KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương III:
CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2. ĐÀM KHINH GIỚI TƯỚNG
(tuyên thuyết các tướng trạng
của giới khinh)
B.2.1. TỔNG TIÊU KHINH GIỚI
(Nêu tổng quát các giới khinh)
Kinh văn:
1. Phiên âm:
Câu “Phật cáo
chư Bồ Tát ngôn: - Dĩ thuyết thập Ba La Đề Mộc Xoa, cánh tứ thập bát khinh kim
đương thuyết”.
2. Dịch nghĩa:
Đức Phật bảo các
vị Bồ Tát rằng: “Trước đã giảng mười giới trọng rồi, nay ta sẽ nói về bốn mươi
tám giới khinh”.
Lời giảng:
Kinh Phạm
Võng Bồ Tát Giới này do Đức Phật chế lập và được chia thành hai phần lớn: mười
giới trọng và bốn mươi tám giới khinh.
Giảng đến đây,
Đức Phật lại bảo các vị Bồ Tát rằng: “Từ trước đến nay, ta đã vì quý vị giảng
nói mười pháp Ba La Đề Mộc Xoa rồi. Giờ đây, ta sẽ tiếp tục vì quý vị giảng nói
bốn mươi tám giới khinh”.
Có người hỏi:
Sự quan trọng
của mười giới trọng là ngăn cấm một cách triệt để nghiêm mật, đó là điều dĩ
nhiên, không có gì phải nói. Còn nói bốn mươi tám giới khinh thì không quan
trọng gì lắm, nhưng vì sao Đức Phật lại phải chế lập?
Nên biết bốn
mươi tám giới khinh sắp giảng, vừa mới xem qua thì dường như không quan hệ gì
lắm. Nhưng Đức Phật vì muốn đề phòng sự chê bai bàn luận của thế gian, có thể xảy
ra, nên phải chế lập. Vì có những việc, về phía người thế tục làm thì không ai
chỉ trích, phê bình gì. Nhưng nếu một vị Bồ Tát làm thì mọi người sẽ chê bai,
phê bình rằng: Bồ Tát sao lại làm như thế? Như thế là trái với tinh thần của Bồ
Tát v.v... Vì muốn ngăn chặn sự chê bai, bình luận ấy nên Đức Phật phải chế lập
bốn mươi tám giới khinh này.
Hơn nữa, có
những việc mới xem qua rất là nhỏ nhặt, nhưng nếu thường làm, sẽ từ việc nhỏ mà
thành việc to, từ giới khinh mà thành giới trọng. Dần dần đi đến chỗ vi phạm vi
phạm mười giới trọng. Vì thế, để ngăn chặn trước những nhân vi tế dần dà thành
đại sự, vì muốn tạo những phương tiện phòng xa để hỗ trợ sự tuân giữ giới trọng
được nghiêm cẩn, nên Đức Phật phải chế lập những điều giới khinh này.
Có người cho
rằng: Bồ Tát không câu chấp tiểu tiết và cái gì cũng đều có thể dễ dãi chấp thuận,
cho phép hành động. Quan niệm ấy hoàn toàn sai lầm. Vì nói đúng theo đạo lý, Bồ
Tát nhập thế độ sanh, thân tâm cũng như mọi hành vi đều phải theo đúng quy củ,
hầu nêu gương mẫu cho chúng sanh. Tuyệt đối không được tùy tiện tự ý hành động.
Cả đến niệm tưởng rất vi tế trong nội tâm cũng phải diệt trừ cho sạch hết. Vì
thế nên Đức Phật đặc biệt vì Bồ Tát chế lập bốn mươi tám giới khinh này.
Bồ Tát nếu giữ
gìn giới khinh này được hoàn toàn thanh tịnh, chẳng những làm rạng rỡ cho đạo
pháp xuất thế của Bồ Tát, mà còn giúp sự tăng trưởng của Tam Tụ Tịnh Giới của
Bồ Tát, cho nên đối với bốn mươi tám giới này, Bồ Tát tuyệt đối không được xem
thường.
Sở dĩ gọi là
khinh giới, trọng giới, giải thích theo danh từ:
- Khinh là
nhẹ.
- Trọng là
nặng.
Trong kinh Thiện
Giới và Địa Trì đều gọi là giới khinh là
Đột Kiết La là
tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Ác Tác Ý, việc làm không hợp với đạo lý gọi là Ác
Tác. Theo luật Tứ Phần thì Đột Kiết La chỉ về hai nghiệp thân và khẩu. Việc làm
của thân nghiệp không hợp với đạo lý thì gọi là Ác Tác. Việc làm của khẩu
nghiệp không hợp đạo lý thì gọi là Ác Thuyết.
Trong kinh Thiện
Sanh lại gọi Đột Kiết La là tội Thất Ý, tức là tội ác do trái với bổn tâm, quên
mất chánh niệm mà làm ra thành tội.
Tội khinh cấu có
thể phân làm 3 loại:
1. Tùng sanh
khinh cấu: tội này từ nơi giới trọng mà phát sanh nên gọi là “tùng sanh”, nghĩa
là khi thực hành mười giới trọng chưa thành tựu viên mãn, lại phát sanh tội
phương tiện trước khi làm, nên gọi là “tùng sanh” hay khinh cấu.
2. Độc đầu khinh
cấu: tội này không phải từ các giới trọng phát sanh, chỉ do đơn độc một mình nó
sanh khởi, nên gọi là “độc đầu khinh cấu”.
3. Căn bổn khinh
cấu: tức bốn mươi tám giới khinh trong kinh này nói và chia làm ba loại khác
nhau:
- Tùng sanh
khinh cấu: tức là trước khi phạn căn bổn khinh cấu, đã sanh khởi tất cả các
phương tiện nên gọi là “tùng sanh khinh cấu”.
- Cố ý phạm: do
phiền não nội tâm phát động mà phạm tội, gọi là “nhiễm ô phạm”, thuộc về căn
bổn khinh cấu. Phạm tội trong trường hợp này phải sám hối theo tội Đột Kiết La.
- Lầm phạm: Nếu
do tâm giải đãi, biếng lười hay vô ký mà sanh khởi thì gọi là “lầm phạm”, không
phải “nhiễm ô”. Cần phải sám hối theo cách thức: Đột-kiết-la trách tâm (Sám hối
tội Đột Kiết La nghĩa là hình thức đối trước một vị Bồ Tát đã xuất gia để xin
sám hối những tội lỗi của mình đã gây tạo. Còn sám hối tội Đột Kiết La trách
tâm là tự mình sám hối bằng cách tự trách tâm của mình, khỏi phải đối trước
người khác xin sám hối).
Giới
khinh:
- Kinh Phạm Võng
có bốn mươi tám giới.
- Kinh Du Già,
kinh Trì Địa chỉ có bốn mươi ba giới. Kinh Bồ Tát Thiện Giới dù có phần tăng
giảm nhưng đại thể vẫn đồng với Du Già.
- Riêng kinh Ưu
Bà Tắc chỉ có hai mươi tám giới v.v...
Các bộ Bồ Tát
Giới Bổn, số lượng các giới khinh nhiều, ít không nhất định. 48 giới khinh
trong kinh Phạm Võng này, có giới thì các bổn đều đủ; có giới thì các bổn khác
lại không có. Có những giới văn tự bất đồng, nhưng thể loại thì giống nhau. Có
giới ở bổn này mang tính chất khai triển, nhưng trong bổn khác lại hợp nhất. Có
giới trong bổn này nói sơ lược, nhưng trong bổn khác lại rất chi tiết v.v... Sự
bất đồng này do ứng cơ mà có sự khác biệt như vậy, không nên căn cứ theo một
bên mà bình luận.
Thật sự mà nói,
giới khinh nhiều đến vô lượng vô biên, không thể tính kể được. Các kinh đề cập
đến nhiều hay ít, chẳng qua là chỉ khái lược một khía cạnh nào đó mà thôi.
Kinh Anh Lạc Bổn
Nghiệp nói: “Đúng sự thật mà nói thì tám muôn bốn ngàn oai nghi đều gọi là giới
khinh, chứ không nêu riêng từng điều hoặc từng giới tướng”.
Điều cần phải
biết là bốn mươi tám giới khinh trong kinh này, kinh Pháp Tạng Giới Bổn Sớ,
quyển bốn, thuyết minh như sau: “Có giới cố nhiên thuộc về giới khinh, có giới
nội dung bao gồm cả hai tính chất khinh lẫn trọng. Tính ra có hơn sáu điều”.
Việc này phần sau sẽ giảng giải rõ ràng.