- Chương I – YAMAKAVAGGA - (Phẩm Song Đối)
- Chương II – APPAMĀVAGGA - (Phẩm Không Phóng Dật)
- Chương III – CITTAVAGGA - (Phẩm Tâm)
- Chương IV – PUPPHAVAGGA - (Phẩm Hoa)
- Chương V – BĀLAVAGGA - (Phẩm Kẻ Ngu)
- Chương VI - PAṆḌTAVAGGA - (Phẩm Trí Hiền)
- Chương VII – ARAHANTAVAGGA - (Phẩm A-la-hán)
- Chương VIII – SAHASSAVAGGA - (Phẩm Một Ngàn)
- Chương IX – PĀPAVAGGA - (Phẩm Ác)
- Chương X - DAṆḌAVAGGA - (Phẩm Hình Phạt)
- Chương XI – JARĀVAGGA - (Phẩm Già)
- Chương XII – ATTAVAGGA - (Phẩm Tự Ngã)
- Chương XIII – LOKAVAGGA - (Phẩm Thế Gian)
- Chương XIV – BUDDHAVAGGA - (Phẩm Đức Phật)
- Chương XV – SUKHAVAGGA - (Phẩm An Lạc)
- Chương XVI – PIYAVAGGA - (Phẩm Thương, Ái)
- Chương XVII – KODHAVAGGA - (Phẩm Phẫn Nộ)
- Chương XVIII – MALAVAGGA - (Phẩm Uế Trược)
- Chương XIX - DHAMMAṬṬHAVAGGA - (Phẩm Công Bình và Chánh Hạnh)
- Chương XX – MAGGAVAGGA - (Phẩm Con Đường)
- Chương XXI - PAKIṆṆAKAVAGGA - (Phẩm Tạp Lục)
- Chương XXII – NIRAYAVAGGA - (Phẩm Khổ Cảnh)
- Chương XXIII – NĀGAVAGGA - (Phẩm Voi)
- Chương XXIV - TAṆHĀVAGGA - (Phẩm Ái Dục)
- Chương XXV – BHIKKHUVAGGA - (Phẩm Tỳ-khưu)
- Chương XXVI - BRĀHMAṆAVAGGA - (Phẩm Bà-la-môn)
Chương XX
273.
Tối cao: Bát chánh Con Đường!
Tối cao: Tứ đế, tỏ tường khổ ai!
Tối cao: Lìa ái trong ngoài!
Tối cao: Pháp nhãn giữa loài hai chân!
Maggān’aṭṭhaṅgiko seṭṭho
saccānaṃ caturo padā,
virāgo seṭṭho dhammānaṃ
dvipadānañ ca cakkhumā.
274.
Đó là duy nhất Con Đường
Chẳng lối nào khác: “Thanh lương kiến phần”!(1)
Ma vương nhìn ngắm, than thầm
Lo âu, sợ hãi thế nhân đi vào!
Eso va maggo natthañño
dassanassa visuddhiyā,
Etaṃ hi tumhe paṭipajjatha
mārassetaṃ pamohanaṃ.
275.
Lối này nếu quyết đi theo
Ái hà khô cạn, rong bèo tang thương!
Như Lai chỉ dạy Con Đường
Chặt lìa gai chướng, thanh gươm tuệ phần!
Etaṃ hi tumhe paṭipannā
dukkhassantaṃ karissatha,
akkhāto vo mayā maggo
aññāya sallakanthanaṃ.
276.
Ra đi nỗ lực tầm tư
Như Lai là bậc Đạo Sư chỉ bày
Ai “tâm đạo lộ”(1) đủ đầy
Ma vương đâu dễ buộc dây kéo hoài!
Tumhehi kiccaṃ ātappaṃ
akkhātāro tathāgatā,
paṭipannā pamokkhanti
jhāyino mārabandhanā.
277.
Khi tuệ quán chiếu tỏ tường
Các hành vốn dĩ vô thường xưa nay
Thoát ly khổ não, đọa đày
Là Thanh Tịnh Đạo, ai rày chớ quên!
Sabbe saṅkhārā aniccā’ti
yadā paññāya passati,
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā.
278.
Khi tuệ quán chiếu tỏ tường
Các hành vốn dĩ đau thương, khổ nàn
Thoát ly phiền não, chán nhàm
Là Thanh Tịnh Đạo, Niết-bàn tìm đâu?!
Sabbe saṅkhārā dukkhā’ti
yadā paññāya passati,
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā.
279.
Khi tuệ quán chiếu tỏ tường
Các pháp vô ngã, chẳng thường là ta
Thoát ly phiền não, ác tà
Là Thanh Tịnh Đạo, chẳng xa lối về!
Sabbe dhammā anattā’ti
yadā paññāya passati,
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā.
280.
Tuổi trẻ sức lực dồi dào
Lại sống buông thả, lao chao biếng lười!
Tinh thần suy nhược, rã rời
Làm sao có Tuệ mà soi Con Đường?
Uṭṭhānakālamhi anuṭṭhahāno
yuvā balī ālasiyaṃ upeto,
Saṃsannasaṅkappamano kusīto
paññāya maggaṃ alaso na vindati.
281.
Giữ gìn lời nói chánh chơn
Hộ phòng tâm ý trắng trơn sạch làu
Thân quen hành ác, dứt mau!
Ba nghiệp thanh tịnh, đạo mầu chứng tri!
Vācānurakkhī manasā susaṃvuto
kāyena ca nākusalaṃ kayirā,
ete tayo kammapathe visodhaye
ārādhaye maggamisippaveditaṃ.
282.
Tu thiền thì Tuệ phát sanh
Không thiền thì Tuệ mong manh phụt tàn!
Hữu và phi hữu hai đàng(1)
Suốt thông, nỗ lực dễ dàng Tuệ tăng!
Yogā ve jāyatī bhūri
ayogā bhūrisaṅkhayo,
etaṃ dvedhāpathaṃ ñatvā
bhavāya vibhavāya ca,
tath’āttānaṃ niveseyya
yathā bhūri pavaḍḍhati.
283.
Hãy đốn rừng!(1) Chẳng chặt cây!(2)
Là rừng dục vọng ẩn đầy quỷ ma
Rừng to, rừng nhỏ không tha(3)
“Không rừng”(4) mà sống, gọi là sa-môn!
Vanaṃ chindatha mā rukkhaṃ
vanato jāyate bhayaṃ,
chetvā vanañca vanathañca
nibbanā hotha bhikkhavo.
284.
Cho dầu một bụi cỏn con
Nữ nam ái luyến vẫn còn chồi leo
Ái kia cứ buộc, cứ đeo
Bê đòi vú mẹ, bám theo, dính hoài!
Yāvaṃ hi vanatho na chijjati
aṇumattopi narassa nārisu,
paṭibaddhamanova tāva so
vaccho khīrapakova mātari.
285.
Dây tình xin chớ xót thương
Cắt lìa cành cọng, sen vương thu tàn
Nuối chi những buộc, những ràng
Sống đời an tịnh: Con Đàng Tôn Sư!
Ucchinda sinehamattano
kumudaṃ sāradikaṃ va pāṇinā,
santimaggameva brūhaya
nibbānaṃ sugatena desitaṃ.
286.
Mùa mưa ta sống ở đây
Hạ này cũng vậy, thu rày đi đâu?
Người ngu tính chuyện dài lâu
Có nghe sự chết gõ đầu hỏi thăm?
Idha vassaṃ vasissāmi
idha hemantagimhisu,
iti bālo vicinteti
antarāyaṃ na bujjhati.
287.
Những ai say đắm thế gian
Bám vào con cái, vào đàn vật nuôi
Sự chết cũng cuốn theo người
Như làng mê ngủ, lũ trôi chẳng ngờ!
Taṃ puttapasusammattaṃ
byāsattamanasaṃ naraṃ,
suttaṃ gāmaṃ mahoghova
maccu ādāya gacchati.
288.
Lấy ai để bảo trợ ta?
Họ hàng con cái hay cha mẹ mình?
Khi mà sự chết rập rình
Cô đơn chịu nghiệp, vắng thinh chẳng người!
Na santi puttā tāṇāya
na pitā nāpi bandhavā,
antakenādhipannassa
n’atthi nātīsu tāṇatā.
289.
Bậc trí biết như vậy rồi
Tự chăm giới hạnh, chẳng rời oai nghi
Dọn đường thanh tịnh, tuệ tri
Sớm thành chánh đạo vô vi Niết-bàn!
Etaṃ atthavasaṃ ñatvā
paṇḍito sīlasaṃvuto,
nibbānagamanaṃ maggaṃ
khippameva visodhaye.
(1) Dassanassa visuddhiyā: Với cái thấy thanh tịnh (Tri kiến thanh tịnh).
(1) Người thực hành bát chánh đạo.
(1) Hai đàng: Rõ thông định và tuệ; tham và sân; thiền sắc giới và vô sắc giới; hữu (hữu ái), phi hữu (phi hữu ái).
(1) Rừng dục vọng.
(2) Theo chú giải, khi đức Phật dạy “hãy đốn rừng”, có một số vị tỳ-khưu hiểu theo nghĩa đen, nên ngài phải nói tiếp là “ không chặt cây” – vì rừng là rừng dục vọng, không phải là rừng cây thật .
(3) Dục, nhiễm ô lớn nhỏ.
(4) Không còn dục vọng, nhiễm ô.