Ý Nghĩa Và Hướng Dẫn Thực Hành Tu Trì Đức Phật A Di Đà

16 Tháng Tư 201300:00(Xem: 18435)

Ý NGHĨA VÀ HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
PHÁP TU TRÌ ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ,
CHÙA VÂN SƠN, VĨNH PHÚC
NGÀY 15/04

ducphatadida_1Thứ 2 ngày 15/4 (tức 6.3 Â.L), Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa và Tăng đoàn Truyền thừa quang lâm, cầu nguyện quốc thái dân an và ban đại lễ gia trì quán đỉnh cộng đồng Đức Phật A Di đà tại chùa Vân Sơn, Tam Đảo, Vĩnh Phúc.

Nhân dịp này, Drukpa Việt Nam xin đăng tải lại bài giảng về Kim Cương thừa trong mối quan hệ với Tam thừa Phật giáo và ý nghĩa của Đức Phật A Di đà do bậc Toàn tri Tôn quý, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa, thuyết giảng tại chùa Phổ Quang, TP Hồ Chí Minh nhân chuyến viếng thăm hoằng pháp 2010 của Ngài và Tăng đoàn Truyền thừa tại Việt Nam.

ducphatadida_2

ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ

Chủng tử tự: SHRI

Tâm chân ngôn: OM AH MI DEWA SHRI

Đức Phật Amitabha có nghĩa là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Tiếng Việt gọi là Phật A Di Đà, trong Mandala ngài an trụ ở phương Tây và an tọa trên bảo tòa Khổng Tước vương nêu biểu sự giác tỉnh cùng khả năng chuyển hoá phiền não, đầy đủ các màu sắc, minh tuệ. Sắc thân màu đỏ nêu biểu lòng Đại bi, tướng thanh tịnh của hỏa đại, tay Ngài kết ấn đại định (định ấn là ngón út, ngón đeo nhẫn, hai ngón giữa giao nhau) nêu biểu 6 đại vô ngại, phương Tây là phương trí tuệ nội chứng. A Di Đà là nghĩa chuyển Pháp luân thuyết pháp của Trí tuệ Diệu Quan Sát lợi ích các loại căn cơ chúng sinh.

Tu trì chân ngôn Di Đà có khả năng chuyển tưởng uẩn, ý thức thành Diệu Quan Sát Trí; chuyển hóa những tham nhiễm, chấp trước thành đại nguyện vị tha và chứng đắc thành tựu Báo thân Phật A Di Đà.

 

Giảng pháp và quán đỉnh cộng đồng Liên Hoa Bộ, Di Đà, Quán Âm tại chùa Phổ Quang, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh ngày 25 tháng 3 năm 2010

drukpa_01234Trước tiên, tôi xin bày tỏ niềm tri ân sâu sắc tới quý Hòa thượng, Thượng tọa, chư Đại Đức Tăng Ni, cùng toàn thể quý vị Phật tử gần xa. Tôi xin được giới thiệu một chút về các vị Rinpoche trong Tăng đoàn Drukpa viếng thăm Việt Nam lần này, và sau đó tôi xin giảng về ba ngôi Tam Bảo. Rất nhiều người trong số quý vị hiện diện nơi đây năm ngoái đã cùng với chúng tôi chia sẻ giáo pháp, nên tôi không cần phải nói nhiều về Truyền thừa của mình. Tuy thế, tôi cũng nhìn thấy nhiều khuôn mặt mới, nên sẽ giới thiệu ngắn gọn về Truyền thừa Drukpa. Truyền thừa Drukpa thuộc truyền thống Kim Cương thừa, nhưng về pháp môn tu tập thì thực hành kết hợp ba thừa. Tôi nhớ năm ngoái đã từng nói rõ rằng: Kim Cương thừa không thể tồn tại nếu không có nền tảng của Đại thừa. Đại thừa không thể tồn tại nếu không có Nguyên thủy Phật giáo. Cho nên mỗi thừa trong ba thừa không thể tự tồn tại riêng biệt. Ba thừa phải kết hợp cùng nhau, cho dù tu theo bất cứ Truyền thừa nào, bạn cũng cần hiểu rằng: Trong sự thực hành của bạn đều cần kết hợp cả ba thừa. Kim Cương thừa thực sự là một nhánh thuộc Đại thừa Phật giáo, cho nên không thể đứng độc lập với hai thừa kia. Tôi xin chia sẻ kỹ hơn trong buổi chiều nay và bây giờ xin giới thiệu về các Ripoche thuộc Tăng đoàn Drukpa.

Trong chuyến viếng thăm lần trước Tăng đoàn Truyền thừa có hai vị Rinpoche cao cấp là Đức Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rinpoche và Nhiếp Chính Vương Kunga Rinpoche. Nhưng lần này, do Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rinpoche bận việc Phật sự nên sau ba ngày nữa Ngài mới tới Việt Nam. Còn Nhiếp Chính Vương Kunga Rinpoche thì vẫn có mặt, Ngài đang ngồi trước quý vị, phía bên tay trái của tôi. Ngài là hoá thân của một bậc Thầy vĩ đại trên dãy Himalaya thuộc truyền thống Kim Cương thừa. Trong Hiển giáo không có truyền thống về sự hoá thân của các Bậc thầy, hay nói cách khác không có truyền thống đi tìm hoá thân của các Bậc thầy vĩ đại. Còn trong Kim Cương thừa, chúng tôi có truyền thống tìm lại hoá thân các Bậc thầy của mình. Tất cả chúng tôi đều vâng theo quy luật này, vì đây là những yếu tố để làm lợi lạc cho sự phát triển của Phật pháp, hay giúp duy trì Truyền thừa không gián đoạn. Hiện nay có rất nhiều các Bậc thầy vĩ đại như thế, vì vậy tôi vui mừng giới thiệu ngài Kunga Rinpoche tới quý vị. Kế đến tôi xin hân hạnh giới thiệu một vị thành tựu giả về Thiền định, Ngài Dropon là vị đại diện của Truyền thừa Drukpa tại chín quốc gia ở châu Âu. Đây là một duyên lành hy hữu, chúng ta được cung đón Ngài tới Việt Nam. Nhân đây tôi xin giới thiệu một chút về Truyền thừa Drukpa. Truyền thừa Drukpa được truyền không gián đoạn từ đức Phật Thích Ca Mâu Ni tới các bậc Thầy giác ngộ liên tục cho tới ngày nay. Truyền thừa Drukpa được khai sáng bởi Đức Pháp Vương Tsangpa Gyare đời thứ nhất, Ngài là hoá thân của Đại thành tựu giả Naropa, một Đại Thượng sư chứng ngộ tại Ấn Độ gần 1000 năm trước.. Truyền thừa Drukpa là sự kết hợp giáo lý của cả Tam thừa, gồm Nguyên thủy, Đại thừa và Kim Cương thừa. Trong dòng Truyền thừa hiện nay có rất nhiều hoá thân chuyển thế của Bậc thầy giác ngộ. Đây là Truyền thừa áo vải, tức là Truyền thừa của sự chứng ngộ Thiền định. Chúng tôi đang nỗ lực trì giữ và phát triển rộng khắp không phải chỉ trong đời này, mà trong vô số kiếp về sau và vô số kiếp về trước. Chúng tôi cố gắng giữ gìn năng lượng Thiền định được trao truyền từ thời Đức Phật cho đến ngày nay. Đó là ý nghĩa của Truyền thừa không gián đoạn.

Nói đến “Truyền thừa” có nhiều nghĩa: “Truyền thừa huyết thống” như ông, cha, con, hay “Truyền thừa Giáo Pháp” là hệ thống giáo lý được truyền không gián đoạn từ thời Đức Phật, trải qua các đời Tổ, cho đến các bậc Thầy ngày nay. Riêng ở truyền thừa Drukpa, chúng ta đặt niềm tin vào sự gia trì của Truyền thừa thuộc trạng thái tâm Thiền định. Không phải chỉ người xuất gia, mà những Phật tử tại gia đều có thể trì giữ, và phát triển Truyền thừa Thiền định từ thời Đức Phật. Thiền định dựa trên cơ sở khẩu truyền trực tiếp. Khẩu truyền trực tiếp vô cùng cần thiết, để bảo trì cho Truyền thừa Thiền định thanh tịnh không gián đoạn. Nói về Thiền định, chúng ta có trường phái thiền Nguyên thủy, thiền Đại thừa và thiền Kim Cương thừa. Trong Kim Cương thừa có tám loại Thiền khác nhau. Tôi muốn giới thiệu với các vị về Thiền và kỹ thuật của thiền Mật Thừa. Có thể có câu hỏi về sự khác biệt giữa ba Thừa, hay ba trường phái thiền định. Đó cũng là lý do tại sao chúng ta cần thực hành cả ba, chứ không phải chỉ là hai hay một trong ba trường phái. Chúng ta cần thực hành cả Tam Thừa, vì mỗi thừa có một số kỹ thuật đặc trưng riêng. Đây cũng là lý do mà Đức Phật đã thuyết ra Tam Thừa, để phù hợp với từng căn cơ trình độ của hàng đệ tử.

Bây giờ tôi xin nói về ý nghĩa của Tam Bảo. Chúng ta Quy y Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. giáo pháp của Ngài gồm đủ cả Tam thừa, những hành giả thực hành Tam thừa là Tăng già. Như thế chúng ta có Phật, Pháp, Tăng, ở mỗi thừa tuy quan kiến hơi khác nhau, nhưng cả ba thừa đều được truyền dạy từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đức Phật Thích Ca là Bậc thầy duy nhất, giảng dạy tất cả giáo pháp gồm đủ Tam thừa. Trong hệ thống giáo lý Nguyên thủy, Đức Phật chủ yếu giảng bằng tiếng Pali; một số giáo pháp của Đại thừa cũng được giảng tiếng Pali. Hầu hết giáo lý của Mật thừa được giảng bằng tiếng Phạn, một phần lớn giáo pháp của Đại thừa cũng được giảng bằng tiếng Phạn. Tuy nhiên, tất cả đều là giáo pháp được giảng dạy từ Đức Phật Thích Ca. Nói chung, ở Việt nam có hai thừa chính là Đại thừa và Nguyên thủy. Đây là hai thừa phổ thông của Phật giáo. Kim Cương thừa là một nhánh thuộc Đại thừa Phật giáo. Nguyên thủy Phật giáo được giảng dạy ở Varanaisi Ấn Độ. Ngày nay nếu đến Varanasi, chúng ta không còn thấy bất kỳ một dấu tích Phật giáo nào ở đó nữa; dường như đã cải đạo sang đạo Hindu hay đạo Hồi, chẳng còn thấy một người nào theo Phật giáo. Đây là điều đáng buồn, cho nên chúng ta cần phải nỗ lực tu tập để phát triển thiền định và các phương tiện thiện xảo truyền giảng giáo pháp tinh túy của hai thừa. Kỹ thuật thiền định và truyền giảng rất quan trọng, vì đây là hai nền tảng quan trọng chúng ta cần giữ gìn và phát triển.

Việt Nam là đất nước có chiều dài lịch sử Phật giáo hơn hai nghìn năm, nên người Việt Nam có trách nhiệm rất lớn trong việc trì giữ giáo pháp của Đức Phật, trì giữ các kỹ xảo thiền định, trì giữ từ bi và trí tuệ. Chúng ta cũng cần trân trọng những duyên lành mà mình đang có, chúng ta cần phải trân trọng trách nhiệm của mình, về việc bảo vệ và phát triển giáo lý đạo Phật, để lợi ích chúng sinh. Lợi ích chúng sinh chính là căn bản của Phật giáo Đại thừa. Căn bản của Phật giáo Nguyên thủy là không làm bất kỳ điều gì tổn hại ai. Đây là hai điểm mấu chốt của giáo pháp Đức Phật. .

Nếu loài người không ai hãm hại ai, tất cả đều thực hành hai giáo lý Phật pháp căn bản trên, đều tương thân tương ái giúp đỡ nhau thì thế giới này sẽ trở nên an bình hạnh phúc biết bao. ,. Chúng ta được sinh trong thân người quý giá nên có trách nhiệm lớn lao phải chuyển hoá thế giới này thành một thế giới toàn hảo đối với từng cá nhân. Đây là điều đáng được trân trọng, cần hiểu đúng và được thực hành. Trong Phật giáo chúng ta không tin vào sự cải đạo, đó là lý do tại sao Phật giáo từng được phát triển một cách rất tự nhiên không ép buộc tại nhiều quốc gia như Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Miến Điện…,. Đạo Phật không ép buộc mọi người cải đạo vì quan kiến Phật giáo là sống hòa bình trong giáo lý của Đức Phật và trong sự hiểu biết, tôn trọng với các tôn giáokhác. Còn trong lịch sử các tôn giáo khác đôi khi lại có truyền thống ép người cải đạo, điều này đã xẩy ra trong lịch sử tại Indonesia hay Malaysia, do đó mà hiện nay các quốc gia này còn rất ít người theo đạo Phật. Tại khu vực Đông Nam Á lúc này Đạo Phật chỉ còn hưng thịnh ở các quốc gia như Việt Nam, Thái Lan và một số nước khác. Đặc biệt, tại Việt Nam chúng ta có sự nâng đỡ ủng hộ của chính phủ trong việc phát triển tâm linh, thế nên các bạn có rất nhiều điều kiện tốt để bảo vệ phát triển giáo pháp của Đức Phật vì lợi ích của mỗi người và hết thảy hữu tình..

Vì sao chúng ta không tin vào sự cải đạo? Bởi vì giáo pháp của Đức Phật đem lại kết quả tự do tín ngưỡng cho mọi người. Con đường để thực hành tự do và ý tưởng tự do đều dựa trên sự tự do của mỗi cá nhân, nên Đức Phật không ép buộc bất kỳ ai, hoặc dùng bất kỳ phương pháp nào để bắt họ đổi đức tin. Hãy để họ tự do lựa chọn tín ngưỡng của mình, đó là thông điệp chính của Đức Phật. Rất tiếc, thông điệp cao cả này đã không được áp dụng một cách đúng đắn, cho nên rất nhiều sự cải đạo đã diễn ra ở nhiều nơi, thậm chỉ trên cả phạm vi quốc gia chứ không chỉ cho một nhóm người. Trong khi họ đang cố gắng vận động cải đạo, thì chúng ta cũng trải qua rất nhiều khó khăn trong sự thực hành giáo lý của Đức Phật và giữ gìn truyền thống thiền định. Bởi vậy, mỗi chúng ta cần hết sức tôn trọng cuộc sống của chính mình, một cuộc sống vô cùng quí giá. Để giải thoát cho hết thảy chúng sinh, mang lại hòa bình vững bền và chân thật, từng quốc gia cần những phương pháp cụ thể. Phương pháp của sự hiểu biết và tình yêu thương là những giáo lý của Đức Phật đã được luận giải một cách sâu sắc. Đó cũng là trách nhiệm của người Phật tử Việt Nam, đất nước có truyền thống lịch sử hàng ngàn năm gắn liền với sự phát triển hưng thịnh của Đạo Phật.

Chúng ta chia sẻ thêm về ba thừa, về đặc trưng và tinh túy trong giáo lý của ba thừa. Giáo lý của Nguyên thủy Phật giáo là Tứ Diệu Đế. Tất nhiên, đây không phải là giáo lý riêng của Nguyên thủy mà là giáo pháp vô cùng thâm diệu được Đức Phật truyền giảng ở vườn Lộc Uyển, là một phần quan trọng trong toàn bộ kho tàng Giáo pháp. Theo quan kiến Đạo Phật chúng ta có bốn chân lý cao quý: Khổ đế (khổ đau của thế giới), Tập đế (nguyên nhân của sự đau khổ), Diệt đế (sự giải thoát) và Đạo đế (con đường dẫn đến giải thoát). Bốn chân lý này rất dễ hiểu, là nền tảng căn bản mà người Phật tử phải nắm hiểu tường tận. Trong truyền thống Đại thừa Phật giáo, và đặc biệt là trong quan kiến của Kim Cương thừa, bốn chân lý này được phát triển luận giải một cách vô cùng sâu xa. . Theo đó, các xúc tình phiền não như vô minh, tham dục, kiêu man, tật đố đều cùng là tác nhân dẫn đến khổ đau luân hồi. Đây là những gì Đức Phật thường giảng chung, đặc biệt được nhấn mạnh hơn trong Kim Cương thừa. Sự khác biệt là quan kiến về vai trò của bản ngã. Theo Kim Cương thừa miêu tả thì bản ngã là sự vô minh hay hiểu biết một cách sai lầm. Ví dụ, chúng ta có thể hiểu những gì chúng ta thấy, chúng ta nghe. Nhưng chúng ta không thể hiểu được bí mật của vạn pháp. Vì thế chúng ta trở nên bám chấp mạnh mẽ vào những gì mình thấy nghe. Điều này trong Phật giáo gọi là hiểu biết sai lầm, trong Kim Cương thừa gọi là bản ngã hay vô minh. Vô minh là một trong bốn phiền não chính (vô minh, sân hận, tham dục, kiêu mạn). Đó cũng là lý do tại sao vô minh là nguyên nhân sinh khởi tất cả các xúc tình tiêu cực. Điều này rất dễ hiểu. Ví dụ chúng ta thường sân với một ai đó vì tin chắc rằng người đó đã nói lên hay đã thực hiện hành vi gì sai trái. Kết quả của sự giận dữ là tâm chúng ta đau khổ, rồi dẫn đến khổ đau của thân xác, khiến chúng ta ốm yếu, hoặc huyết áp cao, tất cả bởi phiền não giận dữ gây nên. Như vậy nguyên nhân của sự giận dữ là do chúng ta tin vào những gì mình thấy nghe. Nếu không muốn thân tâm mình đau khổ thì chúng ta phải giảm bớt sân giận.

Vậy cần làm gì để giảm bớt sân giận? Chúng ta cần giảm bớt sự tin tưởng vào những gì mình thấy nghe. Nếu thấy nghe điều gì đó, chúng ta nên quán chiếu đó chỉ là những hình ảnh hay âm thanh do tâm ta tự biến ra. Đức Phật Thích Ca dạy chúng ta không nên tin chúng. Nếu cố chấp tin tưởng thì có nghĩa chúng ta đang bị vô minh chi phối, chúng ta đang nuôi dưỡng độc vô minh trong sự tin tưởng của mình. Hãy đừng tin tưởng, mà để yên chúng tự tan trong tính Không. Con đường chung của sự hiểu biết tức là con đường Trung đạo. Trung đạo là con đường chân thật và là tri kiến cốt tủy của Đại thừa và Mật Thừa. Chúng ta cần phải giảm bớt giận dữ vì chúng làm ảnh hưởng đến sức khỏe của mình. Để làm được điều này, bạn cần phải tìm nguyên nhân của chúng. Nguyên nhân là do chúng ta tin tưởng vào sự thấy nghe của mình, thế nên chúng ta phải tìm cách trở về taính Không, về lý Trung đạo, đừng tin tưởng vào bất kỳ điều gì mà chúng ta thấy nghe, đó là phương pháp căn bản để giảm bớt giận dữ.

Ngài Long Thọ, một bậc Thầy vĩ đại của truyền thống Đại thừa đã trình bày tri kiến của Ngài về quan điểm Phật giáo là không tin tưởng vào những gì mình thấy nghe. Đây là giáo lý vô cùng sâu sắc của Đức Phật mà chúng ta cần phải hiểu và phải thực hành như Giáo pháp căn bản của Đại thừa và Kim Cương thừa. Điều tôi đang cố gắng giảng giải ở đây là tại sao chúng ta lại sân giận, tật đố, kiêu căng. Khi những xúc tình này hiện khởi chúng ta cần biết chúng từ đâu tới. Đó chính là giáo pháp mà Đức Phật đã dạy trong cả Tam Thừa. Tìm hiểu xem các xúc tình này đến từ đâu là phương pháp vô cùng quan trọng. 

Trên thế giới này rất nhiều người tin rằng: mọi khổ đau hay hạnh phúc của con người đều bắt nguồn từ Đấng Sáng tạo. Đạo Phật không tin như thế, mà tin vào Nghiệp, tin vào nhân quả. Nhân của khổ đau là tham, sân, si. Quả là cõi luân hồi thống khổ. Đây là đức tin của đạo Phật, cho nên chúng ta cần phải có trách nhiệm với toàn bộ cuộc sống của mình. Chúng ta không thể trốn chạy khỏi nhân quả mà mình đã tạo ra, nên cần thận trọng với nhân quả của chính mình. Đức Phật Thích Ca dạy rằng: sứ mệnh của Ngài là chỉ có thể chỉ ra con đường giúp chúng ta trở thành người tốt, hay con đường chấm dứt khổ đau. Phần còn lại chúng ta phải tự mình lo liệu, chúng ta phải có trách nhiệm với chính cuộc đời mình, có trách nhiệm với nhân quả của chính mình, như thế là cách tốt nhất giúp bạn tự do giải thoát. Chúng ta sẽ không nương tựa vào bất kỳ ai khác thậm chí cả Đức Phật, chỉ nương theo giáo pháp Ngài hướng dẫn, là con đường chân chính ta phải đi theo. Bạn hoàn toàn tự do lựa chọn con đường nào thích hợp với mình, như con đường Nguyên thủy, Đại thừa, hay Kim Cương thừa, Bạn đang ở trên mảnh đất của tự do, bạn có thể tự do chọn lựa con đường tốt nhất, phù hợp với mình, để có thể chấm dứt khổ đau. Tôi tin chắc rằng chúng ta cần tự do giải thoát, chúng ta cần sự hướng đạo. Nếu không có sự hướng đạo chắc chắn, chúng ta không có tự do giải thoát chân thật. Bởi thế, sự hướng đạo của Đức Phật là vô cùng cần thiết. Ngài muốn hướng dẫn chúng ta con đường để giải thoát. Sự tự do tạm thời và sự tự do tuyệt đối, thuật ngữ trong Phật giáo gọi là Chân đế và Tục đế.

Khi nói về thế giới này, có rất nhiều sự thật tương đối và sự thật tuyệt đối. Tương đối tức là cần hiểu làm thế nào để sống tự do an lạc ngay tại thế giới vật chất này. Tuyệt đối nghĩa là làm thế nào giải thoát khỏi khổ đau và nhân của đau khổ. Chúng tôi muốn nói kỹ hơn một chút về quan kiến của Kim Cương thừa. Trên thực tế, cốt tủy giáo pháp của Đức Phật trong các thừa Phật pháp không hề sai khác và Kim Cương thừa cũng có cùng một quan kiến như hai Thừa còn lại. Điểm khác biệt giữa các thừa là ở phương tiện và Kim Cương thừa sử dụng phương tiện thiện xảo để trực tiếp chuyển hoá giận dữ, ái dục, vô minh, tật đố… thành trí tuệ. Tất cả những loại năng lượng của những xúc tình tiêu cực, thông qua các phương tiện đều chuyển thành trí tuệ. Đó là sự khác biệt duy nhất của Kim Cương thừa với hai thừa nói trên.

Phương tiện thiện xảo này được thể hiện trong các giáo pháp quán đỉnh của Kim Cương thừa. Hôm nay chúng ta có quán đỉnh A Di Đà và quán đỉnh Quan Âm.. Ví dụ pho tượng trước mặt tôi là tượng Amitayus tức là Đức Phật Trường Thọ. Ngài chính là Đức Phật A Di Đà trong hình tướng Báo thân. Trong Kim Cương thừa pháp tu của Đức Phật A Di Đà thực chất là một phương pháp thực hành, nhằm chuyển hoá ái dục của chúng ta. Ái dục thiêu đốt cuộc sống rất mạnh mẽ. Chúng ta tham muốn đủ mọi thứ trong cuộc sống này như tham tiền, tham danh, tham sắc, tham ăn, tham hưởng thụ… đó gọi là tham dục. Tham dục rất cần được chuyển hoá. Chỉ cần chuyển hoá chứ không phải loại bỏ chúng. Nếu loại bỏ chúng, bạn sẽ trở nên khô khan, thiếu sinh lực như một cây gỗ mục. Bởi thế, chúng ta cần pháp tu A Di Đà để giúp chuyển hoá ái dục. Đây là phương tiện thiện xảo của Kim Cương thừa, không thấy nhắc đến trong hai thừa trước. Đây cũng là điểm đặc trưng của Kim Cương thừa so với hai thừa trên.

Tôi muốn chia sẻ kỹ hơn về sự chuyển hoá ái dục. Nếu loại bỏ ái dục, bạn sẽ không còn tâm muốn giúp đỡ mọi người, cứu độ chúng sinh, không muốn thực hành Bồ tát hạnh. Như vậy, loại bỏ ái dục không phải là phương pháp thích hợp. Do đó, ái dục cần phải được chuyển hoá và sử dụng một cách đúng đắn. Hiện tại chúng ta không chuyển hoá được ái dục, bởi chúng ta không có sự gia trì của Đức A Di Đà, Đức Quan Âm, hay Đức Phật Thích Ca, nên ái dục dẫn tới vô vàn khổ đau và rắc rối. Bởi thế rất nhiều tôn giáo khác cho rằng ái dục là rất xấu, cần loại bỏ chúng, nhưng thật ra ái dục không thể loại bỏ, mà cần chuyển hoá và sử dụng một cách chân chính. Khi tôi nói sử dụng một cách chân chính, thật ra không đơn giản. Nói thì khá dễ nhưng bắt tay vào thực hành thì không dễ. Tôi muốn nói rằng chúng ta cần phải chuyển hóa ái dục thành trí tuệ.

Ví dụ sân giận cần được chuyển hoá thành Diệu quan sát trí, theo danh từ thế gian gọi là trí thông minh. Nếu thiếu loại trí tuệ này, bạn sẽ trở thành người ngu ngốc. Ái dục cũng cần được chuyển hóa thành trí tuệ. Chuyện gì sẽ xảy ra khi ái dục chuyển thành trí tuệ? Khi đó, chúng ta sẽ kiểm soát và sử dụng được nó, trợ giúp cho những mục đích tốt, để lợi ích cho sự nghiệp giải thoát cứu độ chúng sinh. Đó là việc sẽ xảy ra khi chúng ta chuyển hoá ái dục thành trí tuệ. Nếu không chuyển hoá chúng, ta sẽ không có cơ hội, hoàn toàn bị nô lệ cho ái dục và sẽ tạo rất nhiều ác nghiệp bởi ái dục đã chi phối chúng ta một cách lầm lạc. Cũng thế, dù chúng ta biết sân giận là xấu, nhưng vì không được chuyển hoá nên bị nó dẫn dắt. Chúng ta gào thét đánh đập và vô cùng hung dữ. Tuy biết là xấu mà chúng ta không có chọn lựa nào khác, khi có sự chuyển hoá, nhờ sự thực hành thì giận dữ không còn dẫn dắt, ngược lại chúng ta kiểm soát và làm chủ được chúng. Vào lúc này, sân giận còn đang như một vị vua và chúng ta như những kẻ nô lệ, những xúc tình như sân giận chỉ đạo chúng ta tạo rất nhiều bất thiện nghiệp, nó thống trị toàn bộ cuộc đời chúng ta. Không những sân giận, mà ái dục, tật đố, vô minh đều là những kẻ thống trị cuộc đời chúng ta. Vì thế toàn bộ cuộc đời chúng ta trở thành sai lầm. Bởi thế, chúng ta cần học cách nhận diện, kiểm soát, chuyển hóa và làm chủ những xúc tình tiêu cực.

Như thế sự thực hành trong Kim Cương thừa nhấn mạnh đến sự chuyển hoá, chứ không phải sự đè nén hay nuôi dưỡng chúng. Chúng ta cần chuyển hoá các xúc tình, nên sự thực hành này không phải là việc thờ cúng một đối tượng hay một người nào khác mà là tiến trình chuyển hóa các xúc tình tiêu cực. Thông qua tiến trình này, chúng ta chuyển hoá mục đích ý nghĩa cuộc đời mình để thực hành các thiện hạnh của bậc Bồ tát lợi ích bản thân và người khác, điều đó cũng như thông qua việc phát Bồ đề tâm chúng ta trưởng dưỡng tình yêu thương và chuyển hoá các xúc tình tiêu cực thành tuệ giác. Ví dụ ái dục chuyển thành Diệu quan sát trí, sân giận chuyển thành Đại viên cảnh trí, vô minh chuyển thành Pháp giới thể tính trí…rất nhiều trí tuệ ở trong nền tảng của tâm thức. Như thế có thể nói việc thực hành Kim Cương thừa là phương tiện vô cùng hiệu quả giúp chúng ta chuyển hoá khổ đau một cách tích cực. 

Một bậc Thầy vĩ đại nói rằng: Tất cả chúng sinh xưa nay là Phật, điều này cũng đã từng được Đức Phật Thích Ca nhắc đến. Ngài còn dạy rằng: Luân hồi hay Niết bàn chỉ là vấn đề ở vô minh hay trí tuệ. Vô minh là Luân hồi, Trí tuệ là Niết Bàn. Đức Phật Thích Ca đã dạy rất rõ việc này. Kim Cương thừa cũng nói rằng: Trí tuệ vốn sẵn có từ vô thủy nhưng chúng ta đã không nhận ra, không chứng ngộ, nên bị sử dụng sai đường thành tham dục, giận dữ, tật đố, rồi dẫn dắt đến vô số khổ đau. Vì vậy cần chuyển hoá chúng thành trí tuệ. Trí tụê vốn sẵn có xưa nay, đó là cốt tủy của Kim Cương thừa. Trong Kim Cương thừa tin rằng: Chúng ta có thể trưởng dưỡng Đức Phật bên trong chính mình, có thể tự tạo hạnh phúc cho chính mình, không cần thiết phải lệ thuộc vào bất kỳ một thứ gì khác bên ngoài. Ngay chính Đức Phật Thích Ca cũng nói rằng: đừng nương tựa vào Ngài.

Là những hành giả Kim Cương thừa, chúng ta cần tin rằng: mọi thứ đều có thể được tạo ra từ bên trong chính mình, vì chính chúng ta tạo nên mọi thứ. Khi bị ái dục chi phối, chúng ta tạo nên bất thiện nghiệp hoặc thiện nghiệp. Vì thế chúng ta có thể tự chuyển hoá, để tạo nên sự an lạc hạnh phúc cho chính mình. Chúng ta có thể tự mình tránh các nhân đau khổ, đấy là niền tin của chúng ta. Cùng với niềm tin tưởng như vậy, trong thực hành của Kim Cương thừa chúng ta kèm với việc quán tưởng. Có rất nhiều loại quán tưởng như quán tưởng Đức A Di Đà, Quan Âm, Liên Hoa Sinh. Rất nhiều cách quán tưởng khác nhau, nhiều Chân ngôn khác nhau, nhiều khế ấn khác nhau, nhiều tư thế của thân khác nhau. Tư thế ngồi kết già được gọi là tư thế của Đức Tỳ Lô Giá Na, như vậy có hàng trăm các kỹ xảo khác nhau, nhưng kỹ xảo này rất cần thiết để nâng đỡ tâm chúng ta trong sự chuyển hoá.

Trong Nguyên thủy Phật giáo chỉ nhắc đến một mình Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong Đại thừa Phật giáo ngoài Đức Phật Thích Ca, còn nhắc đến chư Phật ba đời hay ngũ phương Phật và rất nhiều các vị Bồ tát. Còn trong Kim Cương thừa không phải chỉ có thế, mà còn vô số chư Phật khác nhau, như những Đức Phật trong hình tướng nữ, hình tướng nam, vô số các vị Bồ tát như các hoá thần Daka, Dakini, Yogi, Yogini…Bởi vì theo Kim Cương thừa, mỗi cá nhân có các loại xúc tình phiền não khác nhau, rất nhiều khía cạnh khác nhau của tâm như giận dữ, ái dục,… Mỗi khía cạnh của tâm, bản chất đều là Như Lai Tạng. Chúng ta có hàng ngàn khía cạnh của tâm, nên có hàng ngàn chư Phật, chư Bồ tát trong các hình tướng khác nhau. Mỗi Ngài có thể là đối tượng để chúng ta thiền định quán tưởng. Một trong các Ngài có thể có sắc thân màu xanh, màu lục, màu đỏ… Hoặc các Ngài trong hình tướng phẫn nộ, hiền hòa. Tất cả những hình tướng này đều tượng trưng cho các khía cạnh Tâm của chính chúng ta, chứ không phải là bất kỳ một ai khác ở bên ngoài. Những điều này không thấy nhắc đến trong truyền thống của Nguyên thủy hay Đại thừa. Bạn có thể thấy trong Kim Cương thừa có Hộ Pháp Mahakala với hình tướng cực kỳ phẫn nộ và sắc thân màu đen. Nếu gọi Ngài là Phật chắc bạn không thể tin nổi, bởi vì trông Ngài rất là phẫn nộ, rất đen và rất giận dữ. Cho nên những ai không hiểu về Kim Cương thừa thì không thể tin rằng Ngài là một vị Phật. Hay nói về Đức Quan Âm, trong truyền thống Đại thừa người ta gọi Ngài là Bồ tát vì mọi người không tin rằng một Đức Phật lại có thể có nghìn tay nghìn mắt. Họ nghĩ rằng một Đức Phật chỉ có hai tay hai mắt giống như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Còn trong Kim Cương thừa thì có vô số chư Phật khác nhau. Hộ pháp Mahakala cũng là một Đức Phật, Hộ pháp Mahakali cũng là một Đức Phật hay Lục Độ Mẫu, Bạch Độ Mẫu, Kim Cương Hợi Mẫu… tất cả các Ngài đều là Phật. Các Ngài có thể ở trong tư thế vũ điệu Kim Cương, có thể sắc thân các Ngài màu xám, màu đen, màu xanh… Tại sao lại như vậy? Bởi vì các Ngài tượng trưng cho sự chuyển hóa các xúc tình tiêu cực trong tâm chúng ta. Những xúc tình này luôn thúc đẩy chúng ta trong trạng thái không cân bằng của những sân giận, ham muốn…, song bản chất của những xúc tình đó là thể tính và hình tướng của chư Phật, chư Bồ tát. Đó là sự phóng chiếu của tâm bạn. Giống như khi giận dữ thì mặt bạn rất xấu, khi vui mặt bạn trông rạng rỡ hoan hỷ tươi tắn, khi buồn trông mặt bạn ủ dột nặng nề… Tất cả những bộ mặt đó đều là sự phản chiếu của tâm bạn. Vì thế chúng ta cần phải hiểu tất cả chư Phật, đều là những biểu hiện tâm của chúng ta. Có rất nhiều người tu Mật thừa không hiểu biết, họ không hiểu sự thật rằng những Đức Phật như Mahakala, Mahakali, Lục Độ Mẫu, Bạch Độ Mẫu… đều là sự phản chiếu của chính tâm họ. Mặc dù thực hành Kim Cương thừa nhưng họ không hiểu được ý nghĩa của Kim Cương thừa. Rất đáng tiếc khi thực hành Kim Cương thừa, họ nhìn vào những vị Phật này và cho rằng các Ngài là quỷ. Đây là một kiểu thực hành vô cùng nguy hiểm, hoàn toàn sai lầm. Chúng ta cần phải hiểu rằng chư Phật, Bồ tát là hiện thân hay là sự phản chiếu của các loại xúc tình khác nhau trong tâm của chúng ta. Bởi thế Đức Phật Thích Ca muốn chúng ta thực hành các phương tiện khác nhau, nhằm chuyển hoá mọi khía cạnh của tâm thành trí tuệ giác ngộ.

Có thể sẽ có nghi vấn rằng: Tại sao một hành giả cần phải thực hành Pháp tu Mahakala, hay các pháp tu về chư Phật, chư Bồ tát, các Bản tôn khác nhau? Câu trả lời rất đơn giản như tôi đã đề cập ở trước. Chúng ta muốn có sự chuyển hoá trong tâm mình, thông qua sự thực hành thì sự chuyển hoá sẽ xẩy ra, khi sự chuyển hoá diễn ra, thì đó là giác ngộ. Sự giác ngộ này đồng với sự giác ngộ được nói đến trong Nguyên thủy hay Đại thừa, chỉ có phương tiện là khác. Kim Cương thừa nhấn mạnh đến sự chuyển hóa tâm chúng ta thành Phật thông qua phương tiện trực tiếp từ Đức Phật A Di Đà.

Tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy cho rằng chúng ta phải loại bỏ hết phiền não thì trí tuệ mới được hiển lộ. Quan kiến Kim Cương thừa nhìn nhận điều này hơi khác một chút qua việc đề cập sự chuyển hóa trực tiếp phiền não thành Bồ đề. Đây là điểm then chốt của Kim Cương thừa. Không cần phải từ bỏ xác thân, chúng ta có thể chuyển hoá phàm thân thành Phật thân. Không cần chạy trốn những giai điệu thế gian, chúng ta có thể chuyển hóa chúng thành hàng ngàn giai điệu chân ngôn khác nhau. Nhờ việc trì chú chúng ta chuyển hoá khẩu thành khẩu giác ngộ của Phật. Như vậy trong Kim Cương thừa có ba loại chuyển hoá là: chuyển hoá Thân, chuyển hoá Khẩu, chuyển hoá Ý. Tuy trên góc độ phương tiện thiện xảo Kim Cương thừa có đặc biệt hơn, nhưng bạn cần nhớ bản chất Tam Thừa Phật giáo không khác biệt vì đều có cùng một mục đích là chứng ngộ Phật tính nơi chính mình.

Trong Kim Cương thừa bạn có thể nhìn thấy các đối tượng, các biểu tượng khác nhau. Ví dụ như chày Kim cương hay linh Kim cương, đều là những biểu tượng với những ý nghĩa tượng trưng riêng, Chày kim cương nêu biểu cho năng lượng phụ tính, Linh kim cương nêu biểu cho năng lượng mẫu tính, cả hai năng lượng này đều vốn ở trong tâm chúng ta từ vô thủy; là căn bản sinh khởi tất cả các loại xúc tình. Căn bản toàn bộ cuộc sống của chúng ta, cuộc sống tiềm ẩn của chúng ta là năng lượng của phụ tính và mẫu tính. Linh và Chày là biểu tượng của hai loại năng lượng này. Việc sử dụng hai pháp khí này có rất nhiều ý nghĩa giúp bạn hiểu về thiền định, và hướng sự thiền định của bạn tập trung vào trạng thái tâm, hay tập trung vào con đường của Đức Phật mà không lạc đường tà. Dần dần, bạn sẽ cân bằng được hai năng lượng này và sự thực hành của bạn sẽ thành tựu viên mãn. Bạn sẽ có thể loại bỏ các chướng ngại và đạt giác ngộ. Như vậy trong một nghi thức Mật Thừa, chúng ta sử dụng các nhạc khí để trợ giúp cho sự thiền định, chứ không phải để cho vui theo giai điệu trầm bổng. Xin quý vị ghi nhớ và hiểu rõ điều này.

Trước khi dừng lời tôi xin chân thành cảm niệm công đức chư tôn Hòa thượng, Thượng toạ, chư Đại đức Tăng Ni, cùng tất cả quý Phật tử gần xa có duyên vân tập nghe pháp nơi đây. Nguyện cầu Quý vị ngày đêm sáu thời an lạc trong ánh từ quang của chư Phật.

 

(Trích: Mandala, Sư hợp nhất của Từ bi – Trí tuệ theo quan kiến Kim Cương thừa, NXB Tôn giáo, 2011)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Năm 2019(Xem: 3612)
21 Tháng Mười 2015(Xem: 24365)
Trong số những bài góp ý liên quan đến bài "Về Tôn Xưng "Pháp Vương", chúng tôi nhận thấy cần post lên đây hai bài đáng quan tâm đến vấn đề: một bài gần như đồng quan điểm với những lời phát biểu của quý Hòa thượng lãnh đạo cấp cao Trung Ương Giáo Hội (bài của GSTS. Trần Kiêm Đoàn) và bài kia, dù được loan tải trên kênh chính thức của giáo hội nhưng lại có những quan điểm trái chiều (bài của Cư sĩ Giới Minh)
16 Tháng Chín 2015(Xem: 9027)
Được sự đồng thuận của Ban Tôn giáo Chính phủ, Trung ương Giáo Hội Phật giáo, vào dịp kỷ niệm Ngày Hòa bình Thế giới (21/9), Phật tử và người dân Việt Nam
14 Tháng Tư 2015(Xem: 9638)
Cuốn Giác ngộ mỗi ngày - Bước chân an lạc trong thời hiện đại có bản quyền thuộc về Nhà xuất bản Penguin. Tác phẩm này là một trong những cuốn sách bán chạy nhất thế giới ngay từ lần đầu tiên ra mắt độc giả vào năm 2012, sau đó được dịch ra nhiều thứ tiếng ở khoảng 20 quốc gia như: Anh, Đức, Pháp, Italy, Trung Quốc... Đây là lần đầu tiên sách phát hành tại Việt Nam
24 Tháng Chín 2013(Xem: 9064)
19 Tháng Tư 2013(Xem: 12950)