KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.25. BẤT THIỆN HÒA CHÚNG GIỚI
(giới trị chúng
vụng về)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “Nhược Phật tử, Phật diệt độ hậu...” cho đến câu “..phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử sau khi Phật nhập diệt làm Pháp Sư, giảng sư, luật sư, thiền sư, thủ tọa trị sự, tri khách, phải có lòng từ bi, khéo hòa giải trong chúng, khéo giữ gìn tài vật của Tam Bảo, chớ dùng vô độ như của riêng mình, lại thêm khuấy chúng gây gổ, hiềm khích, kình chống, hoang phí của Tam Bảo. Nếu làm các việc trên, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Lời giảng
Giới trước
thuyết giảng về lỗi trái với chánh pháp Đại Thừa của Như Lai.
Giới tiếp theo
này giảng về việc xâm phạm tài vật của Tam Bảo, gây sự bất ổn trong tăng chúng,
làm tổn công đức của chính mình.
Làm người lãnh
đạo đại chúng trong tăng đoàn, điều tối yếu là phải thống lý đại chúng theo
cách nào để đại chúng được hòa hợp, không sanh việc tranh cãi. Nếu không khéo
điều hòa đại chúng, lại khiến cho đại chúng phát sanh việc kình chống, gây gổ,
thì khả năng của người thống lý đại chúng không thể gọi là “nhứt thiết vô
ngại”.
Một vị phát tâm
xuất gia tu học Phật pháp, đối với mọi người cùng nhau chung sống một chỗ, luôn
phải lấy sự hòa hợp làm căn bản. Tuyệt đối không nên vừa động đến đã phát sanh
ra việc tranh chấp không cần thiết. Giữa người với người tương xử với nhau
không thể hoàn toàn tránh khỏi những mối bất hòa nhỏ nhặt. Điều cốt yếu là phải
nhường nhịn nhau thì không bao giờ xảy ra điều gì lớn lao mà không giải quyết
được.
Trong luật Tứ
Phần, quyển bốn mươi ba nói:
“Một độ nọ, quý
tỳ kheo sanh ra bất hòa với nhau, Đức Phật nhóm chúng khuyên rằng: - Tỳ kheo!
Các ông là người xuất gia hành đạo, cùng chung một thầy, đồng học một giáo lý,
đồng một tư tưởng, như nước với sữa hòa chung. Các ông phải an vui chung sống
với nhau trong Phật pháp, sẽ được nhiều lợi ích. Thôi đi! Thôi đi! Quý tỳ kheo!
Các ông đừng gây gổ, tranh chấp với nhau nữa. Đừng mạ nhục, phỉ báng tìm chỗ
hay dở của nhau nữa. Phải hòa hợp vui sống với nhau, phải an vui thì mới được
sự lợi ích trong Phật pháp”.
Khi Phật còn tại
thế, Ngài khuyên nhủ, hòa giải cho đệ tử như vậy. Còn người xuất gia thời nay,
cùng chung sống với nhau, vừa hơi có ý bất đồng liền nói: “Tôi vĩnh viễn không
hòa hợp với thầy, thầy là thầy, tôi là tôi. Phần ai nấy giữ, không quan hệ gì
với nhau. Tôi với thầy nếu muốn cùng nhau vui sống chỉ chờ đến kiếp lai
sinh...” Vì thế cho nên thời này gọi là thời Mạt Pháp!
Một đoàn thể, sở
dĩ phát sanh việc gây gổ, kình chống, không ngoài tư tưởng bất đồng, ý kiến
chia rẽ và sự phân chia tài vật không đồng đều nhau.
- Vấn đề tư
tưởng bất đồng, Đức Phật có dạy: “Kiến hòa đồng giải”.
- Về sự phân
chia tài vật, Đức Phật dạy: “Lợi hòa đồng quân”.
Thế nên người
lãnh đạo trong tăng đoàn, ngoài việc khéo léo điều hòa nhân sự, không nên để
cho trong đại chúng phát sinh việc tranh chấp, kình chống vô lý. Còn đối với
tài vật của Tam Bảo, phải hết sức thận trọng, giữ gìn không được lãng phí, tiêu
xài vô độ. Hơn nữa, một vị Bồ Tát đối với đại chúng cần phải có tâm từ bi nhiếp
hộ, vỗ về. Đối với tài vật của Tam Bảo phải khéo léo giữ gìn. Được như thế mới
có thể làm cho chánh pháp của Như Lai không đoạn tuyệt.
Vì vậy, đối với
vai trò người lãnh đạo, điều này trọng yếu vô cùng. Tuy nhiên, nói thì dễ,
nhưng thực hành cho đúng, không phải là vấn đề dễ dàng. Nên tục ngữ có câu: “Bá
nhân, bá tánh”, thật là câu nói xác thực và đầy kinh nghiệm. Người lãnh đạo đại
chúng, dù khéo léo đối xử với đại chúng không thiên lệch cách nào, và đại chúng
tuy biết vị thầy rất từ bi, nhưng sự tranh chấp, kình chống nhau vẫn tiếp tục
phát sanh một cách tự nhiên, đôi khi lại rất bất ngờ, khiến cho vị thầy không
cách nào điều hòa trong chúng, lại còn cảm thấy khổ não vô tận. Sự việc này
thường xảy ra trong tăng đoàn rất nhiều.
Người lãnh trách
nhiệm điều khiển Tăng đoàn không phải là việc dễ dàng, huống gì một vị Bồ Tát
vì chúng sanh, thường phải tiếp xúc với quảng đại quần chúng, muốn khéo léo
điều hòa trong đại chúng là một việc càng khó hơn nhiều. Vì chúng sanh ở thế
giới Ta Bà này, đại đa số rất khó điều phục. Nếu không khéo điều phục họ thì
rất khó tiếp tục thực hiện công việc độ sanh của mình một cách liên tục, không
gián đoạn.
Khi Đức Phật còn
tại thế, Ngài dạy chư Bồ Tát rằng: “Các ông cần phải năng hành nan hạnh”, nghĩa
là phải thường làm được những việc khó làm.
Đức Phật dạy lời
trên là muốn chư Bồ Tát phải khéo léo điều ngự đại chúng một cách vô ngại. Nếu
như không biết mình, biết người, thậm chí làm cho đại chúng sanh ra lộn xộn,
kình chống, tranh chấp thì trái với tư cách mô phạm của vị đạo thủ, lại còn
phát sanh ác nghiệp, thật là một tội rất lớn! Đức Phật thấu suốt vấn đề ấy, cho
nên mới chế lập giới điều này.
Đức Phật dạy đại
chúng rằng: Nếu làm Phật tử đã thọ Bồ Tát giới, lúc Ngài còn tại thế, tất cả
các đệ tử bản thân thừa hành pháp hóa. Dù có đi các nơi giáo hóa chúng sanh,
nhưng đều tôn Đức Phật làm thầy, nên không bao giờ tự dám buông lung để sanh ra
việc lộn xộn, kình chống nhau.
Nhưng sau khi
Đức Phật nhập diệt, vì thời gian xa cách Phật đã quá lâu, dù hàng Phật tử tất
cả đều đồng y theo lời Phật dạy, nhưng trên thực tế, mỗi người đều đã riêng lập
môn đình và tự làm chủ. Nhưng tại sao phải làm chủ? Vì muốn hộ trì chánh pháp
của Như Lai để lại, nên cần phải duy trì được sự hòa hợp đại chúng. Trong khi
đại chúng nếu không có người đứng ra làm chủ sự thì lâu ngày, chánh pháp có thể
bị quên mất. Vì vậy, trong số các đệ tử của Đức Phật, đặc biệt có các vị được
đề cử đảm nhiệm các chức vị đạo thủ khác nhau, để duy trì mọi lề lối sinh hoạt
trong Tăng đoàn. Các chức vụ ấy bao gồm sáu nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1. Hành chủ
thuyết pháp (vị Pháp Sư): Vị truyền dương thánh giáo, hoằng truyền đạo pháp.
Giáo pháp của đức Bổn Sư Thích Ca tuyên thuyết trong thời đại Ngài còn tại thế,
muốn được lưu truyền cửu trụ ở thế gian, tránh tình trạng người đi, pháp cũng
không còn, hoàn toàn nương nhờ vào hạng đệ tử của Phật. Đặc biệt là hàng Đại
Thừa Bồ Tát. Vì thế người làm chủ phải khéo léo, phải có tâm từ bi nhiếp hộ đại
chúng, truyền dạy giới pháp không thiếu sót.
Nên biết một vị
Pháp Sư hoằng truyền đạo pháp rất quan trọng và cũng không phải là một việc dễ
dàng. Vì cần phải khéo lép hiểu biết chỗ thông tắc của Tam Tạng thánh giáo một
cách vô ngại và tự tại, mới có thể vì đại chúng khai thị một cách hoạt bát và
sống động.
Kinh Hoa Nghiêm
dạy: “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy huệ mạc năng liễu” (Phật pháp mà không có
người giảng giải, dù có trí huệ cũng không dễ gì hiểu rõ). Vì thế, muốn cho
Pháp Luân của Như Lai thường chuyển thì không thể nào thiếu vị chủ thuyết pháp
được vậy.
2. Hành chủ hành
pháp (Luật Sư): Những vị thông đạt rành rẽ giới luật, đúng theo quy luật mà
phụng hành, nên có thể gọi đó là Luật Sư.
Vị hành chủ
thuyết pháp không phải là không thực hành giới luật, nhưng chẳng qua nhiệm vụ
chính yếu của chư vị là thuyết pháp. Còn vị hành chủ hành pháp lấy việc nghiêm
trì tịnh giới làm chủ yếu. Không phải vị này không biết giáo lý, nhưng vị này
đặc biệt chú trọng về việc thông đạt những chỗ khai, giá, trì, phạm của giới
luật, xem đây là phần đặc sắc duy nhất của mình.
Lại có chỗ
giải thích rằng: hành chủ thuyết pháp và hành chủ hành pháp là một người. Vì
thuyết pháp là giáo hóa bằng ngôn ngữ, hành luật là thể hiện sự giáo hóa bằng
thực hành, tức là thiên trọng về sự giáo hóa thân hạnh (hạnh kiểm của thân
nghiệp). Đây là sự khác nhau giữa hai chức vụ. Vì thế, trong bộ Pháp Tạng Giới
Bổn, không có chức vụ chủ hành pháp thứ hai này.
3. Hành chủ tăng
phường (chủ tọa, trị sự): Vị lãnh trách nhiệm cao nhất trong ngôi Già Lam,
thường gọi là vị trụ trì. Làm một vị trụ trì trong ngôi đại già lam, điều trọng
yếu nhất là phải được lòng người. Nói trong phạm vi chúng xuất gia, là phải
được lòng chúng, tức là chiếm được cảm tình của chúng.
Nên cổ
Phật từng dạy: “Nhân tình vi thế chi phước điền, diệc thị đạo lý chi sở do
sanh” (tình cảm của người là phước điền trong thế gian, cũng là chỗ phát sanh
ra đạo lý).
Làm chủ trong
ngôi già lam, được đại chúng suy tôn là bậc thiện tri thức, có trách nhiệm thay
thế Phật, Tổ gánh vác Phật pháp, lẽ tất nhiên chỗ hành trì đạo pháp của ngài
phải siêu thắng hơn người. Tuy nhiên, vấn đề thọ hưởng phải tương đương với đại
chúng. Nói một cách khác, phải cùng với đại chúng đồng cam cộng khổ (cam là
ngọt, khổ là đắng). Ý nói vị trụ trì phải cùng với đại chúng sống đồng như nhau
về mọi sự hưởng thụ:
- Về mặt ăn uống
thì ngon ngọt, cay đắng đồng thọ hưởng.
- Về phương diện
việc làm thì vui khổ có nhau.
Không phải một
đàng thì thong thả suốt ngày, một đàng thì cực nhọc quanh năm. Không nên sống
một nếp sống trên cao, tạo sự cách biệt với đại chúng. Có như vậy, đại chúng
mới phục tùng.
Làm một vị chủ
trong ngôi già lam, điều cao quý nhất là ở nơi biết giữ gìn hạnh kiểm. Bản thân
mình phải thanh tịnh, khiết bạch, không có một tỳ vết chi để người khác có thể
chỉ trích. Đến như việc ứng cơ tiếp vật thì lại càng phải giữ gìn trong sự đối
đãi với hàng nạp tử (1) để có được sự tín nhiệm trọn vẹn trong bốn phương. Nếu
không như thế thì không thể làm cho người tín phục và cũng khó làm cho đại chúng
chấp nhận sự lãnh đạo của mình.
4. Hành chủ giáo
hóa (giảng sư): Vị giáo hóa người trong đạo gồm cả hàng Phật tử tại gia, khiến
cho họ tu các phước nghiệp. Như trong trường hợp kiến trúc tu viện, xây dựng
tháp Phật, và những việc thuộc về nhu yếu kinh tế của đại chúng. Những việc này
nhờ tiền quyên góp do Phật tử hiến cúng; nhưng vì Phật tử tại gia không biết
được nhu cầu thiết yếu của tăng chúng nên phải cần đến sự khuyến hóa của vị chủ
giáo hóa .
Từ xưa đến
nay, Phật giáo lưu hành trên thế gian có lúc thạnh, lúc suy bất thường. Đó là
do những nhân duyên khác nhau tạo ra. Nhưng thực tế có thể là do việc giáo hóa
mà nên. Vì thế, đối với Phật giáo. thời kỳ nào cũng không thể thiếu vị giáo hóa
được.
5. Hành chủ tọa
thiền (thiền sư): Người dạy cho Phật tử pháp môn Thiền Định. Vị này rất thông
đạt về Thiền pháp, truyền dạy phương pháp tu tập Chỉ - Quán. Việc tọa thiền, tu
định không phải dễ dàng hay tùy ý thực hành mà cần phải có người truyền trao và
chỉ dạy mới không bị lạc vào ma đạo mà không tự hay biết.
Vì thế,
nếu có vị hành giả biết rõ tất cả phương pháp tọa thiền, khi có người nào muốn
học thì phải theo vị thiền sư này học tập. Vị thiền sư phải đem tất cả kinh
nghiệm tọa thiền của mình chỉ dạy, không nên giữ lại mảy may, hầu giúp cho bạn
tu Thiền Định đúng như pháp, đồng thời thu nhiếp được sự thấy nghe của mình,
không còn buông lung theo vọng tưởng, nghe thấy những cảnh giới loạn động bên
ngoài. Nhờ đó, bạn có thể dứt trừ được những thị dục tà tịch, bỏ hẳn được quan
niệm lợi dưỡng ngoại lai. Như thế mới là chính đáng, đúng như pháp tu
Thiền.
6. Hành
chủ hành lai (tri khách): Vị có trách nhiệm tiếp đãi chúng Tăng tứ phương qua
lại, tức là các vị tri khách hoặc tri tân trong các tòng lâm.
Các tăng nhân vì
muốn tham phỏng hành đạo, nên thường hành cước các nơi. Khi có những tăng nhân
từ xa đến tự viện, bổn phận của vị Tri Khách Sư là phải tiếp đãi ân cần, tử tế,
phải đưa rước, sắp đặt chỗ ngơi nghỉ, cung cấp thức ăn uống chu đáo, không để
cho chư vị phải khổ cực vì việc sinh nhai trong thời gian tham phỏng. Luôn luôn
tạo cho chư vị cảm tưởng “tân chí như quy” (lúc mới đến cũng như lúc ra
đi).
Vì thế làm
một vị Chủ Hành Lai, điều quan trọng là phải từ bi tiếp chúng, tuyệt đối không
được tác oai, tác phúc, luôn tìm kiếm lỗi lầm của chư vị hành cước tăng nhân,
cũng không được ỷ oai quyền quở trách, đánh mắng, hoặc gây ra những sự phiền
toái cho chư vị. Đây là những điều mà một vị Chủ Hành Lai cần phải thi
hành.
Trên đây
là sáu chức vụ và những chức vụ này đều có quyền thống ngự nên gọi là Chủ. Bất
cứ người nào làm chủ phần hành nào đều phải lấy nhân nghĩa làm gốc và phải
triệt để tôn trọng. Nên kinh văn dạy người làm chủ phải có tâm từ bi đối đãi
với đại chúng.
Khi trong
đại chúng xảy ra tranh chấp, người làm chủ cần phải khéo léo vì đại chúng mà
hóa giải, để cho mọi gây gổ, kình chống được chấm dứt. Tức là trong giới thông
thường gọi là pháp diệt trừ sự tranh cãi. Sự tranh cãi đều có theo từng giờ,
từng phút phát sanh. Nếu không kịp thời theo đúng như pháp diệt trừ nó thì đại
chúng tất nhiên sẽ khó cùng chung sống với nhau.
Pháp lữ đồng
học, nhất là hàng Bồ Tát đồng hạnh nguyện cùng sống chung một chỗ, cần phải
cung kính, hòa hợp với nhau như nước với sữa, không được gây gổ, tranh chấp
nhau. Dầu không cùng sống chung một nơi, cũng không được gây gổ, kình chống,
mắng nhiếc, hủy báng, hoặc tìm chỗ sở trường, sở đoản của nhau, để làm cho nội
bộ xào xáo, sanh nhiều điều phải quấy, khiến cho thế nhân chê bai, chán ghét và
dị nghị. Họ cho rằng những kẻ xuất gia học Phật toàn là những người hay gây gổ,
tranh chấp nhau như vậy.
Do đó, không lạ
gì trên thế gian có quá nhiều vấn đề phức tạp, rắc rối xảy ra hàng hàng, lớp
lớp vô cùng vô tận. Việc gây gổ chẳng những khiến bản thân mình tự đánh mất oai
nghi mà còn kết nhiều thù oán. Khi có việc tranh chấp, kình chống xảy ra, người
lãnh đạo chúng phải lập tức tìm biện pháp chấm dứt sự tranh chấp, đừng để sự
việc kéo dài mãi ra.
Khi hai bên
tranh chấp, gây gổ nhau, nếu bên nào không chịu hòa giải, tức là không muốn cho
người kia tăng trưởng sự lợi ích trong Phật pháp, cũng không có ý nguyện hộ trì
chánh pháp của Như Lai. Tội này to lớn vô cùng, cho nên người lãnh đạo chúng
Tăng không được thiếu sự cẩn trọng!
Việc gây gổ,
tranh chấp một khi đã xảy ra, việc duy nhất là tìm biện pháp ngăn chặn. Nếu
dùng tranh chấp để giải quyết tranh chấp thì vấn đề không bao giờ giải quyết
được. Cho nên trong kinh dạy:
Đem việc tranh
cãi để dứt tranh cãi,
Thì việc tranh
cãi không bao giờ hết được.
Chỉ có biện pháp
đừng tranh cãi
Việc tranh cãi
kia tự nhiên chấm dứt.
Kinh Trung A
Hàm, quyển mười bảy cũng có nói:
Nếu đem tranh
cãi dứt tranh cãi,
Rốt ráo không
thể chấm dứt được.
Chỉ có an nhẫn
tranh cãi mới dứt.
Và phương diện
này mới đáng tôn quý.
Nhẫn là phương
pháp tối thắng và cũng là diệu dược A Già Đà chấm dứt sự tranh cãi. Còn ở trong
tăng đoàn, khi có sự tranh cãi phát sanh, chính bản thân đôi bên phải hết sức
nhường nhịn nhau. Sau đó, thỉnh một vị Thượng Tọa thông hiểu giới luật trong
Tăng đoàn đứng ra dàn xếp, bình luận, xử đoán mọi việc thì mới hòa giải được sự
tranh chấp của đôi bên. Trong giới luật nói: Một vị đứng ra dàn xếp, giải quyết
được việc tranh chấp không phải dễ dàng, mà phải hội đủ 10 điều kiện sau đây,
mới xứng đáng với cương vị ấy:
1. Bản thân của
vị này phải giữ gìn giới hạnh hết sức thanh tịnh.
2. Phải thuộc đa
văn trong Phật pháp.
3. Phải đọc tụng
thông thuộc hai bộ luật tỳ kheo và tỳ kheo ni.
4. Phải có khả
năng hiểu thấu đáo, quảng bác ý nghĩa của giáo pháp và hai bộ Tỳ Ni (Đại
Luật).
5. Phải có khả
năng diễn nói ngôn ngữ hết sức khéo léo. Mỗi lời biện luận phải hết sức mạch
lạc, rõ ràng, khiến người nghe thông hiểu phân minh. Nếu đôi bên lúc tranh cãi
nhau, đưa ra bất kỳ vấn đề gì, vị hòa giải đều có thể vì họ giải đáp thông
suốt, không mơ hồ, khiến cho đôi bên đều cảm thấy hoan hỷ, vừa lòng.
6. Khi
xảy ra bất cứ việc tranh chấp nào, đều có khả năng khéo léo diệt trừ ngay,
không để cho sự việc kéo dài lâu mà trở thành việc ác xấu.
7. Không
có tâm nhiễm ái (thiên vị).
8. Không
có tâm sân hận.
9. Không
sợ bất cứ người nào thuộc đôi bên.
10. Không có
tánh ngu si, vô trí.
Vị nào
thật có đầy đủ 10 điều kiện trên, đại chúng phải đề cử vị ấy đảm nhiệm trọng
trách phán xét, hòa giải, dàn xếp mọi tranh cãi. Vị này sẽ xử đoán rất công
bình, không thiên lệch, tư vị một bên nào.
Người làm chủ
chẳng những phải có tâm từ bi, khéo hòa giải việc kình chống, tranh cãi để đại
chúng được an vui tu niệm, đồng thời còn phải lấy tâm từ bi giữ gìn tài vật của
Tam Bảo, không được sử dụng vô độ lượng như của riêng mình. Vì thế, ở mỗi Thủ
Khố nơi các tòng lâm Phật giáo tại Trung Hoa có đôi liễn như sau:
Ái tích thường
trụ vật,
Như hộ nhãn
trung châu.
Dịch:
Yêu tiếc tài vật
của thường trụ,
Như giữ gìn hai
tròng con mắt.
Nói rõ hơn,
người làm chủ chân chính, giữ gìn tài vật của Tam Bảo, chẳng những như ái hộ
hai tròng con mắt của mình, mà còn phải ái hộ hơn cả đôi tròng mắt của mình
nữa.
Thà hy sinh thân
mạng của cá nhân mình, chứ không tiêu xài lãng phí tài vật của Tam Bảo. Khi có
chuyện chánh đáng thì theo pháp mà dùng. Nếu không đáng dùng thì tuyệt đối
không được dùng bậy. Nếu không vâng theo lời răn dạy của thánh giáo Như Lai,
lại tùy tiện muốn dùng cái chi thì cứ dùng theo ý mình, giống như xài dùng tiền
riêng của cá nhân mình thì tuyệt đối không thể được, vì chắc chắn sẽ mắc phải
hậu quả không thể tưởng tượng nổi!
Có những vị làm
chủ lại không minh bạch được nhân quả. Với tiền bạc của chính mình thì lẫn
tiếc, đến nỗi khi có chuyện cần xài một đồng thì như phải cắt đi một miếng thịt
trên thân thể. Còn đối với tiền bạc của Tam Bảo thì trái lại, tha hồ sử dụng
không một chút luyến tiếc mảy may.
Sở dĩ Đức Phật
dạy chúng ta giữ gìn tài vật Tam Bảo là muốn cho đại chúng đồng sống chung
trong tinh thần đúng theo pháp mà thọ dụng. Dù là một hạt gạo, một hạt muối,
một đồng tiền cũng chỉ dùng trong ngôi Tam Bảo.
Hơn nữa, khi sử
dụng những tài vật trong ngôi Tam Bảo, cần phải riêng biệt, không được dùng lộn
xộn. Nghĩa là những tài vật thuộc về Phật Bảo không được dùng lộn xộn cho chúng
tăng v.v... Thậm chí những tài vật cùng ở trong nhất bảo cũng không được sử
dụng lộn xộn. Chẳng hạn tài vật của thí chủ cúng dường để lo trai phạn cho
chúng tăng thì không được đem đi xây cất tăng xá v.v... Nếu dùng lộn lạo như
vậy, sau khi xả báo thân, sẽ bị đọa vào địa ngục Hỏa Già (mang gông lửa). Như
thế người làm chủ lẽ nào không để tâm cẩn thận, y theo luật Phật dạy khi sử
dụng tài vật Tam Bảo hay sao?
Có người nói:
“Tài vật để kiến trúc điện Phật, có thể đem mua sắm thực phẩm cho chúng Tăng,
nhưng tài vật dùng cho việc sinh sống của chúng Tăng không được đem xây cất
điện Phật”. Người nói như vậy là hoàn toàn sai lầm! Tại sao vậy? Vì nếu nói như
thế, không lẽ Tăng Già tôn quý hơn Phật, và Phật Bảo lại không bằng chúng Tăng
hay sao?
Tài vật dùng để
tạo hình tượng Phật, kiến trúc điện Phật còn dư lại rất nhiều thì phải dùng vào
việc nào cho đúng?
Cổ đức đáp lại
như sau: “Những tài vật xây cất điện Phật còn dư nhiều, thì có thể tạo dựng
hình tượng Phật, mua sắm những đồ cúng dường ở trước tượng Phật, tuyệt đối
không được đem tài vật làm điện Phật còn dư mà xây cất điện Di Lặc, điện Quan
Âm v.v... Cũng thế, không được đem tài vật tạo tượng Phật còn dư mà dùng để tạo
tượng Bồ Tát hay tượng A La Hán v.v...”
Phật pháp
đối với việc sử dụng tài vật trong ngôi Tam Bảo hoạch định rất nghiêm mật như
thế, nên người làm chủ phải khéo léo giữ gìn tài vật ngôi Tam Bảo như tài vật
của chính mình, để tránh sự tổn thất không cần thiết, và riêng mình không bị
tội ác cực trọng.
Nếu không thể
khéo léo hòa giải việc gây gổ, kình chống trong đại chúng, mà trái lại làm cho
đại chúng lộn xộn, chống kình nhau, hoặc không khéo giữ gìn tài vật của Tam
Bảo, lại còn hoang phí sử dụng của Tam Bảo thì Phật tử này phạm khinh cấu
tội.
Tại sao phạm tội
như vậy?
Phải biết rằng
người làm chủ trong đại chúng, phải có tâm từ hòa ái hộ đại chúng. Nhưng vì
không khéo hiểu rõ giới luật nên không thể xử đoán việc tranh chấp cho hợp lý,
làm cho đại chúng thay vì được an vui chung sống trong Phật pháp, được nhiều
lợi ích, lại phải náo loạn, kình chống, cãi lẫy triền miên. Như thế không phải
là trái với tâm từ hòa của đại sĩ hay sao?
Người đạo thủ
trong đại chúng cần phải khéo gìn giữ tài vật của Tam Bảo, đồng thời cần phân
phối tài vật ấy dùng vào mỗi việc cho hợp lý. Vấn đề này phải lưu tâm sử dụng
cho cẩn thận.
Khi có việc cần
sử dụng mà không thông bạch với chúng Tăng, lại tùy tiện theo ý mình, muốn dùng
chi thì dùng, không có lòng luyến tiếc như khi dùng tài vật của mình. Đã không
minh bạch lý nhân quả, lại khi xài dùng không tiết độ nên đương nhiên phải phạm
tội khinh cấu.
Có người hỏi
rằng: Đã là thuộc tội sử dụng tài vật của Tam Bảo, tại sao chỉ phạm tội khinh
cấu mà không phạm giới Đạo căn bản?
Đáp: Không phải
thế! Vì tài vật này chỉ do người làm chủ không giữ gìn cẩn thận, chứ không phải
trộm cắp vật có chủ đem đi. Hơn nữa, vì Tăng đoàn đại chúng mà vị này dùng xài
chứ không phải xài dùng cho riêng cá nhân mình. Chẳng qua lúc sử dụng không
thông qua cho chúng Tăng biết nên chỉ phạm tội khinh cấu, không phải phạm trọng
tội.
Giới này chỉ có
tác dụng ngăn cấm chứ không khai mở, và đồng ngăn cấm cả Đại Thừa lẫn Tiểu
Thừa.
Đối với thất
chúng Phật tử thì không bắt buộc tất cả đều phải học.
Đối với hai
chúng tỳ kheo và tỳ kheo ni, vì có bổn phận thống lãnh đại chúng, nếu không
khéo dàn xếp việc tranh cãi và không khéo giữ gìn tài vật Tam Bảo thì có chỗ
trái phạm.
Còn ba chúng
xuất gia: Thức Xoa, Sa Di, và Sa Di Ni, cùng hai chúng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, vì
không có nhiệm vụ thống lãnh đại chúng nên không cần phải học giới này. Chỉ
những vị lãnh trách nhiệm giữ chức vụ mới cần phải học.
Cổ đức dạy: “Nếu
không khéo dàn xếp việc tranh cãi trongười đại chúng thì mắc phải tội phương
tiện phá tăng. Nếu không khéo giữ gìn tài vật của Tam Bảo thì sẽ chiêu cảm lấy
quả báo bần cùng, khốn khổ. Trái lại, nếu khéo hòa giải trong đại chúng, khéo
giữ gìn tài vật của Tam Bảo tức là đạt được sự thống lý đại chúng nhứt thiết vô
ngại vậy”.
Chú
thích:
(1) Nạp tử: danh
từ này do từ “nạp y” mà ra, dùng để chỉ cho người xuất gia. Nạp y còn gọi là
Phấn Tảo Y (phấn: chỉ cho phẩn uế; tảo: chỉ sự quét dọn rác rến trong nhà, hoặc
quét dọn những mảnh vải vụn rách. Y: những mảnh vải cũ vụn). Nghĩa chung là
nhặt lấy những vật hèn tệ mà người vất bỏ, đem về giặt giũ sạch sẽ, chằm vá may
lại thành Pháp Y. Tỳ kheo mặc nạp y là một trong mười hai hạnh Đầu Đà. Trong bộ
Thích Thị Yếu Lãm, quyển thượng nói:
“Phấn tảo y
có năm thứ (y: căn cứ theo sự giải thích ở trên):
- Y vất bỏ nơi vệ
đường.
- Y vất bỏ nơi mé
sông.
- Y vất bỏ nơi chỗ
phấn tảo.
- Y bị kiến cắn
đục hư hỏng.
- Y vụn.
Lại có năm thứ
khác:
- Y bị lửa cháy.
- Y bị nước trôi.
- Y bị chuột nhấm.
- Y bị trâu bò
nhai.
- Y của sản phụ
vứt bỏ.
Những thứ trên
đây, người Ấn Độ rất húy kỵ, nên đem vất bỏ, không xài dùng. Người xuất gia
nhặt lấy, giặt sạch, nối lại may thành pháp y, nên gọi là “phấn tảo y”.
Mặc nạp y có mười
điều lợi như trong Luật Thập Tụng nói:
- Nạp y ở vào số y
thô xấu.
- Mặc nạp y để bớt
đi sự cầu xin.
- Mặc nạp y có thể
tùy ý mà ngồi (không cần chọn chỗ sạch).
- Mặc nạp y có thể
tùy ý mà nằm.
- Dễ giặt
giũ.
- Ít bị trùng cắn
hư.
- Dễ ăn các phẩm
nhuộm.
- Khó bị hư
rách.
- Không thay đổi y
khác.
- Mặc y, đối với
việc cầu đạo sẽ không thối thất.
Tuy nhiên, có hai
trường hợp không nên mặc y:
- Khi hiện tướng
phước điền (thọ nhận sự lễ bái, cúng dường của người).
- Khi vào trong tụ
lạc.
(2) Hành cước
tăng: chỉ các vị thiền sư làm kẻ lữ hành trong giới tu hành. Trong bộ Tổ Đình
Sự Uyển, quyển tám nói:
“Sao gọi là hành
cước tăng?
Là người xuất gia
học đạo, xa lìa xóm làng, cha mẹ, bà con, quyến thuộc, thân du hành khắp trong
thiên hạ, thoát ly trần tục, vất bỏ hệ lụy, kiếm tìm minh sư, thiện hữu, để học
hỏi cầu pháp chứng ngộ, gọi là Hành Cước Tăng”.
(3) A Già Đà:
Trung Hoa dịch là Phổ Khử, là Vô Giá, Vô Bịnh hoặc Bất Tử Dược, là loại thuốc
vò thành hoàn. Trong bộ Huyền Ứng Âm Nghĩa, quyển 14 nói: “A Yết Đà dược còn
gọi là A Kiệt Đà, hay A Già Đà, Trung Hoa dịch là Hoàn Dược”.
Trong bộ Huệ Lâm
Âm Nghĩa, quyển hai mươi lăm nói:
“A Kiệt Đà
dược:
- A: Trung Hoa
dịch là Phổ.
- Kiệt Đà dịch là
Khử.
Nghĩa là vị thuốc
này khử trừ tất cả các thứ bệnh tật, nên gọi là Phổ Khử. Lại nữa:
- A còn dịch là
Vô.
- Kiệt Đà dịch là
Giá.
Có nghĩa công dụng
của thuốc này rất cao, quý giá vô lượng, nên gọi là Vô Giá”.
Trong bộ Huệ Uyển
Âm Nghĩa, quyển thượng nói:
“A dịch là Vô,
Kiệt Đà dịch là Bệnh. Nghĩa là: nếu người nào uống được thuốc này sẽ không bao
giờ mắc bệnh nên gọi là Vô Bệnh”.