NGÀY TẾT NÓI CHUYỆN ĂN CHAY
Diệu Liên Lý Thu Linh
Nếu chừng hai, ba năm trước, có ai đoán rằng tôi sẽ ăn chay trường, tôi sẽ cho là người đó quá hoang tưởng. Đúng vậy cứ nhìn lại ‘quá trình’ ăn chay của mình mà tôi tự xấu hổ.
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc. Thi thoảng Má cũng làm tàu hũ chiên, tàu hũ ướp xả, tàu hũ kho, vân vân. Chúng tôi cũng tò mò xin Má thử. Mấy miếng tàu hũ nát nhừ trong miệng, không có vị ngọt nào đọng lại trên đầu lưỡi như khi tôi nhấm nháp cá, hay thịt. Thiệt nhạt nhẻo. Chúng tôi không hiểu sao Má lại ‘tự làm khổ’ mình như thế. Khi chúng tôi hỏi lý do, Má chỉ bảo đó là những ngày rằm, ngày mùng một trong tháng thì phải ăn chay, mà không giải thích tại sao những ngày đó lại phải ăn chay. Má tôi hẳn cũng thấy chúng tôi không hào hứng gì với mấy món đồ chay ‘nhạt thếch’ của Má, nên cũng không ép đứa nào ăn chay, trừ một ngoại lệ.
Ngoại lệ đó là tất cả chúng tôi phải ăn chay chỉ một ngày trong năm đó là ngày mùng một Tết. Chỉ có một ngày, mà mấy anh chị em chúng tôi cảm thấy như một cực hình. Buổi sáng mùng một Tết thay vì ổ bánh mì thịt như thường lệ thì Má tôi đã thay thế bằng bánh tét, xôi hay mì xào chay. Cũng tiếng là đã ăn no, mà sao tôi cứ thấy bụng mình lưng lửng, ăn nữa thì không nổi nhưng hình như cơn ‘đói khát’ vẫn chưa được thõa mản. May mà sáng mùng một còn có một số trò giải trí như đi xem múa lân, đi mừng tuổi vân vân, đã giúp chúng tôi khỏa lấp phần nào nỗi ‘nhớ nhung’ những miếng thịt mỡ béo ngậy đang nằm phơi mình, trong nồi thịt kho nước dừa thơm lừng của Má. Ngày mùng một dài không tưởng được đối với những đứa trẻ lên chín, lên mười như chúng tôi. Sau buổi cơm trưa ‘khổ hạnh’ không thịt, không cá là chúng tôi bắt đầu nhìn đồng hồ, đếm giờ, khi cây kim đồng hồ hơi ngã khỏi con số hai, là chúng tôi thở phào nhẹ nhỏm, vì không biết luật lệ là do ai đặt mà chúng tôi cho rằng sau giờ đó là Phật đã ngủ, chúng tôi có quyền ăn mặn trở lại, coi như đã trả xong ‘nợ ăn chay’ với Phật một ngày trong năm. Coi như sau đó là thoải mái ăn mặn mà không phải áy náy gì hết. Sau giờ ‘giới nghiêm’ là chúng tôi, đứa thì ùa ra hàng hột vịt lộn, đứa xách tô đi mua mì, đứa đi nhúng bánh tráng cuốn liến mấy miếng thịt kho Má để sẵn. Khó ai tưởng nổi là chúng tôi chỉ mới nhịn thịt, nhịn cá chỉ trong mấy tiếng đồng hồ. Như thể chúng tôi khát thịt, khát cả từ hằng bao thế kỷ. Tóm lại, tiếng là ăn chay một ngày mùng một mà thật ra chỉ có hơn nữa ngày tí xíu. Vậy mà cũng có người trong anh chị em chúng tôi không thể thắng nổi mình trong mấy tiếng đồng hồ thử thách đó. Có đứa cũng len lén ‘phạm tội’ trước thời hạn. Năm đó, ngày mùng một chị Ba tôi vừa xắt lạp xưởng chiên cho mấy đứa cháu, vừa khóc –một điều cấm kỵ đối với Má tôi trong mấy ngày Tết- Má lập tức tra hỏi nguyên do, chị tôi sụt sùi bảo: “Con xắt thịt mà quên, lỡ bỏ vô miệng ăn một miếng rồi…”. Chúng tôi được một bữa cười no bụng.
Trái với Má tôi, còn ăn chay một tháng vài ngày, cha dượng tôi không những không biết ăn chay là gì, mà ông còn có một thú vui tai hại: săn bắn. Những năm mười ba, mười bốn tuổi, tôi đã gần như hằng tuần đều chứng kiến cảnh anh Xê, người anh bà con của tôi khi thì cắt cổ dê, lúc lột da nai, khi bằm thịt rùa…, theo lệnh của cha dượng tôi. Dĩ nhiên là chúng tôi cũng rất ‘enjoy’ (thưởng thức) đủ các loại thịt đó, mà chưa bao giờ thắc mắc hay trong lòng gợn một chút xót thương nào. (Không hiểu sao hồi đó tôi ác đến vậy?). Tôi nghe vợ anh Xê kể lại là trước khi mất anh Xê đã vật mình, vật mẩy và thở khò khè như người bị bóp cổ. Thật tội nghiệp cho anh!
Với bề dày ‘tội lổi’ đó, khi lớn lên, trong đầu tôi chưa bao giờ thoáng một ý nghĩ ăn chay, dù chỉ là một phút, mà còn luôn ‘sưu tầm’ trong các quán ăn, qua sách dạy nấu ăn, qua bạn bè, những món ăn, những phương tiện để thỏa mãn tánh thích ăn ngon miệng của mình. Những lúc tình cờ lên chùa, được mời cơm, từ chối không được thì tôi cũng ăn cầm chừng cho phải phép, để khi vừa ra khỏi cổng chùa là ù té chạy đi tiếp tế thịt cá vào bụng, như thể mấy cái xe đang chạy gần cạn xăng, phải mau mau đổ xăng kẻo cháy máy.
Năm tôi 46 tuổi, chị Tư tôi mất. Lúc quý Thầy đến tụng kinh vãng sinh giùm, thấy anh chị em tôi khóc lóc, một vị thầy có khuyên, “Nếu thương chị, thì tụi con trong bảy thất đầu tiên, ăn chay hồi hướng cho chị ấy thì ích lợi hơn”. Lòng thương chị tiêm cho tôi một sức mạnh đến không ngờ. Con người chưa bao giờ ăn trọn một ngày chay, chưa bao giờ tơ tưởng đến việc ăn chay như tôi đã ‘xuất sắc’ giữ trọn lời nguyền. Mà cũng thật lạ, cái cảm giác sau bốn mươi chín ngày ăn chay, không phải là cảm giác thở phào nhẹ nhỏm như những ngày mùng một của tuổi thơ, mà là một cảm giác man mác, là lạ, dường như có chút tiếc nuối. Tôi đã ngạc nhiên với chính mình, không lẽ tôi tiếc nuối những ngày trường chay đó? Chắc chắn là không có rồi, nhất là đối với tôi. Nhưng có lẽ nhờ đó mà tôi đã gieo được hạt giống ăn chay trong lòng mình. Năm 50 tuổi, tôi có lần ăn chay được khoảng hai năm –tự nhiên muốn ăn, không vì một lý do nào khác- nên cũng rất trầy trật, nghĩa là những lần đi ăn uống chung với bạn bè hay anh chị em trong nhà, có nhiều lúc tôi cũng thấy hơi ‘lạc lỏng’, nên rồi tôi lại ‘ngã mặn’.
Nhà chị Ba tôi có khoảng sân nhỏ, ở đó mỗi sáng chúng tôi thường rãi gạo cho đàn chim sẻ hiền lành đáp xuống ăn. Lâu dần, chúng tôi và đám chim sẻ bỗng như rất gần gũi nhau. Đàn chim trở nên bạo dạn hơn, có hôm tôi dậy trễ, vội vã ăn sáng mà quên rãi gạo là chúng đi sát đến cửa kính, lượn qua lượn lại như nhắc nhở. Còn hôm nào mà chúng không ăn hết gạo, chúng tôi cũng thắc mắc, không biết chúng có bệnh hay gì không.
Rồi một ngày kia khi ra sân để rãi gạo cho lũ chim, tôi không thấy bóng dáng một con chim nào, mà vương vãi trên sân là những mảnh lông chim, và một cái cánh chim nằm chơ vơ, đầy máu, như vừa bị ai gậm nhấm. Tôi nhìn sực lên bờ tường nhà hàng xóm, hình như có một bóng đen vừa vụt qua. Một chú mèo to tướng, lông đen xù, đang giương đôi mắt sáng quắc nhìn xuống chỗ tôi. Tôi có cảm tưởng như miệng của nó còn đang rỉ máu của chú chim sẻ tội nghiệp. Tôi chợt hiểu ra tất cả. Không cầm lòng được, tôi ngồi phụt xuống, lượm viên sỏi và chọi về hướng đó với tất cả lòng căm giận của mình.
Cuối tuần đó, em gái tôi mời cả nhà đến ăn cơm vì em có làm món chúng tôi khoái khẩu nhất: cánh gà nướng xả. Vừa bước vào nhà, mùi gà nướng thơm lừng đã khiến tôi thấy đói cả bụng. Mỗi người một đĩa cơm cánh gà nướng. Tôi vội vã đưa cánh gà nướng lên miệng, cắn phụt vào. Mỡ gà chảy xuống cả miệng, tôi đưa khăn lên lau. Bỗng bàn tay của tôi cứng lại, như thể có ai vừa chặn tay tôi lại. Tôi đang làm gì đây? Tôi đang ăn cánh gà nướng! Trước mắt tôi hình ảnh chú mèo đen đáng ghét bỗng hiện ra. Tại sao tôi lại ghét nó chứ? Tôi cũng đang làm y chang như nó. Cũng đang gặm cánh gà, cánh chim mà còn lên mặt đạo đức, ghét kẻ làm ác. Bữa ăn vẫn rộn rả tiếng cười, tôi len lén đứng lên, đổ đĩa cơm với cánh gà nướng vào thùng rác, rồi bước ra sân.
Từ đó tôi bắt đầu ăn chay, lần này với một mục đích –để không làm khổ chúng sanh khác, hay thực tế hơn, để không giống như con mèo hung ác. Dĩ nhiên lần này cũng như bao lần khác, tôi vẫn hằng cầu nguyện chư Thiên giúp cho tôi thêm cứng rắn. Giúp cho tôi thoát khỏi thói quen từ bao đời, giúp cho tôi không bị những ‘mùi hương’ cũ quyến rũ. Vì thế, mỗi khi có ai khen tôi ăn chay trường giỏi, tôi chỉ biết lúng búng nói: “Tôi làm được ngày nào hay ngày ấy”. Và đó không phải vì tôi khiêm nhường, mà đó là sự thật. Mỗi ngày bây giờ là ngày mùng một Tết đối với tôi. Là ngày chay của tôi. Nhưng không bao giờ tôi còn nhìn đồng hồ để chờ giờ “Phật ngủ” như lúc còn thơ ấu nữa.
Mong rằng bạn, mong rằng tất cả chúng ta đều có một lý do nào đó để ăn chay. Mong lắm thay!
Xuân Canh Dần 2010