Chuẩn Mực Đạo Đức Của Phật Giáo

10 Tháng Tám 201100:00(Xem: 35117)

CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA PHẬT GIÁO
Phước Tâm dịch

Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, có khả năng duy trì kỷ cương quốc gia, khiến quốc gia không rối loạn, bảo vệ an toàn cho đời sống nhân dân, xã hội. Lễ giáo mà Trung Quốc xưa kia lập ra, gọi là “tứ duy bát đức”(1), nhân luân “ngũ thường”, đều là kỳ vọng xây dựng nên một quốc gia thái bình thịnh thế “trung thứ nhân nghĩa” và phép tắc trật tự.

Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội, như Phật đà từng hướng dẫn phép trị nước cho các vị vua Tần-bà-sa-la, Ba-tư-nặc, A-xà-thế…, đó là “đạo đức chính trị”; Ngài giảng dạy và truyền thụ những nguyên tắc sống chung trong cùng một gia đình cho Thiện Sinh Tử, Ngọc Da Nữ, chính là “đạo đức gia đình”; Phật đà từng dùng thi kệ khuyên dạy cách tiêu xài đồng tiền, đại để nói rằng: vốn liếng, của cải kiếm được của mình nên chia làm bốn phần, một phần gọi là phí dụng hàng ngày trong gia đình, một phần dự trữ để dự phòng nhỡ có xảy ra bất trắc gì, một phần giúp đỡ bà con quyến thuộc hay những thân hữu, một phần bố thí vun đắp phước đức”, chỉ dẫn người đời sử dụng đồng tiền đúng đắn, chính là “đạo đức của cải”.

Chuẩn mực đạo đức Phật giáo, bao hàm các quy phạm luân lý của thế gian, cả đến tu hành thánh hiền xuất thế gian. Nay lược bàn chuẩn mực đạo đức Phật giáo như sau:

Ngũ giới, Thập thiện

Ngũ giới của Phật giáo là “đạo đức căn bản” làm người, nên phải tuân thủ giữ gìn; Thập thiện là “đạo đức tăng thượng” tịnh hóa nội tâm, thăng hoa nhân cách; nhân quả nghiệp báo là “đạo đức thiện ác” bất biến của thế gian. Hình phạt nghiêm khắc, cố nhiên có thể nhận được tác dụng tích cực nhất thời, nhưng vốn không phải là cách làm rốt ráo. Phật giáo lấy Ngũ giới, Thập thiện xem là chuẩn mực đạo đức nhân bản, khởi xướng “chớ làm các việc xấu, hãy làm những việc tốt”, không xâm phạm thân thể, tiền của, danh dự, tôn nghiêm của người khác, sửa đổi triệt để lòng người, khiến nhân luân cương thường có trật tự, làm cho nếp sống xã hội trở nên lương thiện. Ngũ giới, Thập thiện chính là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.

Giúp đời lợi người

 Chư Phật, Bồ tát tùy loại ứng hóa, lợi ích chúng sinh, tinh thần giúp đời lợi người, chính là chuẩn mực phù hợp với Phật giáo. Ở mọi ngành nghề cũng cần có lòng cứu đời giúp người, giống như thầy/cô giáo cần phải có trách nhiệm “giảng dạy, truyền đạt kiến thức, giải thích các vấn đề nghi hoặc”; nhân viên điều dưỡng cần có đạo đức cứu đời “thị bệnh như thân, cứu nhân nhất mạng”; công nhân cần tích cực làm việc, lấy sản xuất báo ơn quốc gia; thương nhân cần mua bán kinh doanh hợp pháp, không được lấy của cải không phải của mình; quân nhân vì bảo vệ sự an toàn cho nhân dân toàn quốc, phải anh dũng chiến đấu, chống lại sự xâm lược của kẻ thù. Cũng chính là, mỗi một người, có thể xả bỏ sự cố chấp ích kỷ, noi theo tinh thần cổ đức tiên hiền, tức “lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ”, hay tinh thần Bồ tát “nếu còn một người chưa độ, thì bản thân nhất định không được lẩn trốn”, để giúp đời lợi người. Giúp đời lợi người chính là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.

Bát nhã không tuệ

Bồ tát lấy Lục độ(2) làm chiếc thuyền để tự độ và độ người. Điều mà người ta gọi là “Ngũ độ(3) như mù, Bát nhã như mắt sáng”, nghĩa là, chúng ta nếu không có bát nhã trí tuệ nhạy bén, thì cho dù có hành trì (Ngũ độ) bao nhiêu, vẫn là nằm trong vòng phước báo hữu vi không sao tránh khỏi năm biểu hiện của tướng suy(4), không phải là con đường giải thoát niết bàn chân chính. Ví dụ, sự bố thí của Phật giáo là muốn con người học tập buông bỏ tư niệm bủn xỉn, keo kiệt, nhưng nơi đến bố thí, cần phải thanh tịnh, không được vi phạm pháp luật nhà nước, đồng thời người bố thí tâm không kiêu căng, ngạo mạn, người được nhận phải biết cám ơn, là sự bố thí thanh tịnh “năng thí, sở thí và vật thí, vô sở đắc - không mong cầu trong tam thế - quá khứ, hiện tại và tương lai; tâm tối thắng mà chúng ta an trú, cúng dường tất cả mười phương Phật”. Ngoài ra, trì giới không sát sinh, không nói dối, không tà dâm, không trộm cắp, không uống rượu, v.v… cố nhiên là giáo pháp của Phật (Phật pháp), nhưng “giết một cứu một trăm”(5) của Phật đà, “uống rượu cứu người”(6) của phu nhân Mạt-lợi, chuyện “xử lý (tình huống) ở rể”(7) của Hòa thượng Nhất Hưu, “đốt Phật sưởi ấm”(8) của Thiền sư Đan Hà, “dạy tên trộm cách ăn trộm”(9) của Thiền sư Thạch Ốc, v.v…, cũng đều là Phật pháp. Từ bi dịu dàng cũng là Phật pháp, nhưng những tiếng va đập chát chúa của gậy, tiếng quát mắng, tiếng nện gõ của chiếc kìm, khiến cho học tăng tiệt đoạn vọng tưởng (mơ mộng hão huyền), nhận biết bản lai diện mục (diện mạo vốn có), cũng là từ bi. Vì vậy, Phật pháp, có lúc không phải là Phật pháp; không phải là Phật pháp, có lúc lại là Phật pháp. “Bát nhã không tuệ” của Bồ tát, có khả năng làm cho chúng ta bố thí mà vẫn hỷ xả không nghĩ đến sự bố thí, trì giới mà không chấp vào giới tướng, nhẫn nhục xa rời ngã chấp, tinh tiến không sinh kiêu mạn, tu thiền không lưu luyến định cảnh. 

Kinh Kim Cang nói: “Tâm Bồ tát hành bố thí mà không trụ ở pháp, như người có mắt, nhật quang chiếu rọi, thấy muôn vàn sắc màu”. Đã có Bát nhã không tuệ tợ đôi mắt sáng rồi, thì việc ứng xử tự nhiên có thể không còn tâm so sánh “bạn lớn tôi nhỏ, bạn có tôi không, bạn sướng tôi khổ” nữa; Bát nhã không tuệ cũng giống như “từ mẫu” (người mẹ hiền), đối đãi tất cả chúng sinh như những đứa con ruột thịt, đối với những khó khăn gian khổ ấy tự nhiên có sự đồng cảm không lìa xa; Bát nhã cũng giống như “ánh sáng” trong căn phòng tăm tối, có thể chiếu soi màn đêm vô minh đang cư ngụ trong con tim diệu vợi của chúng ta, làm tan biến những đối xử phân biệt, tâm không bị khổ lạc làm nao núng, chuyển phàm tình (tình cảm thế gian) chấp trước thành tình yêu rộng lớn (từ bi) đối với chúng sinh. Bát nhã có khả năng tịnh hóa tư tưởng của chúng ta, nâng cao đạo đức của chúng ta, một khi có Bát nhã không tuệ, thì vui-khổ là đồng thể, sạch-nhơ là nhất như, giàu-nghèo có thể tự tại, có-không có thể bình đẳng, như trong kinh Bát Đại Nhân Giác nói: “Tâm niệm luôn biết đủ, an vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy trí tuệ làm sự nghiệp”. Hàng phục tâm ấy (kỳ tâm) như thế bằng Bát nhã không tuệ, “tất cả muôn loài chúng sinh, đều khiến đi vào Vô dư Niết bàn mà diệt độ”. Bát nhã không tuệ đích thực là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.

Chuẩn mực đạo đức của Phật giáo, lấy quy tắc (quy phạm) Ngũ giới Thập thiện, hoàn thiện nhân cách; lấy việc cứu đời giúp người của thánh hiền, để thăng hoa đạo đức; lấy Bát nhã không tuệ của Bồ tát, để minh tâm kiến tánh. Thêm nữa, trong cuộc sống hiện thực, tam học giới định tuệ, bốn loại chính niệm, tám loại chính đạo, cũng là lương dược có khả năng trị liệu căn bệnh thâm căn cố đế tham lam và sân hận của chúng ta, có khả năng khiến cho thân tâm chúng ta thanh tịnh, đạo đức đạt đến viên mãn. Luận một cách ngắn gọn rằng, phàm xuất phát tình yêu rộng lớn từ lợi ích cộng đồng, đồng thời không đi ngược với lễ pháp (phép tắc, kỷ cương) của thế gian và tinh thần đại thừa nhiêu ích hữu tình của Bồ tát, thì đều phù hợp với chuẩn mực đạo đức của Phật giáo. Ví dụ: Bố thí kết duyên, không nhớ nghĩ điều ác cũ, hổ thẹn mỹ đức, giữ gìn lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), “bạn chưa mời mà tự đến”(10), phương tiện quyền xảo, lợi lạc hữu tình (làm lợi ích cho chúng sinh), phổ đồng cúng dường (cúng dường, bố thí rộng khắp cho tất cả chúng sinh), bốn ơn phải báo đáp(11), hoằng pháp lợi sinh, tôn trọng bao dung, tâm ý dịu dàng ôn hòa, ái ngữ ngợi khen, giữ gìn chính niệm, v.v..., đều là chuẩn mực đạo đức thanh tịnh thiện mỹ của Phật giáo. Ngoài ra, học tập đại từ, đại bi, đại trí, đại nguyện, đại hạnh của Phật và Bồ tát, phát Bồ đề tâm, không quăng bỏ sự cứu độ chúng sinh đang trôi lăn trong ngũ nghịch(12) thập ác(13), đây chính là đạo đức viên mãn, cứu cánh nhất của Phật giáo. n

(Theo Tinh Vân, Phật học giáo khoa thư, Nxb. Từ Thư Thượng Hải, 2008, tr.97-99)

 

Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ Số Vu Lan 185 / Tuyển Tập Vu Lan TVHS

 

 

Các chú thích 5, 6, 7, 8 và 9 là của nguyên tác. Phần chú thích còn lại, là do người dịch thêm vào.

(1) Tứ duy, chỉ: lễ, nghĩa, liêm và sỉ; Bát đức, chỉ: trung, hiếu, nhân, ái, tín, nghĩa, hòa và bình.

(2)  Lục độ gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và bát nhã/trí tuệ.

(3) Ngũ độ gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến và thiền định

(4) Thiên nhân lúc sắp chết, thì hiện ra năm tướng suy. Về thuật ngữ này, trong kinh luận Phật giáo thấy có nhiều thuyết khác nhau. Ở đây, chúng tôi chỉ dựa vào kinh Niết bàn liệt kê năm tướng suy đó như sau: Một là, y thường cấu nhị, tức y phục dơ bẩn; hai là, đầu thượng hoa ủy, tức cái mũ hoa trên đầu khô héo; ba là, thân thể xú uế, tức thân thể có mùi hôi; bốn là dịch hạ hãn xuất, tức nách chảy mồ hôi; năm là, bất lạc bổn tọa, tức chỗ ngồi không vui.

(5) Xem Sát thân tế cổ kinh trong Lục độ tập kinh.

(6) Xem Chân chính đích giới luật trong “Tu tiễn sinh mệnh đích hoang vu”, Thời báo Văn hóa xuất bản, tr.140,

(7) Xem Tinh Vân Thiền thoại (tập 2), Phật Quang Văn Hóa xuất bản, tr.84.

(8) Xem Cảnh đức truyền đăng lục, quyển 14 in trong Thiền tạng thuộc Phật Quang đại tạng kinh, tr.733.

(9) Xem Tinh Vân Thiền thoại (tập 1), Phật Quang Văn Hóa xuất bản, tr.160.

(10)  Nguyên văn là Bất thỉnh chi hữu - 不請之友, ý ví như chư Bồ tát, chúng sinh khi gặp nạn chưa kịp khẩn cầu, nhưng các Ngài vì lòng thương yêu rộng lớn mà đến hóa độ, trao truyền thiện pháp.

(11) Chúng ta sinh tồn ở thế gian này, những ơn đức mà chúng ta tiếp nhận, chủ yếu có bốn loại: ơn cha mẹ, ơn chúng sinh, ơn quốc gia, và ơn Tam bảo, hợp lại gọi chung là Tứ ân tổng báo, tức bốn ơn đó cần báo đáp.

(12) Ngũ nghịch là tội nặng nhất trong tất cả ác nghiệp của Phật giáo. Nghịch, nghĩa là trái với luân thường đạo lý, tội cực lớn. Năm tội ấy được Phật liệt kê như sau: Giết cha, giết mẹ, giết bậc A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, phá hoại hòa hợp Tăng. Người mắc năm tội này, sẽ rơi vào Vô gián địa ngục (cũng gọi là Địa ngục A-tỳ).

(13) Thập ác gồm: (1) sát sinh, (2) thâu đạo (trộm cắp), (3) tà dâm, (4) vọng ngữ, (5) lưỡng thiệt, tức nói lời ly gián, lời không có tính xây dựng, (6) ác khẩu, tức ác ngữ, ác mạ, chửi bới, (7) ỷ ngữ, tức lời tạp uế, (8) tham dục, (9) sân nhuế (sân hận/căm ghét), (10) tà kiến, tức cái nhìn lệch lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Ba 2016(Xem: 6606)
Trong bảy chúng, Tỳ kheo là bậc nhất. Trong ba tụ giới, Cụ Túc là đứng đầu. Người học Phật lấy giới luật làm nền tảng căn bản, là thềm thang đầu tiên để hướng chí đến quả vị giải thoát. Nếu không nghiêm trì Tịnh giới cho chuyên cẩn, thì cũng giống như đứng ở ngoài cửa mà chưa bước vào trong nhà Phật pháp. Giới luật không chỉ ngăn ngừa các điều ác chưa phát sanh, mà còn làm tăng trưởng thiện căn nơi hành giả. Vì thế, Tuyển Phật Trường là nơi chọn ra được những vị Sa di có bình cam lồ thật sạch để ngày mai đây tiếp nhận dòng nước giới pháp mà giới sư truyền trao.
08 Tháng Giêng 2016(Xem: 7225)
Từng nghe sanh tử là việc lớn, vô thường lại chóng mau, thật không đợi chờ người. Nếu không quyết tâm ngay đời này giải thoát thì làm sao thắng nỏi con quỷ vô thường giết người không ngừng trong mỗi niệm và giải quyết cho xong việc lớn sanh tử?
30 Tháng Bảy 2015(Xem: 11466)
Chúng ta đang thảo luận về tâm giác ngộ và một vị Bồ tát có nghĩa là gì, và chúng ta đã thấy rằng chỗ nào để thọ giới Bồ tát có trong sự tiến bộ của việc phát triển tâm giác ngộ, và những giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ.
29 Tháng Bảy 2015(Xem: 6507)
Giới tử phải thọ luật nghi Cận trú từ người khác chứ không thể tự thọ. Nếu sau này gặp phải các duyên khiến cho giới tử phạm phải việc ác (phạm giới duyên) thì nhờ sinh tâm hổ thẹn đối với thầy truyền giới mà có thể sẽ không phạm các giới đã thọ. Nếu không làm đúng theo các điều trên đây thì người thọ giới có thể có được hành động tốt (diệu hạnh) nhưng không thể đắc giới. Nếu làm đúng theo các điều trên thì luật nghi Cận trú sẽ có tác dụng rất lợi ích ngay cả đối với những người phạm phải ác giới thuộc về một ngày một đêm (như giết hại, trộm cắp, v.v.)[
20 Tháng Bảy 2015(Xem: 6643)
“Loại luật nghi này có tên là Cận trú (upavāsa) bởi vì, nhờ biểu hiện được lối sống phù hợp với lối sống của các A-la-hán (tadanuśikṣaṇāt), cho nên luật nghi này được đặt gần (upa) với A-la-hán. Có ý kiến khác cho rằng sở dĩ có tên Cận trú là vì nằm gần với loại luật nghi thọ trì suốt đời...... .
04 Tháng Bảy 2015(Xem: 6505)
Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh: “Nhược nhất thiết chúng sinh sơ nhập tam bảo hải dĩ tín vi bản, trụ tại phật gia dĩ giới vi bản”[1]: Hết thảy chúng sanh khi mới bắt đầu vào biển Tam bảo lấy tín làm gốc; khi sống trong ngôi nhà của Phật, thì lấy giới làm gốc. Học giới khởi sinh từ nơi tư tâm sở hay từ nơi ước muốn và thệ nguyện của một người tha thiết khất cầu pháp học giới để sống đời thanh tịnh....
02 Tháng Bảy 2015(Xem: 10917)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại, mỗi nhóm, liên hệ đến việc rèn luyện của chúng ta trong sáu ba la mật và với việc làm lợi ích cho người khác của chúng ta.
02 Tháng Năm 2015(Xem: 11375)
Giới là một hình thức vi tế không thấy trong sự tương tục tinh thần, là thứ hình thành thái độ. Một cách đặc biệt, nó là một sự kềm chế khỏi "một hành vi lỗi lầm", hoặc là một thứ tiêu cực một cách tự nhiên hay một việc mà Đức Phật ngăn cấm cho những cá nhân đặc thù đang tu tập để đạt đến những mục tiêu đặc biệt.