Khi quyết tâm, mọi sự sẽ hạnh thông.

Trên đường tới gặp ni-sư, tôi mong liên lạc được với bạn để cùng chia xẻ, nhưng bạn vắng nhà. Không sao, hôm nào gặp, tôi sẽ tặng bạn vài sợi tóc và nói với bạn rằng, hạnh phúc này của tôi cũng từ bài học Nhất Tâm khi Hòa Thượng Hư Vân thực hành “Tam Bộ Nhất Bái” đấy. Vậy đừng thất vọng, đừng lo sợ rằng nhìn gương người xưa, lòng ngưỡng phục mà không theo nổi. Nói như vậy là chúng ta đã bị chấp vào hình tướng, vào văn tự, vì gương đó là đuốc sáng, ta phải tùy hoàn cảnh và nhu cầu mà chọn đường đi. Bên cạnh đó, ta còn một niềm tin là khi vấp ngã, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát sẽ hiện thân nâng đỡ; không nhất thiết thị hiện dưới thân hành khất, mà có thể là lời an ủi của bạn đồng môn, là sự khuyến khích của giảng sư, là âm thanh tiếng chuông tỉnh thức giữa đạo tràng thanh tịnh…v…v… Hiểu như thế chính là ta đang học từ những bài học ngàn vàng. 

Lần tới gặp nhau, tôi cũng sẽ đưa lại bạn chiếc lược đồi mồi rất đẹp bạn mua tặng tôi hôm trước.

Vì nay tôi không còn dùng đến nữa. 

 2 tháng Ba năm 2005

(22 tháng Giêng năm Ất Dậu) 


SUJATA

Sujata, tiếng Pali được tạm dịch là Tu Già Đa, tên một cô bé nhà giầu ở thôn Uruvela, gần Gaya, cách thủ phủ Patna của tỉnh Bihar 80 dặm về hướng đông nam Ấn Độ. Trong quốc gia mênh mông và phức tạp đó, thôn làng Uruvela quá nhỏ bé, sẽ chẳng ai cần biết đến, nếu nơi đó không có giòng sông Ni Liên Thuyền mà Đức Phật từng xuống tắm, không có khu rừng mà Đức Phật từng trú ngụ, không có cây bồ đề mà Đức Phật thường ngồi thiền định và sau cùng, tìm ra Đạo Lớn. Tất cả đều đã trở thành Linh Địa, với lòng ngưỡng kính của Phật tử muôn phương hướng về.

Nhưng còn Sujata? Có mấy ai nhắc tới cô bé đã dâng bát sữa cứu mạng Đấng Thế Tôn khi Ngài còn là sa-môn Gotama? Vì tu khổ hạnh lâu ngày, sa-môn Gotama quá đuối sức đã ngất xỉu bên bờ sông. Dưới ánh nắng chói chang và sức nóng như thiêu đốt, Sujata mặc sari mầu hồng, bưng một mâm đầy thực phẩm tinh sạch vào rừng để cúng thần linh. Tới bờ sông thì cô bé chợt nhìn thấy một vị sa-môn gầy yếu, nằm lả trên nền đất. Cô bé biết ngay đây là một nhà tu khổ hạnh bị kiệt sức. Cô bèn vội vã rót sữa rồi quỳ xuống, từ từ đổ từng giọt sữa cho sa-môn. Khi bát sữa cạn, cô bé hồi hộp chờ đợi phản ứng của sa-môn. Quả thật, sữa đã như thần dược với người kiệt sức vì chỉ một lát thì vị sa-môn mở mắt. Cô bé vội dâng bát sữa thứ hai. Ngài nhận lấy, chậm rãi uống cạn và không bao lâu, Ngài có thể tự ngồi dậy, nói lời cám ơn cô bé và cho cô biết Ngài là ai. 

Sujata! Sao âm thanh ngắn ngủi, xa lạ đó cứ mãi luẩn quẩn tâm tôi? Nếu ngày rằm đó, Sujata không đi bằng đường bờ sông để vào rừng cúng thần linh? Hoặc đi bằng đường ấy mà không nhìn thấy sa-môn Gotama? Hoặc thấy Ngài, nhưng đã quá trễ? 

Những “nếu”, những “hoặc” đó mà xẩy ra thì nhân loại đã không được có Phật Thích Ca, không được có Đạo Cả để nương theo! Chao ơi! Sự bất hạnh đó khủng khiếp quá! lớn lao quá! 

Nhưng cô bé Sujata đã tới kịp và đã lập tức làm ngay những gì cô biết là phải làm. Khi hai bàn tay nhỏ nâng bát sữa, kê miệng vị sa-môn và dịu dàng đổ vào, cô không hề biết là cô đang góp phần vào một biến cố trọng đại của nhân loại, một phước báu vượt trên mọi phước báu vô lượng vô biên của cả muôn người muôn loài thâu gồm lại! Mà cô cần biết chi điều đó! Cô chỉ cần nhìn thấy vị sa-môn kiệt sức kia hồi tỉnh lại. Chỉ thế thôi! Và Ngài đã không phụ lòng cô. Ngài đã tỉnh lại để hàng ngày cô được cúng dường Ngài một nắm cơm muối mè cho tới khi Ngài thành đạo.

Ơn cứu mạng lớn lắm chứ! Vậy mà chúng ta không thấy Đức Phật đặc biệt ưu ái Sujata. Sau khi thành đạt, Ngài lưu lại Uruvela một tuần trăng để dạy đạo cho đám trẻ trong thôn, trong đó có Sujata. Ngài coi tất cả như nhau, từ những trẻ con nhà giầu mặc gấm lụa tới những trẻ nghèo chỉ có mảnh vải rách che thân, đều đến ngồi trên nền cỏ, xúm xít quanh ngài. 

Và Sujata, có công cứu mạng một vị Phật thì phước đức nhường bao! nhưng cô bé chẳng hề thấy mình khác những đứa trẻ trong làng. Trái lại, được có chút học thức, cô hiểu về lễ nghi và thường hết sức cung kính Phật để đám trẻ noi theo. 

Kẻ cúng dường, người nhận lãnh đều an nhiên tự tại. 

Gần một năm, sau khi Đức Phật rời thôn Uruvela để bắt đầu hoằng pháp, Sujata chỉ còn được gặp Ngài một lần khi Ngài trở lại thăm bọn trẻ. Cũng thời gian đó, tăng đoàn của đạo sĩ Kassapa - giáo phái thờ Thần Lửa - đang tu học đông đảo ở khu rừng bên kia sông. Đức Phật đã đàm đạo với đạo sĩ Kassapa và thuyết phục được ba anh em đạo sĩ đem cả tăng đoàn gần 900 trăm người về tu học Đạo Giác Ngộ.

Đó là lần cuối cùng Sujata được diện kiến Đức Phật, cùng với bọn trẻ trong làng!. 

Cô bé có một tâm lành như vậy, sao không nương theo Đạo Cả Đức Phật vừa mở ra mà tìm đường giải thoát? Suốt dặm trường hoằng pháp, Đức Phật đã độ cho biết bao người từ vua, quan, trưởng giả đến cùng khổ, nghèo hèn, sao Ngài không độ cho người đã cứu mạng mình? Ngay cả đến mười năm sau, khi Đức Phật trở lại thôn Uruvela như lời hứa với Svastika - chú bé chăn trâu thường cúng dường cỏ tươi để Ngài trải làm tọa cụ khi ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề - để tiếp nhận chú vào tăng đoàn của Ngài, mà không nhắc đến cô thí chủ nhỏ bé năm xưa? 

Đem tâm thế gian mà luận sự nhiệm mầu thì những dấu hỏi ấy sẽ chẳng có lời giải đáp ổn thỏa. 

Hãy thử gột rửa thân tâm. 

Hãy lắng mọi giao động xôn xao.

Hãy tĩnh lặng thiền định. 

Hãy ươm trong tâm mình một mầm sen. 

Hãy khai giòng Cam Lộ cho đóa sen hé nở.

Hãy lấy lửa bản thể đốt lên Tâm Hương……. 

May ra, tâm-thế-gian có cơ duyên chuyển hóa, thấy được phần nào biển trí bao la của Pháp Phật nhiệm mầu.

Sa-môn Gotama nhận lãnh ơn cứu mạng như một sắp đặt cho cô bé Sujata có cơ duyên được gieo trồng phước báu ở đời này và đời sau. Phải chăng đời này cô còn những nợ duyên chưa dứt nên Ngài chỉ độ cô gieo được hạt lành? Nếu vì ơn đó mà phải ưu đãi Sujata hơn những đứa trẻ khác thì chính Ngài đã không thực thi được sự bình đẳng như Ngài thuyết giảng. Sâu xa hơn, ai nói Ngài chưa trả đủ ơn cứu mạng? Ngài đã trả bát sữa đó bằng trọn vẹn trí tuệ và tình thương qua 49 năm hoằng pháp và 84 ngàn pháp môn phương tiện, lưu truyền cho đến đời này và muôn ngàn đời sau, đem phúc lợi cho muôn người, muôn loài. Đó là cách trả ơn của Đấng Toàn Giác. Nếu chỉ nghĩ đối tượng là cá nhân cô bé dâng sữa thì quá hẹp hòi, cạn cợt!

Phần Sujata, khi sa-môn Gotama đạt đạo, cô biết rằng Ngài sẽ là một vị Phật tối thượng, muôn người muôn loài đều cung kính. Đứng trước Ngài, cô chỉ thấy mình là một chúng sanh bé nhỏ, rạp đầu kính lễ. Nếu kiêu mạn nghĩ rằng mình đã có công cứu mạng vị Phật uy linh kia, thì còn chi phước báu! 

Phải chăng, chính Đức Phật đã truyền cho cô trí tuệ này để cô nhận thức được như thế mà thể hiện tinh thần Vô Ngã, thể hiện hạnh đầu tiên trong Lục Độ Ba La Mật bằng tuyệt đích của ý nghĩa CHO và NHẬN.

Cho không dính.

Nhận không mắc.

Không dính mắc mới đạt được an nhiên tự tại để khởi đi những bước vững chãi trên con đường Trung Đạo./.

Tháng bẩy 2004
 


ĐỒI GIÓ 

Mới quá trưa, trời bỗng tối sầm, mây đen ở đâu kéo đến nhanh quá, và không bao lâu, mưa bắt đầu rơi. Tôi ngồi trước ban thờ Phật, lặng lẽ nhìn mưa rạt rào ngoài khung cửa kính, lòng lắng trong, an tịnh sau thời kinh Bát Nhã. Nhưng mưa mỗi lúc một nặng hạt hơn, rồi gió vần vũ ngả nghiêng những nhánh hồng, đập vào cửa kính, phút chốc, cuốn giạt tâm tĩnh lặng trong tôi, lên tới một vùng đồi tầm tã bão giông và đầy gió nổi! 

Mấy ngày nay, khi tọa thiền, tâm tôi lại lang thang về đồi gió đó, một nơi chốn tôi chưa từng được biết, được tới. Chỉ vì tờ tạp chí tình cờ có được, trong đó có bài của ngài Huyền Không nhắc đôi giòng về ngôi chùa cổ rất nghèo, rất khuất lánh, trên ngọn đồi Kim Sơn nhìn xuống phía bắc sông Bạch Yến. Chùa thuộc làng Lựu Bảo, gần chùa Linh Mụ ở Huế. Sau khi bị trấn động vì một vài chi tiết trong bài viết đó, tôi lục tung cả hai kệ sách, giở tất cả những cuốn có di tích về chùa chiền miền Trung, tìm thấy hàng trăm tên chùa lớn nhỏ, trừ chùa Kim Sơn! Ngôi chùa nhỏ “vô ngã” đến thế nên mấy ai biết chùa đã gắn liền với lịch sử nổi trôi của vận nước từ hơn ba thế kỷ qua và thời thập niên bốn mươi, đã để lại viên Xá Lợi sáng ngời Bi Trí Dũng trong ngôi tháp tại khuôn viên chùa.

Tuy không tìm được sách vở, hình ảnh gì về chùa Kim Sơn nhưng những chi tiết hiếm hoi đọc được qua tờ tạp chí đã không ngừng thôi thúc tôi quán chiếu về bao dữ kiện lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam thời đó, thời người Pháp đã thẳng tay tiêu diệt những phần tử cách mạng yêu nước, tiêu biểu nhất là Việt Nam Quốc Dân Đảng, nổi dậy từ thập niên ba mươi. Không riêng gì Việt Nam, lịch sử thế giới đã chứng minh từ ngàn năm là khi không còn gì để mất thì không còn gì để sợ! Bao nhiêu năm dưới ách thống trị của người Pháp, người dân Việt Nam đã không còn gì để mất nữa, nên người Việt Nam vẫn tiếp tục đứng dậy đòi lại quyền làm người. Cũng từ ngàn xưa, người Phật tử hiểu rằng Đạo Pháp với Dân Tộc là một. 

“Đạo như Trời đất

Vận hành mang mang

Lặng thinh dũng mãnh

Rạt rào thơm ngát Kim Cang….”

Thế nên vào những năm cực kỳ đen tối của Đạo Pháp và Dân Tộc thì Thất Hiền đã tùy duyên mà cứu độ chúng sanh. Đó là những năm 1946, 1947 bẩy vị Thầy ưu tú nhất, tốt nghiệp Phật Học Đường Báo Quốc tại Huế (tương đương với bằng đại học Phật Giáo đầu tiên thời ấy) đã nương hạnh Bồ Tát Quán Âm mà tải đạo giúp đời. Có vị lánh vào Nam, âm thầm củng cố Giáo hội Tăng già, có vị cởi áo cà-sa tham gia kháng chiến, theo đúng tinh thần Quán Âm, nghe tiếng kêu thương quằn quại của cuộc đời là tìm đến bằng mọi cách, bằng bất cứ hình dáng nào thích hợp “Ưng dĩ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phụ nữ thân đắc độ giả, tức hiện trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phụ nữ thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ đồng nam đồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện đồng nam đồng nữ thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, atula, cẩn na la, ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng thân đắc độ giả, tức giai hiện chi nhi vị thuyết pháp”, chỉ còn một Thầy tình nguyện ở lại với ngôi chùa xiêu vẹo để cùng chia xẻ gian nguy và làm nơi nương tựa tinh thần cho dân nghèo quanh vùng. Đó là Thầy Trí Thuyên, một trong Thất Hiền ưu việt của Phật giáo Việt Nam thời đó. Với lưới tình báo bủa vây khắp nơi, người Pháp đã nghe phong phanh về ngọn đồi khô cằn sỏi đá trên đó có ngôi chùa đổ nát đã đào tạo những bậc trí tuệ, đang rải giòng Cam Lộ ngọt ngào cho vơi bớt cùng khổ của muôn dân.

Ngày 23 tháng 2 năm 1947, người Pháp được chỉ điểm đã bất thần kéo lực lượng võ trang hùng hậu tràn lên đồi Kim Sơn, xông vào chùa khi thầy Trí Thuyên đang tọa thiền trước chánh điện. Chúng lên đạn rầm rập, định bắn Thầy ngay. Thầy chỉ điềm đạm yêu cầu để Thầy tụng xong một thời kinh rồi hãy bắn, cũng không muộn. Chúng đồng ý. Và Thầy khai chuông mõ, an nhiên tụng kinh. Khi phiên kinh dứt, Thầy điểm chuông, lạy ba lạy. Tiếng chuông còn ngân dài mà tiếng súng đã chát chúa vang lên! 

Thầy Trí Thuyên gục xuống trước Tam Bảo trong hồi chuông Bát Nhã khi Thầy chỉ vừa hai mươi bốn tuổi!!!

Kính lạy Mười Phương Chư Phật 

Tiếng chuông cứu độ quyện vào tiếng súng oan nghiệt đó, tới nay đã gần sáu thập niên, có lúc, có kẻ tưởng rằng cát bụi ta-bà đã phủ lấp Chân Như; nhưng không, trên ngọn đồi Bi Trí Dũng đó, gió có bao giờ ngừng thổi, mây có bao giờ ngừng bay, mặt trời có bao giờ ngừng mọc, trăng có bao giờ ngừng sáng, mưa có bao giờ ngừng rơi, nắng có bao giờ ngừng chiếu..…. nên thầy Trí Thuyên có bao giờ mà không còn đó với Kim Sơn, khi gió chính là mây, mây chính là mặt trời, mặt trời chính là mặt trăng, mưa lạnh chính là nắng ấm và thầy Trí Thuyên chính là Đạo Cả, là Chánh Pháp, là trùng trùng duyên khởi của vạn hữu bất sanh bất diệt. 

Với tất cả tấm lòng hướng về Chư Phật, con tin chắc thầy Trí Thuyên còn đó, con tin chắc không bao giờ thầy Trí Thuyên lại không còn đó. Không phải thầy chỉ còn đó mà thầy vẫn đang tụng kinh. Thầy chỉ mới dứt kinh Bát Nhã, đem trí tuệ Phật soi tâm thế gian; Thầy còn tụng Phổ Môn cứu khổ cứu nạn, còn tụng A Di Đà đưa người nhất tâm bất loạn về Tịnh Độ, còn tụng Địa Tạng chuyển nghiệp cho kẻ đọa trầm luân….Bạch Chư Phật, tiếng chuông hôm đó vẫn còn ngân vang, tiếng chuông đó chưa dứt, tiếng chuông đó không bao giờ dứt vì đó là tiếng đại hồng chung trong lòng Phật tử Việt Nam, những người con Phật hướng về Đạo Pháp trong tinh thần tải đạo cứu đời, thể hiện hạnh nguyện Quán Âm độ thế. 

Thương thay cho những kẻ vô minh, vì nếu biết được điều đó, họ đã không lên đạn để diệt cái bất diệt ./. 

Tháng Giêng 2005


TRÚC TÍM, HOA VÀNG

Trong thi ca Đại- thừa có hai câu thơ diễn tả tuyệt vời chân-như, bản-thể qua bức tranh hài hòa mầu sắc đến gần như toàn hảo:

“Túy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân”

Vô thỉ vô chung, không đi cũng chẳng đến thì nơi đây trúc tím hoa vàng chính là chân như; nơi kia mây trắng trăng tỏ khác gì bản thể; tự nơi tâm trong suốt này, đâu chẳng là trúc tím hoa vàng, đâu chẳng là mây trắng trăng tỏ? Đó chính là tâm đối cảnh mà không dính cảnh thì tâm, cảnh, hiện toàn chân. 

Buổi đầu, hành giả tọa thiền còn phải dùng cái dụng- của- trí để nhận biết mặt mũi của vọng; nhận ra vọng thì tâm buông; vọng buông thì tâm tịnh; tâm tịnh rồi thì vạn hữu với ta là một, đâu còn lăng kính phân biệt nào để trúc tím hoa vàng là đẹp xấu hay héo tươi, mà nhìn trúc tím chỉ là trúc tím, nhìn hoa vàng chỉ là hoa vàng; chỉ là thế, và chỉ thế thôi, nguyên thủy, trong suốt tới mức tâm cảnh là một. Đã là một thì cũng không còn thời gian, không gian nữa.

Hành giả chuyên cần có thể đạt được điều đó, nhưng giữ được trạng thái đó lâu hay mau mới là công lực, bởi vì vọng luôn đầy ắp trong tâm như bọn trộm đông đảo luôn rình rập ngoài cửa, một chút chểnh mảng là chúng lẻn vào đánh cắp những gì quý giá! Phút mất chánh niệm là phút vọng khởi lên, bị trộm xô ngã rồi mới nhận ra sáu cánh cửa lục-căn bỏ ngỏ thì còn chi bản thể chân như!

Đó là lúc tôi ngồi thiền đêm qua, trăng mười sáu vằng vặc bên song đã thừa phút mơ màng kéo tôi về tuốt đêm trăng quê nội. Ngày về quê giã từ ông nội để xuôi Nam, tôi mới mười tuổi, biết gì đâu dáng núi Ba-Vì tắm đẫm hồn thơ Quang Dũng, biết gì đâu ngã ba sông Đáy u hoài Đôi Mắt Người Sơn Tây. Nếu thuở ấu thơ xưa tôi biết đất quê nội chính là chiếc nôi hồng chở đầy cung bậc, vần điệu của thơ bất tử, của nhạc ngàn đời đó, thì không biết tâm hồn tôi có thay đổi gì không.

Chỉ biết quê nội lúc nào cũng ở trong tôi, ở phần ấm áp nhất của trái tim, nơi góp nhặt, chứa đựng đủ loại cảm thọ rắc rối! Trên bờ đê sông Hồng dẫn về thôn Phương Viên, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông, tôi chỉ thấy mắt ông nội đỏ hoe, cha tôi thì vội vã nắm tay chị em tôi, nghẹn ngào quay đi. Khi chúng tôi gào lên “Nội ơi, nội!” thì cha mẹ tôi không còn kìm giữ được nữa, cùng òa lên, vừa khóc, vừa chạy. Dạo đó tôi không hiểu, vì sao mình không muốn xa nội mà phải xa? Có ai bắt buộc đâu? Quê mình, nhà mình ở miền Bắc, sao lại bỏ để vào miền Nam? v..v..

Thời gian đầu, sau cái ngày tháng ấy của năm 1954, hầu như không lúc nào nghĩ về quê nội mà tôi không khóc. Mà có phải chúng tôi được ở quê nhiều đâu, chỉ mùa hè ông tôi cho người ra Hà Nội đón, mấy chị em tôi mới được về quê chơi dăm bữa, nửa tháng. Ấy thế mà tôi nhớ từng hàng cau, từng gốc bưởi, gốc lựu, gốc na, bể nước mưa, chuồng trâu bò, gà vịt, đàn ngỗng ồn ào, vào cổng sau là đi qua bếp rơm, chuồng lợn, vào cổng trước là gặp ngay đền thờ Đức Thánh Trần, dãy nhà ngang chứa thóc v…v… 

Ngày được tin ông nội bị Cộng Sản Việt Nam đấu tố đến chết, sự bi thương đã quá sức chịu đựng của tôi. Tôi ốm liệt giường một tuần, trong những cơn mê sảng chỉ thấy hình ảnh ông nội quằn quại dưới đòn thù cuồng tín vô minh. Từ đó, kỷ niệm về quê nội càng hằn sâu trong lòng tôi với niềm mơ ước một ngày được trở lại, được bắc chiếc chõng tre dưới gốc cây đào trong sân gạch rộng mênh mông một đêm trăng sáng, chờ rổ khoai bác Cả đang lùi thơm phức trong bếp tro, nghe ông nội giảng nghĩa câu “Nhân tri sơ, tính bản thiện”. Nhưng niềm mơ ước đó đã không bao giờ thành sự thật.

Toàn bộ nhà cửa, ruộng nương, trang trại của ông nội đã được nhanh chóng chia vụn ra cho những người trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần vào việc thảm sát ông. Tin này, mấy năm sau, do chú tôi lưu lạc ngoài Trung mãi, khi vào Nam mới cho biết. Lạ thay, điều ấy không hề làm phai mờ một hình ảnh nào mà tôi đã ghi khắc. Hai bể nước mưa vẫn trong vắt, ngọt lịm, hàng cau vẫn thẳng tắp, đùa với mây xanh, dãy nhà ngang vẫn chất đầy thóc lúa, những đụn rơm vẫn cao ngất góc sân, đền thờ Đức Thánh Trần vẫn phảng phất uy linh, mười ba bực thềm gạch dẫn lên ngôi nhà chính vẫn in đầy dấu chân chúng tôi nhảy nhót, chuồng trâu chuồng bò vẫn đậm nét câu chuyện đầu năm ông tôi thường kể khi bà nội còn sống.

Cứ trưa mồng một Tết, sau khi cúng bái, bà nội tôi lại bưng một mâm cỗ đặt trước chuồng trâu bò rồi ngồi thụp xuống dỗ dành: “Ông Trâu ông Bò ơi, năm hết tết đến, xin các ông ăn cho chúng tôi một miếng. Suốt năm các ông đã khó nhọc giúp chúng tôi làm nên hạt lúa. Các ông làm thật mà ăn giả, chẳng quản công lao, chúng tôi biết lấy gì đền đáp”. Và mâm cỗ đầu năm cứ để trước chuồng trâu bò như thế cho đến chiều mới mang sang chuồng lợn. Gia đình lợn không làm khách như ông Trâu ông Bò nên chỉ một loáng là mâm cỗ đã được thanh toán gọn ghẽ, dù bà nội tôi không ngồi đó để dỗ dành, mời mọc…..

Bên cạnh những ngọt ngào không hề mất ấy là niềm đau đớn chẳng thể nguôi ngoai. Rõ ràng là một tâm trạng mâu thuẫn, phức tạp, nhưng tôi chưa từng phân tách nó cho đến sau 30 tháng tư năm 1975, người anh họ gửi sang cho tôi một tấm hình chụp con đường đất ngoằn ngoèo với hai hàng trúc xiêu vẹo. Cuối con đường đất đó là một bức tường gạch loang lổ. Mặt sau tấm hình anh tôi ghi: “Toàn bộ dinh cơ của nội chỉ còn bức tường gạch này thôi. Em có nhận ra đây là cổng trước, vào đền Đức Thánh Trần không?”.Tôi đã ngồi lặng, nhìn bức tường trong hình, đau đớn như đang nhìn ông nội trong những phút cuối đời đầy nhục nhã, uất ức. Chính bức hình này mới thực sự kéo tôi ra khỏi tâm trạng mơ hồ để chấp nhận thực tế là quê nội tuy vẫn đó nhưng thật ra không còn nữa, không còn gì nữa!

Qua những lần điện đàm, anh họ tôi còn cho biết thêm, sau khi Cộng Sản bức tử ông nội, họ lập tức đuổi anh ra khỏi nhà. Nơi trú ngụ của anh khi đó là căn chòi ngoài trại, nơi khi xưa vẫn dùng để nông cụ. Vì anh còn nhỏ quá nên mỗi sáng, anh được phép cán bộ cho bưng nồi về nhà cũ, chờ người Cộng Sản đang quản lý nhà mình, phát cho lon gạo nhỏ lấy từ vựa thóc của nhà!!Lon gạo không đủ no, anh tôi phải ra đồng mót khoai, mót sắn. Ngày đầu anh chỉ mót được dăm củ khoai sùng bé bằng hai ngón tay. Nhưng hôm sau, khi anh ra đồng, dân làng len lén nhìn anh. Anh nghe thấy có người thì thầm: “Tội nghiệp, cháu cụ Tổng đấy”.

Anh chẳng cần họ tội nghiệp, anh chỉ cần mót được dăm củ khoai, vài cọng lúa để tối nay no lòng. Lạ chưa, những ngày sau đó anh rất may mắn. Sao có những củ khoai to thế này, những nhánh lúa chĩu nặng thế kia mà họ bỏ sót? Anh mừng rỡ nhặt vào rổ. Những hôm sau, rồi những hôm sau nữa vẫn thế, anh mót dễ dàng được cả rổ khoai sắn. Những người nông dân đi hái hoa mầu thường nhìn anh, kín đáo mỉm cười. Và anh đã hiểu. Thì ra, không phải những nông dân kia bỏ sót hoa mầu mà họ đã cố tình chừa lại chút đỉnh cho thằng bé tội nghiệp, cháu cụ Tổng, dù họ cũng nghèo đói. Anh tôi đã bật khóc khi nhận ra như thế. Giữa những tang thương đổ nát, vẫn còn một điều thấp thoáng nhưng không biến, không mất. Đó là Tình Người. 

Đêm qua, trăng mười sáu vừa đưa tôi về quê cũ với những đêm trăng thơm phức khoai lùi, ngạt ngào hương bưởi hương cau và say sưa cổ tích Tấm Cám. Tôi đã lạc lối thiền, bèn nhắm mắt, tìm về hơi thở. Thở vào, tôi biết mình đang thở vào. Thở ra, tôi biết mình đang thở ra. Tôi nắm bắt hơi thở và làm chủ nó. Thở vào, bụng tôi nhè nhẹ thót vào. Thở ra, bụng tôi nhè nhẹ dãn ra. Tôi theo dõi hơi thở và đặt chú tâm nơi bụng, cốt không cho ý luẩn quẩn trên đầu để không suy nghĩ, không còn niệm phân biệt nữa. Cứ thế, trăng cùng với tôi, thở nhịp nhàng, khoan thai. Trăng thở và tôi thở. Trăng là tôi và tôi là trăng…..

Không biết bao lâu, trong tĩnh lặng, dưới ánh trăng, quê nội lại hiện ra, cùng với tôi, với trăng, tọa thiền êm ả, không còn oan cừu, không còn thù hận mà chỉ là bát ngát trúc tím hoa vàng. Và bạn ơi, bạn biết không, tôi vừa bàng hoàng nhìn thấy tôi ngay nơi trúc ấy, ngay nơi hoa kia.

Hóa ra, TÔI CHƯA TỪNG MẤT GÌ, BỞI TÔI CHƯA HỀ THẬT CÓ.

Muốn kiểm chứng lời tôi, bạn hãy ngồi xuống đi, khoanh chân và khép hờ đôi mắt. Khi cảm thấy thoải mái, hãy theo dõi hơi thở, hãy nắm bắt hơi thở và làm chủ nó, bạn sẽ nhận ra sự mầu nhiệm là, có bao giờ ta ngưng thở đâu (cho đến khi ta…. tắt thở), vậy mà, rất ít khi ta nhận ra là ta đang thở. Ta thờ ơ, lãnh đạm với hơi thở của ta quá, trong khi, nếu theo dõi nó, làm chủ nó, sẽ có lúc bạn bất chợt mỉm cười mà không hay, vì đó chính là lúc:

Túy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân.

25 tháng Hai 2005 

(17 tháng Giêng năm Ất Dậu)


TẢO NGHIỆP

Sáng nay, khi tôi mở máy, “lên lưới” thì trời bỗng lất phất mưa. Nhìn lịch thấy còn ba ngày nữa là Mồng Một Tết khiến tôi chợt có ý nghĩ ngộ nghĩnh “Gớm, lịch sự quá, trời đất Âu Mỹ cũng biết tặng chút mưa Xuân cho Tết Á Đông”. Niềm vui nhỏ chưa kịp nở thành nụ cười thì trên lưới vừa hiện lên bản tin ngắn về một người đàn ông Việt Nam có thể bị kết tội từ 74 năm tù đến chung thân vì can tội hãm hiếp em vợ rồi bắn chết người bạn trai của cô ấy bằng 10 phát đạn lạnh lùng! Người thiếu nữ trẻ vừa được bảo lãnh từ Việt Nam sang, chung sống với gia đình chị ruột như là chặng cuối của một ước mơ huy hoàng đã biến thành sự thật.

Hạnh phúc này, tôi nghĩ, không phải chỉ riêng của thiếu nữ đó mà có lẽ còn của cha mẹ, thân thưộc, bạn bè cô ở Việt Nam khi chia xẻ vui mừng với cô; và hạnh phúc này, lớn không kém với người từ Mỹ, bảo lãnh cô. Mọi diễn tiến đều hoàn toàn tốt đẹp từ mọi phía, trừ LÒNG NGƯỜI là điều không một ai lường được. Lòng người ở đây là tấm lòng người anh rể của cô, người cùng với chị ruột đã vì thương yêu mà lo toan cho cô. Trong cuộc sống chung hàng ngày, người anh rể đã chuyển tình thương theo nghĩa Phật dạy (ban vui cứu khổ) sang tình thương ích kỷ của nhân thế (chiếm hữu) lúc nào, có lẽ chính anh ta cũng không hay! Khi dục vọng đã tới mức mù quáng thì nghiệp ác sẽ dẫn dắt tạo nghiệp! Và nghiệp nặng hay nhẹ là tùy theo mức độ si mê, mù quáng.

Sự việc của thảm kịch trên khi xẩy ra chắc nhanh lắm! Mười phát đạn vuột khỏi nòng súng trong cơn mê loạn, chắc không quá mười giây, nhưng hậu quả của nó có thể mười đời, mười kiếp chưa rửa hết oán hờn vì hậu quả này chẳng phải chỉ liên hệ tới một thế hệ, một gia đình! Kẻ làm tội, đền tội đã đành nhưng còn người vô tội thì sao? Đây có phải là sự cộng nghiệp trong nhiều kiếp trầm luân hay không? Làm sao để chặn niệm ác trước khi nó phát khởi? Làm sao nhận diện được bước đi tinh quái nhưng rất thầm lặng của ác nghiệp, trước khi nó bất thần vùng dậy như con hổ đói, chụp lấy ta mà cắn xé cho đến thịt nát xương tan! 

Đức Phật dạy phải biết phản quang tự kỷ, biết nhìn chính mình, biết rõ sự mạnh yếu, xấu tốt của mình, may ra mới có cách tránh nghiệp. Ta hãy nhìn ta cẩn trọng như nhìn con đường đang đi trước mặt, có thấy hố sâu gai góc mới né được, chứ chân bước trên đất mà mắt chỉ nhìn trời thì dù sa hố rồi cũng chưa hiểu tại sao! 

Thấy cõi ta-bà chập chùng khổ đau và vô minh dầy đặc nên Đức Phật đã thị hiện thế gian với một mục đích duy nhất là “Khai, Thị, Ngộ, Nhập, Phật tri kiến” nghĩa là chỉ cho thế gian biết được, thấy được Phật tánh của mình và thể nhập làm một với Phật tánh đó. Khi đã thấy được cái “Bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh ……” ta đâu còn khởi niệm tham sân si mà tạo nghiệp nữa.

Nhưng lời Phật dạy đã từ gần 2600 năm mà thảm kịch cõi ta-bà vẫn kinh hoàng hơn địa ngục vậy? Là vì, Phật từng nói “Con đường ta đã chỉ; đốt đuốc lên mà đi hay không là nơi mỗi chúng sanh”.

Tới đây, chúng ta phải can đảm tự nhận lỗi nơi mình. Lời Phật dạy không phải để đọc suông, tụng suông. TU mà không HÀNH chỉ là Tu Rị (rị xuống!!!) Nhưng nhân thế vốn huân tập thói quen dễ dãi với mình nên Tu đã khó, Hành lại càng khó hơn, biết bắt đầu từ đâu, nương tựa nơi đâu để thấy đường ngay lẽ thật?

Đây chính là trách nhiệm của những vị tự nhận, tự nguyện là Sứ Giả Như-Lai. Lời quý ngài dạy không quan trọng bằng việc quý ngài làm, vì nếu quý ngài thể hiện được lời Phật dạy bằng chính bản thân quý ngài thì ngay nơi đó, Phật tử đã có tấm gương soi, hiển lộ, minh chứng rõ ràng rằng, khi đốt đuốc lên mà đi thì con đường Trung Đạo lập tức ở ngay trước mắt. Con đường đó, qua hình ảnh, qua nhân cách Từ Bi, Trí Tuệ của quý ngài, chính là sự khuyến khích mạnh mẽ nhất để chúng sanh tin tưởng mà cất bước TU và HÀNH. 

Có tu hành thì ma Ba-Tuần khó còn cơ hội tác hại nên những thảm kịch kinh hoàng như bản tin trên! 

Trong khi chờ lửa bén ngọn đuốc, ta hãy tạm cầm chổi “Tảo nghiệp”, học bài học tương đối dễ mà Đức Phật chỉ cho ngài Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già khi xưa, là chỉ cần tảo nghiệp, quét, quét và quét….Chỉ cần cứ chăm chỉ quét thôi, quét rác quét bụi thì tâm sạch, quét nghiệp thì tâm tịnh, quét vô minh thì trí tuệ hiển bầy. Ngài Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già may mắn gặp Đức Phật nên cây chổi quét bụi đã thành cây gươm Bát Nhã; chúng ta cũng có thể may mắn gặp được Sứ-Giả-Như-Lai chân chính, thì chổi tuy chẳng thành gươm, ít nhất, đời vô thường này cũng đỡ bụi. Chỉ cần một chút cẩn trọng, tự nhắc rằng “TU dễ hơn HÀNH”. 

Vì thế, trên đường đi tìm minh-sư, ta hãy cố NHÌN, trước khi NGHE.

Tháng Hai 2005 


VÔ TỰ THỊ CHÂN KINH 

Thi hào Nguyễn Du là một Phật tử mộ đạo, rất siêng năng tụng đọc kinh điển, nhưng cụ đã từng thú nhận là đọc kinh Kim Cương cả ngàn lần mà vẫn không nắm bắt được ý kinh; cho tới khi được nghe bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng cụ mới liễu ngộ rằng “Chân kinh vốn không lời”. Cụ đã viết bốn câu thơ bằng chữ Hán để diễn tả tâm trạng của mình: 

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh

Kỳ trung áo nghĩa đa bất minh

Cập đáo phần kinh Thạch đài hạ

Chung tri: vô tự thị chân kinh

Chữ Hán, tôi lõm bõm chưa qua nổi cuốn Tam Tự Kinh, nhưng ráng phỏng dịch như sau:

Ngàn lần tụng đọc Kim Cương

Vẫn như mờ ảo khói sương tơ trời

Trước đài gương, bỗng tỏ ngời

Là: Chân kinh vốn không lời mà thôi!

Người bạn đạo của tôi tỏ ý nghi ngờ. Bạn nói, tối nào cũng tụng kinh, tụng rõ ràng, mạch lạc từng tiếng mà nhiều khi còn phải đi tìm sách của các bậc cao minh, giảng giải cho thêm mới tạm hiểu. Nay, nói chân kinh vốn không lời thì biết nương vào đâu mà hiểu đạo? Tôi cũng ….nghi lắm! nhưng vừa khởi niệm nghi bỗng giật mình. Khi nghe điều gì, ta phải tìm hiểu điều đó thế nào rồi mới luận đúng hay sai chứ. Ngay cả sau khi tìm hiểu rồi, cái kết luận cũng chỉ mới căn cứ trên tầm hiểu biết chủ quan thôi, chưa chắc đã là cái kết luận có giá trị. Chúng tôi cùng đồng ý chọn con đường ngắn nhất, là tìm xem cụ Nguyễn Du nghe được bài kệ nào của Lục Tổ Huệ Năng mà tìm ra chân lý ấy. Kệ của Lục Tổ như vầy:

Nhân liễu thử tâm nhân tự độ

Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu

Minh kính diệc phi đài

Bồ đề bổn vô thụ.

Tìm được bài kệ, đọc lên, bạn nhìn tôi, chờ đợi. Tôi lại vò đầu bứt tai, tận dụng cái vốn …. Tam Tự Kinh mà dịch như sau:

Người tự tại khi tâm sáng tỏ

Thì Linh Sơn ngay ở tâm này

Gương kia sáng chẳng vì đài

Bồ Đề vốn chẳng là cây bao giờ.

Có lẽ tôi dịch lơ mơ quá nên bạn phản đối ngay: 

- Bồ Đề mà không là cây thì là gì? 

 A, câu này thì tôi trả lời được, tại bạn chưa ôn bài đó thôi. Khi Lục Tổ nói “Bồ đề bổn vô thụ” là ý nhắc về bản chất huyễn hóa của vạn hữu, chỉ do duyên hợp mà thành. Nhìn cây Bồ đề xanh tươi cành lá, đó là sau khi hạt đã nẩy mầm, chồi lên mặt đất, tiếp nhận mưa, nắng, gió v…v… tăng trưởng với thời gian mà ta thấy “cái gọi là cây Bồ đề.” Nhưng nếu tách rời hạt nhỏ li ti kia với đất, cát, mưa, nắng …..sẽ chẳng bao giờ có cái gọi là cây Bồ đề cả. Vậy thì, bản chất chân thực của mỗi sự vật là gì? Nó sẽ chẳng là gì, nếu không do nhiều duyên hợp mà thành. Ngay như tấm thân tứ đại của chúng ta đây, cái mà, đối với chúng ta là quan trọng lắm lắm, cũng chỉ là huyễn giả. Thân ta có, là do đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành. Tách rời đất (chất cứng như xương, móng….), nước (chất lỏng như máu, mồ hôi …..), gió (chất hơi như hơi thở), lửa (chất nóng như nhiệt độ), sẽ chẳng còn gì để gọi là thân ta nữa. Bạn lại hỏi tôi một câu thật bất ngờ, nhưng rất hay: 

- Cái gì nhận ra sự huyễn giả đó? 

Câu hỏi quyện vào tiếng reo vui của ấm nước vừa sôi. Tôi lặng lẽ nhìn bạn trịnh trọng mở tủ, bưng ra bộ tách có đủ cả chén tống, chén quân. Tôi biết bạn có bộ tách quý này do cụ thân sinh để lại, nhưng chưa từng được bạn mang ra đãi. Hôm nay sao đặc biệt thế? Dù cố tình làm ra vẻ thản nhiên nhưng bạn biết, tôi đang theo dõi bạn từng cử chỉ. Mở hộp trà thơm, nhón một dúm trà nhỏ bỏ vào chén tống. Nước sôi rót vào vừa ngập trà, bạn cầm lên, tráng nhẹ rồi đổ bỏ nước nhất. Lần rót nước nhì, bạn cũng cầm lên, tráng nhẹ rồi đặt tách xuống khay. Trong khi chờ trà ngấm, bạn dùng nước nóng tráng hai cái chén quân; xong, bạn đặt một chén trước tôi, chén kia trước bạn. Rồi, rất từ tốn, bạn chắt nước đã ngấm trà từ chén tống ra chén quân, tức là cái chén nhỏ như hạt mít!

Tôi cố nín cười, nhưng tới đây thì hết chịu nổi. Ngờ đâu, bạn cũng giả nghiêm suốt thời gian biểu diễn. Chúng tôi cùng cười thoải mái. Bạn thú nhận:

- Chỉ loáng thoáng thấy bố lui cui pha trà như vầy nhưng không thực sự chú ý; Thôi, thì cứ tưởng tượng như chúng ta đang ngồi trong trà thất, uống trà, chờ hoa nở. 

Tôi chỉ vào cái chén nhỏ xíu: 

- Uống bao nhiêu chén này mới đã khát?

 Bạn trả lời đầy ý nhị: 

- Tâm khát chừng nào, chén đầy chừng nấy.

Hôm nay bạn nói chuyện như một thi sĩ. Đúng là muôn sự do tâm, nhưng tâm khởi lên từ mọi loại cảm thọ buồn, vui, thương, ghét, thiện, ác ..v..v.. dựa trên những đối tượng luôn biến hoại đổi thay của căn và trần, là những đối tượng không có bản chất thật. Vậy tâm nào mới chính là tâm? Những tâm ấy thay đổi luôn luôn, theo từng trạng huống. Và nếu chúng không phải thực là tâm thì CÁI GÌ đang nhận ra những diễn biến luân lưu thành hoại đó? CÁI GÌ nhìn rõ mặt mũi từ tâm buồn sang tâm vui, từ tâm thương sang tâm ghét, từ tâm thiện sang tâm ác??? “Cái gì đó” chính là CÁI NHẬN BIẾT MỌI HIỆN TƯỢNG MÀ KHÔNG QUA MỘT LĂNG KÍNH PHÂN BIỆT NÀO. Cái nhận biết này, bởi không từ một niệm nào mà ra nên nó không sinh cũng chẳng diệt theo hiện tượng.

Nó như tấm gương trong suốt, phản ảnh trung thực những gì tới nó, trung thực tới mức như hai mà một, nhưng lại không hề bị đồng hóa với vật mà nó phản ảnh. Khi ghi nhận điều tốt, nó chẳng trở nên tốt, khi đối diện điều xấu, nó cũng chẳng trở thành xấu. Nó hiện hữu tự nhiên như giòng nước ngầm, ai đào tới sẽ gặp; không người đào, nước vẫn chảy, như chưa từng đầu ghềnh, chưa từng cuối bãi. Cái nhận biết này là Tâm Chân Thật thường hằng vô thỉ vô chung; đó chính là Tâm Phật, là Phật Tánh. Khai được nguồn tâm này là hiển lộ Chân Như, là giải thoát khỏi ràng buộc vô minh, là bừng sáng Trí Tuệ; khi ấy, thiền tông diễn tả bằng hình ảnh “Thõng tay vào chợ”; nghĩa là, ngay giữa chốn xôn xao nhất cũng chẳng làm tâm kia lay động. Đạt được tới đây, hành giả đã là “người vô sự”, an nhiên tự tại, đối cảnh chẳng sanh tâm thì ngàn trang kinh cũng đồng với tâm trong suốt, làm gì còn văn tự, còn lý giải ngược xuôi nữa.

Chặng đường tu tập này, người đủ căn cơ, trí tuệ, nếu quyết tâm có thể ngộ. Ngược lại, người trí kém, cần rất nhiều kiên trì, cố gắng, mới mong tâm kia không bị chôn vùi dưới lớp vô minh. Hàng Phật tử sơ cơ như chúng tôi biết thế, nên hằng nhắc nhở, sách tấn nhau chớ biếng lười.

Những chén trà hạt mít thong thả vơi dần qua câu chuyện “Đế Thích tán hoa” thường được kể để minh chứng “Vô tự thị chân kinh”; mà muốn liễu ngộ “chân kinh vốn không lời” hành giả phải đạt tới bản tâm chân thật. Ngài Tu Bồ Đề là một, trong những đại đệ tử của Phật, một hôm lặng lẽ ngồi thiền dưới chân núi. Mây rất xanh, nắng rất ấm, suối róc rách ven đồi, chim líu lo ca hát, ngài cứ an tịnh kiết già. Dáng ngồi thật thẳng trên phiến đá bằng, như nét chấm phá của bức tranh “Tung Hoành” tuyệt kỷ. Ngài ngồi lâu, rất lâu, không biết bao lâu, thì bỗng hoa trời rơi xuống như mưa. Phút chốc, cả không gian thơm ngát hương hoa như ôm trọn nhà sư khắc khổ, ngồi thiền đẹp như tranh vẽ. Ngài Tu Bồ Đề xả thiền và khẽ hỏi:

- Ai tán hoa đó?

Trên thinh không có tiếng đáp:

- Tôi là Đế Thích đây.

- Vì lẽ gì Đế Thích tán hoa?

- Vì ngài thuyết pháp hay quá!

- Ta ngồi lặng yên, có thuyết gì đâu?

- Ngài không thuyết, tôi không nghe, đó là pháp vi diệu. 

Thì ra, biết nghe bằng “Tánh-Nghe”, mới nghe được “Lời-Không-Lời”, và thể hiện được Sự-Im-Lặng-Hùng-Tráng của Chân Kinh.

Tháng Ba 2005


NẮNG TRÊN SÔNG NERANJARA

Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara. Trong không gian ấm áp đó, một vị sa-môn như đang cố gắng tiến về bến sông. Nhìn thân hình quá gầy ốm, tiều tụy của ông, ai cũng có thể biết rằng ông là một nhà tu khổ hạnh như rất nhiều nhà tu khổ hạnh khác, dùng hình thức ép xác để mong tìm sự giải thoát cho tâm linh. Vị sa-môn này đã quá yếu, bước chân khẳng khiu nghiêng ngả như không mang nổi tấm thân chỉ còn da bọc xương. Nhưng bước đi xiêu vẹo của ông rõ ràng là có chủ đích.

Đúng thế, sa-môn muốn xuống tắm gội dưới sông Neranjara, một việc mà lâu nay ông đã chẳng bận tâm làm! Nhưng trong buổi sáng nắng vàng này thì khác vì ông vừa nhận ra rằng thân và tâm chẳng thể rời nhau, trái lại, thân có khỏe thì tâm mới sáng, tâm có sáng mới quán chiếu sự vật tinh thông. Và ông có một quyết định quan trọng là xả bỏ lối tu khổ hạnh để chuyên tâm thiền định lắng sâu hơn. Ông sẽ xuống sông tắm gội rồi sau đó, sẽ ôm bát vào làng xóm khất thực. Quyết định này ông chưa kịp nói cho năm người bạn đồng tu biết nhưng ông tự nhủ, rồi sẽ tìm họ sau, cũng không muộn.

Khó nhọc lắm, rồi vị sa-môn cũng lần được tới ven sông.

Neranjara là con sông chảy qua ngôi làng nhỏ Uruvela gần thị trấn Gaya hướng đông nam Ấn Độ. Bên kia sông là làng mạc, đồng cỏ, ruộng lúa. Bên này sông thì chỉ có rừng cây, đặc biệt là những cây pippala tuổi thọ hàng mấy trăm năm, đã khoác lên khu rừng một vẻ đẹp vừa hùng tráng, vững chãi vừa dịu dàng êm mát. Khi chảy ngang qua đây, sông có những khúc rất cạn, trẻ mục đồng có thể lùa trâu qua rừng khi trâu đã ăn cỏ no nê ở bờ bên kia để khỏi phải canh chừng trâu dẫm đạp lên ruộng lúa. Nhưng cũng có nhiều khúc khá sâu, nước trong và mát, khách bộ hành đường xa mỏi mệt có thể xuống tắm một lát là lại khỏe khoắn đi tiếp.

Neranjara, tự thân chỉ có thế, chỉ như muôn ngàn con sông khác, nhưng nhân gian đã đội vương miện lên cho nó vì chính nơi khúc sông này, một người trí tuệ vô song - vượt lên trên muôn triệu người - đã từng xuống tắm. Rồi khu rừng nữa, nó cũng chỉ như bao khu rừng khác nhưng nhân gian đã tô phết hào quang lên nó chỉ vì dưới bóng đại thụ đã có một người trí tuệ vô song - vượt lên trên muôn triệu người - đã từng ngồi thiền định. Giòng sông đó, khu rừng đó và vị sa-môn quyết không rời gốc đại thụ nếu không tìm ra đường giải thoát, nay, đã trở thành những biểu tượng tột cùng thiêng liêng, tột cùng tôn quý đối với thế nhân. Nhưng tự thể, giòng sông Neranjara không hề khác gì hơn sau khi được đội vương miện.

Khu rừng pippala cũng thế, vẫn thản nhiên bốn mùa mưa nắng dù được sơn phết hào quang; nhưng mấy ai nhận ra rằng những vương miện tưởng là rực rỡ đó, những hào quang tưởng là sáng chói đó chẳng có một chút giá trị nào đối với sông kia, rừng nọ mà Cái giá trị vô giá là ở những phương thức giải thoát, người đạt đạo đã tìm ra và nó chỉ vô giá với ai nhận biết rồi thực hành. Biết mà không hành thì nó vẫn chỉ là vô giá trị. Theo dõi bước chân người đạt đạo để thấy rằng, trước khi ánh sao mai kỳ diệu hiện lên ở canh ba, soi tỏ lẽ vô thường vô ngã; trước khi nắm được chìa khóa của tên cai ngục phiền não vô minh, người ấy cũng như bao nhiêu sa-môn, đạo-sỹ khác, lang thang đó đây khổ công tìm đạo, vấp váp sai lầm…. Chỉ khác, cái dũng của người trí tuệ là không chùn bước trước gian khổ, hiểm nguy thử thách.

Người đó chỉ nhìn thẳng vào mục đích đã vạch ra. Mục đích đó là tự độ rồi độ tha. Đường đi của những người chỉ sống vì lợi ích chúng sanh không bao giờ là những con đường bằng phẳng, dễ đi. Nghe có vẻ nghịch lý nhưng chỉ suy nghĩ một chút thôi nó sẽ rất dễ hiểu vì tâm thế gian vốn hẹp hòi, ích kỷ, ganh ghét, đố kỵ, tham sân……Làm sao những cái tâm ấy dễ dàng để cho những người tốt lành, nhân ái, trong sạch hơn họ làm những điều họ không làm được?

Dù là Phật tử hay không, chúng ta cũng đã ít nhiều biết về con người trí tuệ vô song từng xuống tắm trên giòng sông Neranjara, từng ngồi thiền trong rừng cây pippala gần 2600 năm trước. Người đó đã tìm ra Đạo Cả, người đó được môn đồ tứ chúng gọi ngài là Phật. Phật là giác ngộ, Đạo Phật là đạo giác ngộ. Dù đã tìm ra chân lý, dù đã miệt mài đi khắp đó đây giáo hóa cho chúng sanh cùng khổ, dù đời sống ngài chỉ vì lợi người nhưng suốt 49 năm hoằng pháp ngài thường xuyên gặp kẻ chống báng, vu cáo, bôi lọ, ganh ghét, tỵ hiềm…..Với tất cả bao chuỗi ác nghiệp trùng trùng bất tận đó Đức Thích Ca Mâu Ni vẫn bình tâm hoằng pháp và chỉ dùng hai thứ khí giới là Từ Bi và Trí Tuệ để chuyển nghiệp cho kẻ tạo nghiệp. Và sự thật vẫn là sự thật. Trong màn đêm vô minh, sự thật là đuốc. Người biết nương đuốc mà đi sẽ tới nơi muốn tới. Chỉ những kẻ tự bịt mắt mình mới không thấy đuốc mà thôi. 

Hãy như Sujata, Svastika, Rupak, Bala….. những đứa trẻ hồn nhiên hiền hòa trong thôn Uruvela, chúng cúng dường sa-môn Gotama cũng như khi đảnh lễ Phật Thích Ca chỉ cùng một tâm trong suốt. 

Hãy như ngũ huynh đệ Kondanna, tuy bất đồng vì không hiểu rõ nguyên do sa-môn Gotama chuyển phương pháp tu tập, nhưng khi biết ra liền xả bỏ tự ngã để hài hòa.

Hãy như voi Nalagiri, nhận ra tiếng hú voi chúa qua âm thanh của Phật là lập tức ngưng ngay sự ác độc hung hãn mà nó được lệnh phải thi hành.

Hãy đừng như Đại Đức Devadatta, ném đá toan sát hại Phật chỉ vì lòng ganh tỵ

Hãy đừng như các giáo phái chống đối Phật thời Phật còn tại thế, chỉ vì tự ái ghét ghen.

Hay, cho đến rốt ráo, tâm thế gian nếu chẳng thể nhu hòa từ ái thì xin hãy được như giòng sông Neranjara, sang không mừng, hèn không tủi vì nó hiểu rằng sang hèn chỉ là thước đo của nhân gian vọng động. Neranjara chỉ đích thực là giòng sông khi nó lặng thinh mà trong suốt, thực chứng tâm đạo, ý đời, một nguồn xuôi chảy, dù gần 2600 năm trước, vị sa-môn ngồi thiền trong cánh rừng bên kia sông có từng xuống tắm hay không.

 Hãy như con nước chảy

 Vương bước chân người qua

 Nước xuôi giòng ra biển

 Tâm người sẽ thăng hoa. 
 


MƯA NÚI 

Người bạn đạo rủ tôi lên chùa trên núi nghe pháp vì có người cho quá giang. Thật là duyên lành vì đấy là ngôi chùa tôi mong một lần được viếng mà chưa có phương tiện.

Buổi chiều trước ngày đi, tin khí tượng báo, đêm sẽ mưa và hôm sau còn mưa nữa! Bạn tôi gọi, và lo lắng:

- Mưa, làm sao mà lên núi?

- Thế người cho quá giang có đi không?

- Chưa nghe họ nói gì cả.

- Vậy mình cứ coi như trời không mưa, sáng mai mình cứ đến điểm hẹn.

Điểm hẹn chính là tư gia của người sẽ cho chúng tôi quá giang. Tin khí tượng lâu lâu đoán sai nhưng lần này họ lại đoán đúng quá! Đêm qua tôi nằm thao thức nghe mưa rạt rào bên khung cửa, nghĩ đến bầy chim sẻ đông đảo làm tổ trên cây thông rậm rạp tàn lá, lối cửa vào nhà bếp. Bản năng sinh tồn thật là kỳ diệu, sau những cơn giông bão tả tơi của đất trời, tưởng như những sinh vật nhỏ bé không còn cơ sống sót, vậy mà, chỉ một tia nắng ban mai yếu ớt thôi là chúng lại reo vui cùng vạn hữu. Tôi biết chúng sẽ qua được đêm mưa này để ngày mai lại chịu cơn mưa khác. Sự khổ đau của con người cũng như vậy chăng? Có những nỗi đau ta tưởng không chịu nổi nhưng rồi nỗi đau đó vẫn qua, ta vẫn còn đó để sẵn sàng chịu bao nỗi đau khác tới!

Sáng sớm hôm sau, hai đứa tôi lội mưa tới điểm hẹn. Chủ nhà đã sẵn sàng, và chúng tôi cùng lên đường trên chiếc xe Van của họ do con trai họ lái. Ở thời buổi này, hai người thanh niên trẻ trung, năng động, dành ngày cuối tuần đưa bố mẹ đi chùa là điều khá hiếm. Hiếm hơn nữa, câu chuyện trên xe họ nói với nhau chỉ là những sinh hoạt trên chùa, thỉnh thoảng nhắc đến tên những vị tăng ni mà họ quý mến mà không hề có tiếng thị phi qua lại.

Mưa nhẹ hơn khi xe rẽ vào đường núi. Phút chốc, cảnh ồn ào phố thị đã khuất sau lưng. Núi rừng hùng vĩ bao la ngạo nghễ trong màn mưa trắng đục. Xe chạy qua rừng thông, qua rừng sồi, qua những vách đá cheo leo mà vững chãi, niềm vui trong lòng tôi, theo với mưa mà chan hòa trời đất……

Mưa lại nhẹ hạt hơn, chỉ còn như những làn bụi mỏng khi xe ngừng trước thiền đường khang trang trên một ngọn đồi. Đó đây, những bóng áo nâu, áo lam thấp thoáng như những nét chấm phá tuyệt vời trên bức tranh thủy mạc linh động. Không có tiếng cười nói ồn ào, không có những bước chân khua động vội vã, không có những gương mặt nhăn nhó, ưu tư…..chỉ thấy những nụ cười nhẹ nhàng, những cái chắp tay chào nhau thầm lặng mà đầy thân ái, những bước chân khoan thai mà đầy an lạc, thảnh thơi. Không ai bảo ai, họ thư thái, nhu hòa, thể hiện chân-như bát ngát.

Hai chúng tôi hòa nhập vào đạo tràng đó và dù cố gắng thế nào vẫn lộ rõ sự lúng túng, lăng xăng. Rồi giờ thực hành nghi lễ bắt đầu. Tuy không thấy vị Thầy chủ lễ nhưng trên những hàng tọa cụ đối diện nhau, chúng tôi thấy quý Sư chú, Sư cô đông đến hơn ba mươi người. Các vị ngồi xuống, rất nhẹ nhàng, và gương mặt đều toát ra tràn đầy vẻ từ ái. Chính tư thái đoan nghiêm của các vị tu sĩ đã truyền năng lượng trực tiếp đến tất cả Phật tử hiện diện và mọi người đều đồng nhất ngồi xuống như thế, thanh thản như thế và nhu hòa như thế. Không khí này tôi chưa từng được thấy ở bất cứ ngôi chùa nào, tu viện nào mà tôi đã viếng thăm. Và lòng tôi rung động khi nghĩ tới hai câu thơ của thầy Tuệ Không Phạm Thiên Thư: “Làm trang nghiêm cõi Phật. Tức trang nghiêm cõi người”. Tâm náo động mà đi tìm cõi Phật trang nghiêm thì có khác gì nàng Diễn Nhã Đạt Đa trong Kinh Lăng Nghiêm, cứ lắc đầu mà khóc rằng “ Đầu tôi đâu? Tôi đã mất đầu!!!” 

Khi đại chúng đều an tọa, vị duy-na điểm nhẹ ba tiếng chuông rồi cất giọng, xướng bài kệ Dâng Hương. Mọi người lặng yên quán tưởng. Bên ngoài, trời lại bắt đầu mưa. Xung quanh thiền đường toàn là cửa kính nên có thể thấy rất rõ từng cái oằn mình của nhánh thông non, từng chiếc lá sồi lượn lờ trong màn mưa trong vắt, nghe được từng tiếng gió rít qua hàng tiêu lả ngọn, và, ở một phút nào, có phải là mưa đang cùng tụng Bát Nhã? Ôi, kỳ diệu thay! mưa đang hòa âm thanh trầm bổng với tăng chúng 

“…Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả….

……………………..

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha”

Chỉ khi đọc tới câu chú này tôi mới định thần rằng mình vừa mộng tưởng. Nhưng cái gì là mộng, cái gì là thực khi “Sắc chẳng khác gì không. Không chẳng khác gì sắc”? Âm thanh tôi đang nghe được qua nhĩ căn có thực là âm thanh Bát Nhã, hay chính cơn mưa hùng tráng tinh khôi ngoài đồi núi bạt ngàn kia mới là bài ca Bát Nhã bất tận? Mưa xuống như rong chơi, núi lặng yên tắm mát, rừng đùa vui cùng gió rạt rào, những tảng đá thì thào to nhỏ….vạn hữu thể hiện tràn đầy tự tại an nhiên, trong sáng và đơn giản, đứng ngoài mọi biệt phân, hý luận chính là tinh thần Bồ Tát Tự Tại 

“…Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Độ 

Bát Nhã Ba La Mật 

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi…”

Năng lượng của tăng chúng, của gió núi mưa rừng, của tiếng chuông rất nhẹ mà như ngân vô tận, của tiếng mõ rất nhỏ mà như thoảng khôn dừng, tất cả, trong một sát na, bỗng lắng yên. Một cánh cửa hé mở. Một chút mưa, một chút gió đùa nghịch lén theo gót chân Thầy. Nhẹ tay khép cửa, Thầy bước vào, cởi chiếc nón lá, rũ nhẹ những giọt mưa còn lưu luyến rồi từ tốn đặt nón ở góc phòng. Thầy bước từng bước chậm nhưng vững chãi, an nhiên. Thầy tiến lên bục giảng. Thầy chắp tay. Và Thầy nói:

- Xin chào đại chúng.

Tất cả đại chúng chắp tay và cúi đầu.

Trời ơi, tôi chưa thấy nơi nào mà cung cách đón vị giảng sư vào đạo tràng lại đơn giản mà tôn nghiêm đến thế! Có cần chi chuông khánh rộn ràng mà tâm thiếu tôn kính trang nghiêm? Nơi đây, Thầy tự bước vào, cất tiếng chào đại chúng trước. Và Phật tử lặng yên chắp tay đáp lễ, chính là đang nhiếp tâm chánh niệm, cúng dường Thầy nội tâm thanh tịnh của mình. Một kẻ còn ngơ ngác như tôi mà cũng nhận được ra như thế! Tôi liếc nhìn người bạn đạo ngồi bên, cũng là lúc chị ngửng đầu lên, môi điểm nụ-cười-Ca-Diếp trong Hội Liên Hoa. 

Rồi Thầy cất tiếng giảng. Giọng Thầy cũng nhẹ như khi Thầy bước vào cùng mưa, nhưng rõ ràng, khúc chiết như những giòng chữ Thầy đang ghi trên bảng đen. Bài giảng xen lẫn những áng thơ óng chuốt mà Thầy phiên dịch từ chữ Hán sang chữ nôm. Với viên phấn trắng, Thầy viết nguyên bản chữ Hán đến đâu thì cất giọng phiên dịch đến đấy. Không phải là giấy điều, bút lông mà nét chữ Thầy đã rất đẹp, rất bay bướm. Hôm đó, Thầy mở đầu bằng bài thơ của vua Trần Nhân Tông tức là Thiền sư Hương Vân, để giảng về Hạnh Bồ Tát. Thỉnh thoảng Thầy nâng tách nước, uống một ngụm nhỏ, như để đại chúng có chút không gian, thời gian thấm được những lời Thầy nói. Bằng ái ngữ dịu dàng, cử chỉ khoan thai, Thầy giảng bài pháp thâm diệu hết sức xúc tích mà lại vô cùng dễ hiểu. Hạnh phúc biết bao khi được thọ nhận pháp thí này!

Khi Thầy vào như thế nào thì ra như thế ấy. Sau kệ hồi hướng, Thầy chắp tay xá đại chúng, bước xuống bục giảng, đi về hướng cửa. Tới góc phòng, Thầy cúi xuống, cầm chiếc nón lá, nhìn ra khung trời mưa bay rồi chậm rãi đội nón, mở nhẹ cánh cửa. Không nói thêm một lời mà như để lại ngàn lời.

Đại chúng đều ngồi chắp tay lặng yên, nhiếp tâm chánh niệm theo bóng áo nâu nhòa dần sau làn mưa núi….

Tôi khóc tầm tã như mưa! Hạnh phúc như mưa! Lắng trong và ngọt lịm như mưa! Pháp là thế mà thôi, là Từ Bi Trí Tuệ thể hiện viên dung, như Đức Phật đã dạy: “49 năm ta chưa từng nói.” Nhưng hãy nhìn những bước Đức Phật đi, hãy thấy những việc Đức Phật làm mới biết đâu là cửa đạo.

Trên đường xuống núi, người bạn đạo nhặt một bông hoa vàng đã vui theo mưa mà vương trên bụi cỏ. Bạn im lặng đưa cho tôi. Tôi nhận bông hoa và im lặng mỉm cười. Bỗng nhiên tôi hiểu bạn như bạn đang hiểu tôi. 

Chúng tôi vừa thực chứng giai thoại “Niêm hoa vi tiếu” thuở nào…….

Tháng Giêng 2005


ĐƯỜNG LÊN YÊN TỬ

Mảnh trăng non quyến luyến ngọn tre, lung linh giải lụa ngà trên những vòm lá nhọn; sương sớm như tấm chăn đơn mỏng còn phủ hờ vạn vật mà cánh cổng gỗ bên hông chùa Vạn Hạnh đã hé mở. Một bóng người nhỏ nhắn, trang phục gọn gàng lách ra. Đó là người khách lạ phương xa vào chùa xin nghỉ trọ đêm qua. Người ấy đi về cuối sân chùa. Con ngựa dậm vó, vui mừng khi thấy chủ. Người ấy vỗ nhẹ đầu con vật thân yêu, tháo giây buộc rồi thong thả dắt nó ra khỏi cổng tam quan. Cơn gió sớm đầu thu làm rụng đợt lá ngô đồng xạc xào trên thềm rêu vắng như những vẫy tay chào. 

Đường mỗi lúc mỗi quanh co hiểm trở, trèo đèo rồi lội suối, tới quá trưa, người và ngựa đều thấm mệt. Đã mấy ngày qua, lúc có thể đi thong thả trên đường vắng, lúc lại phải lẩn tránh chỗ đông người, nay dường như đã sắp tơi nơi muốn tới. Người ấy bâng khuâng nhìn quanh, rồi vuốt ve con vật, buộc nó nơi gốc soan già bên đường và thì thầm: “Ta phải đi thôi, Nhu-Yên, ngươi hãy tạm nghỉ mệt nơi đây, thế nào lát nữa cũng có người đến nhận ngươi. Hãy ngoan với chủ mới như cái tên ta đã đặt cho ngươi.” Nhu-Yên dậm vó, lúc lắc bờm, nhìn chủ. Nhưng chủ nó đã quay lưng đi nhanh về hướng chân núi Yên Tử.

Đường lên núi tím ngắt hoa sim, gập ghềnh sỏi đá. Người ấy vấp ngã nhiều lần nhưng mỗi lần gắng gượng đứng dậy, hình như người ấy cố bước nhanh hơn, như bị thúc đẩy bởi quyết tâm nào trong lòng…..Lên tới đỉnh núi, hai bàn chân người ấy đã sưng vù, rớm máu, nhưng vẻ mãn nguyện hiện rõ trên gương mặt khi tiến vào thạch động.

- Trời! Bệ hạ…

- Quốc sư…

Hai người cùng quỳ xuống trước nhau.

Đó là vua Trần Thái Tông âm thầm rời cung điện, lên núi Yên Tử tìm Thiền sư Phù Vân với ý định đi tu.

Nước mắt lã chã tuôn rơi, nhà vua nghẹn ngào: 

- Quốc sư đã thấu lòng trẫm rồi, trẫm sớm mất mẹ cha từ thuở ấu thơ, chỉ có người bạn đời là niềm an ủi, hương lửa một ngày là trọng, huống chi hơn mười năm ròng, bao nhiêu là chia xẻ. Nay bị buộc phải phụ người, làm sao trẫm còn xứng đáng chăn dắt trăm họ. Đời trẫm, cho đến phút này chưa từng được chọn điều mình mong cầu.

Thiền sư Phù Vân điềm đạm hỏi:

- Bệ hạ từng cầu điều chi?

- Trẫm chỉ cầu làm Phật.

- Phật ở trong tâm, không ở trên núi, không ở đâu khác ngoài tâm. Nếu tâm lặng, trí huệ hiển bầy thì đó chính là Phật.

Nước mắt vẫn đầm đìa, vua ngước nhìn thiền-sư. Thay vì phải đỡ vua đứng dậy, thiền-sư vẫn lặng lẽ trong thế quỳ đối diện thiên-tử. Chính trong giây phút lặng lẽ đó, giây phút của Tâm-Truyền-Tâm mà nhà vua đã nghe rõ bốn tiếng “PHẬT Ở TRONG TÂM”, ngay nơi tâm đang quằn quại bi thương của mình. 

Vua Trần Thái Tông trở lại triều đình, chấp nhận sự đau khổ VÔ THƯỜNG của thế gian mà trong phút giây quá đớn đau, ngài đã tưởng là THƯỜNG. Cậu bé mồ côi được sắp đặt để làm vua, mở đầu triều đại họ Trần, Hoàng Hậu Lý Chiêu Hoàng bị giáng xuống làm Công Chúa vì chậm có con nối dõi, Thuận Thiên Công Chúa lên ngôi Hoàng Hậu vì đang mang thai …… cũng chỉ là những hạt cát vô thường, biến động, trong biển cát vô thường mênh mông bất tận của tam thiên đại thiên thế giới. Nhà vua rời Yên Tử với tín tâm vững chắc “Phật ở trong tâm” để trở về làm một vị vua anh minh, nhân hậu, lỗi lạc, anh hùng, đem lại thái bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân. Nhà vua đã hiểu rằng, là bậc quân vương, phải lấy ý dân làm ý mình, lấy tâm dân làm tâm mình. Đến khi, “những gì cần làm, đã làm”, vua Trần Thái Tông bèn nhường ngôi ngay cho Thái-tử rồi về rừng Vĩ Lâm, đất Hoa Lư, lập am Thái Vi, dốc lòng tu học.

Trang sử vàng son đời Trần có được chính là nhờ vị vua đầu tiên đã biết đem trí huệ Bát Nhã, gieo hạt Bồ Đề trong tâm kiên cố. Đúng thế, Phật đã ở trong tâm Nhà-Vua-Thiền-Sư từ phút rời Yên Tử với hai giòng nước mắt tuôn rơi, khi ngay cả ngai vàng cũng chỉ là đôi dép rách! “Vô Niệm Vi Tông” nên lục-căn chẳng còn vướng lục-trần mới thênh thang lục-thức. 

Chỉ liễu ngộ câu “Phật ở trong tâm” mà vua Trần Thái Tông đã dựng nên cả một triều đại huy hoàng, cả một thời hưng pháp với những vị vua tâm thành mộ đạo; nhất là, đời vua Trần Nhân Tông, Ngài đã khai sáng giòng thiền Trúc Lâm trên núi thiêng Yên Tử, như nguồn suối vi diệu chảy mênh mang bất tận đến ngày nay. 

Khải tấu Thượng-Hoàng, Nhà-Vua-Thiền-Sư lỗi lạc của nước Nam, xin hãy nhìn xuống rừng già vô minh này, chỉ cho con cháu Đường- Lên- Yên- Tử.

28 tháng hai 2005

 (Đêm chợt thức vì chuông điện thoại reo!) 


GIÒNG HỢP TẤU BẤT TẬN

Kính dâng Giác-linh ni-sư Thích nữ Trí Hải 

Người làm vườn chậm rãi quét lá. Cuối đông, những cây phong - lá đổi mầu từ xanh tươi sang đỏ, vàng - đang rụng những chiếc cuối. Thời gian không âm thanh, không hình tướng mà lại hiện hữu rõ rệt ở mọi nơi, mọi vật qua những đổi thay, luân chuyển của đất trời. Hoa ấy rực rỡ đầu hè, đã úa tàn cuối thu; mầm ấy trồi xanh tháng lạnh, cành lá đã xum xê khi nắng ấm; quỳnh nẩy nụ ngày xuân, đêm trăng rằm tháng hạ đã chợt ngạt ngào hương sắc…….

Người làm vườn đã thong dong quét lá, nhặt hoa bao năm tháng. Không vui cũng chẳng buồn, không mong cũng chẳng đợi. Người ấy lẳng lặng và an nhiên. Khi lá đã gom, rác đã dọn, người ấy ngồi bên gốc, lắng nghe giòng nhựa ấm luân lưu trong thân cây. Ồ, âm thanh đó thật là tuyệt diệu! Không phải âm thanh của suối, của biển mà là âm thanh của vòng tay ôm, của nguồn sữa mẹ. Có âm thanh từ vòng tay ôm, từ nguồn sữa mẹ ư? Có chứ, vì giòng nhựa đó chính là lá khi chưa thành, là hoa khi chưa nở, là nụ khi chưa đơm. Thì ra, thấy bông mai nở trong mùa xuân nhưng chẳng phải chỉ mùa xuân mai mới đến mà bông mai đó đã đến từ bao giờ, từ vô thỉ, từ ngay nơi giòng nhựa ấy.

Cũng thế, chiếc lá vàng vừa rụng chẳng phải từ đêm qua mới rụng mà nó thực đã rụng từ khi chưa sinh vì nó chính là chu kỳ của lá xanh, của trồi non, của nụ hé. Lá biết thế nên khi lìa cành mà vẫn lao xao ca hát cùng gió, sương biết thế nên khi long lanh vẫn đùa vui với ánh mặt trời dù biết rằng mặt trời rực rỡ bao nhiêu thì nó sẽ tan nhanh bấy nhiêu. Đó chính là giá-trị-của-phút-giây-hiện-tại. Nếu sống trong hiện tại mà chỉ hoài tưởng quá khứ, mong ngóng tương lai thì kẻ ấy đang chưa-từng-sống!. Khi quán tưởng sâu sắc hoa lá, cỏ cây, người làm vườn biết rằng chúng đã hiểu được rõ rệt điều đó nên lá lìa cành mà vẫn hát, sương đang tan mà vẫn vui. Cỏ cây, vạn hữu tuy thầm lặng mà vẫn thể hiện được sự an nhiên dũng mãnh trước luật tuần hoàn. Vậy mà, sao đôi lúc, con người, với trí tuệ vượt trội lại chìm đắm trong bi thương với những toan tính vô thường chẳng trọn? 

Người làm vườn cảm nhận được lý duyên sinh vô ngã, vô thường như thế nên bao năm qua, người ấy đã an nhiên tự tại mà quét lá, nhặt hoa trong Vườn-Bát-Nhã. 

Nhưng hôm nay, người làm vườn đang ngồi dưới gốc cây, ôm mặt khóc!!! 

Gã không còn nghe được tiếng thì thầm của cây, tiếng đùa vui của lá, tiếng xôn xao của gió mơn man trên vạt nắng lung linh. Gã không nghe thấy gì nữa bởi lòng gã chẳng còn tĩnh lặng! Gã đang phẫn nộ, đang uất ức! Lòng gã đang như biển lửa! Phải, đúng thế, nếu ngay lúc này mà trở thành biển lửa, gã sẽ không ngần ngại đốt cháy cả tam thiên đại thiên thế giới! 

“Sao thế, hỡi vị Sa-môn từng thầm lặng dọn vườn-tâm-thế-gian? Tôi là gốc thông già, tôi là hàng tre Mạnh Tông, tôi là bụi hồng Tiểu Muội, còn tôi là khóm Thủy Trúc góc hồ sen đây. Này vị Sa-môn thầm lặng nhu hòa, sao ngài ngồi đây mà khóc? Chẳng phải ngài đã thấu hiểu lẽ vô thường rồi ư? Mà khi vạn hữu đã vô thường thì do đâu còn phiền não?”

Bỏ thế ngồi bó gối thảm não, gã khoanh chân, kiết già. Không buồn trả lời vườn cây, gã lặng lẽ thiền định. Nhưng, vọng lập tức nổi lên như sóng cồn! Ta hiểu được lá vàng thì rụng, hoa héo thì rơi nên đã bỏ lòng thương tưởng lá xanh hoa đẹp. Nhưng, những Cây-Trí-Tuệ đang hiến dâng lợi ích cho đời, sao cuồng phong vô tình lại tràn qua, gẫy đổ??? Những Cây-Trí-Tuệ xum xuê cành-lá-lợi-ích, đầy ắp nhựa-Từ-Bi-Hỷ- Xả đã và đang hiến dâng nguồn nhựa ấm trong thân cho khắp chúng sanh; không phải chỉ “lợi mình lợi người” mà lấy “việc mình” làm “lợi người”. Ôi, đất Ta-Bà nào có thể vun trồng nên những Cây-Trí-Tuệ như thế, để cho trận cuồng phong tình cờ mà oan nghiệt nhường bao!?

“Này vị sa-môn thầm lặng nhu hòa, ngài đã từng biết, chẳng phải tiếng gió, chiếc lá, bông hoa chỉ mới hiện hữu khi tai nghe, mắt thấy mà thực ra chúng đã đến, đã đi từ vô thỷ, từ nguồn mạch vô hình luân lưu trong vạn hữu? Cây-Trí-Tuệ mà ngài đang nghẹn ngào thương tưởng, trận cuồng phong mà ngài đang phẫn uất rủa nguyền có đi ra ngoài giòng luân lưu bất tận đó không? Giòng luân lưu đó có bao giờ đứt quãng, có bao giờ ngừng trôi không?”

 Ồ, không, gã đã biết là không. Vạn hữu trùng trùng duyên khởi, lý duyên sinh vô ngã, vô thường cũng trôi chảy trong Giòng-Hợp-Tấu bất tận đó. Sự có mặt của cái này nói lên sự hiện hữu của cái kia. Cái này được tiếp nối là từ cái kia đang ra đi. Không bao giờ, không nơi nào, sự hợp tấu kỳ diệu ấy mất đi. 

Lạ thay, vườn cây như thấu suốt từng niệm khởi trong gã nên gã lại nghe những lời ân cần từ hàng tre, từ khóm trúc: 

“Trận cuồng phong vừa làm đổ gập Cây-Trí-Tuệ kia cũng chỉ là một chuyển hóa. Không có gì bắt đầu, không có gì chấm dứt. Vô thỷ, vô chung. Cây-Trí-Tuệ vừa đổ gập nơi đây, chẳng phải là đang xanh tươi bát ngát ở nơi nào đó chăng? Và, với giòng-hợp-tấu bất tận, chẳng phải là nơi đó cũng đang hưởng bao lợi ích mà Cây-Trí-Tuệ tiếp tục hiến dâng trong tinh thần “lợi người” là “việc mình” đó chăng?” 

Gã làm vườn vụt bật đứng dậy. Biển lửa trong lòng gã hốt nhiên lặng tắt. Giữa không gian thơm ngát hương sen, gã quỳ xuống, đảnh lễ Cây-Trí-Tuệ vừa hóa thân. Đó chính là vị Bồ Tát đã tùy duyên chuyển hóa - Ni-sư Thích nữ Trí Hải - người chỉ “ Ra đời và sống vì lợi lạc chúng sanh” để lại bao thương tưởng trong lòng tứ chúng, dù biết rằng ngài vẫn tận tụy hiến dâng hoa ngọt trái lành trong giòng hợp tấu luân lưu bất tận.

 Tháng 12-2003 


QUANG MINH CHIẾU THẬP PHƯƠNG

“Quang Minh Chiếu Thập Phương” là một câu trong bài kệ, kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ Tát Bản Sự, phẩm thứ hai mươi ba.

Ngài Dược Vương, trong thời tu nhơn đã có duyên lành lớn, được Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức nhận làm đệ tử, hết lòng truyền dạy Phật pháp.

Bồ Tát Dược Vương có tên là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ, nghĩa là, ai nhìn thấy ngài cũng lộ niềm vui vẻ, an lạc. Ngài chuyên cần, tinh tấn, tâm không hề thối chuyển dù trước bất cứ thử thách nào nên ngài đã chứng được Tam Muội Hiện Nhất Thiết sắc Thân; nghĩa là, ngài có thể tùy duyên hóa độ, muốn thành sắc thân nào thì ngài sẽ thị hiện thành sắc thân đó. Khi chứng được tam muội này, ngài liễu ngộ rằng, ngay thân xác ngài đang mang đây cũng chỉ là hóa thân của chính ngài ở tiền kiếp nào đó mà thôi. Nhục thân ta sanh rồi diệt, không thể làm ô nhiễm tới CHÂN THÂN bất sanh bất diệt hằng thường là PHÁP THÂN của ta được.

Giác ngộ rồi, ngài Dược Vương vô cùng hoan hỷ và biết ơn thầy mình. Bởi đã hoàn toàn giải thoát khỏi xác thân tứ đại nên Dược Vương Bồ Tát đã an nhiên tẩm các loại hương thơm tinh sạch trên nhục thân mình rồi dõng mãnh tự thiêu để cúng dường sư phụ, tạ ơn vô lượng. 

Là Phật tử, khi tụng kinh Pháp Hoa tới phẩm này, hẳn chúng ta đều hiểu rằng Dược Vương Bồ Tát tự thiêu cúng dường sư phụ, không phải là ngài cúng dường tấm nhục thân tứ đại, mà là cúng dường Sự-Giác-Ngộ siêu tuyệt, vượt lên trên hết thảy mọi ràng buộc, mọi sợ hãi mà ngài đã đạt được qua sự chỉ dạy của thầy. Chính vì sự chứng đắc vẹn toàn đó mà ngọn lửa trên nhục thân ngài không phải chỉ là lửa thế gian. Ngọn lửa đó đã là ánh sáng vi diệu rực rỡ, chiếu sáng khắp mười phương. Ánh sáng đó mang trí tuệ tới nơi ngu si, mang ấm áp tới nơi lạnh lẽo, mang hiền hòa tới nơi ác độc, mang từ bi tới nơi hận thù. Ánh sáng đó mầu nhiệm như vậy nên ngay khi lửa vừa tắt trên nhục thân Dược Vương Bồ Tát thì ngài liền lập tức tái sanh làm Thái-tử ngay nơi quốc gia đó, để gặp lại được sư phụ là Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, khi đó chưa nhập diệt.

Sáng nay, ngày đầu năm dương lịch, mở trang kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ Tát Bản Sự, Phật tử cúi đầu đảnh lễ mười phương chư Phật với giòng lệ tuôn rơi. Phật tử cũng quán tưởng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Phật luôn mở rộng ngàn tay, ngàn mắt để lắng nghe và xoa dịu bao thống khổ của chúng sanh. Hôm nay, trước tôn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát được an vị ngoài khuôn viên ngôi chùa nhỏ, thành phố Charlotte, tiểu bang North Carolina Mỹ Quốc, khi sương sớm còn đọng trên bờ cây ngọn cỏ thì một người con Phật đã bình tĩnh an tọa, tư thiêu để cúng dường chúng sinh! Kính bạch Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, với “mắt thương nhìn thế gian”, ngài đã thấy và đã nghe người tu sĩ sáng nay, khi vị ấy châm lửa trên tấm thân tứ đại để thỉnh nguyện ba điều:

1- Toàn dân Việt Nam được tự do tôn giáo

2- Dân tộc Việt Nam được tư do dân chủ

3- Tổ quốc Việt Nam được vẹn toàn .

Đó là vị tu sĩ người Việt Nam, Đại Đức Thích Chân Hỷ, xuất gia vừa tròn mười hai năm. Thời gian đó cũng chỉ như một sát na khi Đại Đức nhìn thấu những khổ đau luân hồi do người tạo cho người. Trong ước nguyện thức tỉnh lương tâm nhân loại, Đại Đức đã quyết định dùng thân mình làm đuốc sáng soi dọi chốn vô minh. 

Phật tử cúi đầu đảnh lễ mười phương Chư Phật

Phật tử cúi đầu đảnh lễ Quán Thế Âm Bồ Tát

Phật tử cúi đầu đảnh lễ Dược Vương Bồ Tát

Trước trang kinh Pháp Hoa mở rộng, Phật tử kính cẩn tụng phẩm thứ hai mươi ba “Dược Vương Bồ Tát Bản Sự” để thành tâm hướng về hương linh cố Đại Đức Thích Chân Hỷ, vị Tỳ-kheo vừa dùng nhục thân mình làm phương tiện hiển lộ Pháp Thân vĩnh hằng thường tại. 

Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát.

1 tháng giêng 2004

(Tháng 12, PL2547)
 


TẦM SƯ HỌC ĐẠO

Bất cứ người Phật tử nào thực tâm cầu đạo đều mang chung một tâm trạng băn khơan “Biết tầm sư ở đâu để học đạo?” Gương đời xưa, nhiều người tìm thầy phải trải qua vô vàn gian khổ, trèo đèo lội suối dầu dãi tuyết sương chẳng quản gian nguy thân mạng, miễn gặp được minh sư. Gặp rồi, thầy còn thử thách trăm nỗi khó khăn xem có xứng đáng được nhận làm đệ tử hay không. Những thử thách này dưới nhiều hình thức, hoăc cố tình lạnh lùng hoặc đọa đầy khổ hạnh nhưng cả thầy lẫn trò phải cùng đồng tâm: người muốn truyền thừa, kẻ mong cầu học. Nếu kẻ “tưởng” cầu học mà chỉ là cầu vui sẽ uổng phí công thầy dạy dỗ; ngược lại, thầy không thực tâm hoằng pháp khi trò quyết xả thân tìm đạo thì tội nghiệp biết bao! Trong những trường hợp đáng tiếc này, nhiều phần thầy nhìn thấy trò rõ hơn trò thấy thầy nên nếu có xẩy ra, e rằng trò chỉ còn chờ kiếp sau, nếu sẽ lại làm người! 

Chẳng thế mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, vị Giáo chủ Phật giáo Tây Tạng được cả thế giới tôn kính đã phải lên tiếng với tiểu đề “Tình thầy trò” trong cuốn “Từ Bi và kẻ thù” rằng, nhiều khi chúng ta cần một thời gian khá dài đến 10, hoặc 12 năm để quan sát đức hạnh và khả năng giảng dạy của giảng sư mới có thể biết vị đó có thực có khả năng và đạo hạnh cho ta đặt lòng tin và kính trọng hay không. Ngài còn nhắc, chính Đức Phật cũng dạy rõ điều này trong kinh điển, rằng ta không nên xem các vị thầy như thần thánh để tránh thất vọng khi sự thật không như vậy; vì một vị thầy tâm linh có nhiệm vụ truyền bá Phật pháp, hướng dẫn tinh thần kẻ khác mà lại phạm những lỗi lầm mà ông thường khuyên học trò nên tránh, là điều vô cùng tệ hại.

Đọc được những lời căn dặn trên, hàng Phật tử sơ cơ như tôi bỗng vô cùng hoang mang vì tôi tin rằng, người Phật tử nào mang một chút tín tâm cầu học cũng cố gắng dọ dẫm tìm tới nơi mà họ “nghe đồn” là có vị thầy giảng pháp hay lắm. Khi đã tìm đến thì không phải chỉ nghe dăm ba lần là có thể khẳng định lời đồn đúng hay sai, vì khả năng của Phật tử lò dò tìm đạo cũng ví như học trò ngơ ngác buổi đầu cắp sách đến trường, chỉ biết, thầy thì phải giỏi là cái chắc, bởi không giỏi, sao được làm thầy? Đó là tâm trạng của phần đông những người đi tìm thầy. Lại nữa, hầu hết những điều thầy nói, thầy giảng là những điều trò chưa biết, chưa nghe, làm sao biết là thầy nói đúng hay sai trước khi trò có thời gian nghiền ngẫm, suy nghĩ về bài học? Do đó mà học trò muốn học chỉ còn cách cắm cúi tuân thủ lời thầy, hy vọng một mai sáng dạ.

Chính cái thời gian “nhắm mắt nhắm mũi cắm cúi học” đó đã vô tình giúp thầy trò nhìn rõ nhau, tuy thầm lặng, tuy chậm rãi nhưng chính là thời gian quý báu để nhận thức bản chất của đối tượng. Chỉ có điều đáng thương là, nếu thời gian đó quá dài, có thể cần từ 10 đến 12 năm như Ngài Đạt Lai Lạt Ma nói, “trò mới nhận ra thầy thực chưa phải minh-sư” thì e rằng niềm tin của Phật tử về ngôi “Tăng” sẽ lung lay như cây non trước bão tố; và điều quan trọng là, từ sự đau khổ ấy Phật tử có đứng dậy nổi để can đảm đi lại từ đầu con đường “Tầm sư học đạo” nữa hay không? Nếu không, thì phải làm sao? Nếu có, thì phải bắt đầu thế nào để tương đối tránh được thất bại như lần trước? 

Với cái đầu ưa nghĩ quẩn như tôi, gặp sự nan giải này, chẳng lẽ ngồi khóc? Tôi bèn “thử” đặt mình vào trường hợp không may này xem sao. Tôi trải chiếu, nhắm mắt, ngồi bán già một lúc, chỉ nghĩ ra được giải pháp không mấy thông minh nhưng thực tế, dễ áp dụng và nhất là tiết kiệm được thời gian. Đó là, THẦY GIẢNG CÂU GÌ, TRÒ CỨ NHÌN NGAY BẢN THÂN THẦY Ở CÂU ĐÓ. Tạm thí dụ những câu thông thường nhất mà không người Phật tử nào không từng nghe, chẳng hạn như, thầy giảng về Từ Bi Hỷ Xả thì sau buổi giảng, thay vì thỉnh cuốn băng về nghe ngày nghe đêm, trò hãy chỉ lẳng lặng “nhìn” thầy, từ cách hoằng pháp tới sinh hoạt thường ngày thầy có thực sự thể hiện lòng vị tha (Từ Bi) cứu độ chúng sanh không, hay chỉ là vị kỷ? Thầy có mở rộng lòng ban vui và vui với cái vui của người (Hỷ) không? Thầy có buông bỏ được toan tính hơn thua, đố kỵ nghi hoặc (Xả) để tâm thanh tịnh đạt được hài hòa với mọi người mọi loài không? Hoặc khi thầy giảng về Tham Sân Si, thầy có biết “đủ” để đừng muốn thêm những cái không cần thiết (tham); thầy có nổi nóng (sân) khi gặp điều bất toại ý; thầy có mất tự chủ mà hành xử như người thiếu trí tuệ (si) không? …v…v…

Tôi cũng hiểu lơ mơ rằng, nhiều khi “thầy nghiêm khắc thế mà không phải thế”. Thầy chỉ dùng “phương tiện nghiêm khắc” để giáo hóa trò mà thôi. Đó có thể là cách các thiền sư xử dụng, đôi khi mạnh bạo như gậy gộc, đánh đập, đôi khi cộc cằn như la hét, mắng chửi, xua đuổi …v…v…Nhưng qua những giai thoại Thiền mà tôi được nghe hoặc được đọc thì VỊ THIỀN SƯ CHỈ DÙNG NHỮNG PHƯƠNG TIỆN VŨ BÃO ĐÓ KHI BIẾT LÀ SỞ HỌC CỦA ĐỆ TỬ ĐÃ CHÍN MÙI, giáng cho một đòn mạnh, trò có thể ngộ. Khi đó thì đánh đập, la mắng đúng là từ bi, là phương tiện giúp trò đạt ngộ. Nhưng thường xuyên chửi rủa, la mắng khi trò chưa đủ khả năng tiếp nhận thì sự nghiêm khắc này, e rằng không phải là lòng từ bi! Giai thoại thiền nổi tiếng mà ai học thiền cũng biết là câu chuyện “cầu pháp an tâm” của ngài Huệ Khả cầu đạo Tổ Đạt Ma.

Khi nghe Tổ Đạt Ma đang thiền trên núi Thiếu Thất, ngài Huệ Khả đã trèo đèo lội suối tìm đến cửa động dưới trời giá băng, mưa tuyết, quỳ ngoài cửa 7 ngày 7 đêm, tuyết phủ gần kín người mà Tổ Đạt Ma chẳng hề đoái hoài. Vì muốn chứng tỏ quyết tâm cầu đạo, ngài Huệ Khả dùng đao chặt đứt cánh tay trái, cúng dường Tổ. Vậy mà Tổ Đạt Ma chỉ quay lại hỏi: “Ngươi dùng chút khổ hạnh nhỏ này để cầu việc chi?” Ngài Huệ Khải kính cẩn thưa rằng: “Bạch Hòa Thượng, con chỉ cầu một việc là xin Hòa thượng chỉ cho con pháp an tâm vì tâm con luôn luôn bất an”. Tổ Đạt Ma nhìn ngài Huệ Khả đăm đăm rồi bất chợt quát to lên, tưởng đến long trời lở đất: “Đem cái tâm bất an của ngươi ra đây, ta an cho”.

Ngài Huệ Khả nghe Tổ quát lớn, không kịp suy nghĩ gì, chỉ vội vã tuân theo lời quát là quay lại tự tâm, tìm cái tâm bất an để trình Tổ; thì ngay khi nhìn lại tâm mình một cách sâu sắc, thuần khiết, mới nhận ra sự bất an vốn không thật, đó chỉ là niệm vọng tưởng. Đã là vọng mà bị nhìn thấy, vọng lập tức biến mất. Ngài Huệ Khả ngơ ngác thưa: “Bạch Hòa Thượng, cái tâm bất an của con đâu mất, con tìm không thấy, lấy không ra”. Lúc đó Tổ Đạt Ma mới dịu dàng bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi”. Ngay câu đó, ngài Huệ Khả đạt đại ngộ.

May mắn thay cho ngài Huệ Khả đã được Tổ Đạt Ma dùng tuệ nhãn thấy rõ sở học bền bỉ nhiều năm và lòng quyết tâm tìm giải thoát; chỉ kẹt nơi pháp chấp văn tự mà ngài Huệ Khả chưa nhận rõ Phật-tánh thanh tịnh của mình, vọng niệm mới “đánh lừa” ngài là tâm đạo bất an. Tiếng quát lớn của Tổ chính là giúp ngài Huệ Khả DỪNG VỌNG, HIỆN CHÂN. Tiếng quát trong phút giây đó là bàn tay từ bi đưa ra, kéo người cầu đạo khỏi bờ mê, tới bến giác.

(Nhưng, nếu cũng tiếng quát này, gặp hàng Phật tử như tôi là bay hồn bạt vía, chết giấc xuống chín tầng địa ngục còn chưa hiểu tại sao bị quát, huống chi là hiểu đạo!!!) 

Vì biết căn cơ chúng sanh muôn người chẳng đồng như thế nên Đức Phật mới từ bi đặt ra tới tám mươi bốn ngàn pháp môn; xin quý thầy cũng từ bi nương căn chúng sanh mà dạy dỗ. Suốt 49 năm hoằng pháp, bao nhiêu kinh điển để lại cho hậu thế đều mô tả rõ ràng từng lời Phật nói, dù đôi khi lời nói đó chỉ là một câu ngắn ngủi, Phật cũng thể hiện đời sống mình qua câu đó, tuyệt đối không khác, không sai. Đệ tử theo Phật chỉ cần nhìn Phật là thấy ngay những BÀI-PHÁP-SỐNG, đầy linh động cho sự thực tập. 

Ngày nay, nếu vị thầy giảng dạy điều gì mà bản thân các ngài thể hiện đúng như lời dạy, thì chính là các ngài đang mang những bài pháp ngàn xưa, từ Thế-Giới- Tích-Môn mà dựng thành những tấm gương ngay nơi Thế-Giới-Bản-Môn cho Phật tử hiện đời noi theo. Được như thế thì Phật tử ngày nay cũng có phước duyên hưởng hạnh phúc lớn lao không thua gì 1250 vị Tỳ-Kheo được theo Phật từng bước, như lời Tôn giả Anan thường mở đầu trên mỗi pho Kinh.

Tháng Hai 2005
 


TRUYỀN TÂM ẤN

Hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La thả lỏng giây cương. Con bạch mã thong dong bước qua cổng hoàng thành, đi về phía hoàng cung. Đám lính lệ cúi rạp, đỡ hoàng-tử xuống ngựa. Khi hoàng-tử bước vào sân rồng thì đã thấy phụ hoàng là vua Hương Chí, hai hoàng huynh là hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La và Công-Đức-Đa-La đang cung kính tiếp chuyện một vị tăng. Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La vội quỳ xuống đảnh lễ. Vua Hương Chí nói:

- Đây là Tổ Bát-Nhã-Đa-La mà cha cung thỉnh tới để được cúng dường ngài.

Nghe danh xưng đó, hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La ngước lên. Ánh mắt của hoàng tử vừa chạm tới thần quang của Tổ thì lòng hoàng tử bỗng cực kỳ rung động, và một niềm vui bao la lan tỏa khắp châu thân. Tổ Bát-Nhã-Đa-La đưa tay ra, tỏ ý đỡ hoàng-tử đứng dậy. Lui về chỗ ngồi nhưng mắt hoàng-tử vẫn không rời vị sứ giả Như-Lai, người đang tỏa ánh sáng kỳ diệu như thể chiếu sáng được cả thế gian.

Tổ Bát-Nhã-Đa-La cũng không ngớt nhìn hoàng-tử. Với tuệ nhãn, ngài vừa thấy được trí tuệ vô song của vị hoàng-tử nhỏ qua cung cách đảnh lễ rất khiêm cung mà lại vô cùng thư thái, tự tại. Ngài bèn giơ lên hạt minh châu quý giá mà vua Hương Chí vừa cúng dường và hỏi:

- Trên đời có thứ gì quý hơn hạt minh châu này không?

Hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La vòng tay thưa:

- Đây là hạt minh châu quý giá nhất, chỉ giòng vua Sát-Đế-Lợi mới có. Trên đời không gì có thể quý hơn,

Hoàng-tử Công-Đức-Đa-La cung kính tiếp lời anh:

- Bạch Tổ, đây là hạt minh châu chiếu sáng nhất. Không gì trên đời có thể chiếu sáng hơn hạt châu này.

Vua Hương Chí đưa mắt nhìn hoàng-tử út, chờ câu trả lời. Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La quỳ xuống trước Tổ mà thưa rằng:

- Hạt minh châu này rất quý, nhưng chưa phải là thứ quý nhất trên thế gian. Hạt minh châu này chiếu sáng, nhưng chưa phải là ánh sáng rực rỡ nhất thế gian. Bởi vì, hạt châu này không thể tự nó hiển hiện, nếu không nhờ trí tuệ giúp nó hiển bày; rồi nó cũng không tự biết nó là gì, nếu không nhờ trí tuệ giúp nó biết được nó là hạt minh châu. Biết mình là hạt châu rồi, nó cũng không tự biết nó quý giá, nếu không nhờ trí tuệ giúp nó biết giá trị của nó. Tóm lại, nhờ trí tuệ, hạt châu mới biết được mình là hạt châu quý giá, có thể tỏa chiếu ánh sáng. Nhưng ánh sáng đó cũng chỉ chiếu sáng cho chính nó mà thôi, nó chẳng làm sáng được viên đá, hòn sỏi nào để gần nó. Vì vậy, bạch Tổ, con nghĩ rằng, hạt châu này chưa phải là thứ quý nhất trên đời.

Tổ Bát-Nhã-Đa-La yên lặng mỉm cười. Nhưng nhà vua thì nóng nẩy hỏi;

- Vậy thứ gì quý hơn hạt châu này?

Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La vòng tay thưa:

- Bạch Tổ, tâu phụ vương, trí tuệ là thứ quý hơn hạt châu này muôn ức lần. Trí tuệ chính là thứ quý nhất trên đời, vì có trí tuệ mới nhận ra được tự tánh, và nhận ra tự tánh mới giải thoát khỏi mọi trói buộc phiền não, mới đoạn diệt được luân hồi. Ánh sáng trí tuệ là ánh sáng rực rỡ nhất trên đời vì người có ánh sáng trí tuệ không chỉ soi sáng chính mình mà còn soi sáng cho người u tối, giúp họ đoạn trừ vô minh mà giác ngộ. Trí tuệ cũng là của cải bền vững nhất vì người đã có trí tuệ rồi thì không cảnh huống nào, quyền lực nào có thể lấy đi được.

Vua Hương Chí và hai hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La, Công-Đức-Đa-La cùng sửng sốt khi nghe câu trả lời của hoàng-tử út. Họ nhìn hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La như nhìn một người rất lạ, một người uyên bác thâm sâu mà trước đây họ không hề chú ý tới. Riêng tổ Bát-Nhã-Đa-La thì vẫn im lặng mỉm cười. Ngài nhớ lại khi xưa, sư phụ của ngài là Bất-Như-Mật-Đa, trước khi thị tịch cũng phải biết, trong hàng đệ tử, ai là kẻ xứng đáng để truyền tâm ấn, tiếp nối việc hoằng pháp độ sanh. Từ ngày Tổ được sư phụ truyền tâm ấn, ròng rã nhiều chục năm bôn ba hoằng pháp mà chưa tìm được đệ tử đủ công năng và trí tuệ để kế thừa Tổ vị. Hôm nay, cơ duyên đã tới rồi chăng? 

Sau khi vua Hương Chí băng hà, hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La lên nối ngôi thì hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La xin theo Tổ học đạo. Tổ Bát-Nhã-Đa-La không ngạc nhiên khi thấy hoàng-tử nhỏ tìm đến thiền đường, vì Tổ đã nhìn thấy căn cơ của hoàng-tử qua cuộc trắc nghiệm về hạt minh châu. Tổ hoan hỷ nhận hoàng tử làm đệ tử và đặt hiệu là Bồ-Đề-Đạt-Ma.

Từ đó, Bồ-Đề-Đạt-Ma theo thầy hoằng pháp mấy mươi năm ròng.

Trước khi diệt độ, tổ Bát-Nhã-Đa-La gọi Bồ-Đề-Đạt-Ma đến mà nói rằng:

- Cơ duyên hóa thân của ta tới đây đã dứt. Xưa, Như-Lai trao truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng cho Tổ Ca Diếp, lần lượt nhiều đời nhiều kiếp, đến ta được nhận lãnh. Nay, con là đệ tử xứng đáng để ta truyền lại, con phải hết lòng gìn giữ và lưu truyền. Đó là trọng trách của kẻ được kế thừa tổ vị. Sau khi ta diệt độ rồi, con hãy tạm ở Nam Ấn mà hoằng pháp một thời gian, nhưng nhân duyên lớn của con lại ở tận nước Trung Hoa xa xôi. Con sẽ trải qua muôn vài khổ hạnh trên đường khai tâm cho người dân xứ ấy. Ta sẽ phò trợ con. Vậy, hãy lãnh ý ta mà tuyên hành.

Bồ-Đề-Đạt-Ma sụp lạy sư phụ, nhận lễ truyền tâm cùng y bát của thầy mình để sau này làm ấn tín. 

Và, đúng như điều tổ Bát-Nhã-Đa-La đã thấy trước, Bồ-Đề-Đạt-Ma chính là vị Tổ thứ nhất đã gieo hạt Thiền Tông Phật Giáo ở Trung Hoa, và từ đấy ảnh hưởng trực tiếp đến những giòng thiền tại Nhật Bản, Triều Tiên và ngay cả Việt Nam. 

Nhắc lại chuyện xưa để chúng ta có thể học được bài học đầu tiên nơi vị hoàng-tử nhỏ. Đó là, NHẬN BIẾT GIÁ TRỊ CỦA TRÍ TUỆ VÀ DÙNG TRÍ TUỆ ĐÓ NHƯ NGỌN ĐÈN, XUA TAN BÓNG TỐI TRONG TA VÀ QUANH TA.

Như một thiền sư đã nói, khi đèn được bật sáng, ta chỉ còn việc nhìn mọi vật cho tỏ tường, mà không bận tâm bóng tối rồi sẽ đi về đâu. Có phải vậy không, thưa chư liệt vị?

Tháng Ba 2005


LUÂN HỒI

Mấy ngày nay, trên báo nhiều tin buồn thuộc loại khó tin nhưng có thật. Nhắc lại hết ở đây, e người đọc buồn quá, không còn muốn …..ăn Tết nữa, nên người viết chỉ đề cập đến mẩu tin ngắn ở xa, tận Jordan lận. Đó là chuyện hai vợ chồng đang sống ly thân, dùng tên giả, “lên lưới” truyện trò tâm sự hơn 90 ngày, cảm thấy hợp nhau, thương nhau rồi …..muốn lấy nhau. Cuối cùng, bèn hẹn gặp nhau để bàn chuyện tiệc cưới. Và giây phút “hãi hùng” đã xẩy ra nơi điểm hẹn. Anh chồng hét đến bể phổi: “Cô bị ly dị, bị ly dị, bị ly dị…”. Bà vợ thì chỉ thều thào được câu: “Anh là thằng xạo”, rồi té xỉu!!!!

Bản tin viết, họ theo đạo Hồi. Tôi không biết gì về đạo Hồi nhưng biết một điều, nếu họ theo đạo Phật và hiểu đôi chút về luân hồi thì đoạn kết câu chuyện sẽ khác hẳn. Luân hồi, dịch từ tiếng Phạn Samsara có nghĩa là luân chuyển; từ tiếng Hán thì luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Hình ảnh bánh xe xoay tròn mãi thì đến bao giờ dứt! 

Phật dạy, chúng sinh nếu không thức tỉnh tìm đường giải thoát khỏi sanh tử luân hồi thì nghiệp sẽ tiếp tục dẫn đi; tùy theo nghiệp nặng, nhẹ mà lại đầu thai kiếp khác, kiếp đó có thể là người, là vật, là cỏ cây hoa bướm ….v…v….nên cánh bướm ta nhìn ngắm chiều nay có thể là mẹ, là chị của ta kiếp nào. Bông hoa này là ngọn cỏ năm xưa, con nai ngơ ngác giữa rừng lá vàng thu có thể là người tình ta thuở nọ ..v..v..

Từ hình ảnh luân hồi đó, Phật dạy ta phải có lòng thương đến mọi loài. Đó là luân hồi nhìn theo con mắt duy thức. Với cái nhìn thiền tông thì không đợi khi thân tứ đại tan rã, trở về trong kiếp khác mới là luân hồi, mà luân hồi xảy ra trong từng sát na. Phút trước mê, phút sau tỉnh, hôm qua động hôm nay tĩnh, chiều nay vui chiều mai buồn, ngay cả một cái chớp mắt cũng là đã qua một vòng luân hồi.

Trở lại chuyện cười ra nước mắt của hai vợ chồng ở Jordan, nếu họ là Phật tử và chỉ cần hiểu hai chữ luân hồi một cách đại cương cỡ Phật tử sơ cơ như tôi, dù bằng cái nhìn duy thức hay thiền tông, họ cũng không quá bẽ bàng khi gặp nhau ở điểm hẹn. Con người khó thương mà họ đang ly thân là người ở kiếp khác. Con người đó, theo một nghĩa nào đó, đã chết, đã “diệt”, đã qua một vòng luân hồi rồi. Bằng cớ là sau hơn 90 ngày trò chuyện, cả hai đều không thấy vết tích gì của con người khó thương đó. Trái lại, cả hai đều tìm được đối tượng mới, vừa “sinh”, rất dễ thương, rất cần thiết cho nhau, cần tới mức cùng quyết định sẽ chung sống với nhau. Vậy mà khi gặp nhau, họ lại nhìn nhau bằng con người cũ khó thương (đã diệt), thay vì chấp nhận con người mới dễ thương (vừa sinh). Khó thương hay dễ thương, tên là AB hay CD đều do chính ta tự đặt ra. Ấy thế mà lúc thì ta khó thương, khi ta lại dễ thương; lúc ta tên AB, khi ta lại thành CD. Vậy cái TA nào mới chính là TA?

Phải chăng “cái ta” đích thực chính là “không ta”, là VÔ NGÃ. Với tâm vô ngã ta dễ chấp nhận mọi trạng huống vì không còn gì để đối đãi. 

Cả vạn hữu chỉ còn một trời bao dung. 

Tháng Hai 2005


TRÓI BUỘC TỪ ĐÂU?

Khi công tử A-Nậu-Lầu-Đà thưa với thân mẫu là cậu muốn xuất gia thì bà mẹ không ngạc nhiên nhưng rất lo lắng và buồn khổ. Không ngạc nhiên vì bà biết lâu nay hai người con trai của bà rất siêng năng tìm đến nơi Đức Phật thuyết pháp khi Ngài cùng tăng đoàn dừng chân tại thị trấn nơi họ cư ngụ. Chính bản thân bà, khi đến nghe Phật thuyết, bà cũng cảm thấy rung động vì những lời dạy từ bi, và dáng vẻ uy nghiêm, thanh thoát toát ra từ Đức Phật. Phật cùng tăng đoàn đã rời vương quốc này, đi về hướng Câu-Tát-La mấy ngày nay rồi mà bà con tưởng nhớ tới những lời Phật dạy. Nhưng bà chỉ có hai người con trai mà bà yêu quý nhất trên đời, nếu con bà xuất gia theo Phật, bà sẽ nương tựa vào đâu? Công tử A-Nậu-Lầu-Đà đã trấn an hiền mẫu là, nếu được theo Phật tu học cậu sẽ trở thành một người giác ngộ, một người giải thoát khỏi mọi phiễn não thế gian. Đó có phải là điều mà người mẹ nào cũng mong muốn cho con mình đạt được hay không? 

Tận đáy thâm tâm, người mẹ cũng biết như thế, nhưng chưa thoát ra khỏi tình yêu vị kỷ. Bà vớt vát bằng một điều kiện, là bà bằng lòng cho cậu xuất gia nếu cậu rủ được Tổng trấn Bạt-Đề cùng đi. Khi ra điều kiện đó, bà có nhiều hy vọng giữ được con vì Tổng trấn Bạt-Đề - bạn thân thiết của con bà – là người giầu sang, quyền thế tột bực, làm sao có thể rũ bỏ tất cả để cùng con bà xuất gia theo Phật? Ấy thế mà ba ngày sau công tử A-Nậu-Lầu-Đà về nhà, hớn hở nói với mẹ rằng Tổng trấn Bạt-Đề chỉ cần bẩy ngày để thu xếp công việc rồi sẽ cùng cậu xuất gia!

Trên đường tìm đến nơi Phật đang thuyết giảng, họ rủ thêm được mấy người bạn nữa, cũng thuộc giòng dõi quý tộc và cùng trang lứa thanh xuân. Chiếc xe tứ mã đưa nhóm người trẻ đi cầu đạo, rộn rã tiếng cười vui hòa cùng nhịp vó loóc coóc như nhạc đệm của bản trường ca ngân vang bất tận…..Khi qua khỏi khu rừng thưa, đến đầu một thôn xóm, công tử Bạt-Đề dừng cương, nhìn một lượt khắp các bạn rồi bỗng phá lên cười sặc sụa. A-Nậu-Lầu-Đà hỏi bạn:

- Có điều chi mà huynh dừng xe, cười dữ vậy?

- Không buồn cười sao được, này, chúng ta hãy đều tự nhìn lại mình xem, có ai đi xuất gia tu học mà ăn mặc sang trọng như vậy không? Mũ áo xênh sang chưa đủ, còn vòng vàng châu ngọc đeo đầy người thế kia! Chúng ta không định làm trò cười đấy chứ?

Bấy giờ, ai nấy đều xuống xe, xăm soi, ngắm nghía mình và rồi tất cả cùng rũ ra cười. Quả đúng như công tử Bạt-Đề nói, họ còn trẻ trung, năng động nên quá vô tâm, đi xuất gia mà vẫn trang phục như đi du xuân ngắm cảnh. Thế là họ cùng đồng ý buộc giây cương chiếc xe tứ mã vào cây sồi ven đường, cởi bỏ áo quần sang trọng, chỉ mặc bộ đơn giản nhất, bao nhiêu bạc vàng châu báu cũng trút hết, cho vào một túi vải, và cùng tiến về thôn làng trước mặt với ý định sẽ trao tặng cho những người nghèo khổ trong làng. Nhưng ngay trên con đường đất đỏ dẫn vào làng, họ thấy một quán lá xiêu vẹo.

Đó là quán hớt tóc của một thanh niên trạc tuổi họ, gương mặt sáng sủa khôi ngô nhưng áo quần thì rách rưới, nghèo nàn.Họ ghé vào quán, hỏi đường tới biên giới vương quốc Câu-Tát-La. Người đó biết ngay là họ muốn tìm tới nơi Đức Phật đang thuyết giảng vì mấy ngày nay cũng có nhiều người đi tới đây, rồi không biết phải rẽ hướng nào mới tới biên giới Câu-Tát-La. Sau khi được chỉ đường rất ân cần, cặn kẽ, công tử A-Nậu-Lầu-Đà đại diện các bạn, tặng người hớt tóc nghèo khổ gói châu báu và tất cả áo quần sang trọng cùng chiếc xe tứ mã, vì từ nay họ không còn cần tới nữa.

Người hớt tóc đứng lặng, ôm gói châu báu, nhìn theo những vị công tử khuất dần sau cánh rừng thưa. Mở túi vải ra, người ấy rụng rời, sửng sốt. Chưa từng bao giờ trong đời, người ấy được nhìn thấy những vòng xuyến lộng lẫy thế này, chứ đừng nói là được chạm vào, được sờ vào!. Nay, không những được thấy, được cầm, mà tất cả những trang sức đắt giá này đều thuộc về mình. Người đó cảm thấy sung sướng đến muốn ngất đi. Thôi, từ nay hết nghèo, hết đói, hết bị xua đuổi khinh khi. Người ấy ngồi bệt ngay trên nền đất, ôm chặt gói châu báu mà mơ màng tận hưởng. Nhưng rồi người ấy chợt tỉnh, đứng bật dậy, hốt hoảng nhìn quanh.

May mà xung quanh vắng lặng, không một bóng người chứ nếu có ai biết, ai thấy người ấy đang ôm gói châu báu trong tay thì chắc chắn mạng này chẳng còn! Lại nữa, với bạc vàng của cải như vầy, làm sao người ấy có thể an giấc trong đêm nơi chòi lá trống trải này? Biết cất giấu ở đâu? Nếu muốn hưởng cũng làm sao để hưởng, khi từ xưa, người ấy đã thuộc ngoại cấp, nghĩa là giai cấp nghèo hèn tận cùng trong xã hội? Quan quyền sẽ đến tra vấn và dù có nói thật cũng không ai tin lời một người cùng đinh. Những dấu hỏi kinh khủng này khiến người ấy run rẩy, mồ hôi toát ra như tắm vì sợ hãi. Người ấy chợt nhận ra rằng, chỉ dăm phút trước đây thôi, tuy nghèo khổ nhưng an vui thanh thản. Dăm phút sau, có cả một tài sản lớn lao trong tay mà bất an, hốt hoảng, lo sợ tứ bề! Người ấy cũng lại nghĩ, những vị công tử giòng dõi quyền quý kia, tài sản của họ hẳn có gấp trăm lần thế này mà họ bỏ hết, đi tìm Phật, thì chắc là những gì Phật sẽ cho họ phải lớn lao vô cùng so với tài sản kia. Còn ta, ta nghèo quá, chẳng có gì phải bỏ, còn không theo bước họ, tính đợi đến bao giờ?

Nghĩ tới thế, tâm người ấy lập tức trở lại trạng thái bình an, vui vẻ. Người ấy nhìn quanh rồi chọn một nhánh liễu cao, buộc gói châu báu trên đó. Ai tìm thấy trước sẽ là sở hữu chủ. Rồi chẳng buồn nhìn lại thôn xóm, người ấy ba chân bốn cẳng chạy về hướng biên giới Câu-Tát-La, mong bắt kịp nhóm vương tử để được đi cùng.

Người ấy tên là Ưu-Ba-Ly, sau này là một, trong những đệ tử xuất sắc được hầu cận bên Phật. 

Nghe câu chuyện này, chúng ta có dành ra đôi phút để tự hỏi: “Trói buộc từ đâu?” hay không?

Tháng ba, 2005 


MÂY TRÊN ĐỈNH NÚI

Chiếc xe Bus chạy xuyên bang, chầm chậm rẽ vào thành phố ven biển. Nắng chiều đã nhạt trên những tàng cây xanh. Chim biển lao xao gọi nhau, hòa cùng tiếng sóng vỗ rì rào trên những ghềnh đá, tạo nên cảm giác bồn chồn, nôn nao. Khi chiếc xe dừng ở trạm chót thì ánh nắng đã nhạt hẳn. Bầu trời nhá nhem ẩn dụ nỗi hoang mang. Có phải cảnh giới thực thế chăng, hay nỗi hoang mang chính từ trong tâm vị Sa môn trẻ? Đây là lần đầu tiên Sa-môn rời chùa một mình và đi xa như thế! Khởi hành từ thành phố Columbia thuộc tiểu bang South California, chuyến xe Bus đã đưa Sa-môn từ Nam lên Bắc và vừa ngừng lại ở Anapolis, cách thủ đô Hoa Thịnh Đốn hơn ba mươi dặm. Tỉnh nhỏ ven biển này là nơi Sa-môn phải hoàn thành sứ mạng mà Sư phụ giao phó. Sư phụ còn cẩn thận dặn: “Hễ đến nơi mà trời tối rồi thì con nên kiếm phòng trọ nghỉ ngơi vì ở tỉnh lạ mà đi tìm nhà ban đêm không dễ đâu!” Nhớ lời dặn đó, Sa-môn đeo tay nải, đi về hướng trung tâm thành phố.

Những hàng quán trong phố đều còn mở cửa. Sa-môn chợt nhìn thấy một bảng hiệu “Oriental Food”, bèn bước vào định hỏi thăm thì người bán hàng đã nhìn thấy, liền chắp tay cung kính:

- A Di Đà Phật.

Nghe tiếng người đồng hương, Sa-môn mừng quá, vội đáp lễ:

- A Di Đà Phật

Người bán hàng vồn vã:

- Thưa thầy, thầy từ đâu đến đây?

- Tôi từ xa lắm, từ South Carolina.

- Hèn chi, con chưa thấy thầy bao giờ. Tỉnh nhỏ này không có một ngôi chùa Phật giáo nào. Mỗi khi Lễ, Tết, chúng con phải lái xe ba mươi dặm, đến Hoa Thịnh Đốn mới có chùa Việt Nam. Thưa thầy, thầy cần chi?

- Sư phụ tôi lâm trọng bệnh, đã chữa trị theo Tây học nhiều nơi mà không thuyên giảm. Nay nghe mách có vị danh y ở tỉnh này chữa bệnh toàn bằng dược thảo và đã cứu được nhiều người nên đến vấn thuốc.

- Ồ, đúng đó thầy. Đó là ông thầy thuốc Nam, người Việt Nam mình. Ông được cả tỉnh này quý trọng không phải chỉ vì ông cứu người bất vụ lợi mà còn vì đức độ và đời sống gương mẫu của hai cha con. Đối với người bản xứ, cảnh người con gái - dù đã trưởng thành - vẫn cung kính quỳ trước cha mỗi khi muốn thưa gửi điều gì, là sự kiện lạ lắm! Trước thì họ thấy lạ, sau nhìn quen, họ đâm ra ngưỡng phục đạo lý Á Đông. Nhiều cư dân địa phương tới bắt mạch xin thuốc cũng quỳ trước ông thầy, cứ như Phật tử tới chùa quỳ trước Phật đài vậy. Đến đây mà hỏi thầy thuốc Nam thì ai mà không biết.

Dù biết chỉ là câu nói vô tình nhưng Sa-môn cũng không dấu được sự rúng động. Sa-môn vui mừng hỏi:

- Tiệm thuốc đó có ở gần đây không, thưa bà?

- Cũng không xa lắm, nhưng ở chỗ khuất lánh, cuối dốc Phố Cổ. Thôi được, con cũng sắp đóng cửa tiệm, thầy chờ một lát, trên đường về con sẽ đưa thầy đến đó.

Được người Phật tử từ tâm chỉ dẫn, Sa-môn men theo Phố Cổ, hướng về cuối dốc. Cằn nhà gỗ nhỏ hiện ra dưới tàng cây khuynh diệp. Bước lên hàng hiên, Sa-môn đứng lặng hồi lâu, định tâm, rồi mới nhẹ nhàng bấm chuông. Một lát, có tiếng dép di động, rồi cửa mở.

Chủ và khách nhìn nhau.

Vầng trăng như tỏa xuống muôn ánh sáng nhiệm mầu, soi tỏ, khua động miền tịnh lặng, dấy lên nét chấm phá tuyệt vời đột khởi của bức tranh tĩnh mạc.

Không gian ngưng đọng phút giây bàng bạc đó ….

- Minh Tánh!

- Thầy!...Bạch Thầy!...

Vị Sa-môn trẻ, pháp danh Minh Tánh, vừa xúc động, vừa nghẹn ngào, quỳ ngay xuống bực thềm rêu lạnh mà thưa lên như thế.

Cánh cửa mở rộng hơn. Ông thầy thuốc đỡ Sa-môn đứng dậy. Sa-môn cúi đầu, chắp tay, rồi chân bước mà tâm trí mơ màng như đang bước trong mộng ảo. Khi khay trà thơm ngát được một người nữ quỳ xuống, kính cẩn dâng lên, Sa-môn mới bừng tỉnh, chắp hai tay, xá người dâng trà. Trong ba người hiện diện, có lẽ chỉ Sa-môn bối rối chứ chủ nhà thì rất an nhiên, điềm đạm, tưởng như họ đã biết trước sẽ có người khách đến từ phương xa này!

Khi người nữ nhẹ nhàng lên lầu, Sa-môn Minh Tánh mới nức nở:

- Bạch Thầy!...Bạch Đại- sư!... Hơn bẩy năm rồi, sư phụ con không lúc nào nguôi nhớ tới Đại- sư. Nhớ, nhưng vẫn phải tuân lời Đai-sư mà không đi tìm kiếm. Nay, sắp rời cõi ta-bà này, không hiểu vì đâu biết được chỗ ở của Đai-sư mà sai con tới thỉnh. Ngày Đai-sư đột ngột ra đi, con còn nhỏ quá. Vả chăng, rất nhiều điều con không được quyền biết. Nay, chỉ lãnh ý sư phụ con mà khẩn cầu thống thiết xin Đại-sư trở về. Hơn bẩy năm đã tuân ý, nay trái ý mà đi tìm, hẳn là sư phụ con nương vào lẽ duyên hợp, biết rằng hoa đã tới lúc nở, trái đã tới lúc chín, nghiệp đã tới lúc tận …..

Người thầy thuốc bỗng chắp tay, nhắm mắt lại.

Ngoài kia, gió nổi lên từng cơn, oằn những cành khuynh diệp lao xao trên mái nhà. Hương trà thơm như đang bay ngược chiều gió, bay về tận chốn nào xa thật là xa. 

Thiền viện Linh Thứu nằm khiêm tốn, ven đô Sài Gòn. Viện chỉ là căn nhà ba gian, hai trái và một vườn rau xanh tốt bốn mùa. Gian giữa là chánh điện thờ Phật, còn là phòng khách, nhà trai, nhà bếp và tịnh thất của vị trụ trì. Ấy thế mà không lúc nào viện vắng bóng khách thập phương lui tới, bởi tiếng đồn về sự uyên bác của Thiền sư Thệ-Nhật. Thiền sư mới ngoài ba mươi thôi nhưng kinh điển làu thông, nghiêm minh đức độ và đặc biệt, am tường nhiều ngôn ngữ do ngài tự học.Bậc trí thức ngoại quốc nghe danh, tìm đến viếng ngài nhiều lắm, nói chi dân chúng quanh vùng.

Một, trong những người thường đến vấn đạo và cúng dường là doanh gia Như Đạt. Hễ ông cúng dường tiền bạc thì Thiền sư đem phát cho người nghèo, cúng thực phẩm thì sau khi dâng lên Tam Bảo, Người mời Phật tử cùng ăn. Một lần, ông Như Đạt đem theo cô gái nhỏ chừng 12, 13 tuổi, xinh đẹp như một con búp bê. Cô bé nhìn cha, bắt chước cúi đầu đảnh lễ Phật. Sau đó, hai cha con ra phòng khách vấn an Thiền sư. Như thường lệ, ông Như Đạt chắp hai tay xá Thiền sư. Cô gái nhỏ cũng bắt chước cha, nhưng không chỉ xá, cô dập đầu lạy hết sức thành khẩn, hết sức tôn kính, hết sức thiết tha. Lạy xong 3 lạy như thế, cô cứ quỳ mọp trên đất, không ngửng mặt lên nữa. Người cha vô cùng ngạc nhiên vì đây là lần đầu cô bé được đến chùa, sao biết lạy một cách nghiêm túc như thế! Ông ôn tồn bảo con ngồi dậy, nhưng cô bé không nhúc nhích….

5 phút…rồi 10 phút…Cuối cùng, Thiền sư Thệ-Nhật khẽ thở dài, bảo:

- Con ngồi lên đi!

Cô bé lập tức ngoan ngoãn nghe lời, nhưng đôi mắt ngây thơ đã đầm đìa lệ ứa.

Ngay hôm đó, Thiền sư Thệ-Nhật đã buồn rầu nói với doanh gia Như Đạt là không nên cho cô bé đến chùa này nữa! Ông Như Đạt ngạc nhiên:

- Sao vậy, thưa Thiền sư?

Thiền sư chỉ nói hai tiếng:

- Không tốt!

Dù lòng đầy thắc mắc, nhưng vốn tôn kính Thiền sư, ông Như Đạt tuân lời.

Suốt hai tháng sau đó, cô bé không được theo cha đến chùa nữa.

Và rồi, ngày 30 tháng tư năm 1975 ập tới. 

Thiền sư Thệ-Nhật xuống tầu, rời quê hương trong sự bất ngờ.

Chặng hành trình thăm thẳm đưa Thiền sư đến bến bờ tự do và định cư tại tiểu bang South Carolina. Thời gian này, dù ít người Việt nơi đây nhưng Thiền sư cũng lập ngay đạo tràng đơn sơ để làm môi trường hoằng pháp. Với trí tuệ đó, với đức độ đó, chỉ một thời gian ngắn, người Việt - dù ở xa - cũng như người bản xứ, đều tìm đến. Suốt 6 năm ở tiểu bang này, Thiền sư đã được mời thuyết giảng rất nhiều lần. Người đã nói về Tứ Diệu Đế, về lý Duyên Sinh Vô Ngã, về Tam Giải Thoát Môn, về Bát Chánh Đạo, về Thất Bồ Đề …..về rất nhiều pháp môn lập ra từ lời Phật dạy, giúp chúng sanh thấy được Phật tánh nơi mình mà thoát khỏi vô minh phiền não.

Qua Thiền sư Thệ-Nhật, ở một thành phố mà nhà thờ nhiều hơn trường học, con chiên của Chúa được thấy thêm một con đường thiện mỹ nữa. Con đường này rất gần gũi, rất thực tế. Con đường này tự ở ngay TÂM người mà ra, không đâu xa, không huyền thoại, không thần thánh gì, chỉ cần ta biết điều phục VỌNG TÂM thì sẽ hiển lộ CHÂN TÂM. Khi nhìn rõ được chân tâm thì ngay phút đó bao sợi giây chằng chịt vô hình của đau khổ phiền não tự bung ra, ta sẽ an nhiên tự tại, thênh thang như hư không vô cùng vô tận. Vậy VỌNG là gì và CHÂN là gì mà từ trói buộc có thể tới giải thoát như thế?

Thiền sư Thệ-Nhật thường nói đơn giản rằng, tâm vọng là cái tâm bị cảnh giới dẫn đi, do 6 căn tiếp xúc với 6 trần mà tạo cảm thọ, rồi ta nương theo cảm thọ đó mà hành xử. Nhưng tâm vọng thì biến diệt, thay đổi luôn luôn, như mắt thấy bông hoa đỏ, khen đẹp, nhưng chợt thấy bông hoa vàng, cho là đẹp hơn thì lại chê hoa đỏ. Nay gặp người này, cho là hạp ý mà thương, mai gặp người nọ, cảm thấy hạp ý hơn thì lại ghét người trước. Phàm cái gì thay đổi, biến diệt là cái không thật, nhưng ta ngỡ là thật mà cứ thế bị cuốn hút theo. Đó chính là giòng sanh tử trầm luân! 

Bên cạnh cái tâm vọng, lăng xăng giao động không ngừng đó là nụ cười từ bi, tĩnh lặng, an nhiên của chân tâm. Cái tâm này cũng nhìn thấy bông hoa đỏ mà không chê, cũng thấy bông hoa vàng mà không khen, cũng gặp người này mà chẳng luyến, gặp người nọ mà chẳng ghét. Cái tâm này chỉ nhận biết mọi sự vật đơn thuần mà không bị sự vật kéo lôi tâm vào cảm thọ nên tâm này KHÔNG BAO GIỜ ĐỔI THAY BIẾN DIỆT; vì không hề bị nhuốm sắc trần nên tâm này TRONG SUỐT LƯU LY; vì tâm này không chỉ đến, khi xác thân ta tượng hình, cũng không hề đi, khi xác thân ta tan hoại nên tâm này BẤT SANH BẤT DIỆT. Cái tâm bất sanh bất diệt, trong suốt lưu ly, không bao giờ đổi thay biến diệt này chính là PHẬT TÁNH của mỗi người. Ai gạn lọc được vọng tâm để sống với chân tâm, tất sẽ được an nhiên tự tại. 

Chư Phật đã sống với chân tâm các Ngài mà thành bậc Giác Ngộ. Chúng sanh chưa thấy, vẫn sống với vọng tâm mà còn trong vô minh. Vì thương xót chúng sanh nên Chư Phật đã lập bày ra bao pháp môn phương tiện để chỉ dạy cho chúng sanh biết phản quang tự kỷ, nhìn lại chính mình. Pháp môn phương tiện đó ví như thuốc. Có thuốc rồi mà người bệnh không uống thì bệnh sẽ ngày càng trầm kha mà thôi. Tập uống thuốc chính là tự mình phải mở cánh cửa để từ đó, theo pháp môn chỉ dạy mà tìm lần về NGÔI NHÀ PHẬT CỦA CHÍNH MÌNH. 

Những lời dẫn đạo này của Thiền sư Thệ-Nhật đã thu hút rất đông dân cư địa phương. Họ muốn khởi bước, đi tìm ngôi nhà Phật của chính mình. 

Rồi một sáng mùa thu, Thiền sư đang tọa thiền dưới gốc thông già thì một chú sóc nhảy qua! Thiền sư đã giật mình, mở mắt. Thường thì, khi lắng tâm thiền quán, dù gió nổi, dù mưa giông cũng không làm ngài giao động. Vật mà sao hôm nay, chỉ một chú sóc nhỏ đã làm gợn sóng giòng tịnh thủy???!!!....

Ngay khi đó, sư chú Giác Trí từ ngoài cổng đi vào, theo sau là một thiếu nữ. 

Vẫn ngồi yên lặng trong thế kiết già, Thiền sư khẽ thở dài ….

Thiếu nữ tới trước Thiền sư, kính cẩn quỳ xuống. Rồi nàng chắp tay, run rẩy, dập đầu trên nền đất ẩm ngập lá thu vàng ……

Cũng như hơn 6 năm về trước, nàng quỳ mọp như thế, không ngửng đầu lên. 5 phút ….. rồi 10 phút ……Thiền sư khẽ nói:

- Ngồi lên đi con.

Nàng ngoan ngoãn nghe lời, và đôi mắt đã đầm đìa lệ ứa …

- Bạch Thầy …..

- Ba mẹ đâu?

- Bạch Thầy ….Chỉ mình con ra đi ……nhiều lần tù tội….dập vùi….chết đi sống lại ngoài biển khơi, nay mới thoát…..Bạch Thầy, lẽ ra …..

- Lẽ ra con không nên đi một mình!

- Bạch Thầy ….Ba mẹ con nói thế …..Anh chị em con nói thế …..Lý trí con cũng nói thế …..Vậy mà ….con vẫn quyết phải ra đi. Con phải tìm Thầy ….hoặc phải chết! Ôi, điều gì vậy, thưa Thầy? Điều gì oan nghiệt dường này? Xin Thầy hãy giết con đi! Hãy đuổi con đi! Con đáng chết từ năm 13 tuổi, từ lần đầu được lạy Thầy ở thiền viện Linh Thứu rồi không phút giây nào rời được hình bóng Thầy trong tâm. Thầy đã biết thế, Thầy từ bi muốn cứu con mà bảo cha không cho con đến chùa nữa! Ôi ….lòng từ bi của Thầy dù bao la như trời biển cũng không cứu nổi tội con nghìn trùng …. 

Lá thu rơi tức tưởi theo từng tiếng nấc của người thiếu nữ tuổi đôi mươi, đẹp tựa trăng rằm ….

Đã là nghiệp, ắt phải trả. Nghiệp có thể do tâm tạo, cũng có thể do oan trái ràng buộc từ đời này, đời trước, hay từ muôn kiếp nào! Nghiệp có thể chuyển, nhưng không thể tự tan. Chuyển được hay không còn tùy vào quyết tâm, định lực, lòng thành của người mang nghiệp và người phát tâm cứu độ. 

Sa-môn Minh Tánh ngồi lặng rất lâu….

Kể dứt câu chuyện năm xưa, Thiền sư Thệ-Nhật - tức ông thầy thuốc Nam - đã lặng lẽ thiền định.

Ngoài kia, gió không chỉ lồng lộng mà đã thành cuồng phong. Tấm màn mỏng lay động, in lên vách tường những bóng dáng huyễn hoặc, như mộng đó mà thực, như vọng đó mà chân, như có đó mà không, như hợp đó mà tan, như sanh đó mà diệt….

Từ căn phòng nhỏ trên lầu, một cánh cửa sổ quên đóng. Gió bay lá thư mầu xanh rơi bên rèm, chỉ còn trang cuối, nơi góc bàn với những giòng chữ nguyệch ngoạc: “….Hơn bẩy năm được hầu hạ Thầy, lòng con đã quá tròn đầy ước nguyện. Tất cả tấm tình thanh khiết, trong sạch dâng lên Thầy, chỉ Thầy biết, con biết! Sự tình này có Chư Phật chứng giám mà thôi. Thầy đã rõ nghiệp con quá nặng, muốn giải nghiệp này phải chặt đứt quá khứ, phải khai sinh lại đứa con tội lỗi. Thầy đã nương Hạnh Bồ Tát, hy sinh tất cả, dùng phương tiện cho con chào đời ở hoàn cảnh mới. Nơi đó, đạo tràng là thiên nhiên bao la, kinh điển là muôn dược thảo, hành trì là đem trí tuệ và tâm từ bi mà biến chế thành thần dược, cứu nhân độ thế. Từ hơn bẩy năm qua, Thầy đã kiên nhẫn dạy con biết đem tình riêng mà yêu thương mọi người, mọi loài. Nhờ ơn vô lượng của Thầy mà con thoát khỏi lưới vô minh dầy đặc, thoát khỏi tội tày trời, như cô thôn nữ Prakriti đã được Đức Phật khai ngộ mà không làm ô uế giới thể Đại đức Ananda. Thầy cao cả, thênh thang như mây trên đỉnh núi, “Hà xứ nhạ trần ai” không nơi cho bụi trần ai bám vào!

Xin Thầy an tâm về lại tỉnh cũ, nơi muôn tấm lòng đang chờ đợi Thầy, nhất là, có Thầy thì Đại đức Giác Trí mới yên lòng về cõi Phật.

Con xin dập đầu lạy tạ Thầy. Lần này lạy Thầy rồi, con sẽ biết ngửng lên vì “Trên triền núi Ngũ Uẩn”(*) con đã thấy “Là căn nhà Phật xưa”(*) vì trong không gian bao la, nơi đâu cũng có hào quang từ bi của Chư Phật che chở và dẫn dắt con.

Tạ ơn Thầy muôn ức kiếp

Đệ tử Như Nguyện. 

(*) Thơ ni sư Liễu Nhiên.


TỰ HỮU THẦN TIÊN THÁI 

Ít khi bạn tôi tới thăm mà không gọi trước. Hôm nay là một, trong những “ít khi” ấy. Chuông reo, ra mở cửa, thấy bạn không mừng, lại hỏi một câu thừa thãi:

- Đi đâu vậy?

Quen nghe lối nói năng lẩn thẩn của tôi, bạn tự đẩy cửa rộng hơn, bước vào, rồi thuận tay kia đóng cửa lại. Cứ như không làm nhanh, tôi sẽ mời bạn đi không bằng! Bạn nhìn quanh phòng như quan sát xem tôi đang làm gì rồi mới hỏi:

- Có bận không?

Tôi lừng khừng:

- Muốn bận thì bận mà thích rảnh lại rảnh ngay.

Hiểu nhau quá, bạn nói luôn:

- Vậy thì coi như đang rảnh, này, ngồi xuống đây, tại hạ lùng được mấy đoạn thơ chữ Hán này của Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, nhà ngươi đọc rồi nói sơ ta nghe.

Trời đất ơi, đọc thơ chữ Hán rồi bầy đặt lịch sự, xưng “tại hạ” câu trước, câu sau đã trở về bản chất ngông, lại “ta” với “ngươi” ngay! Tôi làm khó:

- Lùng được thì đọc đi, công nương mang tới hạ thần làm chi?

Bạn ấn vào tay tôi mấy trang giấy rồi vào bếp. Một thoáng, nước đã reo và hương trà thơm phảng phất.

Bạn thành thật:

- Mình đọc, chưa hiểu hết ý mà đã xúc động đỏ mắt nên mới chạy đến đây. Đạo hữu thử chuyển sang lục bát xem.

Thôi rồi, chắc tại một lần chúng tôi thăm biển, ngồi trên ghềnh đá khi chiều xuống, chạnh nhớ quê, tôi đã mượn hai câu cuối bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị. Yên ba giang thượng sử nhân sầu” mà dịch ẩu rằng: “Chiều buông khuất bóng quê nhà. Khói lan sóng vỗ trong ta điệu buồn” nên bạn tưởng là tôi lầu thông Hán tự lắm! 

- Thì cứ đọc đi, đọc xem có cầm lòng được không. Một người mang án tử hình, ngồi trong tù mà viết những câu thơ khí khái như vầy, thật là ….. 

Nhìn bạn vừa rót trà, vừa thổn thức, tôi không dám chối nữa, bèn vội vã lẩm nhẩm những giòng bạn viết:

Tự vấn

Vấn dư hà cố tọa lao lung

Dư chỉ khinh yên bán ngục khung

Tâm cảnh tương trì kinh lữ mộng

Cố giao gia tỏa diện hư ngưng

Nhìn thoáng trang giấy, tôi biết mỗi đoạn có 4 câu. Mới đọc đoạn đầu đã mắc nghẹn vì ý, tình cô đọng, xúc tích thế này, dịch làm sao cho đủ và cho thoát. Tôi diễn nôm na rằng “trong lao tù, người tù tự hỏi, sao ta phải ngồi tù? rồi lại tự nói với mình rằng ngồi tù thì cũng là chuyện nhỏ thôi, giam ta cũng như giam làn khói mỏng trong phòng vì dù tâm cảnh này có là cơn mộng dữ nhưng nhớ lời người xưa dạy, ta vẫn ngẩng mặt nhìn trời bao la” Bốn câu thơ ngắn mà chất chứa đủ bi hùng, diễn ra văn lủng củng thế này thật là đắc tội. Vẫn cầm trang thơ trong tay, tôi nhắm mắt lại. Bên cạnh, bạn tôi ngồi lặng im, không biết là thông cảm cho tôi hay đang nghĩ gì. Tôi đã từng được đọc thơ Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, nhưng bằng chữ Hán thì đây là lần đầu.

Vốn chữ Hán của tôi được 3 chữ thì vì lười, đã rớt 1, làm sao tôi dịch nổi ra lục bát cho bạn tôi thấy được cả thân và tâm nhà tu hành khả kính đó, dù nhận thức thực tại lao tù mà chẳng động tới chân như. Nhưng vì có cơ duyên được đọc thi tập Giấc Mơ Trường Sơn của Thượng Tọa, nên tôi đã thấp thoáng “thấy” Thượng Tọa đôi lần qua những bài thơ chứa chan ý Đạo, tình Người. Tôi bỗng như nghe thấy tiếng nói nào trong tôi “Hãy đốt trầm hương từ những giòng châu ngọc đó lên, hãy đốt lên, hương Bát Nhã đang dẫn dắt chúng sanh dần về Biển Tuệ, hương Pháp Hoa soi tỏ chúng sanh cùng Phật không hai, hương Kim Cang liễu ngộ vạn pháp là huyễn mộng bào ảnh mà thôi ….Hãy đốt lên, để lửa ngục tù này bừng cháy cho rõ nét bi tráng của những người đã cùng với lịch sử mà thăng hoa …”

Tôi mở mắt, nhìn bạn, và tự ngạc nhiên nghe mình dịch trôi chảy:

Hỏi ta, sao ở trong tù?

Thì như khói mỏng thoảng mờ phòng giam!

Cảnh, tâm, quyện mộng bàng hoàng

Nhớ lời xưa dạy, hân hoan nhìn trời.

Bạn đưa tách trà cho tôi bằng cả hai tay:

- Cám ơn, cám ơn ….. ta biết nhà ngươi sẽ dịch được tuy không ….hay lắm nhưng đọc bằng lục bát ta đỡ khổ hơn nhiều. Để ta đọc đoạn tiếp cho. Nghe này: Trách lung

Trách lung do tự tại

Tán bộ nhược nhàn du

Tiếu thoại độc ảnh hưởng

Không tiêu vĩnh nhật tù

Vừa đọc xong câu cuối bạn đã hỏi ngay:

- Trách lung là gì?

Hai chữ này thì tôi biết mà không phải vò đầu bứt trán. Trách lung là lồng hẹp. Ý tưởng đoạn này rõ ràng quá. Dù ở trong lồng hẹp mà tâm vẫn thênh thang; vì tâm thênh thang nên ta như khách nhàn du đi dạo, có biên giới nào ngăn chặn được tâm đâu; cũng do tâm tự tại nên ta hân hoan mà cười nói một mình thì ngày tù dài cũng qua như không thôi.

Nhấp một ngụm trà, tôi mơ hồ thấy bóng dáng vị sa môn thong thả thiền hành bên bờ sông Neranjara. Bước chân vị đó khoan thai tự tại quá, “lồng hẹp” nào mà giam hãm được. Từ hình ảnh đó tôi đã tạm dịch được đoạn thơ “Trách lung” như sau:

Nhà tù chật, khó giam lòng tự tại

Khách nhàn du ta thả bộ thong dong

Ta cười nói, mình ta nghe thanh thản

Ngày tù dài trôi nhẹ tựa như không.

Bạn cảm động, cầm tay tôi, vỗ nhẹ. Tôi đọc đoạn tiếp:

Tảo thượng tẩy tịnh.

Tảo khởi xuất tẩy tịnh

Thung dung lập phiến thì

Tự hữu thần tiên thái

Hà tu sơn thủy vi

Bạn nhanh nhẩu dịch tựa “Tảo thượng tẩy tịnh” là “Buổi sáng rửa mặt”. Tôi tiếp sức bạn bằng cách diễn nôm ra, là buổi sáng sớm khi thức dậy rửa mặt ta đã cảm thấy an nhiên ngay tức khắc, ta đâu có để cho thân phận tù đầy làm ta phiền não nhức nhối. Ta đạt được điều đó vì bản chất ta vốn có phong thái thần tiên, cứ gì phải ở chốn non cao nước biếc ta mới an nhiên tự tại.

Bạn xoắn hai tay vào nhau, thở nhẹ. Tôi ra vườn, hái một đóa hồng nhung, rắc nắm bỏng cho bầy cá đang nhấp nhô chờ đợi giữa hồ sen đang vươn lá. Lúc trở vào, bạn vừa hý hoáy tẩy xóa, vừa đọc khẽ:

Sớm mai dậy rửa mặt

An nhiên ngay khoảnh khắc

Vì tự thân thần tiên

Cần chi cảnh mây nước.

Tôi tặng bạn đóa hồng. Bạn cảm động nhận hoa, còn tôi, đọc lại câu “Tự hữu thần tiên thái” mà thương cho những kẻ vô minh, lấy nhà tù thế gian mà giam người tiên cảnh! Trú xứ các ngài là Tầng Không Vô Biên Xứ, nơi đó là cõi thiền tĩnh lặng, không có vật, không có người nên có đâu nhiễu sự thế gian; có chăng chỉ thấy mơ màng thiên nữ rải trời hoa. 

Ngay nơi phòng biệt giam, người tù tử hình được giảm án chung thân khổ sai đã bình thản khắc thơ lên đá:

Biệt cấm phòng

Ngã cư không xứ nhất trùng thiên

Ngã giới hư vô chân cá thiền

Vô vật, vô nhân, vô thậm sự

Tọa quan thiên nữ tán hoa miên

Chúng tôi cùng chia xẻ dịch đoạn này:

Ta cư ngụ cõi trời Không Vô Biên Xứ

Cõi riêng ta, tĩnh lặng cõi thiền

Không xôn xao, không người, vật, huyên thuyên

Ta ngồi ngắm muôn hoa thiên nữ rải.

- Còn một đoạn nữa đây. Đoạn này mình muốn xin đạo hữu chuyển thành lục bát vì ….. 

Tôi có nghe tiếp bạn nói gì đâu! Bốn câu thơ ngắn này đang khiến tôi cực kỳ xúc động:

Cúng dường 

Phụng thử ngục tù phạn

Cúng dường Tối Thắng Tôn

Thế gian trường huyết hận

Bỉnh bát lệ vô ngôn!

Trời ơi! Người tù chung thân nâng bát cơm tù hẩm hiu cúng dường Đấng Thế Tôn trước khi thọ thực, nước mắt chan hòa chẳng vì hận thân mình tù đầy oan nghiệt mà vì thương khắp thế gian còn ngụp lặn trong máu lệ triền miên! Ôi, tấm lòng Bồ Tát bao dung, sáng ngời châu ngọc, cõi ta-bà, đốt đuốc thấy là bao! Tôi có học ngàn năm, dịch ngàn lần cũng không rung nổi một thanh âm trong giòng diệu âm kỳ ảo, bất tận này. Nhưng tôi muốn được bầy tỏ lòng kính ngưỡng sâu xa, muốn góp một giọt lệ trong biển mặn trầm luân, muốn đảnh lễ “Người ngồi tù vì thế gian khổ nhục” nên dù chữ nghĩa ngây ngô, tôi xin dịch đoạn thơ “Cúng dường” với nén nhang trầm đang cháy đỏ trong hồn tôi:

Cơm tù kính cẩn tay nâng

Cúng dường bậc Tối Thắng Tôn Giác Toàn

Thế gian máu lệ ngập tràn

Bát dâng, mà lệ hàng hàng tuôn rơi! … 

Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát.

 Tháng 5, 2005

Mùa Phật Đản lần thứ 2629


THIẾP TRẢ NỢ CHÀNG

Khoa học không tin có kiếp sau, có luân hồi, không tin có ân oán vay trả nhưng cho tới nay, khoa học vẫn hoàn toàn thất bại trong việc chứng minh những điều không tin ấy. Khi đã không tin thì những câu chuyện quanh vấn đề đó sẽ trở thành hoang đường, lố bịch, hoặc nhẹ nhàng hơn thì chỉ như câu chuyện mua vui, vô thưởng vô phạt mà thôi. Nhưng ngay với những người chỉ coi là chuyện “làm quà”, đôi khi họ cũng vô tình không nhận ra những món quà ấy thấp thoáng theo họ suốt chặng đời, nhiều khi còn ở lại với họ lâu hơn cả những món ân tình mà họ tưởng là bền bỉ keo sơn. Tạm thí dụ, ít người Việt Nam nào không biết chuyện Trương Chi Mỵ Nương. Cô công nương con quan, cành vàng lá ngọc, đêm đêm tựa lầu son nghe tiếng hát du dương của anh chèo đò ven sông mà mê mẩn tương tư.

Khi nàng mình hạc vóc mai, lương y khắp nơi triệu về đành bó tay trước căn bệnh lạ kỳ thì người thị nữ thân tín của nàng mới đành rụt rè, sợ hãi thưa với Vương Quan rằng, cô chủ mê đắm tiếng hát ven sông mà sanh bệnh. Lập tức anh chèo đò nghèo khổ được triệu đến cửa quan. Bên giường bệnh của công nương, chàng được lệnh cất tiếng hát để cứu nàng. Trong cơn mê thiêm thiếp giữa mộng và thực, tiếng hát trầm bổng du dương có ma lực đưa nàng về dần sinh lộ. Với niềm hoan lạc ngập tràn, nàng từ từ mở mắt và trực diện người trong mộng mang gương mặt quá dị kỳ xấu xí, xấu đến mức vừa thất vọng, vừa kinh hãi, nàng đã hét rú lên rồi ngất xỉu. Lẽ dĩ nhiên, anh lái đò nghèo khổ lập tức bị đuổi khỏi dinh quan; nhưng oái oăm thay, nợ tình từ phút đó mới thực sự thành oan nghiệt vì vừa nhìn thấy dung nhan Mỵ Nương, lưới tình đã cột chặt lấy chàng trai “trời bắt xấu”. Tự biết thân phận mình, nhưng quá đau khổ, chàng ôm mối tình tuyệt vọng mà:

“Cắm sào cho chặt, hát thề một câu:

Kiếp này đã dở dang nhau

Thì xin kiếp khác duyên sau lại thành”

Khóc nguyện xong, chàng trầm mình xuống sông, tự vẫn. Không ai thấy xác người chèo đò nhưng ven sông đó bỗng mọc lên cây lạ. Một người thợ tiện đi ngang, biết là gỗ quý bèn cưa mấy nhánh, đẽo thành bộ tách trà rồi đem ra chợ bán. Duyên nghiệp nào run rủi, bộ tách được người trong dinh quan mua về, và khi thị nữ rót trà dâng công nương thì lung linh đáy chén, nàng nhìn rõ bóng con đò và người lái đò bất hạnh năm xưa! Chẳng phải chỉ nhìn thấy bóng hình mà tiếng hát mê hồn còn cất lên, nghẹn ngào tức tưởi như oán như than. Công nương vô vàn ân hận, giọt châu lã chã rơi xuống chén. Nước mắt nàng rơi đến đâu, bóng hình chàng mờ nhạt đến đấy; và khi nàng òa lên, ôm chén ngọc vào lòng nức nở rằng “Duyên xưa đã lỡ phũ phàng. Thiếp trả nợ chàng nước mắt đầy vơi”, là lúc hương trà sóng sánh, đưa hồn chàng tan biến, thoát vòng oan nghiệt trần gian ….. 

Câu chuyện thực hay hư, hình như chẳng ai buồn bỏ công truy tìm vì tình tiết đẹp quá! Diễm lệ quá! Thơ mộng quá! Đẹp đến nỗi có người mơ mộng, mong được là Trương Chi để tận hưởng cái thú đau thương tột đỉnh của một tâm hồn nghệ sỹ! Có người lại muốn được là Mỵ Nương để biết tận đáy cảm xúc rung động tuyệt vời của con tim! Chúng ta thường nói “thương lắm” hay “ghét lắm” mà thật ra thương, ghét đó vẫn chỉ là hời hợt. Phải đi tới nỗi đau cùng cực trộn lẫn niềm hoan lạc vô bờ thì con sâu kinh dị mới hóa thành cánh bướm muôn mầu rực rỡ giữa ngàn hoa.

Hầu hết những câu chuyện dân gian đều nói đến sự thắt, mở của ân oán, của việc lánh ác, làm lành, của việc gieo nhân nào gặt quả nấy, không đời này thì đời sau. Chẳng phải vô tình chuyện dân gian Á Đông xoay quanh những tình tiết đó mà chính vì Đạo Phật thấm nhuần chúng ta. Không ai bảo ai, chúng sanh chào đời đều cất tiếng khóc như nhau. Sao thế? Khóc hay cười khi đó đều vô nghĩa, sao không trẻ thơ nào cất tiếng cười vang mà đều là khóc òa, khóc thét? Có phải vì nhận kiếp người đã là nhận một, trong tứ khổ rồi không? Chư Phật thị hiện cõi ta-bà cũng chỉ vì một nhân duyên duy nhất là Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến. Khai là mở ra, thị là chỉ cho thấy, ngộ là giải cho hiểu được, nhập là bước vào, là một, với Phật tánh sẵn có của mình. Chúng sanh nào Nhập được Phật tri kiến mới mong “khi chào đời cất tiếng khóc, lúc lìa đời cười mỉm nụ an nhiên”.

 Nhưng cuộc đời là một bãi chiến trường triền miên thống hận. Chẳng phải ta chỉ thắng người mà còn phải thắng ta. Làm sao để giảm bớt địa bàn ở bãi chiến trường đó? Chỉ cần tỉnh thức đừng tạo nghiệp. Chẳng phải ghét bỏ nhau mới là tạo nghiệp mà yêu thương cũng là nghiệp đấy! Giải lụa mềm mà đủ sức trói chặt ta trong ảo tưởng, khiến nợ nhau đời này khôn trả, đời sau còn tìm nhau vì tưởng nhớ tiền thân!

Chiều nay bỗng nhiều gió quá, chạnh thương những chùm hoa bưởi mới đơm bông khiến tôi viết đôi giòng lẩn thẩn này. Lẩn thẩn viết chưa đủ, tôi còn lẩn thẩn nghĩ rằng, nếu tôi là cô thiếu nữ có bó hoa sen trên tay trong câu chuyện tiền thân của Đức Phật thì tôi đã tặng hết cho anh chàng Megha lành thiện, đã năn nỉ ngỏ lời mua lại 5 bông để có sen cúng dường Đấng Toàn Giác Dipankara. Tặng hết, vô điều kiện may ra tránh được vướng mắc tơ duyên kiếp sau! Nhưng duyên và nợ tuy vô hình mà chằng chịt tinh vi khiến chúng sanh cứ quẩn quanh chìm nổi mãi, người cho tuy không đòi mà người nhận vẫn mắc nợ! Có nợ lại tìm nhau!

Làm sao, trong đời này chúng ta sớm biết vay, trả nhau cho đủ, đừng muộn màng như Trương Chi-Mỵ Nương mà để lại trường hận ngàn đời cho nhân gian thương cảm:

“Duyên năm xưa,

Ai đã trả cho ai?

Cho chén tan thành lời

Đem xuống nơi tuyền đài

Để thành ngọc đá bao giờ phai …..”

Tháng 5, 2005

Mùa Phật Đản lần thứ 2629 


LÊN RỪNG LƯỢM HÁI

Tôi ở trọ nhà một người nhạc sỹ, thỉnh thoảng được nghe tiếng đàn câu hát vọng ra, có lúc, tôi tưởng như hiểu được trong âm thanh đó, lời hát đó như chính nỗi lòng mình. Tôi muốn cám ơn lắm, mà không biết cách nào, vì cám ơn món ăn tinh thần đâu phải dễ như cám ơn muối mè rau đậu! Đành dặn lòng tạm nợ người thôi!

Nhà có khu vườn nhỏ, dăm cây kiểng, ít cây ăn trái. Cuối vườn lại có hồ thả sen súng. Hoa súng nở đôi lần trong năm nhưng sen thì vào hạ mới bắt đầu vươn lá. Tôi chứng kiến vợ chồng chủ nhà tự đào hồ, tự lót đáy rồi hì hục khiêng sen súng về, thả xuống. Chưa hết, họ còn chặt tre ở góc vườn, dựng thành túp lều nhỏ bên hồ, trông thơ mộng lắm! Khi không làm việc lao động ngoài vườn, tôi lại nghe tiếng họ cùng đàn hát trong phòng. Nghe và thấy cặp vợ chồng này, tôi thoáng nghi ngờ một lời Phật dạy “Yêu thương cũng là đầu mối của phiền não”. Khi niệm này khởi lên, tôi vội vàng sám hối ngay. Tôi không muốn nghi một lời nào từ kim khẩu của Phật cả. Không phải tôi nhắm mắt tin theo kiểu “mặc khải” của những tôn giáo khác mà tôi tin vì tự đáy lòng, tôi luôn nhìn Phật như một người thế gian, nói lời chân thật để giúp người thế gian tỉnh ngộ, chứ không phải thần linh dùng quyền uy ảo thuật làm người nghe mê muội mà theo.

Là khách trọ may mắn, tôi được hưởng tia nắng ban mai lách qua khóm trúc, hạt sương sớm đọng trên lá hồng non, những cây bưởi trổ bông thơm ngát, bầy sẻ ríu rít bờ tường gọi bà chủ nhà cho cơm nguội …… Mỗi sáng, mỗi chiều, khi ra vườn giúp họ tưới cây, tôi luôn có cảm nghĩ như người đang được đi hái hoa, hái trái. Mà thật thế, có cần phải đợi khi được bóc trái bưởi, tách những tép thơm ngọt ngào bỏ vào miệng mới là được “ăn bưởi” đâu. Tôi “ăn bưởi” từ khi bông nở, tôi hít thở hương quỳnh từ khi lá mới nhú trồi xanh. Thế nên, ở trọ nơi đây, ngày nào tôi cũng tha hồ lượm và hái …… 

Hôm nay, tình cờ lang thang “lên lưới” tôi gặp một bài thơ có tựa là “Mỗi ngày lên rừng lượm hái” của Phan Tấn Hải. Tôi nghĩ, cái ông Hải nào đây chắc không lượm hái kiểu tôi, kiểu “lượm mà chẳng lượm”. Ông ta lên rừng thì lượm gì? Hái gì? nếu không là lượm củi, hái măng . Lượm củi hái măng mà làm bài thơ khá dài, có lẽ ông ta phải ở trong rừng cả buổi. Tò mò, tôi bèn đọc: 

“Mỗi ngày tôi lên rừng lượm hái,

lo nhặt chút gì về cho con

đỡ đói, lầm lũi giở trò khỉ

vượn bám cành níu nhánh, chen qua

Núi rừng chữ nghĩa mịt mù sương,

cân nhắc hai tay hai chân hai

đầu phải trái, này là quả ngon

trái ngọt rồi quả độc trái hại,

này là lá măng lá trúc hái

về mong cho con ấm bụng giữa

kiếp người buốt lạnh. Mỗi ngày tôi

lên rừng lượm hái, nhặt quả khô,

hái quả chín, chăm sóc quả tươi,

hồi hộp theo dõi bọn thợ săn

dưới chân núi lăm le đốt rừng,

tôi lo sợ khi vượn nai mễn

rồi không còn đất sống, những tiếng

kêu la xé lòng mỗi ngày, vết

chân thú chạy kinh hoàng chen chúc

thấy rừng núi oằn mình đau đớn …..” 

Tôi hoảng kinh, đọc tới đây, ngừng lại thở. Những câu thơ mắc nghẹn cổ họng. Tôi ngừng lại thở như tôi vừa cùng với cả một dân tộc cuống cuồng, hỗn loạn như kiến quanh miệng chén. Chén đầy lắm, rất đầy và nước trong đó nóng sôi, đang sủi bọt ….. bò đi đâu mà tìm ra sinh lộ, hỡi bầy kiến hiền lành?!?!?! Lưới bạo quyền vô minh chụp xuống nên “Mỗi ngày tôi lên rừng lượm hái, lo nhặt chút gì về cho con …” Thơ không theo luật chấm, phẩy, xuống hàng, bằng trắc, âm điệu gì cả vì đói quá! vì đau quá! vì nhục quá! vì phẫn nộ quá! vì tang thương quá! vì không phải chỉ một người cha lên rừng lượm hái mà hàng chục triệu người cha đang lượm, đang hái trong rừng sâu. Hái gì? Hái “trái ngọt rồi quả độc hại, nhặt quả khô, hái quả chín, chăm sóc quả tươi” Bức tranh vẽ đoạn đường khổ nhục của một dân tộc chỉ có hai mầu đỏ và đen. Máu và chết. Vì “bọn thợ săn dưới chân núi lăm le đốt rừng, vượn nai mễn rồi không còn đất sống, tiếng kêu la xé lòng mỗi ngày …. núi rừng oằn mình đau đớn ….” 

Thú còn không sống nổi, người biết đi về đâu???? Hay, theo một nghĩa khác “thú còn không thương thú, chờ gì khi thú biết thương người?”

Tôi hết chữ để viết về nửa phần sau của bài thơ “Mỗi ngày lên rừng lượm hái”, xin chỉ chép tiếp ra đây cho trọn đoạn đường còn đầy khổ nhục: 

“ … Có tôi nhìn mỗi ngày khóc theo.

Mỗi ngày tôi lên ngồi trên đỉnh

núi, cắm cúi đọc sách hy vọng

cho sớm qua một kiếp người, nghe

những tiếng trần gian vọng từ phương

xa tới, tiếng vui tiếng buồn, tiếng

than thở tiếng cằn nhằn, có cả

tiếng người vọng từ nghìn năm trước 

còn khô khốc mùi giấy, vang vọng

chung với những tiếng người ngợi ca,

tiếng người la mắng. Mỗi ngày tôi

lên rừng lội suối, moi giữa tầng 

tầng lá vàng lá xanh, nhặt ra

từng chữ, nâng lên ngắm nghía trầm

trồ, chữ này nặng, chữ kia nhẹ,

chữ nọ dịu dàng, chữ kia thương 

tổn, chữ này tuổi thọ trăm năm

chữ kia xưa cổ nhiều thế kỷ,

chữ này bán được, chữ kia khó

bán, với ẩn hiện những khuôn mặt 

người – hốc hác, đớn đau, vui mừng … 

trần gian buồn như tre trúc

có tôi giữa đời ngồi khóc

nghe sông suối chảy trong ngực

thấy rừng mọc dựng thành tóc 

mỗi ngày lên rừng lượm hái ….” 

Ông Phan Tấn Hải ơi! Ông là ai? Ở đâu? Đã ra khỏi khu rừng thống khổ chưa? Có biết bọn thợ săn đã lập tức đốt rừng, vượn, nai, mễn không còn đất sống? 

 Trần gian như thế nên Phật mới thị hiện Đản Sanh. 

Nam Mô Lâm Tỳ Ni Viên Vô Ưu Thọ Hạ Thị Hiện Đản Sanh

Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Tháng 5, 2005 

Mùa Phật Đản lần thứ 2629

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
23 Tháng Bảy 2015(Xem: 4829)
Thời Đức Phật tại thế ở nước Xá Vệ, có một huyện nhân dân đều quy Tam bảo, phụng trì năm giới và thực hành mười thiện nghiệp của Phật dạy. Khắp huyện không bao giờ sát sanh, người uống rượu nấu rượu cũng không có.
22 Tháng Hai 2015(Xem: 8371)
Một ngày kia, khi Đức Phật ngụ tại tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana), một số Tỳ Kheo hỏi ngài là có lợi ích gì không, khi giết dê, cừu, và những sinh vật khác để cúng giỗ người thân đã qua đời.
19 Tháng Mười 2014(Xem: 12893)
Do duyên: Trước năm 1975, có vị giáo sư người Thiên chúa giáo, khi đọc truyện Thái tử Tu-đại-noa bố thí vợ con, vị ấy đã lên án khá gay gắt trong một bài viết, nói rằng, hành động bố thí vợ con là quá đáng, là không có nhân tính (tôi nhớ có thể nhầm, ngại không đúng nguyên văn). Vừa rồi, độc giả Thái Kim Du, có lẽ là một cư sĩ, trong một comment dưới bài viết của tôi trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen, có nội dung sau: ....