Những sức mạnh ở đời

07 Tháng Mười Hai 201408:28(Xem: 6872)

 NHỮNG SỨC MẠNH Ở ĐỜI

Quảng Tánh

blankChúng ta đều biết, người ta sống ở đời mỗi người đều có một thế mạnh, sở trường và sở đoản khác nhau. Biết khai thác và phát huy thế mạnh đồng thời biết khắc phục và tránh né những thế yếu của mình là nền tảng của mọi thành công. Người chín chắn, nhiều trải nghiệm thì không bao giờ chủ quan mà luôn quan sát kỹ càng để tìm ra những điểm mạnh yếu của đối tác nhằm ứng xử phù hợp, lợi mình lợi người.

Theo sự chỉ dạy của Thế Tôn, các vị quốc vương quyền bính trong tay, những vị Thánh A-la-hán và chư Phật thành tựu đại giải thoát có sức mạnh thì đã đành, nhưng đứa trẻ nít ngây ngô, chị em phụ nữ chân yếu tay mềm, những người tu buông xả sự đời cũng có sức mạnh riêng của họ. Đó là sáu sức mạnh ở đời.

“Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có sáu sức mạnh ở đời. Thế nào là sáu? Con nít lấy kêu khóc làm sức mạnh, muốn đòi gì, trước hết khóc; đàn bà lấy sân giận làm sức mạnh, nương vào sân giận rồi sau mới nói; Sa-môn, Bà-la-môn dùng nhẫn làm sức mạnh, thường nghĩ thấp mình đối với người, rồi sau bày tỏ; quốc vương dùng kiêu ngạo làm sức mạnh, lấy hào thế này để tự biểu lộ; nhưng A-la-hán lấy tinh chuyên làm sức mạnh để tự trình bày; chư Phật Thế Tôn thành tựu đại từ bi, lấy đại bi làm sức mạnh để lợi ích rộng rãi cho chúng sanh.

Đó là, này Tỳ-kheo! Có sáu sức mạnh ở đời. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên nhớ tu hành sức đại từ bi này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Lực [1], 

VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.482)

Thật rõ ràng, không gì có thể ngăn được người mẹ chạy đến bên con, khi con khóc. Đối với người mẹ thì tiếng con khóc là mệnh lệnh uy quyền nhất thế gian. Và con trẻ, theo suy nghĩ của chúng ta là chưa biết gì, nhưng nó đã biết phát huy sức mạnh của tiếng khóc để khiến mẹ đáp ứng những nhu cầu mà nó đang cần.

Xưa nay người ta thường nói chị em phụ nữ là phái yếu, nhưng thực tế thì chẳng yếu chút nào. Có lẽ do nghiệp lực nên cánh đàn ông đích thực đều sợ chị em giận, đều lo khi chị em hờn. Vì vậy mà tự ngàn xưa cho đến ngày nay, những giọt nước mắt vô tình đã làm nên tội, khuynh đảo biết bao chuyện thế gian. Nên cũng không có gì là lạ khi chị em thường “nương vào sân giận rồi sau mới nói” và cách thể hiện này hầu như lúc nào cũng rất lợi hại.

Các vị Sa-môn hay người tu nói chung, nguyện dấn thân trên lộ trình hướng nội cô độc và phiêu du, lấy sự nhẫn nhịn và chịu đựng để vượt qua các chướng ngại. Điều quan trọng nhất ở đây, theo Thế Tôn, người tu phải luôn tự thấy mình nhỏ bé, là bần tăng, là hành khất để khiêm cung và nhã nhặn trong ứng xử với đời. Chính sự kham nhẫn và khiêm hạ mới là sức mạnh đích thực của người tu. Nhân đây bộc lộ ra một điều, người tu nào thích thể hiện uy quyền và chức phận xênh xang là tự mình phơi bày ra thế yếu, là rơi vào sở đoản chứ không phải sở trường.

Sức mạnh của vua chúa thì quá rõ ràng, ai có tướng sĩ và binh mã mạnh hơn thì chiến thắng. Chư Phật và các bậc Thánh La-hán cũng tinh chuyên, lấy tâm đại bi mà làm lợi ích cho vạn loại hữu tình. Thế Tôn đã khuyến tấn hàng đệ tử của Ngài phát nguyện dấn thân; lấy từ bi, đem lòng yêu thương chân thật để làm hành trang vào đời, giúp người. Đó cũng chính là sức mạnh của những người tu Phật cần thể hiện xuyên suốt lộ trình tự độ và độ tha.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Mười Một 2018(Xem: 7036)
23 Tháng Ba 2018(Xem: 6030)
18 Tháng Mười Một 2016(Xem: 7227)
24 Tháng Năm 2016(Xem: 7431)
Tôi muốn lý giải về 10 lời nguyện này. Trong kinh hoa nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử trên con đừờng tìm Đạo gặp gỡ và tu tập qua 53 vị thày (biểu tượng 53 bước tu tập để thành Phật bằng con đường Bồ tát Đạo) Trãi qua tất cả từ những vị thày từ nhửng kỹ nữ ăn chơi tới những Bồ tát lớn nhât Vị thày đầu tiên là Văn Thù Bồ Tát , tượng trưng cho Căn bản trí- là cái trí căn bản nằm tiển ẩn trong mọi chúng sanh nhưng không hiển lộ vì bị ngăn che bởi nhửng nghiệp lực..Vị thày thứ 53 sau cùng là Phổ Hiền Bồ Tát (tượng trưng cho hậu đắc trí là cái trí hiểu và ứng dụng được căn bản trí để có thể độ được chúng sanh-ý niệm từ Duy thức học). Sự thể hiện của hậu đắc trí có thể cảm nghiệm từ lục độ bước qua thập độ- Lục độ là bố thí, trì giới,nhẫn nhục,tinh tấn,thiền định và trí huệ. Bước qua thập độ thêm phương tiện , nguyện , lực,trí…Ta thấy lục đệ lục độ là trí mà thập đệ thập độ cũng là trí.Nhưng sự khác nhau là giữa căn bản trí và hậu đắc trí.
28 Tháng Tư 2016(Xem: 6932)
Tỳ-kheo có một nghĩa là bố ma, làm cho ma phải khiếp sợ. Ma chướng trong đường tu rất nhiều, bên trong và bên ngoài, thường gọi là nội ma ngoại chướng. Nhưng kỳ thực, có người tu không làm cho ma khiếp sợ mà ngược lại sợ ma, đi theo và làm quyến thuộc của ma. Nghĩa là bên trong không hàng phục được phiền não, bên ngoài không qua được chướng ngại. Thời Phật tại thế, Tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa là một điển hình.
23 Tháng Ba 2016(Xem: 7140)
Không phải ngẫu nhiên mà Đức Phật xem việc gần gũi vua quan là nạn, và mạnh mẽ cảnh tỉnh chúng Tăng: “Gần gũi bậc vua chúa vương gia có mười việc phi pháp”. Phi pháp ở đây là không phù hợp với Chánh pháp, không giúp ích cho việc thành tựu mục tiêu phạm hạnh và giải thoát của hàng xuất gia.
22 Tháng Ba 2016(Xem: 7232)
Người xuất gia mang trên mình pháp tướng đầu tròn, áo vuông, nguyện hủy hình để khác biệt với thế thường, sống đời thoát tục. Chưa nói đến tâm giải thoát hay tuệ giải thoát vốn ẩn tàng, sâu kín bên trong, hãy xem các hình thức bên ngoài như uy nghi và ứng xử trong đời sống hàng ngày thì phần nào cũng biết được công phu của hàng xuất sĩ.
20 Tháng Giêng 2016(Xem: 7860)
Thường thì khi chưa thành tựu về một điều gì chúng ta cảm thấy không vui. Nhưng khi đã toại nguyện, đã có những gì mong ước thì cũng chỉ vui được một thoáng rồi qua nhanh. Thực chất thì chưa được hay đã được đều có nỗi khổ riêng, vì cái tâm mong muốn của con người dường như không có điểm dừng.
13 Tháng Giêng 2016(Xem: 8063)
Ai cũng biết xuất gia tu hành đúng Chánh pháp thì gieo trồng được nhiều công đức, phước báo. Nhưng thực tiễn thì không phải ai cũng được xuất gia, nên Thế Tôn mới trợ duyên cho hàng Phật tử tại gia phát tâm xuất gia gieo duyên, có thời hạn, ít nhất là một ngày đêm tập sự xuất gia như tu Bát quan trai chẳng hạn.