Trở về mục lục
● Đại Lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2014 MARX VÀ PHẬT MỘT TUYÊN NGÔN CỦA PHẬT GIÁO VÀ CỘNG SẢN Jeff Waistell Trần tiễn Khanh dịch TÓM LƯỢC Làm thế nào chúng ta có thể xóa bỏ nghèo đói cùng cực mà không chia sẻ một cách công bằng hơn nguồn tài nguyên thế giới? Có thể nào đạt được giáo dục tiểu học cho mọi người mà không cần có một cam kết tài trợ công cộng (nếu không thì ai sẽ huấn luyện và trả lương giáo viên, xây dựng trường học, cho phép trẻ em nghèo đến trường?). Lý luận tương tự cũng đúng với việc cung cấp dịch vụ y tế phổ quát, miễn phí tại các điểm, để cải thiện sức khỏe bà mẹ, giảm tử vong trẻ em, cuộc chiến chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác. Thúc đẩy bình đẳng giới, trao quyền cho phụ nữ một lần nữa liên quan đến việc tái phân phối giáo dục, sự giàu có và quyền lực để họ được thực sự chia sẻ. Phát triển quan hệ đối tác toàn cầu sẽ chỉ là giấc mơ không thực hiện được nếu không phát triển tình đoàn kết quốc tế với người nghèo, hoặc không thách thức những cách mà toàn cầu hóa tư bản dựa vào cạnh tranh quốc tế để khiến công việc khó khăn hơn, tiền trả ít hơn và điều kiện làm việc tồi tệ hơn. Làm thế nào chúng ta có thể đảm bảo môi trường bền vững nếu không nhận ra rằng nguồn tài nguyên của hành tinh và con người bị khai thác để thu lợi cá nhân bằng những cách giống nhau? Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) sẽ chỉ là sáo ngữ nếu không chiếm đoạt và phân phối lại tài nguyên. Nghèo của một người bị gây ra bởi sự giàu có của người khác. Chúng ta chỉ đạt được các mục tiêu MDGs một cách tạm thời, khi mà những mục tiêu cá nhân của chủ nghĩa tư bản là tham lam, tích lũy và bá quyền tài nguyên, đang lái thế giới theo hướng ngược lại. Bài viết này phát triển cuộc đối thoại giữa chủ nghĩa Cộng sản và Phật giáo trên khía cạnh chung, sự cần thiết cho một xã hội nhân đạo, trong đó tất cả mọi thứ là của chung (mặc dù ngoài phạm vi của bài viết này là cả hai lý thuyết kinh tế Mác-xít và những phức tạp của triết học Phật giáo, sự so sánh có thể làm nổi bật nhiều điểm khác biệt và sẽ chỉ làm tăng xung đột về ý thức hệ, thay vì thúc đẩy sự hợp tác vì lợi ích chung). Để thực hiện mục tiêu này, bài tham luận tập trung vào truyền thống Phật giáo Thiền tông, đặc biệt là chánh niệm, cách sống và hiện hữu (không phải là tôn giáo để bị khinh miệt bởi Cộng sản) và một cách tương tức (có thể được chấp nhận bởi Cộng sản, nhấn mạnh tình đồng chí và đoàn kết giữa con người, với sự hiểu biết rằng tất cả mọi người đều liên hệ với nhau). Thật vậy, tương tức mở rộng cho tất cả mọi loài, mở rộng tình đồng chí vượt ra ngoài nhân loại. Tập trung vào Thiề n tông không chỉ tránh tranh chấp về tín lý với chủ nghĩa Mác mà còn để cân bằng Phật giáo với chủ nghĩa Cộng sản; tương tức dẫn đến đời sống liên kết, tất cả đều là của chung. Nhận thức Phật giáo về các mối liên kết với những người khác dẫn đến nhận thức về đau khổ của họ và mối quan tâm để giảm bớt nó. Xã hội cộng sản muốn phát triển đầy đủ tiềm năng con người, phân bổ tài nguyên vì lợi ích chung, đảm bảo thu nhập, dịch vụ y tế và giáo dục, từ đó giảm thiểu mất an ninh (Slott, 2011). Phật giáo gắn liền với chủ nghĩa Cộng sản về vấn đề này. Trong Phật giáo, hậu quả của vô ngã là không sở hữu; do đó Phật giáo phản đối chủ nghĩa tư bản về đặc quyền sở hữu tư nhân, thay vào đó ủng hộ chủ nghĩa xã hội vì nó cung cấp cách tốt nhất để vượt qua sự trói buộc kinh tế và đạt được tự do (Puligandla và Puhakka, 1970). Thích Nhất Hạnh (2007, p.175) cho biết: “... ở Làng Mai chúng tôi đang sống đơn giản. Tăng, ni, và cư sĩ - chúng tôi sống với nhau như một gia đình. Không ai có chiếc xe riêng. Không ai có tài khoản ngân hàng riêng. Không ai có điện thoại riêng. Trên thực tế, chúng tôi có những người Cộng sản thực sự.” Tương tự như vậy, Đạt Lai Lạt Ma (1996, p.38) tuyên bố, “Tôi vẫn nghĩ tôi là một nửa chủ nghĩa Mác, một nửa Phật tử” và một lần nữa, “chủ nghĩa Mác đã nói về sự phân phối tài sản một cách công bằng. Tôi rất ủng hộ điều này “(Đạt Lai Lạt Ma, 1999). Có thể nói rằng Tăng đoàn của Đức Phật là “nhóm xã hội cộng sản đầu tiên trên thế giới” (Gunasekara, không có ngày tháng) và “các giới luật đầu tiên cho tăng sĩ đến nay còn nghiêm ngặt hơn trong chủ nghĩa Cộng sản ở Nga” (Ambedkar, trong Rodrigues, 2002, p.179).
Một
tổng hợp của chủ nghĩa Mác và Phật giáo có thể giải quyết cả hai yếu tố bên ngoài
và bên trong đã gây ra đau khổ cho con người; Phật giáo cần chú ý hơn «đối với
yếu tố bên ngoài tạo ra đau khổ cho con người”, trong khi chủ nghĩa Mác cần phát
triển “sự hiểu biết về yếu tố nội bộ tạo sự đau khổ cho con người” (Brien,
2002, p.96). Phật giáo và chủ nghĩa Mác, cả hai bên bổ sung cho nhau, như “...
mối quan tâm chính của Phật giáo và chủ nghĩa Mác nhân bản là một mối quan tâm
sâu sắc về sự đau khổ của con người» (Brien, 2004, 37). Bài viết này xem xét làm
thế nào Cộng sản và Phật giáo có thể cộng tác để giảm bớt đau khổ cho con người
- và thực sự đau khổ của mọi loài (tất cả vì bóc lột của chủ nghĩa tư bản) - bằng
cách tìm kiếm sự phát triển bền vững và biến đổi xã hội trong việc hỗ trợ Mục
tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc.
XEM CHI TIẾT NỘI DUNG: Marx và Phật: Một tuyên ngôn của Phật giáo và cộng sản. Jeff Waistell (Trần Tiễn Khanh dịch) |