LỜI MỞ ĐẦU

15 Tháng Chín 202222:58(Xem: 1223)

THIỀN TRONG NGHỆ THUẬT BẮN CUNG

Dịch giả: Thích Viên Lý

                        

LỜI MỞ ĐẦU

 

 

        Khi luyện tập nghệ thuật bắn cung, chúng ta nên chú ý một đặc điểm rất quan trọng: Sự tập luyện bắn cung không phải nhắm vào những mục tiêu thực dụng, cũng không thuần túy nhằm hưởng thụ mỹ học, mà nhằm rèn luyện tâm thức để, qua đó, người học có thể thâm nhập vào thực tướng của các pháp, của mọi hiện tượng. Điều này không phải chỉ ở Nhật Bổn mà hầu hết các nước Viễn Đông khác cũng như thế. Vả lại, không riêng gì môn bắn cung, việc luyện tập bất nghệ thuật nào cũng đều như thế cả. Vì vậy, người học bắn cung không phải chỉ muốn bắn trúng mục tiêu; người học kiếm khi vung gươm báu chẳng phải chỉ để mong thắng địch thủ; người ca vũ khi múa vũ khúc yểu điệu cũng không phải chỉ để biểu hiện những động tác nhịp nhàng của thân thể. Trước hết, tâm thức và tiềm thức cần hòa điệu lẫn nhau.

        Khi bạn thực tâm mong muốn trở thành bậc thầy của một nghệ thuật nào đó, nếu chỉ dựa vào kiến thức kỹ thuật thì chưa đủ. Bạn cần phải siêu việt lên trên kỹ thuật để biến nghệ thuật thành một “nghệ thuật vô nghệ thuật”.

        Trong nghệ thuật bắn cung, người bắn và mục tiêu không còn là hai chủ thể đối nghịch nhau mà là một thực thể. Cung thủ không còn cảm giác là người đứng trước bia kéo cung đợi buông tên để bắn trúng mục tiêu. Loại trạng thái vô thức này chỉ có khi chính cung thủ triệt để không còn tự ngã, và trở thành đồng nhất với tuyệt kỹ của họ, tuy rằng trong tuyệt kỹ này có điều gì đó rất khác thường mà không phải người học cách bắn cung có thể đạt được trong tiến trình luyện tập.

        Điều khiến cho Thiền khác biệt đậm với những giáo huấn về tôn giáo, triết học hoặc thần bí là: Tuy Thiền không bao giờ tách rời đời sống hằng ngày của chúng ta, và tuy rằng nó rất thực dụng và cụ thể, nhưng, Thiền có điều gì đó khiến nó cách biệt với khung cảnh ô trược và quay cuồng của thế gian.

        Tại đây chúng ta gặp sự liên quan giữa Thiền và xạ nghệ cùng các nghệ thuật khác như kiếm thuật, nghệ thuật cắm hoa, trà đạo, ca vũ, và mỹ thuật...

        Thiền Sư Mã Tổ (viên tịch vào năm 788 Tây lịch) nói rằng “Thiền là cái tâm hằng ngày,” và “cái tâm hằng ngày” này chẳng khác gì “mệt thì ngủ, đói thì ăn.” Một khi chúng ta vọng tưởng, trầm tư hay quan niệm hóa thì vô thức nguyên thủy liền xa lìa, và ý niệm đột nhiên sinh ra. Lúc ấy chúng ta không còn ăn khi ăn... không còn ngủ khi ngủ. Tên đã lìa cung nhưng không bay thẳng vào mục tiêu; tấm bia cũng không còn đứng tại chỗ cũ. Sự tính toán trở thành lầm lạc. Thuật bắn cung đi trật đường. Cái tâm rối loạn của xạ thủ tác hại chính mình trong mọi chiều hướng và mọi hành vi.

        Con người là động vật có tư tưởng, nhưng chúng ta thực hiện những thành tựu vĩ đại trong khi không một tính toán và không suy nghĩ. Cái tâm “giống như trẻ con” (“nhi tâm”) này phải trải qua nhiều năm huấn luyện thuật “quên bản ngã” mới có thê khôi phục. Khi đạt tới trình độ này, con người “nghĩ mà không nghĩ”. Hắn suy nghĩ giống như những trận mưa rào từ không trung rơi xuống; hắn suy nghĩ giống như những đợt sống uốn lượn trên mặt đại dương, như muôn sao soi sáng bầu trời đêm tối, như là xanh đang trổ ra trong gió heo may mùa Xuân. Chính người đó là hạt mưa, là đại dương, là muôn sao, là lá xanh tràn trề nhựa sống.

        Khi một người đạt tới trình độ phát huy tâm linh này, người đó trở thành một “nghệ sĩ Thiền” của cuộc đời. Người đó không cần phải tớí vải bố, cọ, và sơn màu, như họa sĩ; hắn không cần tới cung, tên và tấm bia, như cung thủ; vì hắn đã có sẵn tứ chi, thân mình, đầu, và các bộ phận của thân thể. Đời sống Thiền của người đó hiện thị qua những “công cụ” không thể thiếu này. Tay nhân là bút vẽ, cả vũ trụ là vải bố. Trên khung vải vẽ, họa gia này vẽ ra cuộc đời của mình kéo dài 70, 80, có khi tới 90 năm của hắn. Bức họa này gọi là “lịch sử."

        Pháp Diễn Thiền Sư của Ngũ Tổ Sơn (viên tịch năm 1140 Tây lịch) nói rằng: “Có người nào có thể biến không gian thành giấy, nước đại dương thành mực, Núi Sumeru thành bút, để viết năm chữ ‘Tổ Sư Tây Lai Ý’ 1. Đối với con người như thế, tôi xin trải tọa cụ 2 của tôi để cung kính bái phục.”

        Có lẽ có người muốn hỏi: “Những lời kỳ quặc này mang ý nghĩa gì? Tại sao những người có thể làm như thế lại đáng để chúng ta tôn kính?” Thiền sư có lẽ sẽ trả lời thế này: “Ta đói thì ăn, mỏi mệt thì ngủ.” Nếu vị đó chú trọng về thiên nhiên, có lẽ ông sẽ nói: “Trời hôm qua tạnh, hôm nay mưa.” Nhưng đối với độc giả, họ sẽ hỏi: “Cung thủ ở đâu?” Câu hỏi này vẫn chưa được giải đáp.

        Tiên Sinh Herrigel là một triết gia Đức đến Nhật để dạy tại các đại học và đã nhân cơ hội này học nghệ thuật bắn cung để mong từ đó nhận thức được Thiền. Trong quyển sách nhỏ tinh vi này, ông tường thuật rõ ràng về kinh nghiệm bản thân. Qua sự diễn đạt của ông, độc giả Tây phương sẽ tìm thấy một phương thức quen thuộc hơn để tìm hiểu về cái kinh nghiệm khác thường và khó đạt tới của người Đông phương.
 


              Ipswich, Massachusetts, Tháng Năm, 1953
                                  Daisetz. T. Suzuki

 

 

1 Năm chữ Hoa ngữ này dịch theo nghĩa đen có nghĩa là “động lực khiến vị tổ thứ nhất đến từ phương tây,”  thường được dùng làm chủ đề vấn đáp của Thiền môn.  Nó cũng giống như câu hỏi rằng cái gì là bản thể sâu xa nhất của Thiền.  Khi hiểu được điều đó, Thiền là chính cái thân thể này.

2 Là tấm đệm tròn (đan bằng cỏ lát hay bằng sợi thảo mộc khác), một trong những vật phẩm mang theo tùy thân, trải trên đất dùng khi lạy Phật hoặc lạy thầy.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Bảy 202500:06(Xem: 1627)
Trong cơn mộng dài của kiếp người, ta thường nắm chặt những bóng hình thoáng qua – danh vọng, tình yêu, hay chính cái “tôi” mà ta gọi là bản thân – như thể chúng là chân lý vĩnh cửu. Nhưng nếu tất cả chỉ là bọt nước vỡ tan trên dòng sông, là ánh chớp lóe lên rồi tắt, ta còn lại gì giữa hư không? Kinh Kim Cương, như lưỡi gươm vàng rực rỡ, cắt đứt màn sương của ảo tưởng, để lộ ra thực tại sáng trong: không có “ta”, không có “người”, không có gì để nắm giữ, cũng chẳng có gì để buông bỏ.
08 Tháng Bảy 202523:41(Xem: 2710)
Mục tiêu sau cùng là giải thoát khỏi sinh tử, thành tựu trí tuệ viên mãn – nơi không còn bị che lấp bởi phân biệt và vọng tưởng. Duy Thức và Trung Quán – Hai hướng đi lớn trong Đại thừa.Trong truyền thống Phật giáo Đại thừa, có hai hệ thống tư tưởng nổi bật, mỗi hệ đều sâu sắc và dẫnđến giải thoát: Trung Quán Tông và Duy Thức Tông. Cả hai đều dựa trên tinh thần vô ngã – vô pháp, phủ nhận bản thể độc lập và hướng tới Niết-bàn, nhưng phương tiện tiếp cận và lập luận triếtlý lại hoàn toàn khác nhau. Trung Quán (Mādhyamika), do tổ Long Thọ khai sáng, chủ trương rằng tất cả pháp đều không có tự tính (śūnyatā), là “tánh không, duyên khởi”.
08 Tháng Bảy 202523:06(Xem: 1927)
Có một tiếng hét từng xé toạc màn vô minh của kẻ học đạo. Có một bàn tay từng nâng lên mà không chỉ để chỉ, mà để đánh bật mọi vọng tưởng chấp thủ. Và, cũng có một bậc Thầy – không ban cho điều gì, chỉ lặng lẽ chỉ thẳng vào nơi không thể nắm bắt, nơi chẳng còn pháp nào để nương tựa: Đó là Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền.
08 Tháng Bảy 202522:46(Xem: 1831)
Không có cùng định hướng về tinh thần thủ chấp được xuất phát từ cái tôi; nền giáo dục Phật Giáo đưa ra một khuôn mẫu khác. Trong hệ thống giáo dục này, cả kiến thức hữu hình và quan trọng hơn nữa, kiến thức vô hình được truyền từ vị thầy đến học trò của mình. Người thầy đóng vai trò như là cha mẹ, nuôi dưỡng và hướng dẫn người học trò để người ấy có thể đạt đến khả năng tối đa của họ và, dùng khả năng ấy để giúp ích cho xã hội và thế giới muôn loại. Kiến thức này, kết hợp với sự thực hành đường lối Trung Đạo, sẽ giúp cho cá nhân người ấy làm chủ được tâm thức, kiềm chế được hành vi của mình, tránh xung đột với người khác và giải quyết mọi vấn đề mà cả hai phía đều thật sự lợi lạc qua sự đồng thuận, hoan hỷ.
12 Tháng Mười 202401:05(Xem: 3078)
Ấn Độ là một trong những cái nôi tâm linh của thế giới, nơi đây được biết đến là lãnh địa của hàng loạt các tôn giáo lớn nhỏ và vô số hệ tư tưởng triết học. Từ thời cổ đại, con người của Đại Lục Tâm Linh này đã luôn đặt ra câu hỏi làm sao chấm dứt khổ đau, đạt được hạnh phúc vĩnh cửu cũng như không ngại thực hành những phương pháp tu luyện cực đoan đến cùng cực.
11 Tháng Mười 202405:58(Xem: 3796)
Chúng tôi tin rằng "Giới Luật Phật Giáo" sẽ trở thành một ngọn đuốc sáng dẫn lối, một nguồn động viên mạnh mẽ cho tất cả những ai đang trên hành trình hướng thiện và hướng thượng, lập nên Tăng cách quý hơn vàng ngọc của đệ tử Như Lai, là anh lạc vô giá trang nghiêm giáo lý vô thượng Phật đà.
15 Tháng Sáu 202310:51(Xem: 7412)
Phật pháp tại thế gian thời kỳ mạt pháp xuất hiện nhiều dị giáo làm cho hành giả sơ tâm tu tập dễ vướng các chướng do không biện được chánh, tà. Bởi thiếu phân định nên dễ đi vào con đường thành kiến sai lầm khiến một đời nỗ lực tu tập nhưng cứ mãi lẫn quẩn trong vòng luân chuyển của khổ đau, sanh tử. Với xuất phát điểm nơi tâm hướng đến con đường giải thoát, hành giả tu tập cần nương nhờ vào đoàn thể Tăng già - là những người thừa tự pháp của Phật, chọn đúng đường hướng hầu mong thoát khỏi cái khổ trần thế, thoát khỏi sự thiêu đốt của nhà lửa đang bốc cháy hừng hực nơi Ta Bà uế trược.
12 Tháng Sáu 202316:26(Xem: 6180)
Đức Phật đã từng dạy, trong mỗi chúng sanh đều có Phật tính và đều là những vị lai Phật. Hy vọng rằng mùa Phật đản về cũng là lúc chúng ta trở về với Phật tính, lắng nghe Pháp âm trong chính mình, để mỗi thời khắc đều là Phật thị hiện và, mỗi tấc đất trong cõi Ta Bà này đều là y báo trang nghiêm của chư Phật Thế Tôn. Có như vậy chúng ta mới thật sự đón mừng một mùa Phật Đản với tất cả tâm thành và ý nghĩa.
13 Tháng Ba 202315:04(Xem: 7155)
Đạo Phật chủ trương lấy con người làm trung tâm điểm để cải hóa và xây dựng xã hội. Con người tốt, xã hội tốt và ngược lại. Giáo dục con người để trở thành một tài bảo của thế giới nhân loại là bước căn bản và hết sức quan yếu mà Phật giáo gọi là Nhân Thừa trong Ngũ Thừa giáo. Con người là tài nguyên lớn vô giá như Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhân thị tối thắng - Con người là trên hết”; ... Truyền thống giáo dục của Phật giáo là truyền thống giáo dục toàn diện. Đức Phật được tôn xưng như là một nhà giáo dục vĩ đại và thánh thiện, là bậc đạo sư tiêu biểu, mẫu mực (bậc Điều Ngự, đấng phước trí vẹn toàn), đức Phật chủ trương giáo dục con người giải thoát mọi kiến thủ đ
27 Tháng Chín 202222:32(Xem: 86846)
Lúc đầu, kinh điển Phật giáo gồm hai bộ chính là “kinh” (sutra) và “luật” (vinaya): “Kinh” ghi lại giáo lý của Đức Phật, “Luật” là những giới luật mà Đức Phật đã chế định cho hàng tăng nhân tu hành tại các tự viện. Về sau này có thêm những lời chú giải về kinh và luật đó, và được gọi chung là “luận” (abhidharma), kết quả là có ba bộ sách gồm kinh, luật, và luận, tức là “Tam Tạng” (Tripitaka). Dần dần xuất hiện những dị biệt trong những lời giải thích về giáo lý của Đức Phật và giới luật của tự viện; và, điều đó gây ra sự phân rẽ trong cộng đồng Phật giáo, đưa tới sự phân chia thành hai bộ phái chính yếu đó là Thượng Tọa Bộ (Therevada) có tinh thần bảo thủ và Đại Chúng Bộ (mahasamghika) có tinh thần cấp tiến. Mỗi bộ phái có một bộ kinh điển riêng, được coi là chính thức bao gồm những quan điểm của mỗi phái.