- Mục Lục
- Lời Nói Đầu
- Quyển Thứ Nhất
- Quyển Thứ Hai
- Quyển Thứ Ba
- Quyển Thứ Tư
- Quyển Thứ Năm
- Quyển Thứ Sáu
- Quyển Thứ Bảy
- Quyển Thứ Tám
- Quyển Thứ Chín
- Quyển Thứ Mười
- Quyển Thứ Mười Một
- Quyển Thứ Mười Hai
- Quyển Thứ Mười Ba
- Quyển Thứ Mười Bốn
- Quyển Thứ Mười Lăm
- Quyển Thứ Mười Sáu
- Quyển Thứ Mười Bảy
- Quyển Thứ Mười Tám
- Quyển Thứ Mười Chín
- Quyển Thứ Hai Mươi
- Quyển Thứ Hai Mươi Mốt
- Quyển Thứ Hai Mươi Hai
- Quyển Thứ Hai Mươi Ba
- Quyển Thứ Hai Mươi Bốn
- Quyển Thứ Hai Mươi Lăm
- Quyển Thứ Hai Mươi Sáu
- Quyển Thứ Hai Mươi Bảy
- Quyển Thứ Hai Mươi Tám
- Quyển Thứ Hai Mươi Chín
- Quyển Thứ Ba Mươi
- Quyển Thứ Ba Mươi Mốt
- Quyển Thứ Ba Mươi Hai
- Quyển Thứ Ba Mươi Ba
- Quyển Thứ Ba Mươi Bốn
- Quyển Thứ Ba Mươi Lăm
- Quyển Thứ Ba Mươi Sáu
- Quyển Thứ Ba Mươi Bảy
- Quyển Thứ Ba Mươi Tám
- Quyển Thứ Ba Mươi Chín
- Quyển Thứ Bốn Mươi
Đại Tạng Số
1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc cùng
Sa môn Pháp Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc
Việt dịch: Thích Phước Sơn - Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
Sài Gòn, Việt
Quyển Thứ Ba Mươi Tám
NÓI RÕ PHẦN THỨ HAI CỦA 141 GIỚI BA-DẠ-ĐỀ.
72- GIỚI: CHO Y CHO TU SĨ NGOẠI ĐẠO.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, bấy giờ có người tên là Kiệt Trụ xuất gia trong hàng ngũ ngoại
đạo, còn cha mẹ ông thì xuất gia theo Phật pháp. Vào lúc trời đang mùa lạnh, Kiệt
Trụ không có y phục, bèn đi đến chỗ mẹ, sống như loài cầm thú. Người mẹ thương
tình, suy nghĩ: "Có y Uất-đa-la-tăng vừa mới giặt nhuộm ở đây", bèn
cởi ra cho con. Khi được y rồi, anh ta liền mặc đi vào ngồi trong quán rượu. Do
thế bị người đời chê cười rằng: "Kẻ tà kiến này là con lừa ăn bã rượu mà
lại mặc biểu tượng của thánh nhân!"
Các Tỉ-kheo-ni nghe thế
bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật
liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni kia đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
Đó là việc xấu. Vì sao
ngươi đem y cho kẻ ngoại đạo xuất gia? Từ nay về sau, Ta không cho phép tự tay
cho y cho ngoại đạo.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Tì-xá-li phải tập họp
lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni tự
tay cho y của Sa-môn cho người thế tục và ngoại đạo, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Người thế tục: Tức người tại gia.
Ngoại đạo: Chỉ cho hàng ngoại đạo xuất gia.
Tự tay cho:
Y của Sa-môn: Biểu tượng của hiền Thánh.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Không được tự tay cho
y của Sa-môn cho người thế tục và ngoại đạo. Nếu Tỉ-kheo-ni có giới đức, rồi
phụ nữ, trẻ con muốn xin miếng y rách để cầu phước, tiêu tai, thì không được tự
tay mình cho mà nên bảo tịnh nhân nữ đem cho.
(528b) Nếu Tỉ-kheo tự
tay cho y của Sa-môn cho người thế tục, ngoại đạo thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu
Tỉ-kheo có giới đức, mà người ta xin một miếng cà sa rách để cầu được tiêu tai
thì nên bảo tịnh nhân đem cho, nhưng không được cho một miếng lớn mà nên cho
một miếng nhỏ. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
73- GIỚI: MAY Y AN-ĐÀ-HỘI QUÁ CỠ.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy có Tỉ-kheo-ni mặc y giống như phụ nữ, bị người đời chê bai
rằng: "Vì sao Tỉ-kheo-ni mặc y dài kéo lê tua vải mà đi giống như phụ nữ
ngoài đời? Đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!"
Các Tỉ-kheo-ni nghe thế
bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật
liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Từ nay về sau Ta
không cho phép để nguyên cả tua vải mà may y, mà phải đo may cho đúng cỡ.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni may y
An-đà-hội thì phải đo rồi mới may, chiều dài bằng bốn gang tay Tu-già-đa, chiều
rộng bằng hai gang tay. Nếu may quá mức đó thì cắt bớt rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
An-đà-hội: Y mà Thế Tôn cho phép.
May: Hoặc tự mình may hoặc sai người khác
may.
Phải đo: Chiều dài 4 gang tay Tu-già-đà.
Tu-già-đà: Thiện Thệ (tức Phật). Chiều rộng hai
gang tay, nếu qua số đó thì cắt bớt rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni may y
chiều dài đúng lượng, chiều rộng quá lượng thì phạm tội Ba-dạ-đề, khi mặc thì
phạm tội Việt-tì-ni. Cũng vậy, nếu chiều rộng đúng lượng, chiều dài quá lượng;
ở ngoài biên đúng lượng; ở giữa quá lượng; ở giữa đúng lượng; ở ngoài biên quá
lượng; khi gấp, khi nhăn đúng lượng; khi thấm nước đúng lượng; nhưng khi phơi
khô lại dài rộng, thì phạm tội Ba-dạ-đề, khi dùng phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên
đức Thế Tôn nói (như trên).
74- GIỚI: MAY YẾM RỘNG QUÁ CỠ.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy có Tỉ-kheo-ni tuổi trẻ đoan chánh, mặc y đi đường, đôi vú
nổi cộm lên, bọn con trai thấy thế liền cười. Các Tỉ-kheo-ni nghe rồi bèn thuật
lại với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem việc ấy đến bạch lên đức Thế Tôn. Thế
rồi, Phật dạy: "Từ nay về sau, Tỉ-kheo-ni nên may Tăng-kì-chi".
Lại nữa, khi ấy có
Tỉ-kheo-ni dùng vải rẻo may Tăng-kì-chi dài, rộng, thế rồi Phật dạy: "Từ
nay về sau cắt rẻo vải nên ước lượng mà cắt". Thế rồi, Phật bảo Đại Ái Đạo
truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp lại tất
cả, (528c) dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỳ-kheo-ni may
Tăng-kì-chi nên ước lượng mà may, chiều dài 4 gang tay Tu-già-đà, chiều rộng
hai gang tay. Nếu may quá mức đó thì cắt bớt rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Ba-dạ-đề: Như ở phần An-đà-hội ở trên đã nói rõ.
75- GIỚI: MAY ÁO TẮM RỘNG QUÁ CỠ.
Khi Phật an trú tại
Tì-xá-li, lúc Tỉ-kheo-ni Bạt-đà-la xuống tắm dưới sông Tô thì có 5 đồng tử
Li-xa đứng trên bờ sông trông thấy, do thế phát sinh tâm dục. Tỉ-kheo-ni bèn
nói:
- Này các hiền sĩ, các
vị hãy đi đi.
- Chúng tôi không đi,
thích ở đây nhìn thân thể của Thánh giả hơn.
- Các vị muốn xem cái
thân thể có chín cửa hôi thối này để làm gì?
- Không phải vậy. Chúng
tôi rất thích nhìn.
Họ cứ ở đó hồi lâu
không chịu đi, Tỉ-kheo-ni bèn suy nghĩ: "Đây là bọn phàm phu ngu si thiển
cận", đoạn cô dùng hai bàn tay che phía trước, phía sau rồi lên bờ. Những
kẻ kia thấy thế liền mê mẩn, miệng trào máu nóng, nằm lăn quay trên đất.
Các Tỉ-kheo-ni bèn đem
việc đó nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem đến bạch lên Thế Tôn. Cho đến
đoạn các Tỉ-kheo-ni hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao
5 đồng tử Li-xa ấy do lòng dục mà đến nỗi mê mẩn nằm lăn quay trên đất như vậy?
- Không những ngày nay
họ có lòng dục như thế mà trong thời quá khứ cũng đã từng có như vậy.
- Xin Thế Tôn thuật
lại, chúng con muốn được nghe.
- Trong thời quá khứ xa
xôi có một thiếu nữ đoan chính thù thắng, đồng thời thuở ấy cũng có 5 vị thiên
tử, người thứ nhất tên Thích-ca-la, người thứ hai tên Ma-đa-lê, người thứ ba
tên Xà-tăng-da-đế, người thứ tư tên là Bỉ-xà-da-đế, người thứ năm tên Ma-tra,
khi trông thấy thiên nữ ai nấy đều sinh dục tâm, bèn suy nghĩ: "Đây không
phải là vật có thể dùng chung, hễ ai có lòng dục mạnh nhất thì cho kẻ ấy".
Thế rồi, họ đồng thanh nói: "Đồng ý". Kế đến, Thích-ca-la bèn đọc kệ:
"Tôi nhớ khi dâm
dục,
Ngồi nằm chẳng được yên.
Mãi cho đến khi ngủ,
Dục lui mới được yên".
Tiếp theo Ma-đa-lê lại
đọc kệ:
"Thích-ca, khi
bạn ngủ,
Còn tạm thời thanh thản.
Tôi nhớ khi dâm dục,
Như trống thúc xông trận".
Xà-tăng-da-đế cũng đọc
kệ:
"Ma-đa, dụ trống
thúc,
Vẫn còn có gián đoạn.
Khi tâm tôi nhiễm dục,
Như cây trôi dòng chảy".
Tiếp đến, Bỉ-xà-da-đế
lại đọc kệ:
"Bạn ví cây nổi
trôi,
Có lúc còn dừng lại.
(529a) Tôi nhớ lúc tưởng dục,
Như nhặng không chớp mắt".
Thế rồi Ma-tra lại đọc
kệ:
"Những điều các
vị nói,
Toàn niệm tưởng an lạc.
Khi tôi đam mê dục,
Chẳng còn biết sống chết".
Khi ấy, các thiên tử
liền nói: "Bạn là người mãnh liệt nhất", rồi đồng lòng nhường thiên
nữ cho người này.
Đoạn, Phật nói với các
Tỉ-kheo-ni:
- Năm thiên tử thuở ấy
nay chính là năm chàng trai Li-xa:
- Bạch Thế Tôn, Vị Tỉ-kheo-ni
ấy nhờ có hạnh nghiệp gì mà được đoan chính như vậy? Lại được sinh vào nhà danh
giá, có lòng tin xuất gia chứng đắc vô lậu?
- Này các Tỉ-kheo-ni,
trong thời quá khứ có một thành phố tên Ba-la-nại. Nơi này có một trưởng giả,
ông cưới một bà vợ. Bà này lúc mới về thường có một người lo việc chải đầu và
cung cấp thức ăn. Khi ấy có vị Bích-Chi-Phật tên Tuyên-Hi đi đến cửa nhà bà
khất thực. Bà thấy Ngài không được đoan nghiêm lắm nên không có lòng cung kính,
do thế không cho thức ăn cũng không bảo ngài đi. Người chải đầu thấy vậy liền
nói ;
- Thưa bà chủ! Bà nên
cúng dường thức ăn cho vị khất sĩ.
- Ngài xấu xí không
đẹp, ta không cúng dường.
- Thế thì bà hãy đưa
phần thực phẩm của tôi để tôi cúng dường cho Ngài.
- Tùy ý người lấy,
người cũng có thể đem vứt xuống nước.
Người ấy được thức ăn
rồi, liền đem cúng dường cho Bích-Chi-Phật. Thế rồi, khi thọ trai xong, Ngài
bèn vọt lên hư không mà đi. Thấy Ngài bay đi, người cúng dường tâm rất hoan hỉ,
liền phát thệ nguyện: "Con nguyện thân sau được sinh vào nhà hào quý, thân
thể đoan chính, thấy Phật, nghe Pháp, diệt hết lậu hoặc". Thế rồi, người
ấy liền mệnh chung, sinh lên cõi trời, hưởng được năm điều vượt trội hơn trăm nghìn
thiên nữ, đó là: thọ mạng, nhan sắc, sức lực danh tiếng và biện tài. Sau khi mệnh
chung ở cõi trời bèn sinh vào nhà Bà-la-môn tại thành Ba-la-nại. Bấy giờ nhằm
lúc đức Phật Ca-diếp ra đời, Ngài vào thành khất thực, tuần tự đến nhà ấy thì
gặp lúc cha mẹ đi du ngoạn, cô ở nhà một mình. Do gieo công đức trong đời
trước, nên khi thấy Ngài, cô rất hoan hỷ, đem rửa sạch cái thố bằng đồng, đựng
đầy thức ăn thượng hạng và đem y Kiều-xá-da dâng lên đức Thế Tôn Ca-diếp, rồi
đọc kệ:
"Nay cúng y, thức
ăn,
Vật cúng dường tối thắng.
Nay cúng đức Mâu-ni.
Kiết sử hết, chứng ngộ.
Như bậc lậu tận chứng,
Mong con cũng như vậy".
Người con gái này về
sau được gả cho gia đình Bà-la-môn, nhưng vì cha mẹ chồng quá nghiêm khắc khó
phụng sự, cuối cùng cô phải thốt ra: "Ta dùng cái thân này sống để làm gì, chi bằng tự sát!", bèn cầm
chuỗi anh lạc, hương thoa mình (529b) và dây thòng lọng định tìm chỗ tự vẫn.
Nhưng khi trông thấy ngôi tháp của Phật Ca-diếp, cô bèn đem các dụng cụ trang
sức kia đến cúng dường tháp Phật rồi mới treo cổ. Và sau khi mệnh chung liền
sinh vào gia đình Bà-la-môn, cho đến tự đọc kệ:
"Anh lạc, y,
hương hoa,
Cúng dường tháp Ca-diếp.
Nương nhờ phước báo này,
Nay lễ chân Thế Tôn".
Phật dạy: Từ nay về sau
nên may áo tắm. Cho đến, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni may
áo tắm mưa nên lượng định mà may, chiều dài 4 gang tay Tu-già-đà, chiều rộng 2
gang tay. Nếu may quá mức ấy thì phải cắt bớt rồi sám hối tội Ba-dạ-đề, như
trường hợp y Tăng-kì-chi đã nói rõ.
76- GIỚI: XIN Y TẠI NHÀ KHÔNG TIN PHẬT.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy Tỉ-kheo-ni tăng nói với Thâu-lan-nan-đà:
- Cô có thể xin y
Ca-hi-na cho Tăng được không?
- Được.
- Thế là cô đi đến một
gia đình không có niềm tin, nói:
- Đại phước đức, thí
chủ có thể cúng dường y Ca-hi-na cho Tăng được không?
- Được.
Sau khi Tự tứ xong,
Tăng hỏi Thâu-lan-nan-đà:
- Đã xin được y
Ca-hi-na chưa?
- Tôi biết rồi.
Thế là cô đi đến gia
đình kia, hỏi:
- Này hiền sĩ, đã chuẩn
bị y Ca-hi-na xong chưa?
- Tôi biết rồi.
Sau đó, Tăng đến hỏi
Thâu-lan-nan-đà, thì cô đáp: "Tôi biết rồi". Cứ như thế cho đến khi
thời gian của y đã trôi qua (mà không có y). Các Tỉ-kheo-ni bèn trình bày việc
này với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi
Thâu-lan-nan-đà đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Vì sao ngươi đến nhà
người không thể sắm y để xin y Ca-hi-na cho Tăng? Từ nay về sau, Ta không cho
phép làm như vậy.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni đến
nhà người không thể cúng y để xin y Ca-hi-na cho Tăng thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Không có niềm
tin: Không có khả năng cho, rất ít
hy vọng.
Y: Như y Khâm-bà-la, y Chiên, cho đến y
Khu-mâu-đề.
Xin: Xin y Ca-hi-na cho Tăng. Nhưng nếu quá
thời gian của y mà không xin được thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni đi xin
y Ca-hi-na cho Tăng thì nên đi xin với tấm lòng nhiệt thành, nhưng không nên
đến xin những nhà không có niềm tin, mà nên đến những nhà có niềm tin và nhiều
bà con mà xin. Nếu người đó nói: "Tôi tự biết", thì phải hỏi lại:
"Bà có định cho không? Chớ nên để quá thời gian của y". Đồng thời
cũng phải xem xét người ấy, nếu thấy (529c) họ không có khả năng sắm được thì
nên đi xin chỗ khác. Hơn nữa, cũng phải tự lượng sức mình, nếu không thể làm
được thì không nên hứa đi xin cho Tăng. Nếu đã hứa xin y cho Tăng, mà không
siêng năng đi xin, không nhờ người khác xin, cũng không nói cho Tăng biết, để
quá thời gian của y, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu Tỉ-kheo đến gia
đình không có niềm tin xin y Ca-hi-na cho Tăng thì phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên
đức Thế Tôn nói (như trên).
77- GIỚI: KHÔNG ĐEM Y THEO BÊN MÌNH.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy có Tỉ-kheo-ni mặc y thượng, hạ đến đảnh lễ chân Thế Tôn,
sau đó bị hỏa hoạn cháy mất y. Các Tỉ-kheo-ni bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái
Đạo liền đem việc đó đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến.
Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Vì sao những y phục
cần sử dụng mà ngươi không đem theo bên mình? Từ nay về sau, Ta không cho phép
không đem theo bên mình những y phục cần sử dụng.
Lại nữa, bấy giờ có
Tỉ-kheo-ni con gái dòng họ Thích và con gái dòng họ Ma-la, trước kia vốn là
nhạc sĩ, nay xuất gia khoác y Tăng-già-lê nặng nề trông rất vất vả. Thế rồi, Phật
dạy: "Từ nay về sau Ta cho phép khi bệnh thì được châm chước". Đoạn,
Phật bảo Đại Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại
thành Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni không
bệnh mà không đem theo bên mình những y phục cần mặc thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Những y phục cần
mặc: Như y Tăng-già-lê,
Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội, Tăng-kỳ-chi và y tắm mưa.
Bệnh: Nếu có bệnh mà không đem y theo bên
mình thì đức Thế Tôn bảo là không có tội. Nếu không bệnh mà không đem theo thì phạm
tội Ba-dạ-đề. Nhưng nếu lễ tháp, đi kinh hành, ban ngày ngồi thiền trong trú xứ
thì - không mang y theo - không có tội. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
78- GIỚI: NẤU LẠI ĐỒ ĂN ĐỂ ĂN.
Khi Phật an trú tại
thành Tì-xá-li, bấy giờ gia đình Tỉ-kheo-ni Bạt-đà-la thường mang thức ăn đến
cho cô. Khi được thức ăn rồi, cô bèn xào nấu biến chế. Các anh em chú bác đến thấy thức ăn bèn hỏi:
- Tôi muốn ăn.
- Được thôi.
Thế là họ lấy thức ăn
rồi ăn, nhưng nghe có mùi vị khác thường, liền hỏi:
- Ở đâu mà được thức ăn
ngon thế này?
- Đó là thức ăn ở nhà
đem đến đấy.
Người nhà bèn nổi giận
trách (người làm công): "Nhà ta lâu nay làm thức ăn chỉ uổng phí tiền bạc
mà chẳng ngon lành gì!", bèn trở về nhà dùng roi đánh đứa nô tỳ, rồi mắng:
"Chỉ mất tiền bạc vô ích mà chẳng được ăn". Thế là kẻ sai đi đưa thức
ăn nổi giận, nói: "Tại vì Tỉ-kheo-ni mà ta (530a) bị khổ não như thế
này".
Các Tỉ-kheo-ni nghe thế
bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật
liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni Bạt-đà-la đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Từ
nay về sau Ta không cho phép tự nấu nướng pha chế thức ăn.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy có Tỉ-kheo-ni vốn là con gái dòng họ Thích và con
gái dòng họ Ma-la đi khất thực được cơm nguội, canh nguội và rau để cách đêm, ăn
vào liền bị ói mửa. Các Tỉ-kheo-ni nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đi đến
bạch với Thế Tôn rằng:
- Bạch Thế Tôn, có cho
phép chúng con được hâm nóng thức ăn không?
- Được.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại Tỳ-xá-li phải tập
họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni không
bệnh mà được các thức ăn như Khư-đà-ni, Bồ-xà-ni, rồi tự mình nấu lại, sai
người nấu lại; tự mình chiên lại, sai người chiên lại; tự mình hâm lại, sai người
hâm lại để ăn, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Khư-đà-ni: Năm thức ăn Khư-đà-ni.
Bồ-xà-ni: Năm thức ăn Bồ-xà-ni.
Nấu lại: Tự mình nấu lại hoặc sai người nấu lại.
Chiên: Tự mình chiên hoặc sai người chiên.
Hâm: Tự mình hâm hoặc sai người hâm.
Bệnh: Nếu vì già bệnh suy yếu nên ăn đồ ăn
nguội lạnh vào bị ói mửa không an lạc (mà hâm lại đồ ăn để ăn) thì Thế Tôn nói
là không có tội. Trái lại, nếu Tỉ-kheo-ni không bệnh mà nấu lại đồ ăn để ăn thì
phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói Phật không cho phép vì
muốn ăn ngon mà chiên lại, hâm lại đồ ăn.Nhưng nếu thức ăn lạnh thì được hâm
lại cho nóng, nhưng không được dùng xoong chảo để nấu, mà chỉ nên dùng chén
bằng đồng hoặc là tô hoặc là thố để hâm cho nóng.
Nếu Tỉ-kheo vì thích
ngon mà tự nấu lại, chiên lại, hâm lại đồ ăn để ăn thì phạm tội Việt-tì-ni.
Nhưng nếu bảo tịnh nhân làm thì không có tội. Nếu đi khất thực mà gặp thức ăn
lạnh rồi hâm lại cho nóng để ăn thì không có tội. Thế nên đức Thế Tôn nói (như
trên).
79- GIỚI: ĐỨNG HẦU TỈ-KHEO THỌ TRAI.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy có hai vợ chồng người kia xuất gia theo dòng họ Thích.
Trong khi ông chồng già cả đang ăn thì bà vợ Tỉ-kheo-ni đứng bên cạnh rót nước
và cầm quạt quạt. Ông chồng già nhắc lại chuyện dĩ vãng. Tỉ-kheo-ni nổi giận
liền lấy nước tạt vào mặt, cầm quạt gõ trên đầu, mắng: "Ông là kẻ không
biết ân nghĩa, chuyện dĩ vãng không nên nói mà đem nói". Tỉ-kheo-ni khác thấy
thế bèn khuyên:
- Này Thánh giả, vị này
là bậc đáng tôn trọng, không được làm như thế.
- Ông già ấy là kẻ bất
thiện, không biết ân nghĩa, chuyện dĩ vãng không nên nói mà nay đem ra nói.
Các Tỉ-kheo-ni nói với
Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo
(530b) gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật liền hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Vì
sao trong lúc Tỷ-kheo ăn mà ngươi hầu nước và quạt? Đó là việc phi pháp, phi
luật, trái lời Ta dạy, không thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp được. Từ
nay về sau, Ta không cho phép làm như vậy.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu trong khi
Tỳ-kheo đang ăn mà Tỉ-kheo-ni hầu nước và quạt thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Tỉ-kheo-ni: Như trên đã nói.
Tỳ-kheo đang ăn: Gồm 5thức ăn chính và 5 thức ăn phụ.
Hầu nước và quạt: Xách bình nước, rót nước, cầm quạt mà quạt, thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni xách
bình nước mà không cầm quạt thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu cầm quạt mà không xách
bình nước cũng phạm tội Việt-tì-ni. Nếu làm cả hai việc thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu không cầm cả hai thì không có tội. Tội này cấu thành trong trường hợp chỉ
có một tỉ-kheo và một Tỉ-kheo-ni. Nếu có nhiều Tỉ-kheo thì hầu nước, quạt không
có tội. Hoặc là trong chúng có cha, anh thì dùng quạt quạt không có tội. Thế
nên đức Thế Tôn nói (như trên).
80- GIỚI: ĂN TỎI.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy có một thương gia chuyên nghề trồng tỏi mời Tỉ-kheo-ni tăng
cúng dường tỏi. Thế rồi, nhóm sáu Tỉ-kheo-ni đến vườn ăn tỏi, dẫm đạp bừa bãi;
khi thương nhân đến vườn thăm, thấy tỏi bị tơi tả liền hỏi người làm vườn:
- Vì sao mà tỏi bị tơi
tả thế này?
- Trước đây có mời
Tỉ-kheo-ni đến cúng dường tỏi nên họ vào vườn lấy ăn hoặc mang đi mà dẫm đạp
như vậy.
Thương nhân nghe thế
bèn chê trách: "Ta mời đến cúng dường tỏi thì chỉ nên ăn mà thôi, vì sao
lại đem đi và dẫm đạp như vậy?"
Các Tỉ-kheo-ni nghe thế
bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem việc ấy đến bạch đầy đủ lên Thế
Tôn. Cho đến Tỉ-kheo-ni đáp: "Có thật như vậy". Rồi Phật khiển trách:-
Đó là việc xấu. Từ nay về sau, Ta không cho phép ăn tỏi. (cho đến) Dù ai nghe
rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni ăn
tỏi thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Tỏi: Gồm có loại tỏi trồng và tỏi trên núi,
đại loại các thứ tỏi như vậy đều không được phép ăn; loại chín hay loại sống
đều không cho phép ăn ; loại nấu lại, loại được đốt thành tro cũng không cho
phép ăn. Nhưng nếu thân thể có ghẻ thì cho phép dùng tỏi thoa. Và khi thoa thì
phải ở chỗ vắng đến lúc ghẻ lành, phải tắm rửa sạch sẽ rồi mới được vào trong
chúng. Thế nên, đức Thế Tôn nói (như trên).
Kệ tóm tắt:
"Y khác, y ngoại
đạo,
Kì-chi, An-đà-hội.
Y tắm, Ca-hi-na.
Y dùng không đem theo.
Nấu lại, hầu quạt nước,
Ăn tỏi, hết phần tám".
81- GIỚI: ĐEM THỨC ĂN CHO NGƯỜI THẾ TỤC.
(530c) Khi Phật an trú
tại thành Xá-vệ, lúc ấy người chị của Lại-tra-ba-la qua đời, cô bèn đi xin các
thức ẩm thực cho đứa con của bà chị. Vì vậy bị người đời chê cười rằng:
"Vì sao Sa-môn ni nhận thức ăn của người có niềm tin cúng dường rồi đem
cho người thế tục?"
Cac Tỉ-kheo-ni nghe thế
bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem việc ấy bạch đầy đủ lên đức Thế
Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật liền hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
Từ nay về sau, Ta không
cho phép tự tay cho thức ăn cho người thế tục.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy ngoại đạo Kiệt-trụ đến chỗ mẹ. Người mẹ thấy ông
đến, liền lấy bát múc đầy các thức ăn đưa cho ông. Người con được thức ăn rồi
bèn đem vào trong quán rượu ngồi ăn, đồng thời cho người khác ăn. Có người hỏi:
- Ông được thức ăn ngon
này ở đâu vậy?
- Ông im đi. Người đời
xem Sa-môn ni là phước điền, Sa-môn ni lại coi ta là phước điền.
Do thế bị người đời chê
cười rằng: "Vì sao Sa-môn ni lại dùng thức ăn của thí chủ cúng cho mình
đem cho kẻ không tăng trưởng phước đức?"
Các Tỉ-kheo-ni nghe thế
bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật
liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni kia đến. Khi cô tới rồi, Phật liền hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Vì
sao tự tay ngươi cho thức ăn cho ngoại đạo? Từ nay về sau, Ta không cho phép tự
tay cho thức ăn cho ngoại đạo.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni tự
tay cho thức ăn cho người thế tục, ngoại đạo thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
(Một số từ ngữ ở trên
đã giải thích).
Nếu Tỉ-kheo-ni có thân
nhân đến chơi, mình muốn cho thức ăn cho họ thì không được tự tay đưa cho, mà
phải bảo tịnh nhân nữ cho. Nếu không có tịnh nhân nữ thì nên bảo: "Nên tự
tay lấy thức ăn trong đó mà ăn". Nếu sợ họ lấy nhiều thì nên bảo:
"Lấy chừng ấy thức ăn đưa đây, còn bao nhiêu đem cất". Khi mình nhận
thức ăn rồi, nên để dưới đất, bảo họ tự lấy. Nếu ngoại đạo đến thì không được tự
tay cho thức ăn mà phải bảo tịnh nhân nữ cho họ. Nếu không có tịnh nhân nữ thì
nên nói: "Hãy tự lấy thức ăn trong đó mà ăn". Nếu sợ họ lấy nhiều thì
nên bảo: "Lấy chừng ấy thức ăn đưa đây, còn bao nhiêu đem cất". Rồi mình
tự tay để thức ăn dưới đất cho họ. Nếu
người bà con mình trách rằng: "Ngươi dùng lối Chiên-đà-la để đối xử
với ta sao?" thì nên nói: "Ông đã xuất gia (531a) vào chỗ không tốt.
Đức Thế Tôn chế giới không cho phép tôi cho thức ăn. Phật cũng dạy: "Được
sai ngoại đạo nấu thức ăn rồi bảo họ: "Ngươi đưa cho ta còn bao nhiêu thì
hãy ăn". Đó là những gì mà đức Thế Tôn đã dạy".
82- GIỚI: LÀM THẦY THUỐC ĐỂ SINH SỐNG.
Khi Phật an trú tại
Câu-diệm-di, lúc ấy, Tỉ-kheo-ni mẹ của Xiển-đà chữa bệnh rất giỏi, thường đem
theo rễ, lá, quả cây thuốc vào các nhà hoàng tộc, đại thần, cư sĩ trị bệnh cho
các thai phụ. Cô chữa bệnh mắt, thổ tả, xông đầu, nhỏ thuốc mũi, dùng kim lể,
rồi bôi thuốc vào. Do chữa bệnh nên cô được cúng dường rất nồng hậu. Các Tỉ-kheo-ni
bèn khiển trách cô:
- Đó không phải là phép
tắc xuất gia mà là nghề làm thầy thuốc.
Thế rồi, họ trình bày
việc đó với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo lại đem đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo
gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Từ
nay về sau ta không cho phép làm nghề thầy thuốc để nuôi sống.
Đoạn Phật bảo Đại Ái
Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại Câu-diệm-di phải tập
họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại.
-- Nếu Tỉ-kheo-ni làm
nghề thầy thuốc để nuôi sống thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Tỉ-kheo-ni: Như trên đã nói.
Thầy thuốc: Người dùng rễ, lá, trái cây thuốc để chữa bệnh. Lại có
thầy thuốc chú nguyện thuốc độc, chú nguyện rắn, cho đến chú nguyện lửa, chú
nguyện tinh tú, mặt trời, mặt trăng. Nếu ai dùng những phương pháp ấy để nuôi
sống như mẹ của Xiển-đà thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Tỉ-kheo-ni không được
làm nghề thầy thuốc để sinh sống. Nếu mình bị bệnh thì được bảo người khác dùng
phương thuốc để chữa trị.
Nếu Tỉ-kheo làm nghề
thầy thuốc để sinh sống thì phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên, đức Thế Tôn nói (như
trên).
83- GIỚI: TRAO TOA THUỐC CHO NGƯỜI THẾ
TỤC VÀ NGOẠI ĐẠO.
Khi Phật an trú tại
Câu-diệm-di, sau khi ngài chế giới không cho làm nghề thầy thuốc để nuôi sống,
thì có người mời mẹ của Xiển-đà chữa bệnh, Tỉ-kheo-ni liền nói: "Đức Thế
Tôn chế giới không cho phép chữa bệnh". Họ lại nói: "Nếu không cho
chữa bệnh thì xin cho tôi toa thuốc". Thế là cô bèn đưa toa thuốc cho
người thế tục và ngoại đạo. các Tỉ-kheo-ni liền nói: "Chỉ lo nghiền ngẫm
các phương thuốc, thì không phải là phép tắc xuất gia".
Thế rồi, họ trình bày
với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo đem việc ấy đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật bảo
gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật bèn hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
Từ nay về sau, Ta không
cho phép trao toa thuốc cho người thế tục và ngoại đạo.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại Câu-diệm-di phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni trao
cho người thế tục và ngoại đạo toa thuốc, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Tỉ-kheo-ni: Như trên đã nói.
Người thế tục: Người tại gia.
Ngoại đạo: Chỉ hàng ngoại đạo xuất gia.
(531b) Trao toa
thuốc: Nếu như chú nguyện rắn, chú nguyện thuốc độc, cho đến chú nguyện
lửa, chú nguyện tinh tú, mặt trời, mặt trăng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói.
Tỉ-kheo-ni không được
trao toa thuốc cho người thế tục và ngoại đạo, cũng không được chỉ vẽ phương
thuốc cho họ.
Nếu Tỉ-kheo trao toa thuốc cho người thế tục và ngoại đạo thì phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
84- GIỚI: LÀM VIỆC CHO NGƯỜI THẾ TỤC.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy Tỳ-xá-khư Lộc Mẫu mời hai bộ Tăng (về nhà cúng dường). Các
Tỉ-kheo-ni sáng sớm đến nhà bà, nói:
- Này Ưu-bà-di, hôm nay
bà mời hai bộ Tăng, chúng tôi nên dùng thứ gì để báo đáp đây?
- Thưa các Thánh giả,
các vị chỉ cần tụng Kinh, hành đạo tức là đã báo ân rồi vậy.
- Đúng thế, nhưng cũng
phải có việc gì khác để báo đáp chút chút chứ.
Thế là, họ leo lên gác,
lấy bông vải ra, rồi người thì cán hạt, người thì nhồi bông, người thì se sợi,
làm thành cuộn chỉ tròn, đem đưa bà, nói:
- Những gì chúng tôi
muốn báo đáp bà, giờ đã làm xong.
- Việc đó không phải là
báo đáp, muốn báo đáp thì ăn xong, ngồi thiền, tụng kinh, học kinh, đó mới gọi
là báo đền.
Các Tỉ-kheo-ni nghe thế
bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem việc đó đến bạch đầy đủ lên Thế
Tôn. Phật bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Từ
nay về sau, Ta không cho phép làm những việc thế tục tại nhà bạch y.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi, cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni làm
việc cho người thế tục thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Người thế tục: Tức nhà bạch y.
Làm việc cho
người thế tục: Tức
là cán hạt bông, nhồi bông và se sợi, hoặc giã, xay, giặt áo, đại loại làm
những việc nhà cho người thế tục như vậy thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Tỉ-kheo-ni không được
làm việc cho người thế tục. Nếu đàn-việt muốn cúng dường Phật nên nói: "Này
Thánh giả, hãy giúp con làm dụng cụ cúng dường này", thì lúc ấy được giúp
họ kết vòng hoa, nghiền bột hương.
Nếu Tỉ-kheo làm việc
giúp cho người thế tục thì phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như
trên).
85- GIỚI: VÀO NHÀ NGƯỜI KHÔNG BÁO TRƯỚC.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy có hai vợ chồng người kia vào giữa trưa trong nhà vắng vẻ
tưởng không có ai, muốn giao hoan, thì Tỉ-kheo-ni Thâu-lan-nan-đà không báo
trước mà đột ngột đi vào. Người chồng thấy thế nổi giận, vì cuộc hành lạc của mình
bị trở ngại, đồng thời nam căn còn cương cứng, bèn đuổi theo định bắt
Tỉ-kheo-ni. (531c) Tỉ-kheo-ni hoảng sợ vội vàng bỏ chạy về lại trú xứ, nói với
các Tỉ-kheo-ni khác: "Hôm nay suýt chút nữa tôi bị hủy hoại phạm
hạnh".
Các Tỉ-kheo-ni nghe thế
bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo đem việc ấy bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo
gọi Thâu-lan-nan-đà đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Vì
sao ngươi biết thực gia, không nói trước mà đi vào. Từ nay về sau, Ta không cho
phép làm như vậy.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni biết
thực gia, không nói trước mà đi vào, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Biết: Hoặc tự biết hoặc do nghe từ người
khác mà biết.
Thực: Người nữ là thức ăn của người nam,
người nam là thức ăn của người nữ.
Gia: Như nhà Sát-lợi, nhà Bà-la-môn, nhà
Tỳ-xá, nhà Thủ-đà-la, đại loại các gia đình như thế, nếu không báo trước mà đột
ngột đi vào thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni không
nói trước thì không được đi vào. Nếu muốn đi vào thì nên nói với người giữ cửa
rằng tôi muốn đi vào. Nếu người giữ cửa thưa với chủ nhà rồi họ bảo vào thì mới
được vào. Nếu người giữ cửa không ra báo lại thì không được vào. Nếu nghe trong
phòng có tiếng nói thì phải gảy móng tay, dậm chân cho có tiếng động. Nếu họ
vẫn im lặng thì không được vào. Nếu họ ra nghênh tiếp thì được vào.
Nếu Tỉ-kheo không nói
trước với gia chủ mà vào nhà họ thì phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn
nói (như trên).
86- GIỚI: SỐNG THÂN CẬN VỚI NGƯỜI THẾ
TỤC.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Ca-lê độ người con gái thứ ba của gia đình Li-xa
xuất gia, rồi cô ấy sống thân cận với người thế tục ngoại đạo. Các Tỉ-kheo-ni
bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo đem việc ấy đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn.
Phật bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật liền hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Từ
nay về sau, Ta không cho phép sống thân cận như vậy.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni sống
thân cận với người thế tục, ngoại đạo - thậm chí sống thân cận với người làm
vườn, Sadi - trọn ngày hoặc trong khoảnh khắc, thì phạm tội Ba-dạ-đề
GIẢI THÍCH:
(Một số từ ngữ trên đã
giải thích)
Ban ngày: Từ lúc bình minh đến lúc mặt trời lặn.
Cho đến trong
khoảnh khắc: Chỉ
trong chốc lát.
Sống thân cận: Thân thể sống thân cận, miệng thân cận, thân miệng sống thân
cận, thậm chí sống với người làm vườn, Sadi (532a) thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni thích
sống thân cận với người này người kia thì Hòa thượng ni, A-xà-lê ni nên cho họ
sống cách ly ở chỗ khác.
Nếu Tỳ-kheo sống thân
cận thì phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
87- GIỚI: TỰ THỀ THỐT.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Thâu-lan-nan-đà gây lộn với Tỉ-kheo-ni khác rồi
chỉ Phật, chỉ A-xà-lê, chỉ y-cà-sa thề thốt như sau: "Nam mô Phật, nếu tôi
làm như thế thì khi chết tôi không được khoác áo cà sa, không đoạn tận khổ
đau.bị mang tội giết cha mẹ, bị mang tội vong ân, bị mang tội hủy báng hiền
thánh, rơi xuống địa ngục, đọa vào quỷ đói, đọa vào súc sinh. Nếu tôi làm như
vậy, thì tôi sẽ rơi vào các cõi ấy. Nếu bạn làm như vậy thì bạn cũng sẽ rơi vào
trong các cõi ấy".
Các Tỉ-kheo-ni nghe thế
bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật
bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Ngươi
là người xuất gia mà vì sao lại thề thốt như thế? Đó là việc phi pháp, phi
luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp được.
Cuối cùng Phật dạy: Dù
ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni tự
thề thốt và nguyền rủa người khác thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Tự thề thốt: Như chỉ Phật, chỉ A-xà-lê thề thốt rằng: "
Nếu Tỳ-kheo thề thốt
như thế thì phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
88- GIỚI: HỜN DỖI TỰ ĐÁNH MÌNH.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Thâu-lan-nan-đà gây lộn với Tỉ-kheo-ni khác, rồi
nổi giận, tự đánh, tự cào, khóc rống lên tuôn lệ. Các Tỉ-kheo-ni khác nghe thế bèn
nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo
gọi Thâu-lan-nan-đà đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Vì sao ngươi nổi giận
tự đánh mình, rồi khóc rống lên tuôn rơi nước mắt? Đó là việc phi pháp, phi
luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, (532b) dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni tự
đánh mình rồi tuôn rơi nước mắt thì phạm tội Ba-dạ-đề.
GIẢI THÍCH:
Tự đánh mình: Nếu Tỉ-kheo-ni dùng tay nắm mình lại, rồi dùng cú đấm mà
đấm, hoặc dùng roi gậy đánh, hoặc dùng đất cục ném, rồi khóc lóc thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni tự
đánh mình mà không khóc thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu khóc mà không đánh, cũng
phạm tội Việt-tì-ni. Nếu vừa đánh vừa khóc thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu không
đánh, không khóc thì không có tội.
Nếu Tỉ-kheo tự đánh
mình rồi khóc thì phạm tội Việt-tì-ni, Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
89- GIỚI: TRÁCH NGƯỜI VÔ CỚ.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Thâu-lan-nan-đà đến nhà thế tục ca ngợi
Tỉ-kheo-ni Thọ-đề là người hiền lành, giữ giới, tinh tấn, cho đến có oai nghi
ung dung khi nhìn trái, trông phải, mặc y, cầm bát, nhìn ngó chỉnh tề, ít nói
năng được trời người cúng dường, đàn việt trông thấy liền sinh tâm cung kính,
chu cấp y bát, thức ăn, thuốc trị bệnh. Thế nhưng, bản thân Thâu-lan-nan-đà thì
oai nghi khiếm khuyết, mặc y rách rưới bẩn thỉu, để lộ cả cái bụng bự, nhũ hoa
và hông ra ngoài, cử chỉ thì thô tháo, nói năng búa xua. Vì thế đàn việt sanh
tâm bất kính, không mời về cúng dường y bát, thức ăn, thuốc trị bệnh. Do vậy,
Thâu-lan-nan-đà nói: "Tôi đến nhà đàn việt ca ngợi Thọ-đề nên mới được các
thứ cúng dường này. thế mà Thọ-đề chỉ nói những chuyện không tốt của tôi, nên
tôi không được cúng dường". Thọ-đề liền trả lời: "Này thánh giả, tôi
không nói chuyện xấu của thánh giả, vì sao lại bảo rằng tôi nói?".
Các Tỉ-kheo-ni nghe thế
bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bảo
gọi Thâu-lan-nan-đà đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Vì
sao ngươi không xem xét cẩn thận mà lại trách móc người khác?. Đó là việc phi
pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp
được. Từ nay về sau, không được không xét nét cẩn thận mà trách móc người khác.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni nói
với Tỉ-kheo-ni khác rằng: Này Thánh giả, cùng đến nhà mỗ giáp với tôi",
sau đó không hài lòng Tỉ-kheo-ni ấy mà không thẩm xét những gì được nghe, rồi
vô cớ quở trách, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Tỉ-kheo-ni: Như Tỉ-kheo-ni Thâu-lan-nan-đà ở trên
đã nói.
Nhà: Như nhà Sát-lợi, nhà Bà-la-môn, (532c)
nhà Tì-xá, nhà Thủ-đà.
Sau đó không hài
lòng: Như trường hợp Tỉ-kheo-ni
Thọ-đề.
Việc không hài
lòng: Chín việc ưu não, và việc thứ
mười là nổi giận không đúng chỗ.
Vô cớ: Không thẩm xét kỹ những gì được nghe và quở trách người
khác thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni không
thẩm xét kỹ những gì được nghe mà quở trách người khác thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu Tỳ-kheo không thẩm
xét mà quở trách người khác thì phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói
(như trên).
90- GIỚI: GIỮ CỦA NGƯỜI KHÁC.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Thâu-lan-nan-đà đến giờ bèn khoác y, cầm bát đi
đến đứng trước cửa một gia đình hào phú, bỗng thấy có Tỉ-kheo đến khất thực, cô
nói: "Tôn đức có thể vào nhà này, họ sẽ nấu thức ăn cúng dường tôn đức,
rồi họ mới ăn". Nếu thấy Tỉ-kheo-ni đến thì cô nói: "Thánh giả hãy
vào nhà này, đàn việt sẽ nấu thức ăn cúng dường Thánh giả, rồi họ mới ăn".
Hoặc là cô nói: "Nhà khác cũng có thức ăn vậy, hà tất phải tập trung tại
đây?". Đối với tất cả ngoại đạo khất thực cô đều nói như thế với tâm keo
kiệt nhằm bảo vệ nhà ấy.
Các Tỉ-kheo-ni nghe thế
bèn nói với Đại Ái Đạo. Cho đến chỗ cô đáp:
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Vì
sao ngươi dùng tâm keo kiệt giữ gìn cho nhà người khác? Từ nay về sau, Ta không
cho phép làm như vậy.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp
lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni dùng
tâm keo kiệt để giữ gìn nhà người khác thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Tâm keo kiệt tật
đố: Như Tỉ-kheo-ni Thâu-lan-nan-đà.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Tỉ-kheo-ni không được
dùng tâm keo kiệt tật đố để giữ gìn nhà người khác. Nếu Tỉ-kheo-ni khác hỏi thì
phải nói thật. Nếu ngoại đạo hỏi mà mình sợ tiêm nhiễm tà kiến của ngoại đạo
nên quở trách, thì không có tội.
Nếu Tỳ-kheo dùng tâm
keo kiệt tật đố tiếc của nhà người ta thì phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên đức Thế
Tôn nói (như trên)
Kệ tóm tắt:
"Tự tay cho thức
ăn,
Làm giúp người thế tục.
Vào không nói, thân cận,
Thề thốt, tự đánh mình.
Quở trách, giữ của người
Kết thúc phần thứ chín".
91- GIỚI: MẮNG NHIẾC TỲ-KHEO.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy có hai vợ chồng người kia xuất gia, rồi người chồng già đi
đến thăm. Bà vợ đem cho thức ăn rồi đứng một bên. Ông chồng bèn đem những chuyện
xấu trước kia của vợ mình ra nói. Bà vợ nghe thế không vui, liền nói: "Lão
già chết yểu! Không biết ân nghĩa, những chuyện không nên nói lại đem ra
nói". Các Tỉ-kheo-ni bèn quở trách cô ấy: "Này Thánh giả, đây là vị
tôn túc, không được mắng mỏ như vậy". Cô ta liền nói với các Tỉ-kheo-ni:
"Đây là lão già chết yểu, không biết ân nghĩa, những chuyện không nên nói
lại đem ra nói".
Các Tỉ-kheo-ni bèn nói
với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo lại đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo
gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật liền hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Từ
nay về sau Ta không cho phép Tỉ-kheo-ni đối diện trực tiếp mắng mỏ Tỳ-kheo.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp
lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni đối
diện trực tiếp mắng mỏ Tỳ-kheo thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Đối diện: Bốn mắt nhìn nhau.
Mắng mỏ: Như nói: "Đồ lão già chết yểu, bất thiện, không
biết ân nghĩa", thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Tỉ-kheo-ni không được
đối diện trực tiếp mắng mỏ Tỉ-kheo. Nếu là anh em thân thích xuất gia mà không
giữ giới hạnh cũng không được mắng mỏ, mà chỉ nên dùng lời nhỏ nhẹ để khuyên
bảo. Nếu người ấy còn trẻ tuổi thì nên nói: "Này Sa-lộ-ê-đa, đừng có làm
việc đó. Nếu nay ngươi không học thì đợi lúc nào mới học? Sau này đệ tử của
ngươi cũng sẽ bắt chước ngươi làm điều bất thiện". Nếu người ấy già cả thì
nên nói: "Này Sa-lộ-ê-đa, nay ông không học đợi đến lúc già chết rồi mới
học sao?"
Tỉ-kheo cũng không được
đối diện trực tiếp mắng mỏ Tỉ-kheo-ni rằng: "Đồ con mụ trọc đầu! Con mụ
dâm dật", thậm chí nói: "Này mụ già, bà là kẻ bất thiện, không biết
ân nghĩa", mà nên dùng lời nhỏ nhẹ khuyên bảo, như trên đã nói.
Nếu Tỉ-kheo đối diện
mắng mỏ Tỉ-kheo-ni thì phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
92- GIỚI: CHƯA ĐỦ 12 HẠ MÀ NUÔI ĐỆ TỬ.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy có những Tỉ-kheo-ni một tuổi, hai tuổi, ba tuổi (hạ) bèn
nuôi đệ tử mà không biết dạy dỗ, để họ buông lung như dê trời, trâu trời, tịnh
giới không đầy đủ, oai nghi không đầy đủ, không biết cung phụng Hòa thượng ni,
A-xà-lê ni, không biết cung phụng Tỉ-kheo-ni trưởng lão, không biết phép tắc
vào thôn xóm, phép tắc ở A-luyện-nhã, không biết phép tắc vào trong Tăng, không
biết mặc y, cầm bát.
Các Tỉ-kheo-ni bèn đem
việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới
rồi, Phật liền hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép Tỉ-kheo-ni chưa đủ 12 mùa mưa mà nuôi đệ tử.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni chưa
đủ 12 mùa mưa (533b) mà nuôi đệ tử thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Chưa đủ 12 mùa
mưa: Chưa đủ 12 năm gọi là chưa đủ
12 mùa mưa. Tỉ-kheo-ni chưa đủ 12 mùa mưa mà đủ 12 năm cũng gọi là chưa đủ 12
mùa mưa. Tỉ-kheo-ni chưa đủ 12 mùa mưa mà quá 12 năm cũng gọi là chưa đủ 12 mùa
mưa.
Tỉ-kheo-ni thọ cụ túc
vào mùa Đông, nhưng chưa qua lần Tự tứ của mùa Đông thứ 12 thì cũng gọi là chưa
đủ 12 mùa mưa. Nếu thọ cụ túc vào mùa xuân, nhưng chưa qua lần tự tứ của mùa
xuân thứ 12 thì cũng gọi là chưa đủ 12 nùa mưa. Nếu tiền an cư thọ cụ túc, trải
qua tiền an cư thứ 12, nhưng chưa thọ Tự tứ thì cũng gọi là chưa đủ 12 mùa mưa.
Nếu hậu an cư thọ cụ túc, trải qua hậu an cư lần thứ 12, nhưng chưa Tự tứ thì
cũng gọi là chưa đủ 12 mùa mưa.
Tỉ-kheo-ni đủ 12 mùa
mưa mà chưa đủ 12 năm, thì gọi là đủ 12 mùa mưa. Tỉ-kheo-ni đủ 12 mùa mưa, đủ
12 năm, hoặc quá 12 năm, thì gọi là đủ 12 mùa mưa (12 Hạ lạp)
Tỉ-kheo-ni thọ cụ túc
vào mùa Đông trải qua an cư xong, thọ Tự tứ xong, thì gọi là đủ 12 mùa mưa. Nếu
thọ cụ túc vào mùa Xuân, trải qua an cư xong, thọ Tự tứ xong cũng vậy. Tiền an
cư thọ cụ túc trải qua tiền an cư xong thọ Tự tứ. Hậu an cư thọ cụ túc, trải
qua hậu an cư xong thọ Tự tứ, đó gọi là 12 mùa mưa (12 tuổi hạ)
Nếu Tỉ-kheo-ni (chưa đủ
12 mùa mưa mà) nuôi đệ tử, cho thọ cụ túc, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni chưa
đủ 12 mùa mưa mà độ người thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu cho họ thọ cụ túc thì
phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu Tỉ-kheo chưa đủ 12
mùa mưa mà độ người, cho thọ cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni (?). Thế nên đức
Thế Tôn nói (như trên).
93- GIỚI: CHƯA ĐỦ 10 PHÁP MÀ NUÔI ĐỆ TỬ.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, sau lúc ngài chế giới không cho người chưa đủ 12 mùa mưa nuôi đệ
tử, thì nhóm sáu Tỉ-kheo-ni và cac Tỉ-kheo-ni khác đủ 12 mùa mưa nhưng chưa đủ
10 pháp, nuôi đệ tử mà không dạy bảo, để họ giống như trâu trời, dê trời, thậm
chí không biết mặc y cầm bát. Các Tỉ-kheo-ni bèn đem việc ấy trình bày với Đại Ái
Đạo. Cuối cùng, họ đáp với Phật: "Đúng như vậy, bạch Thế Tôn". Phật
dạy: "Từ nay về sau, ta không cho phép người chưa đủ 10 pháp mà nuôi đệ
tử".
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni đủ 12
mùa mưa nhưng chưa đủ 10 pháp mà nuôi đệ tử thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Tỉ-kheo-ni: Như trên đã nói.
(533c) Đủ 12 mùa
mưa: Như trên đã nói.
Chưa đủ mười
pháp: Nghĩa là 10 pháp chưa thành
tựu. Mười pháp đó là:
1) Giữ giới.
2) Nghe nhiều A-tì-đàm (Luận).
3) Nghe nhiều Tì-ni (Luật)
4) Học giới.
5) Học định.
6) Học tuệ.
7) Có thể tự xuất tội và sai người xuất tội.
8) Nếu đệ tử thân tín muốn bãi đạo, thì có
thể tự mình hoặc nhờ người đưa họ đến nơi khác (ẩn lánh).
9) Khi đệ tử có bệnh thì có thể tự mình hoặc
nhờ người khác chăm sóc.
10) Đủ 12 mùa mưa (Hạ lạp) hoặc hơn.
Đó gọi là 10 pháp.
Nếu chưa đủ 10 pháp mà
độ đệ tử thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu cho họ thọ cụ túc thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu Tỉ-kheo chưa đủ 10
pháp mà độ người thì phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
94- GIỚI: CHƯA XIN PHÉP MÀ NUÔI ĐỆ TỬ.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, sau khi ngài cho phép người nào đủ 12 mùa mưa và thành tựu 10 pháp
được nuôi đệ tử thì các Tỉ-kheo-ni đủ 12 mùa mưa và thành tựu 10 pháp bèn nuôi
đệ tử, thế rồi các Tỉ-kheo-ni khác than phiền: "Ai biết là bà đủ 12 mùa
mưa và thành tựu 10 pháp?"
Các Tỉ-kheo-ni nghe thế
bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo lại đem việc đó bạch lên Thế Tôn. Cuối cùng,
người ấy đáp lời Phật hỏi:
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Từ nay về sau, muốn
nuôi đệ tử phải làm pháp Yết-ma cầu thính, rồi mới xin pháp Yết-ma nuôi đệ tử.
Người làm Yết-ma nên bạch như sau:
- Xin Thánh giả Tăng
lắng nghe. Tỉ-kheo-ni mỗ giáp thành tựu 10 pháp muốn vào trước Tăng xin pháp
Yết-ma nuôi đệ tử, nếu thời gian của Tăng đã đến (Xin Tăng hứa khả).
Xin Thánh giả Tăng lắng
nghe. Tỉ-kheo-ni mỗ giáp thành tựu 10 pháp muốn vào trước Tăng xin pháp Yết-ma
nuôi đệ tử; vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy.
Vị Tỉ-kheo-ni này phải
vào trước Tăng quỳ gối, chắp tay, xin như sau:
- Xin Thánh giả Tăng lắng
nghe. Tôi là mỗ giáp, đủ 12 mùa mưa, thành tựu 10 pháp, nay theo Tăng xin pháp
Yết-ma nuôi đệ tử. Kính mong Tăng cho tôi pháp Yết-ma nuôi đệ tử. (Xin như vậy
ba lần). Rồi người làm Yết-ma nên nói như sau:
- Xin Thánh giả Tăng
lắng nghe. Tỉ-kheo-ni mỗ giáp đủ 12 mùa mưa, thành tựu 10 pháp, đã theo Tăng
xin pháp Yết-ma nuôi đệ tử. Nếu thời gian của tăng đã đến, nay Tăng cho
Tỉ-kheo-ni mỗ giáp - thành tựu 10 pháp - pháp Yết-ma nuôi đệ tử. Đây là lời tác
bạch.
- Xin Thánh giả tăng
lắng nghe. Tỉ-kheo-ni mỗ giáp - đủ 12 mùa mưa, thành tựu 10 pháp - đã theo Tăng
xin pháp Yết-ma nuôi đệ tử. Nay Tăng cho Tỉ-kheo-ni mỗ giáp pháp Yết-ma nuôi đệ
tử, thánh giả nào bằng lòng cho Tỉ-kheo-ni mỗ giáp pháp Yết-ma nuôi đệ tử thì
im lặng; (534a) ai không bằng lòng hãy nói. Đây là Yết-ma lần thứ nhất, (lần
thứ hai, lần thứ ba cũng nói như thế).
Tăng đã bằng lòng cho
Tỉ-kheo-ni mỗ giáp pháp Yết-ma nuôi đệ tử xong, vì Tăng im lặng. Tôi ghi nhận
như vậy.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni thành
tựu 10 pháp nhưng không làm Yết-ma mà nuôi đệ tử thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Thành tựu mười
pháp: Như trên đã nói.
Không làm Yết-ma: Không làm Yết-ma giữa Tăng thì gọi là không làm Yết-ma. Ngoài
ra, nếu 10 pháp không đầy đủ cũng gọi là không làm Yết-ma. Tuy nhiên, nếu làm
Yết-ma mà bạch không đúng cách, chúng Tăng không thành tựu, Yết-ma không thành
tựu, cũng gọi là không làm Yết-ma. Người nuôi đệ tử muốn cho đệ tử thọ cụ túc
mà không làm Yết-ma thì phạm tội Ba-dạ-đề. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
95- GIỚI: CHO NGƯỜI PHẠM TỘI THỌ GIỚI.
Khi Phật an trú tại
Tì-xá-li, bấy giờ Tỉ-kheo-ni Ca-lê độ con gái thứ ba của dòng họ Li-xa, rồi cho
thọ học pháp. Thế là cô ta lấy chìa khóa mở cửa phòng người khác, cùng sống
chung với người thế tục, ngoại đạo. Tỉ-kheo-ni bèn khiển trách Ca-lê rằng:
"Kẻ này phạm giới, lấy chìa khóa mở cửa phòng người khác, cùng sống chung
với đàn ông, mà vì sao cho thọ cụ túc? (?)". Các Tỉ-kheo-ni bèn nói với Đại
Ái Đạo. Đại Ái Đạo lại đem việc đó đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật bảo gọi
Ca-lê đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Vì
sao ngươi biết kẻ phạm giới lấy chìa khóa mở cửa phòng người khác, sống chung
với ngoại đạo mà cho thọ cụ túc? Từ nay về sau, Ta không cho phép Tỉ-kheo-ni
cho kẻ phạm giới thọ cụ túc.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại Tì-xá-li phải tập họp lại
tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni biết
người kia phạm giới, cầm chìa khóa mở cửa phòng người khác, cùng sống chung với
đàn ông mà cho thọ cụ túc, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Phạm giới: Giới không đầy đủ, vượt qua giới.
Cầm chìa khóa mở
cửa phòng: Mở cửa
phòng người khác.
Đàn ông: Người thế tục hoặc là hàng ngoại đạo xuất gia.
Sống chung: Sống gần gũi bên nhau. Nếu cho người như vậy thọ cụ túc
thì phạm Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu kẻ ấy sống chung
với người thế tục, ngoại đạo thì không được cho thọ cụ túc. Nếu có thể làm cho
người này phạm hạnh được toàn vẹn thì trước hết nên làm cho họ sống cách ly rồi
mới cho thọ cụ túc.
Nếu Tỉ-kheo biết Sadi
phạm giới, sống thân cận với phụ nữ, (534b) nhưng không cho xuất gia lại mà cho
thọ cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
96- GIỚI: CHO NGƯỜI THIẾU TUỔI THỌ GIỚI.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, bấy giờ có Tỉ-kheo-ni độ những đồng nữ 10 tuổi, 12 tuổi xuất gia,
thọ cụ túc. Những người này thân thể yếu đuối không làm nổi những việc nhọc
nhằn, chưa biết giữ sạch sẽ, oai nghi khiếm khuyết, không biết phụng sự Hòa
thượng ni, A-xà-lê ni, không biết vào thôn xóm, không biết A-luyện-nhã, không
biết phép tắc khi vào trong chúng, không biết khoác y, cầm bát. Các Tỉ-kheo-ni bèn
nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo lại bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi
Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
- Ngươi có việc đó thật
không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép cho đồng nữ chưa đủ 20 tuổi thọ cụ túc.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni cho
đồng nữ chưa đủ 20 mùa mưa thọ Cụ túc thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Chưa đủ 20 mùa
mưa: Chưa đủ 20 năm gọi là chưa đủ
20 mùa mưa. Nhưng đồng nữ chưa đủ 20 mùa mưa, mà đủ 20 năm cũng gọi là chưa đủ
20 mùa mưa. Đồng nữ chưa đủ 20 mùa mưa mà hơn 20 năm vẫn gọi là chưa đủ 20 mùa
mưa. Nếu sinh vào mùa Đông, tính đến mùa Đông năm thứ 20 mà chưa qua lần Tự tứ
cũng gọi là chưa đủ 20 mùa mưa. Đồng nữ sinh vào mùa Xuân cũng vậy. Nếu đồng nữ
sinh vào lúc tiền an cư, tính đến tiền an cư năm thứ 20 nhưng chưa qua lần Tự
tứ, sinh vào lúc hậu an cư, tính đến hậu an cư năm thứ 20, nhưng chưa qua lần Tự
tứ, cũng gọi là chưa đủ 20 mùa mưa.
Nếu đồng nữ chưa đủ 20
mùa mưa, tất cả giới sư đều tưởng là chưa đủ mà cho thọ cụ túc thì tất cả phạm
tội Ba-dạ-đề. Người đó không được gọi là thọ cụ túc.
Nếu đồng nữ chưa đủ 20
mùa mưa, một nửa giới sư tưởng là chưa đủ, một nửa tưởng là đã đủ mà cho thọ cụ
túc thì những người tưởng là chưa đủ phạm tội Ba-dạ-đề, những người tưởng là đã
đủ không có tội, và người này được gọi là đã thọ cụ túc.
Nếu đồng nữ chưa đủ 20
mùa mưa, mà tất cả giới sư đều tưởng là đã đủ rồi cho thọ cụ túc, thì tất cả
đều không có tội, và người này được gọi là đã thọ cụ túc.
Đủ 20 mùa mưa mà chưa
đủ 20 năm cũng gọi là đủ 20 mùa mưa. Đồng nữ đủ 20 mùa mưa, đủ 20 năm hoặc đủ
20 mùa mưa mà quá 20 năm cũng gọi là đủ 20 mùa mưa. Đồng nữ sinh vào mùa Đông,
đến năm thứ 20, sau khi an cư, tự tứ xong, được cho thọ cụ túc. Trường hợp sinh
vào mùa xuân cũng như vậy. Đồng nữ sinh vào lúc tiền an cư, sau 20 năm, trải qua
tiền an cư xong, Tự tứ xong, sinh vào lúc hậu an cư, sau 20 năm, trải qua hậu
an cư xong, Tự tứ xong (được cho thọ cụ túc).
(534c) Nếu đồng nữ đủ
20 mùa mưa mà một nửa giới sư tưởng là chưa đủ, một nửa tưởng là đã đủ (rồi cho
thọ cụ túc), thì những người tưởng là chưa đủ phạm tội Việt-tỳ-ni, những người
tưởng là đã đủ không có tội. Người này được gọi là đã thọ cụ túc.
Đồng nữ đủ 20 mùa mưa
mà tất cả giới sư tưởng là chưa đủ rồi cho thọ cụ túc, thì tất cả đều phạm tội
Việt-tì-ni. Người này không được gọi là thọ cụ túc. Nếu tất cả giới sư đều
tưởng là đã đủ thì tất cả không có tội. Người này được gọi là đã khéo thọ cụ
túc.
Đồng nữ: Người mà phạm
hạnh chưa bị hủy hoại. (Nếu cho đồng nữ chưa đủ 20 mùa mưa) thọ cụ túc thì phạm
tội Ba-dạ-đề.
Nếu đồng nữ muốn thọ cụ
túc trong giáo pháp của đức Như Lai thì giới sư nên hỏi: "Ngươi sinh vào
lúc nào?". Nếu họ không biết thì nên xem tấm ván ghi năm sinh. Nếu không
có tấm ván thì phải hỏi cha mẹ thân nhân của họ. Nếu cũng không biết, thì phải
hỏi xem sinh vào thời vua nào, năm được mùa hay năm mất mùa. Nếu cũng không
biết thì nên xem tướng trạng (để suy đoán). Nếu họ là con gái của nhạc sĩ thì tuy
tuổi nhỏ mà hình vóc lớn, nên xem tướng tay chân xương cốt (mà suy đoán). Thế
nên đức Thế Tôn nói (như trên).
97- GIỚI: CHO NGƯỜI CHƯA HỌC GIỚI THỌ
GIỚI.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, sau khi Ngài chế giới không cho phép Tỉ-kheo-ni cho đồng nữ chưa
đủ 20 mùa mưa thọ cụ túc, thì các Tỉ-kheo-ni cho các đồng nữ đủ 20 mùa mưa thọ
cụ túc. Thế nhưng các Tỉ-kheo-ni khác dị nghị: "Ngươi đủ 20 mùa mưa hay
chưa đủ 20 mùa mưa ai mà biết được".
Các Tỉ-kheo-ni bèn nói
với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo lại đem việc đó đến bạch lên Thế Tôn. Cuối cùng,
Phật dạy: "Từ nay về sau, đồng nữ 18 tuổi muốn thọ cụ túc trong giáo pháp
của Như Lai phải theo tăng xin hai năm học giới. Trước hết phải làm Yết-ma cầu
thính rồi mới xin. Người làm Yết-ma nên tác bạch như sau:
- Xin Thánh giả Tăng
lắng nghe. Đồng nữ mỗ giáp 18 tuổi muốn thọ cụ túc trong giới luật của đức Như
Lai, nếu thời gian của Tăng đã đến, xin Tăng cho phép mỗ giáp vào trước tăng
xin hai năm học giới.
- Xin Thánh giả Tăng
lắng nghe. Đồng nữ mỗ giáp 18 tuổi muốn vào trước Tăng xin hai năm học giới, vì
Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
Thế rồi, đồng nữ này
phải vào trước Tăng xin như sau:
- Xin Thánh giả Tăng
lắng nghe. Con là đồng nữ mỗ giáp 18 tuổi muốn thọ cụ túc trong pháp luật của
đức Như Lai, nay theo Tăng xin hai năm học giới. Kính mong Tăng thương xót cho
con hai năm học giới (Xin như vậy ba lần).
Người làm Yết-ma nên
nói như sau:
- Xin Thánh giả Tăng
lắng nghe. Đồng nữ mỗ giáp 18 tuổi muốn thọ cụ túc trong pháp luật của đức Như
Lai, đã theo Tăng xin hai năm học giới, nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho
mỗ giáp pháp Yết-ma hai năm học giới. Đây là lời tác bạch.
Xin Thánh giả (535a)
Tăng lắng nghe. Đồng nữ mỗ giáp 18 tuổi muốn thọ cụ túc trong pháp luật của đức
Như Lai, đã theo Tăng xin hai năm học giới, Thánh giả nào bằng lòng cho mỗ giáp
hai năm học giới thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Đây là lần Yết-ma thứ
nhất (lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như thế).
Tăng đã bằng lòng cho
mỗ giáp hai năm học giới xong, vì im lặng, tôi ghi nhận như vậy.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni chưa
cho đồng nữ đủ 20 tuổi học giới mà cho thọ cụ túc thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Đủ 20 tuổi: Tức đủ 20 mùa mưa. Nếu đủ 20 mùa mưa mà chưa đủ 20 tuổi cũng
gọi là đủ 20 mùa mưa. Thậm chí, nếu hậu an cư sinh, sau 20 năm hậu an cư thọ tự
tứ xong, cũng gọi là đủ 20 tuổi.
Không cho học
giới: Nếu không làm Yết-ma mà cho
học giới cũng gọi là không cho học giới. Hoặc 10 pháp không đầy đủ cũng gọi là
không cho học giới. Tuy có làm Yết-ma nhưng chúng không thành tựu, bạch không
đúng pháp, Yết-ma không đúng pháp - nếu một pháp nào không thành tựu - mà cho
thọ cụ túc, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
98- GIỚI: CHO NGƯỜI HỌC GIỚI CHƯA XONG
THỌ GIỚI.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy Tỉ-kheo-ni cho người đang thọ học giới học chưa hoàn tất
thọ cụ túc; thế rồi, đức Thế Tôn bảo: Dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu Tỉ-kheo-ni cho
người đang thọ học giới học chưa hoàn tất thọ cụ túc thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Thọ học giới: Cho thọ học giới, đủ 10 pháp, chúng thành tựu, bạch
thành tựu, Yết-ma thành tựu, tất cả mọi pháp đều thành tựu, đó gọi là thọ học
giới.
Học chưa hoàn
tất: Trong hai năm thọ học giới phải
tùy thuận học 18 việc. Đó là: Khi ăn uống phải ngồi dưới tất cả Tỉ-kheo-ni, trên
tất cả Sa-di-ni, đối với họ không thanh tịnh nhưng đối với Tỉ-kheo-ni thì thanh
tịnh; đối với Tỉ-kheo-ni không thanh tịnh thì đối với họ cũng không thanh tịnh,
được ngủ chung cùng phòng với Tỉ-kheo-ni ba hôm, cũng được ngủ chung với
Sa-di-ni trong ba hôm, được Tỉ-kheo-ni trao cho thức ăn, ngoại trừ năm loại
thực phẩm được hỏa tịnh; theo Sa-di-ni nhận thức ăn; Tỉ-kheo-ni không được
hướng đến họ nói về Ba-la-đề-mộc-xoa, từ Ba-la-di cho đến tội Việt-tì-ni, mà
chỉ được nói: không được dâm, không được trộm cắp, không được giết người, đại
loại được dạy bảo như vậy, không được nghe Bố-tát, Tự-tứ. Đến ngày Bố-tát (535b)
Tự tứ, phải đến trước Thượng tọa, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Tăng, nói như sau:
"Con là mỗ giáp thanh tịnh, xin thượng tọa ghi nhớ cho", nói như vậy
ba lần, rồi lui ra. Nếu phạm một trong bốn giới Ba-la-di sau cùng thì ngay trong
ngày ấy phải thọ học pháp trở lại. Nếu phạm 19 giới Tăng-già-bà-thi-sa trở về
sau thì tất cả đều sám hối tội Đột-cát-la. Nếu phá năm giới như ăn phi thời, cất
thức ăn để ăn, nhận vàng bạc và tiền mặt, uống rượu, mang hương hoa, thì tùy
phạm vào ngày nào phải bắt đầu thọ học lại hai năm kể từ ngày đó, còn thời gian
trước bị hủy bỏ. Đó gọi là học giới chưa hoàn tất.
Nếu ai cho người học
chưa hoàn tất thọ cụ túc thì phạm tội Ba-dạ-đề. Thế nên đức Thế Tôn nói (như
trên)
99- GIỚI: KHÔNG CHO NGƯỜI ĐÃ HỌC XONG
THỌ GIỚI.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy, Thế Tôn chế giới không cho phép Tỉ-kheo-ni cho người chưa
học giới hai năm hoàn tất thọ cụ túc, thế nên Tỉ-kheo-ni cho đồng nữ 18 mùa mưa
(tuổi) học giới hai năm, đến lúc đủ 20 mùa mưa cho thọ cụ túc. Tuy vậy, các
Tỉ-kheo-ni vẫn chê trách rằng: "Người học giới hoàn tất hay chưa hoàn tất
ai mà biết".
Các Tỉ-kheo-ni bèn đem
việc ấy đến trình bày với Đại Ái Đạo. Cho đến Phật dạy: "Từ nay về sau,
đồng nữ đã học giới đủ 20 mùa mưa muốn thọ cụ túc trong pháp luật của Như Lai
để làm Tỉ-kheo-ni, thì trước hết phải làm Yết-ma cầu thỉnh, rồi đến trước Tăng
xin pháp Yết-ma đã học giới hoàn tất để thọ cụ túc. Người làm Yết-ma nên nói
như sau:
- Xin Thánh giả Tăng
lắng nghe. Đồng nữ mỗ giáp 20 tuổi đã học giới hoàn tất muốn thọ cụ túc trong
pháp luật của đức Như Lai; nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho mỗ giáp vào
trước Tăng xin thọ cụ túc vì đã học giới hoàn tất.
- Xin Thánh giả Tăng
lắng nghe. Đồng nữ mỗ giáp 20 tuổi đã học giới hoàn tất muốn vào trước Tăng xin
thọ cụ túc vì đã học giới hoàn tất. Tăng đã bằng lòng nên im lặng, tôi ghi nhận
việc này như vậy.
Thế rồi, người này phải
vào giữa Tăng quỳ gối, chắp tay, xin như sau:
- Xin Thánh giả Tăng
lắng nghe. Con là đồng nữ mỗ giáp 20 tuổi, đã học giới hoàn tất muốn thọ cụ túc
trong pháp luật của đức Như Lai, nay theo Tăng xin thọ cụ túc vì đã học giới
hoàn tất. Kính mong Tăng thương xót cho con thọ cụ túc vì đã học giới hoàn tất,
(xin như vậy ba lần).
Người làm Yết-ma nên
nói như sau:
- Xin Thánh giả Tăng
lắng nghe. Đồng nữ mỗ giáp đủ 20 mùa mưa, đã học giới hoàn tất, muốn thọ cụ túc
trong pháp luật của đức Như Lai làm Tỉ-kheo-ni, nay theo Tăng xin thọ cụ túc vì
đã học giới hoàn tất. Nếu thời gian của Tăng đã đến, nay tăng cho mỗ giáp pháp
Yết-ma thọ cụ túc vì đã học giới hoàn tất. Đây là lời tác bạch.
- Xin Thánh giả Tăng
lắng nghe. Đồng nữ mỗ giáp đủ 20 mùa mưa, đã học giới hoàn tất muốn thọ cụ túc
làm Tỉ-kheo-ni trong pháp luật của đức Như Lai, (535c) đã theo Tăng xin thọ cụ
túc vì đã học giới hoàn tất. Nay Tăng cho mỗ giáp thọ cụ túc vì đã học giới
hoàn tất. Thánh giả nào bằng lòng cho mỗ giáp thọ cụ túc vì đã học giới hoàn
tất thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Đây là Yết-ma lần thứ nhất. (lần
thứ hai, thứ ba cũng nói như thế).
Tăng đã bằng lòng cho
mỗ giáp pháp Yết-ma thọ cụ túc xong, vì Tăng im lặng, tôi ghi nhận việc này như
vậy.
Thế rồi, Phật bảo Đại
Ái Đạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải
tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu học ni đã học
giới hoàn tất mà Tỉ-kheo-ni không làm Yết-ma cho thọ cụ túc thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Giải thích:
Học giới hoàn
tất: Trong hai mùa mưa tùy thuận làm
18 việc.
Không làm Yết-ma: Không tác pháp Yết-ma cho thọ cụ túc thì (Tỉ-kheo-ni bổn
sư) phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Thế nên đức Thế Tôn
nói (như trên).
LUẬT MA
HA TĂNG KỲ
Hết quyển thứ ba mươi tám