- Lời Tựa
- Chương 1 : Khái Niệm Về Nghiệp Báo
- Chương 2 : Không Gian Vật Lý
- Chương 3 : Không Gian Tâm Linh
- Chương 4 : Bản Thể Tuyệt Đối
- Chương 5 : Luân Hồi
- Chương 6 : Nghiệp Và Kết Quả.
- Chương 7 : Nghiệp Và Kết Quả Xuất Thế Gian
- Chương 8 : Chuyển Nghiệp
- Chương 9 : Nghiệp Và Sự Liên Hệ Với Vạn Tượng
- Chương 10 : Công Đức
NGHIỆP VÀ KẾT QUẢ.
Chúng ta đã đi qua một số lý thuyết căn bản về nghiệp từ các vấn đề phân loại trường không gian, nguồn gốc Bản Thể, cơ chế luân hồi tái sinh. Bây giờ chúng ta sẽ bàn qua tính chất của Nghiệp và những kết quả của nó.
1- ĐỊNH VÀ BẤT ĐỊNH.
Như chúng ta đã biết, khi một nghiệp được thành lập, ngay đó quả báo cũng đã hiện diện. Vậy, trên tương đối, dường như nghiệp là bất định vì nó tùy thuộc ý muốn thực hiện của con người, còn quả báo là cố định. Nếu con người có tạo nghiệp thì mới có nghiệp, chứ nghiệp không có sẵn. Phải có bố thí cho kẻ nghèo chúng ta mới có được một nghiệp thiện, bằng không thì nghiệp chưa xuất hiện. Như vậy, trong cuộc đời chúng ta, tùy theo ý muốn của chúng ta mà bao nhiêu nghiệp thiện hay ác sẽ được tạo ra. Tạo nghiệp thiện hay tạo nghiệp ác là quyền của chúng ta, điều đó không có ai bắt buộc.
Chỉ khi nào nghiệp đã tạo ra rồi thì quả báo bắt buộc phải có. Tất cả những quả báo đó dệt thành một định mệnh mà chúng ta phải trải qua trong cuộc đời kế tiếp. Những may mắn từ đâu kéo tới, những rủi ro không lường trước ập lại, là những cái gì dường như ngoài quyền quyết định của con người. Một số người phải gọi đó là thời vận để than thở.
“Thời
lai đồ điếu thành công dị
Vận
khứ anh hùng ẩm hận đa.”
(Đặng Dung).
Ngay những kẻ có tài mà vận may không có cũng phải đón nhận thất bại. Không ai có kế hoạch hành động chu đáo kỹ lưỡng như Khổng Minh, cuối cùng ông vẫn không dựng nổi đế nghiệp cho nhà Hán, đành phải than: “Mưu sự tại nhân - Thành sự tại Thiên.”
Trong cuộc đời nhan nhản những kẻ thiếu tài, nhưng một phước nghiệp nào đó đã đưa họ lên địa vị cao sang có nhiều người tuân phục.
Trên tương đối, nghiệp là bất định và quả báo là cố định. Nghiệp được tạo ra hay không là do con người, nhưng một khi nghiệp đã tạo rồi thì quả báo chắc chắn phải có.
Tuy nhiên, đi sâu vào phân tích, chúng ta thấy vấn đề không đơn giản. Chúng ta sẽ thấy dường như nghiệp cũng đã được quy định rồi. Trong cuộc đời sắp tới, chúng ta sẽ làm những gì, sẽ tạo thiện vào lúc nào, sẽ tạo ác vào lúc nào, dường như cũng đã được quy định từ kiếp trước.
Trước
khi chết, Thiền Sư Minh An đã tiên đoán rằng mười năm sau,
Bình Thị giả sẽ quật mồ của ngài. Quả đúng như vậy.
Bình Thị giả đã quật mồ của Minh An và cầm búa chẻ vỡ
đầu khi mà thân thể của Minh An sau 10 năm vẫn không hoại.
Như
thế, rõ ràng hành động Bình Thị giả quật mồ không phải
là ngẫu hứng tức thời, vì ngài Minh An đã thấy trước
hành động đó rất lâu. Phải chăng hành nghiệp cũng là một
số phận ?
May
rủi được cho là do nghiệp quá khứ tạo thành, vậy nghiệp
do cái gì tạo thành mà nó cũng gần như định sẵn ? Năm
năm sau ta sẽ tạo nghiệp gì; mười năm sau ta tạo nghiệp
gì... dường như tiến trình này cũng đã được sắp sẵn
!
Chúa
Jésus đã biết trước rất lâu là Judàs sẽ phản bội, sẽ
báo lính tới bắt ngài. Vậy hành động phản bội của Judàs
đã được định sẵn rồi hay sao ?
Bốn tên cướp xông vào giết hại gia đình ông chủ tiệm làm móng tay. Đứng về phía gia đình ông chủ tiệm thì đây là quả báo bắt buộc phải trả. Nhưng còn hành vi cướp bóc, giết hại của bốn tên cướp là ngẫu nhiên hay đã có quy định ? Nếu là ngẫu hứng nhất thời thì làm sao ăn khớp với quả báo của gia đình nạn nhân; vì một bên là cố định, một bên là ngẫu hứng ?
Chúng
ta đã biết, chính tư tưởng đời trước sẽ tạo nhân cách
đời này. Nếu một người nuôi dưỡng những tư tưởng ác
độc, chắc chắn đời sau họ sẽ có nhiều hành động ác
độc. Hành động đời này do tư tưởng đời trước quy định.
Trừ
trường hợp ông cán bộ xây cầu vì tư tưởng làm đẹp
lòng cấp trên chứ không phải vì thương dân nên đời sau
ông ta được sung sướng nhưng vẫn thiếu đạo đức, còn
lại hầu hết người ta nghĩ sao làm vậy.
Một
người ăn cắp vì đã có tư tưởng ăn cắp. Như vậy hành
vi ăn cắp ở đời này sẽ tạo ra quả báo nghèo khổ mất
mát ở đời sau, và tư tưởng ăn cắp đời này sẽ lập
lại hành động ăn cắp ở đời sau nữa. Do đó,
“Nghiệp
có khuynh hướng lập lại.”
Một người làm việc thiện sẽ tiếp tục làm việc thiện, một người làm việc ác sẽ tiếp tục làm việc ác.
Một
bà mẹ có thói quen hành hạ con mình, kiếp sau bà đã bị
ông bố hành hạ từ khi còn nhỏ. Lớn lên có chồng con, bà
đã lập lại hành vi hành hạ con cái.
Không
hiểu luật Nghiệp Báo, chỉ quan sát một đời, chúng ta sẽ
hiểu lầm là quả báo có trước (bị bố hành hạ từ nhỏ)
và nghiệp nhân có sau (hành hạ con cái của mình). Thật ra
bà đã lập lại nghiệp hành hạ con cái của bà đời trước
mà thôi.
Chính
vì khuynh hướng lập lại này của nghiệp mà hành động dường
như cũng được quy định sẵn.
Do sự biến thiên tư tưởng đời trước nên hành động của đời sau cũng bị thay đổi. Có những giai đoạn chúng ta siêng năng học hành. Qua lúc khác chúng ta biếng nhác. Lúc thích làm việc thiện, lúc lại quay sang nghiên cứu nghệ thuật. Đời sau hành động cũng theo đó mà thay đổi, khi thì ham học, khi thì chán nản, lúc lại thích làm việc từ thiện xã hội, lúc quay sang vẽ tranh.
Như vậy, không phải chỉ quả báo khổ vui là cái mà chúng ta không thể cưỡng lại, ngay cả hành động cũng là cái khó cưỡng được. Chúng ta sẽ đối xử tốt đối với người này, tệ với người kia, hành động đó khởi lên một cách tự nhiên, mà chúng ta không sao lý giải được, chỉ bởi vì nó được tư tưởng đời trước sắp sẵn rồi.
Nếu
cho rằng quả báo khổ vui trong hoàn cảnh đã được quy định
sẵn 100% thì hành động cũng được quy định khoảng 70% rồi,
chỉ còn lại 30% là quyền làm chủ hiện tại để lựa chọn
lần cuối.
Chúng
ta không thể chọn cái may mắn cho mình vì đó là do phước
nghiệp đời trước. Chúng ta có thể chọn hành động tốt
để làm vì muốn đời sau được tốt đẹp, nhưng quyền
lựa chọn trong hiện tại chỉ có 30% mà thôi, vì 70% đã thuộc
về tư tưởng kiếp trước.
Trong hiện tại, chúng ta chỉ có quyền làm chủ nhiều nhất nơi tư tưởng. 50% tư tưởng là do quyền chọn lựa của chúng ta bây giơ,ø chỉ có 50% là sức mạnh lập lại của quá khứ. Nhưng hầu hết chúng ta đã không sử dụng quyền làm chủ 50% này mà chỉ thuận theo cái 50% lập lại từ kiếp trước. Những tư tưởng ích kỷ, tự cao, tham lam sẽ lập lại. Chúng ta buông xuôi chạy theo nó và đi dần vào sa đọa tội lỗi. Chúng ta không dùng đến quyền làm chủ 50% kia để hóa giải tư tưởng ác và xây dựng tư tưởng thiện, chúng ta đã bỏ phí sự tự do của mình, chỉ cúi đầu đi theo khuynh hướng của kiếp trước, trong khi khuynh hướng này không phải là ưu thế.
Giá trị của người tu là ở chỗ biết tạo dựng cho mình một tâm hồn trong sáng, thoát khỏi những tư tưởng thấp hèn từ kiếp trước. Trong quá trình cải tạo tâm hồn này, chúng ta có quyền tự do 50% để chống lại sức mạnh lập lại tư tưởng kiếp trước chỉ có 50% mà thôi.
Tóm lại về mức độ quy định của kiếp trước, chúng ta có thang giá trị như sau:
- Tư
tưởng được quy định 50%, 50% còn lại tùy thuộc tư tưởng
của kiếp này.
-
Hành động được quy định 70%, 30% còn lại phụ thuộc quyết
tâm của kiếp này.
-
Hoàn cảnh được quy định 100%,
Đối với hoàn cảnh gần như một định mệnh, chúng ta chỉ nhẫn nhục bình thản đón nhận chứ không thêm bớt được gì nhiều.
Đối với hành động, hết 70% là sự thôi thúc từ kiếp trước, chỉ còn 30% để chúng ta lựa chọn.
Đối với tư tưởng, hết 50% là sự lập lại của đời trước, còn đến 50% để chúng ta rộng rãi lựa chọn.
Vậy thì tại sao chúng ta không mạnh mẽ chọn lựa, gạn lọc từng tư tưởng để xây dựng tâm hồn mình và vẽ thành một nhân cách cao cả cho đời sau ?
2- THIỆN VÀ ÁC.
Thiện và ác chỉ có thể được định nghĩa một cách tương đối. Ví dụ hành vi giết người để tế thần linh nơi các bộ lạc bán khai, đối với họ việc làm này là thiện, nhưng đối với chúng ta việc làm này là ác. Hoặc khi Hitler xua quân đội Đức Quốc Xã đi đánh chiếm khắp nơi. Người tướng lãnh thắng trận được dân Đức xem như anh hùng, nhưng bị dân các nước khác xem như kẻ cướp.
Một
hành vi được xem là thiện ở nơi này, nhưng lại là ác ở
nơi khác. Dường như không có cái gì hoàn toàn thiện cho tất
cả mọi mọi người cùng lúc.
Cụ
thể hơn, chúng ta có thể cho rằng một hành vi được gọi
là thiện khi nó đem lại lợi ích cho mọi người như bố
thí người nghèo, an ủi người đau khổ, thả những thú vật
bị giam cầm, đắp những đoạn đường hư lỡ. Rõ ràng là
người nhà nghèo được lợi ích nhờ bố thí, người đau
khổ được lợi ích nhờ an ủi... Như vậy, cái lợi ích
là tiêu chuẩn để định giá trị thiện ác của một nghiệp.
Lợi ích cho người càng nhiều, giá trị thiện càng lớn.
Tuy nhiên, ngay một hành vi được gọi là thiện vẫn mang theo một vài khía cạnh ác của nó. Ví dụ, đắp đường là một việc thiện rất lớn. Nhưng trong khi đắp đường, người này cũng phải đào xới, đổ đất đá, chất dụng cụ làm cản trở giao thông một thời gian ngắn.. Như vậy cũng là ác, nhưng cái ác nhỏ so với giá trị thiện lớn lao lâu dài về sau.
Ví
dụ, người mẹ mang tiền bố thí cho kẻ nghèo. Đó là việc
thiện đối với kẻ nghèo vì giúp họ qua cơn đói khổ, nhưng
lại làm giảm mất tài sản của gia đình, làm cho con cái
phải mất đi một ít sự tiêu dùng của họ. vậy người
mẹ thiện với kẻ nghèo mà ác với chồng con của mình. Nhưng
so ra trong số tiền bố thí đó, kẻ nghèo thoát được cái
đói khổ ghê gớm dày vò nên giá trị thiện rất lớn, còn
các người trong gia đình cũng không bị ảnh hưởng bao nhiêu
nên giá trị ác không nhiều.
Trước
khi làm một việc gì, nói một lời gì, chúng ta phải sáng
suốt nhìn thấy mọi khía cạnh thiện ác của nó. Nếu thấy
ác rất ít mà thiện rất nhiều thì hãy làm. Còn nếu thiện
và ác sấp sỉ với nhau thì nên tránh.
Ví dụ, việc xịt thuốc trừ sâu rầy bảo vệ cây trồng. Việc này có khía cạnh thiện là làm ra lương thực cho con người sử dụng, và ác là sát sinh một số sâu rầy. Cứ cho rằng cái ác trong việc giết hại sâu rầy là nhỏ và cái thiện làm ra lương thực là lớn. Nhưng bên cạnh đó, thuốc trừ sâu giết luôn những côn trùng có ích, làm ô nhiễm môi trường có hại cho sức khỏe con người... Cái hại này làm cho giá trị ác lớn thêm, có thể sấp sỉ với cái thiện trước đó.
Hiện nay các nhà nghiên cứu nông dược đang tìm cách giảm thiểu cái ác như thuốc sẽ không làm ô nhiễm môi trường, không giết hại côn trùng có ích, không ảnh hưởng đến sức khỏe của người và súc vật... Thậm chí họ còn nghiên cứu thuốc trừ sâu sinh học, không cần phải giết sâu rầy, chỉ làm cho nó trở nên không sinh sản tiếp tục mà thôi. Với những thuốc trừ sâu loại mới này, cái ác được hạn chế tối đa và chúng ta có thể mạnh dạn sử dụng hơn trước.
Ví dụ một triết gia nhiệt tình chống lại tệ mê tín dị đoan đang núp dưới chiêu bài tôn giáo. Điều này có vẻ như thiện vì ông làm cho chân lý được sáng tỏ, giúp mọi người xa lìa những hiểu biết sai lầm. Nhưng bên cạnh đó, ông cũng làm tổn hại danh dự của những tu sĩ chuyên khai thác mê tín để trục lợi, đồng thời làm chới với hoang mang một số tín đồ đã từng chấp nhận các hình thức đó. Dù sao thì đây cũng chỉ là cái ác nhỏ so với lợi ích do việc phá trừ mê tín đem lại cho xã hội. Thời nào cũng vậy, những tư tưởng tiến bộ mới lạ luôn luôn bị công kích gay gắt. Mãi về sau mới được con người chấp nhận hoan nghênh và lúc đó có khi tác giả đã qua đời. Tôn giáo với những lý thuyết cách đây vài nghìn năm chắc chắn có những điểm cần phải điều chỉnh cho phù hợp với những khám phá của khoa học. Một số nhà hoạt động tôn giáo đã chấp nhận ý kiến này, nhưng họ luôn luôn bị ác cảm từ những đồng nghiệp đã quen đi theo cái cũ. Nhưng chính những con người gan dạ biết tìm tòi, biết hoài nghi mới có thể để lại cho cuộc đời nhiều ý kiến tốt đẹp đúng đắn.
Dường như không một hành nghiệp nào thuần thiện hoặc thuần ác. Nó thiện ở khía cạnh này và ác ở khía cạnh khác. Ngay cả một số hành vi được xem là ác, đôi khi cũng có những tác dụng thiện không ngờ. Ví dụ gây chiến tranh là một tội ác lớn, nhưng đối với kinh tế gia Malthus (1766-1834) thì chiến tranh, chết đói, bệnh tật là những điều cần thiết để làm giảm bớt sự gia tăng dân số của loài người. Theo ông, lương thực tăng rất chậm trong khi dân số tăng rất nhanh. Con người càng đông thì càng phải phá rừng nhiều hơn để lấy chất đốt. Rừng bị tàn phá thì sinh thái xáo trộn, mùa mưa có nhiều bão lụt và mùa nắng thì mạch nước tắt khô. Thủy điện bị ảnh hưởng nghiêm trọng, không khí không được lọc sạch... Tất cả chuyên gia về kinh tế đều lo ngại về dân số đến nỗi một số quốc gia khuyến khích việc phá thai bất chấp sự chống đối của tôn giáo.
Tóm lại, hầu hết mỗi hành nghiệp đều thiện ác lẫn lộn, thiện ở khía cạnh này và ác ở khía cạnh kia. Trước khi hành động chúng ta hãy cân nhắc cẩn thận xem thiện có nhiều hơn ác hay không. Nếu nhận thấy tính thiện rất nhiều mà ác không đáng kể thì bắt đầu làm.
3- GIẾT HẠI.
Đa
số con người đều cho rằng giết người là tội ác lớn
nhất trong các tội, thế nên tử hình là hình phạt cao nhất
trong các hình phạt. Điều này khá đúng. Để được gọi
là một sinh vật đúng nghĩa, loài đó phải có bản năng sinh
tồn. Bản năng sinh tồn là sự thôi thúc bí mật khiến cho
sinh vật đó luôn luôn muốn duy trì sự sống của mình. Nhìn
sự lam lũ vất vã của đàn kiến tìm mồi, của con giun trườn
trong lòng đất, chúng ta mới thấy loài vật đều thiết tha
muốn sống. Nhìn những người nghèo khổ không mái nhà để
ở, sống vất vưởng ở hè phố, chúng ta càng thấm thía
ai cũng yêu cuộc sống. Sự sống là một cái gì quý giá vô
cùng. Thế nên hành vi tước đoạt mạng sống của con người
được xem là một tội ác nghiêm trọng.
Theo
ý nghĩa công bình, nếu một kẻ giết người, chắc chắn
quả báo chờ đợi cho hắn là bị giết hại trở lại. Đôi
khi luật pháp xã hội chỉ phạt tù từ mười năm đến hai
mươi năm, nhưng luật Nghiệp Báo vẫn không dễ dàng tha thứ.
Tuy nhiên, không phải luôn luôn nạn nhân ở đời này sẽ đích thân trả thù ở đời sau. Nếu trong khi bị giết, nạn nhân khởi niệm căm thù và muốn trả oán. Tư tưởng đó sẽ biến thành hành động, chắc chắn nạn nhân đời này sẽ trở thành thủ phạm ở đời sau.
Trước kia ở Mỹ có một câu chuyện khó hiểu. Hai người bạn da đen và da trắng ở chung với nhau và rất thân tình. Một lần người bạn da đen cầm dao giết bạn mình rồi đến cảnh sát tự thú. Khi được hỏi động cơ giết bạn, anh đau khổ trả lời là không biết tại sao vì anh không có động cơ nào cả.
Thật ra họ đã có mối thù sâu kín từ kiếp trước. Người bạn da đen đã khởi tư tưởng trả thù, rồi lại bỏ qua. Anh cứ ngỡ rằng nếu đã khởi ý mà không làm thì chẳng có ảnh hưởng gì. Nhưng ý tưởng đó đã biến thành hành động ở kiếp sau trong lúc không ai ngờ được.
Chúng ta hãy cẩn thận với tư tưởng của mình, đừng cho rằng những ý tưởng, những tham muốn sẽ trôi qua mất. Không! Nó sẽ biến thành hành động ở đời sau khi nhân duyên đã đầy đủ.
Còn trường hợp khi bị giết mà nạn nhân không có ý niệm trả thù bởi vì họ mãi lo nghĩ đến người thân, của cải... hoặc do họ đạt được hạnh nhẫn nhục cao độ, thì đời sau thủ phạm sẽ bị giết bởi một người khác, hoặc bị một tai nạn rủi ro như lật xe, rơi máy bay, sét đánh, cành cây khô rơi phải...
Nếu kẻ đã giết người khá nhiều, quả báo dành cho hắn là thường xuyên bị giết hại ở nhiều kiếp về sau. Thậm chí chưa ra khỏi thai mẹ đã bị trục bị nạo bỏ rất nhiều lần.
Chưa hết, khi giết một người chồng, tức là người vợ và người con sẽ bơ vơ, côi cút, nghèo khổ. Quả báo còn để dành cho tên sát nhân là đời đời sinh ra bị bỏ rơi, nghèo khổ, lang thang ít học.
Chưa hết, khi giết một người tức là làm đổ vỡ những sự nghiệp của người đó đang ôm ấp xây dựng. Quả báo dành cho tên sát nhân là thường xuyên gặp thất bại ở đời sau.
Chưa hết, một người bị giết tức là rất nhiều người thân đau khổ. Quả báo dành cho tên sát nhân là thường xuyên rơi vào tâm trạng tuyệt vọng đau khổ giống như bị bệnh hoang tưởng tâm thần.
Chúng ta thấy, một nghiệp nhân chính luôn luôn tạo ra chung quanh nhiều nghiệp nhân phụ. Luật Nghiệp Báo sẽ sắp xếp để kẻ phạm tội phải trả sòng phẳng mọi tội lỗi của hắn. Dĩ nhiên, việc đền trả tội lỗi này không dễ chịu chút nào.
Tuy nhiên, không phải hễ giết người là tội bằng nhau. Tùy theo giá trị của người bị giết mà tội của kẻ sát nhân nhiều hay ít. Nếu người bị giết là một công dân lương thiện làm được nhiều điều tốt đẹp cho cuộc đời, thì sự giết hại một người như vậy tội rất nặng. Nếu sự có mặt của anh là niềm vui cho nhiều người thì sự vắng mặt của anh là nỗi khổ lớn lao. Giết người này tên sát nhân khó lường hết hậu quả phải gánh chịu ở đời sau.
Nếu người bị giết là một vĩ nhân thánh thiện đã từng đem lợi ích lớn lao cho nhân loại. Sự ra đi của vị này là sự mất mát to lớn của thế giới. Quả báo mà thủ phạm phải đền trả là cực kỳ đau khổ. Hắn sẽ bị đày đọa hành hạ ở vô số kiếp, khi làm thú bị đánh đập giết hại, khi làm người bần tiện khốn cùng bị giết chết. Phải cộng nỗi đau khổ của mọi người lại để tính ra con số đau khổ mà hắn phải đền trả ở nhiều kiếp. Đó là sự công bình không thể thay thế.
Ngược lại, một nhân viên trong đội săn bắt cướp đã bắn chết một tên cướp nguy hiểm đang gây án. Tên cướp đã từng giết người cướp của gây kinh hoàng cho mọi người. Cái chết của hắn làm cho mọi người thở phào nhẹ nhõm vui mừng. Giết tên cướp này, tội của người nhân viên không đáng kể, trái lại khi cộng tất cả niềm vui của mọi người, anh được một số phước kha khá. Đây là sự công bình không thể nói khác đi được.
Rồi trường hợp người chiến sĩ chiến đấu ở tuyến đầu để bảo vệ sự bình yên cho người dân ở hậu phương được sống yên lành. Trong quá trình chiến đấu ngăn chận quân địch, sự bắn giết là điều không thể tránh khỏi. Nhưng cái tội đó có thể bù đắp bởi công lao đã giữ gìn cho rất nhiều người dân được yên ổn phía sau. Chỉ khi nào người chiến sĩ nằm trong một quân đội đi xâm lăng rõ rệt, tội của anh ta mới lớn.
Như vậy tùy theo giá trị của người bị giết mà luận thành phước hay tội cho kẻ giết chứ không cố định một chiều.
Thấp hơn con người là thú vật. Giết thú vật cũng là hành vi tước đoạt sự sống, thế nên trước hết nó cũng là một tội. Tuy nhiên tùy theo giá trị của con vật mà tội và phước sẽ được phân biệt cụ thể.
Ví dụ người ta giết một con chó để lấy thịt đãi bạn bè. Cái phước ở đây là làm cho bạn bè một bữa ăn ngon miệng (nhưng nếu có uống rượu quậy phá thì tính sau), cái tội ở đây là giết một con vật trung thành và thông minh. Cái phước kia không bù nỗi cái tội này. Rồi cái đau khổ của con vật bị giết sẽ trở thành cái đau khổ của người giết ở mai sau.
Trường hợp con người nuôi súc vật để chuyên lấy thịt như bò, heo, gà... cái phước ở đây là tạo ra thực phẩm cho con người.. Còn cái tội ở đây là sự giết hại mạng sống của con vật, gây đau khổ cho con vật khi mổ thịt, đồng thời thịt của súc vật cũng dễ gây bệnh cho người dùng như tim mạch, ung thư, nhiễm thú tính. Cái phước kia không bù nỗi cái tội này. Các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công thịt nhân tạo và nhiều xí nghiệp đã chế biến cung cấp cho nhà hàng. Đây là điều đáng khuyến khích. Hơn nữa các nhà kinh tế cũng tính toán rằng để thu được một ký thịt, người ta phải cho con vật ăn một số ngũ cốc đủ cho nhiều người dân Phi Châu sống qua mấy ngày. Như vậy rõ ràng sử dụng thịt súc vật làm thực phẩm không có lợi cho con người bao nhiêu.
Có một số người cho rằng người ăn chay cũng đã sát sinh vì cây cỏ, rau quả cũng có sự sống.
Điều này đúng ! Cắt một ngọn rau cũng là xâm phạm đến sự sống của sinh vật. Chúng ta đã biết rằng thực vật cũng có bản năng sinh tồn, có vùng không gian tâm linh bao phủ, có phản ứng tâm linh đơn giản khi bị nguy hiểm... nói chung cây cỏ dường như cũng có tâm hồn. Tuy nhiên, cấu trúc tâm linh của cây cỏ thì đơn giản. Khi bị cắt tỉa, cây cỏ có “biết” mình bị cắt tỉa, có phản ứng, nhưng không có cảm giác đau đớn. Thế nên khi cắt cây, tỉa cành, hái rau, chúng ta có phạm tội nhưng không nhiều, vì cây cỏ không đau đớn. Tuy nhiên, một người suốt đời ăn chay, tiêu thụ rất nhiều rau quả, cộng lại cũng thành một số nghiệp kha khá. Nhưng người này thường tu hành làm việc phước thiện, giáo hóa đạo đức... như vậy cái phước này quá dư để bù lại cái tội kia.
Những
tiều phu chuyên vào rừng đốn cây, mặc dù có phước là
làm ra gỗ ván, chất đốt cho xã hội, nhưng đã gây nạn
phá rừng làm xáo trộn sinh thái Địa cầu, tước đoạt đời
sống của cây lớn, nên tích lũy thành tội cũng nặng. Cây
càng lâu năm có năng lực tâm linh càng mạnh. Có những cây
sao lâu năm - mấy trăm năm mọc ven đình chùa, có năng lực
tâm linh rất mạnh. Khi có người đến muốn đốn, phản ứng
tâm linh của cây đủ sức làm người kia mang bệnh rồi chết.
Người dân không hiểu điều này đã gán cho có thần linh
ở trên cây. Ông bà ta có câu:
“Nhất
phá sơn lâm
Nhì
đâm hà bá.”
Hai
nghề này không bao giờ khá giả. Người làm nghề này luôn
luôn cực nhọc vất vả suốt đời mà không bao giờ có dư.
Có lẽ do quả báo sát sinh nhiều quá. Tùy mỗi loại cây,
tùy theo tuổi cây mà phản ứng tâm linh của cây khác nhau.
Với chiếc lá của Backster thì phản ứng chỉ đủ làm cho
kim của đồng hồ đo nhảy. Nhưng phản ứng tâm linh của
một cây cổ thụ có thể gây chết người tức khắc khi người
đó muốn đốn nó.
Như vậy, nếu đốn cây là một tội nặng thì việc trồng cây, bảo vệ rừng là một phước lớn. Mỗi cây trồng được xem như một tế bào phổi cho toàn hành tinh của chúng ta. Toàn bộ cây trồng, cây rừng hợp thành một bộ phổi cho cả thế giới. Cây lọc không khí, hấp thu bớt nhiệt độ, giữ độ ẩm lâu dài cho đất, giữ mạch nước vào mùa nắng, cản lũ lụt vào mùa mưa, tạo thức ăn cho ong và các thú vật hoang dã, cân bằng sinh thái của toàn cầu...
Tuy
nhiên, vì nhu cầu sử dụng gỗ ván và chất đốt, con người
đang tàn phá rừng không thương tiếc. Mặc dù các quốc gia
kêu gọi phát triển trồng rừng, nhưng việc trồng rừng không
đáp ứng kinh tế cấp bách cho con người, đồng thời những
khu rừng nhân tạo không thể sánh bằng các khu rừng thiên
nhiên cả nghìn năm, hơn nữa, đa số người trồng rừng đã
chuẩn bị đốn khai thác sau mười hoặc hai mươi năm trồng.
Rừng,
một bài toán nan giải!
4- PHƯỚC VÀ ĐỨC.
Thông thường người ta sử dụng chung hai chữ phước và đức. Tuy nhiên hai từ này có nghĩa khác nhau.
Khi chúng ta làm lợi ích cho người khác, sau này chúng ta sẽ hưởng được một hay nhiều niềm vui. Một nghiệp thiện sắp sẵn một quả báo lành ở vị lai. Đối với Bản Thể thì nghiệp nhân vừa tạo xong thì quả báo cũng đã xuất hiện. Song trên không gian vật lý, thời gian để cho từ một nhân đi đến một quả khá lâu. Người ta cho rằng khi nghiệp thiện vừa tạo xong thì phước xuất hiện trong vô hình để giữ gìn cho quả báo không bị mất. Phước được ví dụ với tấm ngân phiếu. Tiền gửi ngân hàng càng nhiều thì tấm ngân phiếu càng có giá trị lớn. Tác thiện càng nhiều thì phước càng sâu dày. Người đã từng làm nhiều lợi ích cho mọi người thì người ta nói kẻ đó có phước.
Đến khi duyên đã đủ lập tức phước hiện thành quả báo lành khiến cho kẻ đó được hưởng nhiều vui sướng. Quan điểm này là do đứng trên lập trường không gian vật lý mà có, chứ đối với Bản Thể, toàn bộ quả báo ở vị lai đã được sắp sẵn. Mỗi quả báo đều đã được ấn định một thời điểm để xuất hiện.
Tuy
nhiên, chúng ta cũng cứ cho rằng người đã làm nhiều việc
thiện, đã làm lợi ích cho nhiều mọi người tức là người
có nhiều phước.
Như
vậy, PHƯỚC là do làm lợi ích mọi người mà có.
Còn
Đức là cái tốt của tự tâm.
Ví
dụ, một người siêng năng thanh lọc tư tưởng của mình,
giữ gìn giới cấm kỹ lưỡng, tu tập thiền định trí tuệ,
từ tâm thương yêu mọi người. Người như vậy được gọi
là người có ĐỨC. Nhưng đức chưa phải là phước !
Chỉ
khi nào người này ra tay giúp đỡ kẻ khác, giáo hóa đạo
đức cho mọi người, truyền đạt phương pháp tu tập thiền
định... lúc đó người này mới có phước.
Bản
thân mình tốt gọi là đức.
Làm
lợi cho người gọi là phước.
Có những trường hợp vì muốn được nổi danh, vài nhà giàu có đã bố thí những số tiền lớn cho các cuộc lạc quyên cứu trợ. Một vài công ty làm việc thiện để góp phần quảng cáo. Vì thâm ý của họ không tốt, chỉ có mục đích cá nhân nên họ chỉ có phước mà không có đức.
Ngược
lại, một vài nhà tu hành thanh lọc nội tâm trắng như tuyết,
ẩn cư nơi vắng vẻ, ít giao tiếp với mọi người. Vị này
có đức mà không có phước.
Theo
truyền thuyết của Thiền tông Trung Hoa, khi Lương Võ Đế
khoe đã cất chùa, độ tăng rất nhiều, Tổ Đạt Ma đã khẳng
định hoàn toàn không có công đức. Về sau Tổ Huệ Năng
giải thích rằng chỉ được gọi là công đức khi đã giác
ngộ tự tánh thanh tịnh.
Thật ra người có nội tâm trong sạch cao thượng cũng đã có một phần phước vì tư tưởng lành của tâm luôn luôn lan tỏa trong không gian và lây nhiễm âm thầm vào tâm hồn của mọi người. Ngay cả những thiền sư đạt đạo, tâm không khởi niệm thiện cũng vẫn có tâm lành lan tỏa xung quanh. Dù ngài không cố ý khởi tư tưởng thiện nhưng chính nội tâm thanh thản, vô ngã, từ bi vẫn gây ảnh hưởng rất nhiều. Song cái phước này không lớn lắm vì không có tác dụng cụ thể, rõ ràng và mạnh mẽ.
Người
hiểu đạo thấu đáo cần phải biết chiêu tập đầy đủ
cả phước lẫn đức. Bởi vì đức và phước hổ trợ lẫn
cho nhau. Tâm có tốt thì việc làm thiện mới chu đáo và lâu
bền. Đức có sâu thì phước mới lớn. ngược lại, trong
khi làm việc thiện, chúng ta củng cố thêm chất tốt của
nội tâm mình. Hơn nữa, nếu có một kẻ làm phước mà không
có đức, làm việc thiện vì mục đích vị kỷ, chắc chắn
sẽ có lúc làm việc ác vì tư tưởng nào cũng có ngày khởi
ra hành động. Phước sẽ bị hạn chế không thể phát triển
đến vô cùng tận.
Và
bậc chân tu cũng phải phát tâm làm lợi ích cho mọi người
bởi vì hai lý do:
Thứ
nhất, do làm lợi ích mọi người nên vị này có đủ phước
để được no đủ vật thực và hoàn cảnh yên ổn để tiến
tu thiền định nội tâm.
Thứ
hai, chỉ bởi việc quên mình lo cho mọi người mới giúp cho
ngã chấp mau tan vỡ hơn. Với nữa, một người được gọi
là vô ngã khi người đó hoàn toàn vị tha.
Chúng
ta không nên quá thiên về làm phước mà quên đi trau dồi
Đạo Đức sâu thẳm bên trong, cũng không nên quá thiên về
Đức tốt của tự tâm để quên đi việc làm lợi ích cho
mọi người bên ngoài.
5- THỜI GIAN TỪ NGHIỆP ĐẾN KẾT QUẢ.
Câu chuyện của Ngộ Đạt Quốc Sư bị mụt ghẻ mặt người làm ngài đau đớn vô cùng. Nguyên nhân của nó từ khoảng 10 kiếp trước ngài là nhân vật Viên Án tâu vua chém chết Triệu Thố một cách oan uổng.
Chuyện
khác gần đây, trong cơn căm giận tột độ, anh Tư đã dùng
hết sức bình sinh tung một cước độc hại vào ngực anh
Tuấn. Anh Tuấn đang ngồi dựa vào tường. Thoáng thấy cú
đá anh lách người né ra cửa. Không trúng anh Tuấn, cú đá
đi luôn vào tường dày 20 làm tường chấn động rạn nứt
và năm ngón chân của anh Tư bị dập nát, phải đưa anh đi
bệnh viện cấp cứu.
Ở
câu chuyện của Ngộ Đạt, thời gian để cho quả báo xuất
hiện là 10 kiếp. Ở câu chuyện dưới quả báo xuất hiện
song song với nghiệp nhân.
Không có thể xác quyết rằng một nghiệp phải có quả báo ở lúc nào, đời này, đời sau, hay nhiều đời khác. Nó tùy thuộc vào nghiệp duyên của mỗi người. Ngay khi chúng ta vừa đắp xong một đoạn đường hư lỡ, lập tức ngay trong Bản Thể, luật Nghiệp Báo đã sắp xong các quả báo lành cho vị lai. Nhưng để xác định thời điểm cho mỗi quả báo xuất hiện, cần phải phối hợp với tất cả nghiệp duyên từ trước. Ở đây, luật Nghiệp Báo giống như một máy siêu điện toán cực kỳ tinh vi, trong thoáng chốc đã “tính ra” tình trạng của quả báo này và thời điểm của quả báo.
Có
người từng tạo phước quá nhiều, đời này có lỡ làm
tội, quả báo cũng ít khi xảy ra trong thời gian gần, có thể
kéo dài qua nhiều kiếp sau nữa. Ngược lại, người ít phước,
năm nay vừa lừa gạt bạn bè, vài năm sau đã bị lừa gạt
lại.
Hoặc
có người tội dày, bây giờ có ráng tu tập làm phước cũng
khó thấy được kết quả nhanh chóng. Có khi phải qua đời
sau mới được hưởng. Ngược lại người ít tội, vừa làm
phước như bố thí, phóng sinh, năm mười năm sau đã thấy
cuộc đời tràn đầy may mắn yên lành.
Một ông già giữ mía, tưởng là heo đến phá, đã phóng cây xà-búp ghim vào bụng đứa bé. Ông sợ hãi chôn đứa bé để phi tang mặc dù nó chưa chết. Hơn mười năm sau, đứa bé tái sinh qua nhà hàng xóm, đã lỡ tay làm rớt con dao ghim vào bụng ông khi ông đang cõng nó để hái trái đu đủ. Ông chịu đựng đau đớn suốt mấy ngày, cho gọi gia đình có đứa bé bị giết hồi mười năm trước và tất cả mọi người thân thuộc đến, ông thuật lại câu chuyện đã được dấu kín từ lâu, và xác nhận đây là quả báo mà ông phải trả. Ông vui lòng nhận lãnh và khuyên mọi người ráng làm lành. Sau đó ông qua đời (trong Luận về Nhân Quả, Chơn Quang).
Trong câu chuyện này thời gian để quả báo xuất hiện là mười năm, ngay trong kiếp hiện tại của ông già giữ mía.
Mặt khác, một nghiệp nhân chính thường tạo ra nhiều nghiệp nhân phụ. Ví dụ tên trộm lẻn vào lấy cắp chiếc xe của ông chủ nhà. Nghiệp chính là đoạt tài sản của người khác một cách bất hợp pháp. Bên cạnh đó một số ảnh hưởng phụ kéo theo như, vì thiếu xe đi làm ông phải thay đổi sở làm gần nhà hơn và thu nhập ít đi, kinh tế gia đình bị giảm sút. Các con phải bỏ bớt giờ học thêm. Nỗi buồn kéo dài triền miên trong gia đình. Những nghiệp chính và phụ đó tạo thành nhiều loại quả báo khác nhau. Thời gian để cho mỗi loại xuất hiện cũng khác nhau. Tên trộm phải trả quả báo mất mát trong kiếp này, quả báo ít học trong kiếp sau, quả báo trầm uất trong kiếp sau nữa.
Ví dụ một người mẹ kế đã âm mưu giết đứa con riêng của chồng. Có hai quả báo hiện ra từ một nghiệp nhân đó: một, chính bà sẽ bị giết khi còn nhỏ tuổi ở kiếp sau; ngay trong kiếp này bà phải chứng kiến đứa con ruột mình bị chết oan uổng.
Ở tính chất khác, một người biết tu hành, có lòng thương loài vật, phát nguyện không sát sinh. Ông ít nghiệp ác, chỉ có nghiệp thiện và công đức tu hành hiện tại. Đời sống ông yên ổn bình thản. Một lần ông lỡ đốt rác làm chết nhiều con mối núp ở dưới. Vài ngày sau ông trở bệnh. Cơn bệnh của ông có hai nguyên nhân. Một là do tâm ông áy náy khi biết mình lỡ sát sinh; hai là do quả báo trả sớm, không để dây dưa qua kiếp khác.
Một nhà kiến trúc tên Nhâm (tác giả công trình trụ sở Imexco) không theo tôn giáo nào, chỉ sống theo đạo lý do mình tự tìm thấy. Nhà ông có nuôi ít gà vịt. Ông quan niệm rằng không nên ăn thịt con vật nào đã từng cung cấp trứng cho mình trước đó vì nó đã có ơn với mình. Còn con nào chưa từng cho trứng thì có thể ăn thịt được. Một lần vợ ông giết thịt một con vịt cho cả nhà ăn. Sau đó cả nhà mới phát hiện ra rằng con vịt đã từng cho trứng. Chiều đó miệng ông sưng to như một sự trừng phạt vì đã vi phạm lời thề. Triệu chứng đó cũng có hai nguyên nhân. Một là tâm lý ray rứt của ông, hai là quả báo đến sớm.
Một
tính chất khác cũng cần được nói đến là sự thay đổi
thời gian của quả báo. Ví dụ: anh Tám lỡ tạo nghiệp giam
cầm thú vật. Sự ấn định của luật Nghiệp Báo từ trong
Bản Thể là anh phải bị tù tội ngắn hạn vào mười năm
sau. Nhưng khi gần đến thời gian ấn định, anh lại phát
tâm làm các việc phước thiện như đắp đường, phóng sinh,
bênh vực kẻ oan ức. Cái phước lớn này làm cho quả báo
bị tù tội bị đẩy lùi qua kiếp sau để cho đời sống
hiện tại của anh không bị xáo trộn.
Như
vậy những nghiệp mới làm thay đổi biến dạng quả báo
của nghiệp cũ. Nhờ vào tính chất này, chúng ta có thể chuyển
nghiệp từ xấu thành tốt, từ nặng thành nhẹ.
6- NGƯỜI VÀ THÚ.
Khi tinh trùng của cha kết hợp với tiểu noãn của mẹ, lúc đó mọi người bắt đầu một kiếp sống mới. Nhưng tùy theo nghiệp của mình mà tinh trùng và trứng đó là của loài người hay loài thú.
Thông
thường, người nào tội nặng mới bị đọa làm thú. Dưới
ánh mắt của con người thì loài thú không có nhiều giá trị.
Người ta có thể dùng thú vật để làm thức ăn, để thực
hiện các thí nghiệm khoa học, để phục vụ cho con người.
Mặc dù thời gian gần đây ở các nước tiên tiến có luật
bảo vệ thú vật, hoặc có luật bảo vệ các loài có nguy
cơ tuyệt chủng. nhưng thú vật vẫn thuộc một “đẳng cấp”
thấp kém so với loài người.
Như
vậy, kẻ nào tạo những nghiệp bỉ ổi, thấp hèn, mất giá
trị, mất nhân phẩm sẽ bị đọa làm thú, và ở thân thú
vật này họ bị coi thường khinh rẻ.
Những
nghiệp nào được xem là hèn hạ, mất nhân phẩm?
Đó
là tà dâm, loạn luân, phá vỡ luân thường đạo lý của
xã hội loài người. Dục vọng không biết kềm chế, không
có lý trí hướng dẫn, rõ ràng tương đương với dục vọng
của loài thú. Hạnh nghiệp giống với loài thú đưa tác giả
đi đến kiếp thú về sau.
Hoặc
lòng ích kỷ tột độ biến thành hành vi tranh giành xâu xé
đồng loại không thương tiếc cũng rất giống với loài thú.
Những người quá ích kỷ chỉ nghĩ đến mình, dùng mọi thủ
đoạn hiểm độc để bức hại kẻ khác, dành quyền lợi
cho mình. Tư cách này không khác biệt với loài thú chỉ biết
sống theo bản năng ích kỷ, tranh giành hành vi giống như thú
thì quả báo đọa làm thú là điều không tránh khỏi.
Hoặc có người mỗi khi nóng giận thường chửi mắng kẻ khác là thú vật bằng cách gọi họ là trâu, chó, heo, ngựa... Lời nói ác khẩu này lập đi lập lại nhiều lần suốt đời sẽ đủ sức kết thành quả báo đọa thú ở thân sau. Trong luật Sadi của Phật Giáo Bắc Tông có kể câu chuyện một Sa Di, vì vô tình đã chê bai một vị A La Hán tụng kinh giống như tiếng chó sủa. Do lời nói này, người Sa Di bị đọa làm chó năm trăm đời liên tiếp.
Hoặc có người làm nghề giết thịt như mổ gà vịt, mổ heo bò... Đến khi gần chết họ bỗng trở bệnh kêu la như vịt, như heo và thấy ảo ảnh có vô số thú vật đến cắn xé. Chuyển qua kiếp kế tiếp, chắc chắn họ phải đọa làm thú để chịu lại cảnh đau đớn khi bị mổ giết. Nhưng do trong một đời hành nghề, họ đã giết quá nhiều thú vật nên họ phải đọa làm thú liên tiếp nhiều kiếp sau để trả cho hết oan trái ngày xưa.
Nếu
người đó đã từng sát sinh thú vật cộng với một nhân
cách hèn hạ chắc chắn đời sau họ sẽ đọa làm thú để
vừa bị khinh rẻ, vừa bị giết hại trở lại.
Còn
nếu người đó chỉ phạm tội sát sinh, nhưng có nhân cách
cao cả, độ lượng thương yêu mọi người, kiếp sau họ
vẫn trở lại làm người nhưng phải chịu tai nạn thương
tật hay chết yểu.
Có
người đời trước thọ nhận, nhiều tài vật của người
khác một cách bất chính như trộm cắp, giật nợ, hoặc tu
sĩ nhận cúng dường nhưng không giới hạnh, cộng với một
tư cách đồi bại ích kỷ... Kiếp sau họ sẽ đọa làm các
loài lao động nặng như trâu, bò, ngựa, lạc đà... để trả
nợ. Còn nếu họ chỉ mắc nợ tài vật nhưng vẫn giữ được
tư cách tốt thì đời sau họ cũng được làm người nhưng
vẫn phải lao động quần quật để trả nợ. Sự thụ hưởng
tài vật không chân chính luôn luôn để lại những món nợ
khó chịu cho đời sau. Người phải nai lưng hầu hạ chủ,
phải cẩn thận tùy thuận từng ý muốn của chủ một cách
sợ sệt, hoặc con vật phải kéo cày, chở nặng chịu roi
vọt đều là những hình thức trả nợ đời trước một
cách đau khổ. Sở dĩ như vậy vì họ đã thọ những món
nợ quá nhiều. Thế nên bây giờ khi được dâng tặng hậu
hĩ, chúng ta hãy coi chừng phải chăng đây là những món nợ
khó chịu để dành cho đời sau. Chỉ những tài sản được
tạo nên từ công lao của mình bởi cách thức chân chính,
dù ít hay nhiều, mới thật là thành quả đền bù của cuộc
sống, không phải là nợ dây dưa về sau.
Có
người bị đọa làm thú, trở nên một loài giống bị khinh
rẻ bởi vì họ thường xuyên khinh thường mọi người. Đó
là sự công bình ! Khi chúng ta luôn luôn đánh giá thấp người
khác, xem thường người khác tức là chúng ta đã tạo cho
mình một quả báo bị khinh rẻ trở lại. Có nhiều hình thức
để bị khinh rẻ. Hoặc người mang bệnh lây nhiễm khó chữa
như phong hủi, lở lói hôi hám, hoặc người mang thân phận
tù tội, hoặc người kém tiền bạc, kém tài năng, kém nhân
cách, hoặc người bị mang tiếng xấu (do sự thực hay bị
vu khống). Nhưng thân thú vẫn là “thân phận” bị xem thường
rõ rệt nhất. Vì vậy, tâm tự cao cho mình là hơn, thấy người
là kém, nếu quá đáng vẫn có thể đưa đến quả báo đọa
làm thú ở mai sau.
Trong
các trường hợp khác chúng ta cũng thấy có một vài ngoại
lệ. Một số con chó được chủ cưng chìu nuôi nấng còn
sướng hơn con người (tất nhiên là người nghèo). Quả báo
này do hai nguyên nhân: một, ở thân trước làm người, con
chó này có nhiều ân nghĩa với chủ, đã giúp đỡ chủ đắc
lực; hai, bên cạnh đó nó gây một số nghiệp bỉ ổi, mất
nhân phẩm. Do nghiệp kém nhân cách, nó phải đọa làm chó,
và do ân nghĩa lớn lao với chủ, nó được cưng chiều quá
đáng.
Đối
với thuyết tiến hóa, các nhà sinh vật cho rằng thỉnh thoảng
xuất hiện các đột biến về cấu trúc của thú vật khiến
cho một vài con có đặc tính hơn hẳn đồng loại. Trong một
đàn chó sói, thỉnh thoảng có một vài con thông minh hơn,
hiền lành hơn, được con người tuyển chọn để nuôi dưỡng
thuần hóa dần dần tạo thành giống chó nhà như hiện nay.
Những con vật khác nhờ có tính chất đột biến này đã
thích hợp với sự thay đổi của môi trường Địa cầu trong
khi những con khác bị thiên nhiên đào thải. Sự đột biến
đó làm cho loài vật tiến hóa dần dần để trở thành loài
người. Rồi trong loài người cũng có sự đột biến để
cho ra những vĩ nhân nổi bật. Nhưng con người không tìm thấy
tiếp tục rằng với những vĩ nhân đó có thể sản sinh ra
một “loài người mới” cao cấp hơn con người hiện tại.
Họ chỉ như một vài vì sao đơn độc lóe sáng giữa bầu
trời rồi rơi rụng bỏ lại con người với những sự quay
cuồng lặn hụp tầm thường như xưa.
Sự
sống ban đầu của Địa cầu đã xuất hiện như thế nào
vẫn còn là một bí ẩn. Các nhà khoa học tính toán rằng
với điều kiện thiên nhiên ban đầu, khả năng xuất hiện
một Protéin là một phần hai tỷ, nghĩa là coi như bằng không.
Thế nhưng các tế bào đã có mặt càng lúc càng nhiều và
phức tạp dần dần. Nhân Quả ở đây phải giải thích làm
sao? Từ một chỗ không có gì, bỗng nhiên có sinh vật xuất
hiện, rồi sau đó động vật chính thức ra đời có tâm thức
phức tạp, có tạo nghiệp nhân để thọ quả báo. Ai đã
làm thành động vật có tâm thức để cho động vật đó
phải lăn lóc đấu tranh vì sự sống một cách cực khổ.
Trong sự đấu tranh sinh tồn đó, các động vật khi thì giúp
đỡ lẫn nhau (thiện) khi thì xâu xé lẫn nhau (ác) để tạo
thành vô số nghiệp thiện ác lẫn lộn thúc đẩy họ lăn
trôi trong luân hồi mãi mãi. Phải chăng nguyên nhân ban đầu
là một Thượng Đế có quyền năng đã tạo ra tất cả như
một vở bi hài kịch không lối thoát?
Ở
dịp khác chúng ta sẽ trở lại vấn đề này một cách kỹ
lưỡng hơn.
7- NGHIỆP CHUNG VÀ NGHIỆP RIÊNG.
Một
cơn động đất kinh khủng đã phá hoại một vùng đất rộng
lớn ở Trung Hoa. Nhiều người chết, nhiều người bị thương
và nhiều nhà cửa bị hư hại. Trước một tai họa chung đó,
các nhà Nghiệp Báo học gọi là cộng nghiệp (nghiệp chung).
Trong
một khu phố yên tĩnh. Ông Ba bị dây điện đường đứt
rơi trúng khi đi ngang. Ông chết tại chỗ, người ta gọi trường
hợp này là biệt nghiệp (nghiệp riêng).
Đối
với nghiệp riêng thì vấn đề trở nên đơn giản, nghiệp
ai đã gieo thì nấy chịu. Nhưng trước một tai họa chung thì
sự việc phức tạp hơn nhiều.
Không
hẳn là những người cùng chịu chung một tai họa bởi vì
trong quá khứ đã xúm nhau làm chung một điều ác. Họ chỉ
là những người có quả báo giống nhau, rồi do sự thúc đẩy
của nghiệp đã tìm về ở chung một môi trường với nhau.
Bốn
mươi người có chung quả báo sẽ bị tai nạn xe cộ, đã
mua vé đi cùng một chuyến xe đò. Khi tài xế lái đến quảng
đường vắng thì thấy bóng một cô gái áo trắng tóc xỏa
chời vờn trước mũi xe. Anh vội vã bẻ volant và đạp thắng.
Xe mất thăng bằng lật nhào vào cánh ruộng bên đường. Người
nghiệp nặng thì chết, người khác thì bị gãy tay chân, chấn
thương. Một vài người nghiệp nhẹ thì qua một cơn kinh hoàng
và chỉ bị xây xát chút ít.
Chính nghiệp của 40 người đã tạo ra một ảo ảnh trước mặt người tài xế. Nhiều người giải thích rằng có một hồn ma tại khúc đường đó muốn làm cho xe lật đổ tìm thêm người chết làm bạn.
Chưa
chắc là 40 người này đã tạo chung một nghiệp ác từ quá
khứ. Có thể họ chỉ tạo nghiệp riêng rẽ, nhưng đều chiêu
thành một quả báo giống nhau nên nghiệp duyên đã thúc đẩy
họ đi cùng một chuyến xe định mệnh.
Sông
Mêkong dâng nước làm ngập lụt nhiều vùng ở hạ lưu. Một
trong những nguyên nhân được tìm thấy là do khói các giếng
dầu ở Koweit bị Irak đốt cháy làm xáo trộn thời tiết
Địa cầu, cộng với nạn phá rừng từ thượng nguồn sông
từ Hy Mã Lạp Sơn qua Vân Nam đến Lào, Thái Lan... khiến cho
thiếu rừng giữ nước mưa lại. Như vậy phải chăng người
Irak gây nhân và người Việt Nam chịu quả báo?
Không
phải vậy, đó chỉ là Nhân Quả của khoa học vật lý trong
không gian vật lý. Nó chỉ là bề nổi của luật Nghiệp Báo
ẩn dấu đằng sau.
Hệ
quả của việc phá rừng đầu nguồn là gây lũ lụt ở vùng
hạ lưu. Những ai cũng có quả báo phải chịu lũ lụt sẽ
sinh ra lớn lên, hoặc từ đâu chuyển về sinh sống, nơi những
vùng đó để cùng nhau chịu chung tai họa. Còn những kẻ phá
rừng đầu nguồn sẽ được “tính sổ” ở tương lai.
Ở
tính chất khác, có những người cùng tạo chung một nghiệp,
cũng dễ dàng cùng chịu quả báo đồng thời.
Ví
dụ một ông quan ra lệnh giết một người tốt chỉ vì người
này bênh vực dân nghèo chống lại những kẻ giàu có ức
hiếp họ. Khi xử thiêu ở giàn hỏa, những kẻ giàu có reo
hò biểu lộ sự đồng tình. Đến đời vị lai, ông quan,
đao phủ và đám người hùa theo vô tình hội họp ở nhà
ăn lớn. Thế rồi nhà ăn phát lửa, nhóm thực khách kinh hãi
hỗn loạn, ông quan và tên đao phủ bị chết thiêu, còn những
kẻ khác thì bị phỏng nặng.
Nghiệp tùy hỉ với kẻ khác cũng làm chúng ta bị vạ lây. Mỗi khi trông thấy người mổ heo bò, đánh lộn hoặc cướp giật, nếu không ngăn cản được thì thôi chứ chúng ta đừng khởi tâm đồng tình với họ. Nếu có tâm niệm đồng tình ắt có ngày chúng ta “ăn theo” một chút quả báo của họ. Nhiều kẻ ăn không ngồi rồi hay xúm xít xem cảnh một người làm thịt chó với vài ý kiến đóng góp nhiệt tình, hy vọng sẽ được chia ít phần. Họ đâu biết rằng nghiệp nhân đó làm họ đổ thịt chảy máu ở mai sau.
Cũng
có trường hợp nhiều người chung tạo nghiệp, nhưng vì thiếu
duyên để gặp gỡ nên họ chia ra nhận quả báo riêng rẽ
mỗi nơi khác nhau mặc dù quả báo khá giống nhau.
Ví
dụ, ba người cùng phát tâm đắp một con đường cho dân
làng đi lại dễ dàng. Nhưng do tư tưởng và một số nghiệp
khác lại không giống nhau nên đời sau họ sinh qua ba đất
nước khác nhau. Mỗi người đều học ngành xây dựng cầu
đường và thành công giàu có tốt đẹp gần như nhau.
Trong truyện tích về trưởng lão Losaka Tissa kể rằng vì đời quá khứ, trưởng lão đã đố kỵ với một vị ALaHán, nên nhiều đời về sau trưởng lão đọa làm chó đói, đến khi trở lại làm người cũng bị đói kém thê thảm. Trong kiếp cuối cùng, khi ngài đầu thai tại làng đánh cá, cả làng bỗng nhiên bị một tai họa như mất mùa cá, lửa cháy, hồ nước cạn, vua xử phạt. Họ tìm ra sự xui xẻo xuất hiện từ gia đình của đứa bé và đuổi người mẹ có mang ra đi. Bà mẹ đi xin ăn để nuôi con. Khi đứa bé vừa có thể chập chững xin ăn được, người mẹ bỏ trốn! Sau này chú bé được ngài Xá Lợi Phất tiếp độ và được gọi là Losaka Tissa. Mặc dù chứng được đạo quả ALahán, nhưng trưởng lão vẫn chịu sự đói thiếu suốt đời (Luận về Nhân Quả).
Ở
trường hợp này, không phải là họ cùng tạo nghiệp chung
với trưởng lão từ quá khứ. Chỉ là do nghiệp của trưởng
lão không được sống một cách êm ấm, phải lang thang đói
thiếu vất vả nên nó thúc đẩy toàn bộ dân làng hiện ra
quả báo xấu của họ, để cho họ buộc lòng phải đuổi
người mẹ có mang ngài ra đi.
Không
hẳn là nghiệp ác đời này sẽ sinh ra quả báo ở đời sau.
Nó có thể kéo dài vài trăm năm về sau. Có những nhà tiên
tri lừng danh như Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Nostradamus (1503-1566
Pháp), Jeane Dixon (Mỹ) có thể thấy trước việc tương lai
từ rất xa. Nostradamus có thể tiên tri những việc sau đời
ông 7000 năm! Cho đến hôm nay khi nghiệm lại các lời tiên
tri bóng gió của ông, người ta thấy đúng nhiều chi tiết
đến kỳ lạ. Cuộc Cách Mạng Pháp với Công Xã Paris được
diễn tả rành mạch; nhân vật De Gaulle được nói đến khá
chi tiết... Những sự việc chung này được tiên đoán từ
rất lâu chứng tỏ rằng luật Nghiệp Báo từ trong Bản Thể
đã sắp xếp quả báo của mọi người khá rõ ràng từ nhiều
nghìn năm về trước. Nostradamus có một sự nhạy cảm tâm
linh cao độ, đã “đọc” được tiến trình này dù cho nó
chưa hề có dấu hiệu nào nơi không gian vật lý.
Những
quả báo chung của mọi người như thiên tai, chiến tranh, hỏa
hoạn... dường như đã được sắp xếp sẵn từ rất lâu.
Đó là sự tập hợp nghiệp của mọi người từ khắp nơi
trên thế giới. Ví dụ có ba nghìn người tạo nghiệp ác
ở rải rác mọi nơi. Quả báo của họ khá giống nhau là
phải chịu một trận phun núi lửa dữ dội. Nhưng nhân duyên
để họ quây quần về sống gần nhau dưới chân núi lửa
cần phải một thời gian là năm trăm năm sau nữa. Và một
vài nhà tiên tri siêu việt đã nhìn thấy sự kiện sẽ xảy
ra này.
Có một tai họa chung mà toàn thể nhân loại phải gánh chịu đó là ngày tận thế! Một số tôn giáo đã nói nhiều về ngày tận thế để khuyến khích tín đồ cố gắng tu thiện ngay từ bây giờ. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng vào kỷ Gjura đã từng xảy ra một vụ va chạm giữa Địa cầu với một thiên thể lớn khiến cho các loài khủng long dường như bị tuyệt chủng đồng loạt. Vào năm 1988, một vẫn thạch lớn cắt ngang quỹ đạo Địa cầu tại một nơi mà Địa cầu mới đi qua. Các nhà thiên văn còn e ngại một sự gặp gỡ tương tự sẽ xảy ra vào lúc khác . Nếu có một sự va chạm lớn như vậy, chắc chắn đó là ngày tận thế của nhân loại. Tuy nhiên, có một ngày tận thế chắc chắn nhất mà chúng ta không thể tránh khỏi là sau vài tỷ năm nữa, mặt trời đã nguội, không còn sưởi ấm cho trái đất nữa, lúc đó một cái lạnh khủng khiếp tiêu diệt toàn bộ sự sống nơi hành tinh này. Từ nay tới ngày đó còn quá xa để cho chúng ta phải lo sợ, chỉ sợ những tai họa bất ngờ xảy ra ngoài dự kiến của con người, và xảy ra trong thời gian rất gần khi mà con người chưa đủ khả năng bồng bế, kéo sang một hành tinh khác để lánh nạn.
Tận
thế, một quả báo chung của toàn thể sinh vật (nhất là
động vật) là do nghiệp nhân gì của mọi người?
Cái
chết tập thể này là do tất cả mọi người cư ngụ trên
quả đất, vì sự sống của mình đã thường xuyên tạo các
nghiệp PHÁ HOẠI SỰ SỐNG LẪN NHAU.
Những
loài vật có khả năng hơn đã ăn thịt các loài vật kém
khả năng hơn. Con cọp mạnh bắt đi con dê yếu đuối, vồ
đi con người mảnh mai. Con cá lớn nuốt con cá bé. Con người
thì đủ thông minh để có thể giết tất cả các loài khác
và đồng loại của mình.
Việc giết hại động vật có tâm thức thường gây nên các quả báo rõ ràng trong thời gian gần như vài năm, vài kiếp, vài trăm năm. Kẻ thủ phạm phải chịu đền trả một mình (nghiệp riêng) như bị thương tật, bị chết chóc; hoặc phải chịu tai họa chung với nhiều người khác (nghiệp chung) như bị các thiên tai, bệnh dịch, tai nạn giao thông.
Có
một nghiệp “hủy hoại sự sống” rất âm thầm khó
thấy nhưng quả báo của nó đủ sức đưa đến tận thế,
đó là sự chặt phá cây cối. Thực vật có sự sống và
có tâm linh, một tâm linh đơn giản. Tuy thực vật không biết
đau đớn nhưng ai hủy diệt sự sống của thực vật (nhất
là phá rừng) cũng đã tự chuốc lấy quả báo bị hủy diệt
sự sống của chính mình về sau. Toàn thể nhân loại mỗi
ngày đều tiêu diệt sự sống màu xanh trên hành tinh để
làm món ăn (rau), để làm vật dụng (gỗ), để làm nhiên
liệu (củi). Cái nhân tiêu diệt sự sống màu xanh đó tích
lũy qua nhiều kiếp, nhiều triệu năm, nhiều tỷ năm, ắt
phải đưa đến sự tận thế ghê gớm.
Đối
với không gian vật lý, việc phá rừng có nguy hại trầm trọng
đến với sinh thái Địa cầu. Những khu rừng già rậm rạp
có chức năng lọc không khí như một bộ phổi của hành tinh,
rừng hấp thu nhiệt độ của ánh sáng làm dịu bớt cái nóng
của mặt trời và giữ độ ẩm cho không khí; rễ cây rừng
giữ nước mưa để không làm thành lũ lụt, giữ độ ẩm
cho đất khi không còn mưa khiến cho mạch nước được duy
trì trong suốt mùa khô. Phá rừng là một hành vi tự hủy
diệt chính mình, nhưng không đủ để gọi là gây nên tận
thế. Cái quả báo tận thế được nói đến ở đây chính
là dựa vào không gian tâm linh. Sự tiêu diệt sự sống của
cây cối, tiêu diệt tâm linh đơn giản của cây cối tạo
thành một quả báo trầm trọng hơn chúng ta nghĩ theo không
gian vật lý. Nó âm thầm tích lũy dần dần để đưa đến
một tai họa khủng khiếp cho toàn thể loài vật đến nỗi
đáng được gọi là tận thế.
Chúng
ta sẽ đặt vấn đề nếu không sử dụng thực vật, dù trực
tiếp hay gián tiếp thì con người làm sao giải quyết nhu cầu
đời sống, và chính vì đã chung nhau tích lũy nghiệp hủy
diệt sự sống màu xanh nên ngày tận thế của nhân loại
là điều không tránh khỏi. Nhưng dù sao, đối với dòng luân
hồi vô tận sinh tử tử sinh tiếp nối mãi thì cái chết
lúc tận thế có gì quá quan trọng để chúng ta phải sợ
hãi đâu ? Miễn là chúng ta có một sự nghiệp phước đức
cực kỳ lớn đã tích lũy nhiều đời đủ đưa chúng ta đi
sang một kiếp sống mới, ở một hành tinh khác vui sướng
hơn Trái đất gấp bội lần.
Sau
ngày tận thế, kẻ nhiều tội sẽ tái sinh qua một hành tinh
đầy khổ sở, biến động, hoang dã. Kẻ có phước sẽ tái
sinh qua một hành tinh văn minh, tiện nghi, hạnh phúc tràn trề.
Dòng luân hồi vẫn tiếp tục lăn mãi trừ phi kẻ nào đã
chứng đạt Bản Thể Tuyệt Đối để giải thoát hoàn toàn
mới không bị luân hồi chi phối.
Nếu
nhân loại cứ bạo tàn hủy diệt sự sống lẫn nhau và sự
sống màu xanh của thực vật thì ngày tận thế sẽ đến
gần hơn. Nếu nhân loại biết bồi đắp giữ gìn sự sống
lẫn nhau, giữ gìn sự sống màu xanh cây cỏ thì ngày tận
thế sẽ dang ra xa mãi, nhưng dù sao ngày tận thế cũng phải
đến khi mặt trời bắt đầu nguội. Luật vô thường sinh-trụ-hoại-không-
là điều không tránh khỏi.
Thế
nên, có mặt trên cuộc đời này, chúng ta hãy trân trọng
sự sống của muôn loài, dù đó là con người, thú vật hay
cây cỏ lá hoa. Hãy thương yêu và giữ gìn tất cả để góp
phần đẩy lùi ngày tận thế ra xa hơn.
8- GIÚP ĐỠ
Hành động giúp đỡ được thể hiện qua nhiều cách, hoặc bằng lời nói hướng dẫn cách thức làm ăn mua bán cho người, hoặc bằng hành động làm giúp công việc nặng nhọc cho người, hoặc bằng cách cho, tặng (bố thí cúng dường) tài vật đến người. Từ sự giúp đỡ như thế, người khác được dễ dàng trong cuộc sống hơn, nghĩa là họ được vui sướng hơn.
Mỗi
một sự giúp đỡ cho người khác sẽ tạo thành một hay nhiều
quả báo lành ở vị lai cho chúng ta. Ví dụ anh Hai đã giúp
ông Tám dựng lại ngôi nhà sau cơn hỏa hoạn. Hành vi giúp
đỡ của anh Hai đem lại cho ông Tám những lợi ích sau đây:
-
Gia đình ông Tám có nơi ẩn trú, tránh được mưa nắng
và bớt bị bệnh tật.
-
Tài sản còn lại như một số quần áo, giường ghế đước
cất giữ tử tế tránh được mất mát.
-
Ông Tám nhanh chóng ổn định, xây dựng lại kinh tế gia đình.
-
Gia đình ông được vơi bớt nỗi buồn vì thấy có sự quan
tâm giúp đỡ của láng giềng.
Mỗi
lợi ích của gia đình ông Tám sẽ kết thành một quả báo
lành cho anh Hai ở vị lai.
Sau
này ngay ở trong kiếp hiện tại hoặc những kiếp vị lai.
Anh Hai thường có nhà cửa ổn định, không phải bệnh tật
vì phải phơi mình giữa mưa nắng, tài sản ít bị mất mát
vì có nơi cất giữ an toàn, nhanh chóng ổn định về kinh
tế, luôn luôn được mọi người quan tâm giúp đỡ.
Nếu một người suốt đời tích lũy nghiệp từ thiện, thường xuyên giúp đỡ mọi người một cách nhiệt tình, quả báo dành cho họ là sự thành công vinh quang rực rỡ ở những kiếp về sau.
Trong cuộc sống có những người làm chơi ăn thiệt, họ được thần may mắn mỉm cười, những dự định đều được tiến hành suôn sẻ. Đôi khi mọi người phải ngạc nhiên về sự may mắn liên tiếp của họ. Tất cả đều bắt nguồn từ hành vi giúp đỡ kẻ khác trong quá khứ! Thiếu làm việc từ thiện, cuộc đời chúng ta sẽ kém may mắn.
Tuy nhiên tùy theo tính chất của việc làm từ thiện mà chúng ta sẽ đạt được quả báo lành về sau một cách khác nhau.
Ví dụ nếu đời trước chúng ta dùng lời nói để chỉ bảo cho người khác đi đến thành công. Nhờ sự chỉ bảo này họ gặt hái được kết quả tốt đẹp. Quả báo về sau của chúng ta là dễ dàng, may mắn tiếp nhận được những phương pháp tốt để hành động, nhưng trên bước đường hành động chúng ta phải nổ lực bởi chính khả năng của mình, ít được sự giúp đỡ chia xẻ gánh nặng bởi vì trước kia chúng ta chỉ giúp đỡ người khác chứ không “làm giùm” cho họ. Ví như chúng ta chỉ cho một người đi về ngọn núi phía Tây mà đào vàng nhưng không đi đào giúp họ. Về sau tuy chúng ta cũng được chỉ vẽ phương pháp làm ăn mua bán (hay học tập), nhưng phải làm lấy tất cả bởi sức lực của mình.
Nếu
chúng ta hay giúp đỡ kẻ khác về tài vật nghĩa là bố thí
hoặc cúng dường, khiến cho kẻ khác không tốn công sức
mà vẫn có tài sản, thì quả báo chờ đợi chúng ta là thường
gặp những may mắn kỳ lạ để có được tiền mà không
cần phải cực nhọc nhiều như trúng số, hoặc tìm thấy
kho tàng, hoặc kinh doanh lời hơn mức dự tính, hoặc được
thừa kế gia tài của tiền nhân.
Lisa
Marie Presley mới 9 tuổi đã thừa kế một gia tài kếch sù
của cha cô là vua nhạc Rock Elvis Presley khi ông qua đời vì
bệnh tim.
Một
số người mua nhầm tờ vé số trúng độc đắc. Một người
mua khu vườn, đã đào phải hũ vàng khi sửa sang lại khu vườn
đó.
Vô
số trường hợp không làm mà hưởng như thế đều là quả
báo của sự bố thí tài vật lớn lao từ những kiếp trước.
Phần
đông còn lại ai cũng phải làm mới có ăn. Tuy nhiên với
công lao khó nhọc của tâm hồn và thể xác giống nhau, nhưng
sự thành công mỗi người lại khác nhau. Có những người
từ kẻ mua đồ đồng nát dạo, gánh trên vai rao mua ve
chai (phế liệu), sau này trở thành tỷ phú lừng lẫy một
thời như chú Hỏa ở Chợ lớn. Hoặc từ một đại phú như
Âu Vinh có tiền cho vay khắp cả Sài gòn thuở trước, bây
giờ chết không có hòm chôn tại HongKong. Riêng Ââu Vinh có
một đặc tính là không bao giờ bố thí từ thiện một xu
nhỏ “Hãy bảo họ ráng làm mà ăn” ! Đó là câu trả lời
cho đoàn lạc quyên cứu trợ khi đến gặp ông ta.
Mức
độ thành công của chúng ta ở kiếp này tùy thuộc vào mức
độ chúng ta giúp đỡ mọi người ở kiếp trước. Nghiệp
từ thiện càng nhiều thì sự thành công càng lớn lao.
Đôi
khi chúng ta nhìn lại cuộc đời mình và không tránh khỏi
giật mình sợ hãi. Bao nhiêu năm tháng bình an trôi qua, chúng
ta làm việc và sống một cách êm đềm. Thỉnh thoảng có
một vài biến động nhỏ không đáng kể. Nhưng khi tính sổ
lại, dường như suốt thời gian vừa rồi chúng ta chưa làm
được việc thiện nào cả, chưa giúp đỡ ai một cách tận
tình có ý nghĩa. Khi nhìn lại điều này chúng ta cũng “nhìn
thấy” luôn về kiếp sau, dường như sẽ không có sự may
mắn nào đến với chúng ta, sẽ không có một thành công đặc
biệt nào cho đời sống kế tiếp.
Như
vậy, không siêng năng làm việc từ thiện là một sai lầm,
một sự kém hiểu biết, một sự thiếu sót nghiêm trọng
trong cuộc đời.
Ở phương diện khác, quả báo của sự giúp đỡ tùy thuộc vào đối tượng được giúp đỡ. Nếu chúng ta giúp đỡ cho một vị Thánh cao cả để vị này sống một cuộc đời đẹp đẽ thánh thiện với một nội tâm bình an vô hạn, với một đạo đức hoàn hảo tuyệt vời. Sự tốt đẹp còn lan tỏa cho nhiều người khác khi vị thánh ấy rao giảng về đạo đức, thiền định và giải thoát cho mọi người. Với một “đối tượng” như thế, sự giúp đỡ - cúng dường đem đến một quả báo cực kỳ vinh hiển ở vị lai. Chúng ta đã đem hạt giống gieo trên mảnh đất vô cùng màu mỡ và sẽ gặt hái một vụ bội thu về sau.
Khi nói về một triệu phú vừa chết ở thành Vương Xá, không con để thừa kế nên vua Pasenadi cho sung công tài sản, Đức Phật bảo rằng nhiều kiếp về trước, ông ta thường hay cúng vật thực cho một vị độc giác Phật khất thực ngang nhà. Kết quả trở lại là bảy đời liên tiếp ông luôn được giàu sang sung túc. Chỉ vì có lần ông đã giết người con trai duy nhất của người anh mình nên ông mắc quả báo là không bao giờ có con để kế thừa tài sản sau khi đã trả xong quả báo giết người kia với hình phạt vô cùng đau đớn.
Ở mức độ thấp hơn, đối tượng được giúp đỡ là một người bình thường, cũng có những buồn thương giận ghét trong đời sống hằng ngày như mọi người. Với một đối tượng như thế, quả báo đem lại cho thí chủ là những sự may mắn vừa phải, không đặc biệt lắm. Tuy nhiên, nếu tích lũy nhiều nghiệp thiện như thế, chúng ta cũng đạt được phước báo lớn lao.
Thế rồi, với sự hiểu biết Nhân Quả sâu sắc, chúng ta đã lựa chọn đối tượng để giúp đỡ, lựa những người có đạo đức tốt đẹp để cúng dường vì mong sẽ được quả báo lớn lao về sau và không ngó ngàng tới những người bình thường vốn dày đặc trên cuộc đời bụi bặm này. Như vậy, rõ ràng hành vi giúp đỡ của chúng ta không xuất phát từ tấm lòng thương yêu kẻ khác. Chúng ta chỉ lợi dụng luật Nghiệp Báo để mưu cầu lợi ích cho bản thân mình về sau. Với ý tưởng như thế chúng ta chỉ có phước (vì đã làm lợi ích cho người khác) mà không có đức (vì xuất phát từ một tâm hồn vị kỷ). Phước mà không có đức cũng giống như nhà không có nền móng vững chắc, sự sụp đổ là điều không tránh khỏi. Sau này, tuy được giàu sang sung sướng nhưng tâm hồn chúng ta vẫn đầy những mưu toan ích kỷ hẹp hòi. Chính khuynh hướng vị kỷ này sẽ thúc đẩy chúng ta tạo những nghiệp bất thiện để rồi chuốc lấy đau khổ về sau.
Vì
thế, chúng ta hãy trang bị cho tâm hồn mình một tình thương
yêu rộng lớn đối với mọi người, mọi loài, hãy giúp
đỡ họ qua cơn khốn khó, hãy làm tất cả vì họ chứ không
phải vì quả báo của mình mai sau.
Ở
khía cạnh khác, chúng ta phải cẩn thận khi giúp đỡ kẻ
ác, bởi vì có thể từ sự giúp đỡ này họ có thêm phương
tiện hãm hại người khác. Và như vậy sự giúp đỡ của
chúng ta tới với họ sẽ tạo cho chúng ta một quả báo xấu
về sau giống như chúng ta đã tiếp tay cho họ tạo ác nghiệp.
Nói
như thế không có nghĩa là chúng ta ruồng bỏ kẻ xấu, không
giúp đỡ gì cho họ. Lòng từ bi không cho phép chúng ta hạn
chế sự giúp đỡ của mình đối với mọi người. Chỉ là,
đối với kẻ xấu, chúng ta vừa giúp đỡ họ qua cơn khó
khăn, vừa khéo léo dẫn dắt họ về với đạo đức. Con
người chỉ chịu nghe lời khi họ đã thọ ân. Các vị bồ
tát đi vào sinh tử để hóa độ mọi người cũng phải tuân
theo quy luật này, nghĩa là phải tạo ân nghĩa cho mọi người
rồi mới dùng lời nói để đưa họ về với đạo đức.
Chúng ta chưa phải là Bồ Tát đã chứng ngộ nhưng cũng có
thể bắt chước hạnh Bồ Tát bằng cách bố thí để giáo
hóa cho kẻ xấu.
Sự
giúp đỡ đối với kẻ xấu đòi hỏi nơi chúng ta một sự
kiên nhẫn, khôn khéo và độ lượng. Chúng ta vẫn phải giúp
họ mà vẫn không tạo điều kiện cho họ làm ác, chỉ làm
sao cho họ chuyển hóa tâm hồn để trở thành người tốt
cho xã hội mà thôi.
Tùy
theo tình hình giúp đỡ, chúng ta sẽ nhận lại một quả báo
tương ứng. Ví dụ người thường hay dùng sức lực để
làm lụng đỡ đần cho kẻ khác, quả báo trở lại là sức
mạnh sung mãn. Và với sức mạnh này họ vươn tới thành
công.
Ví
dụ, người thường hay phụ giúp xây cất trường học, giúp
đỡ việc học hành của người khác, quả báo trở lại là
học giỏi, bằng cấp cao và có nhà cửa khang trang rộng rãi.
Ví
dụ, người thường hay lo việc thắp sáng công cộng, quả
báo trở lại là được đôi mắt tinh tường.
Người
thường hay lo việc cứu trợ cho những nạn nhân bị thiên
tai, hỏa hoạn, chiến tranh... quả báo trở lại là được
yên ổn trong cuộc sống, nếu vừa gặp bất trắc liền có
người giúp đỡ.
Người
thường hay bênh vực kẻ cô thế, yếu đuối, oan ức... quả
báo trở lại là được thế lực lớn (để cho không có ai
dám ăn hiếp).
Có
một số người đang giàu có sung mãn, bỗng do một biến động
trong việc kinh doanh, hay tai nạn liền trở thành một người
nghèo khổ túng thiếu. Quả báo này xuất phát từ đời trước
họ hay làm việc thiện, bỗng qua một lần nóng giận đã
rủ bỏ tất cả, phá hoại tất cả.
Bà
Thái là một hội viên đắc lực của một hội từ thiện.
Bà đã đóng góp cả tài sản và công sức rất nhiều cho
hoạt động từ thiện suốt một thời gian dài. Thế rồi
trong một lần tranh cãi với bạn bè về địa vị trong hội,
bà bất mãn ra khỏi hội và ngăn trở hội tiếp tục hoạt
động.
Hoặc
một ông phật tử thường lo lắng công quả cho ngôi chùa
trong làng với các nghi lễ và các hoạt động phước thiện
xã hội. Sau một lần bị va chạm tự ái ông đã chấm dứt
sự công quả của mình.
Quả
báo của những trường hợp như thế là ở những kiếp sau,
sự thành công bỗng dưng bị đổ vỡ, bị dừng lại.
Thế nên, đối với các việc thiện, chúng ta phải phát tâm kiên trì trường viễn. Đừng vì những việc nhỏ nhặt mà tự phá hoại thiện nghiệp của mình, Phải tích lũy mãi, tích lũy mãi từng chút phước nghiệp bằng cách hễ có cơ hội là giúp đỡ người khác không tiếc công.
Có
một người thuở niên thiếu gian nan vất vả, đến khi trưởng
thành mới đạt được may mắn, thành công. Có hai nguyên nhân
của quả báo đó.
Một
là do từ kiếp trước, lúc còn trẻ họ chỉ mãi lo vui đùa
học hành, không làm được nghiệp phước nào. Đến lớn
tuổi, có ý thức, họ bắt đầu làm việc từ thiện. Qua
kiếp sau, thời gian tương ứng với từng giai đoạn là thiếu
thời bình thường, đến trưởng thành mới bắt đầu thành
công.
Hai
là do từ kiếp trước, họ ít quan tâm giúp đỡ người nhỏ
tuổi, chỉ để ý đến người lớn tuổi. Quả báo trở lại
là khi còn nhỏ tuổi họ kém may mắn, đến khi lớn tuổi
mới gặt hái nhiều tốt đẹp.
Có nhiều người than thở rằng họ thường bị phản bội bởi những kẻ đã thọ ân của họ. Họ mất niềm tin với luật Nghiệp Báo vì thấy rằng họ không hưởng được sự tốt đẹp nào từ hành vi giúp đỡ người khác. Tại sao sự tử tế của họ được đáp lại bằng thái độ vong ân tráo trở?
Có nhiều nguyên nhân của hiện tượng đó. Có thể là lỗi không phải từ nơi người thọ ân. Họ cũng biết ơn và mong muốn có dịp đền trả. Nhưng họ thấy khó gần gũi ân nhân vì ân nhân này luôn kể công và tự phụ. Người thọ ân cảm thấy bị sỉ nhục và khó chịu khi đến gần một ân nhân như thế. Đôi khi họ ân hận vì đã lỡ thọ ân với một con người tầm thường kiêu hãnh đó.
Cũng có thể là lỗi xuất phát từ nơi người thọ ân vì người này quá vị kỷ, chỉ lo cho mình, chỉ nghĩ đến cái được mất của mình mà quên đi ơn nghĩa của người khác. Nếu gặp phải hạng người này chúng ta chỉ nên cười xòa rồi bỏ qua vì người cao thượng có bao giờ “Thi ân cầu báo” đâu, phải không bạn?
Đối
với luật Nghiệp Báo, không bắt buộc rằng quả báo lành
phải do nơi kẻ thọ ân đền trả. Nếu khi thọ ân người
này có khởi ý niệm đền ơn thì sau này (có thể qua nhiều
kiếp) chính họ sẽ đền ơn một cách mỹ mãn. Trong cuộc
đời thỉnh thoảng chúng ta gặp một vài người tốt với
ta một cách đặc biệt, giúp đỡ chúng ta đủ điều. Có
thể họ đã chịu ơn chúng ta từ kiếp trước và có khởi
ý niệm đền trả.
Đối
với người vong ân, không có ý muốn đền ơn, thì quả báo
lành sẽ đến từ vô số trường hợp khác. Hoặc chúng ta
được trúng số, hoặc kinh doanh gặp thời thu lợi bội phần,
hoặc được những người tốt giúp đỡ (người tốt này
không phải là kẻ đã chịu ơn ta).
Chúng
ta sẽ thấy nghiệp tác động vào tận trong tâm thức của
mỗi người.
Một
tên cướp với tâm hồn nhuốm đầy sự ác độc, luôn sẵn
sàng mưu hại kẻ khác, thế nhưng khi quan sát trên đường
phố để tìm đối tượng đánh cướp, tâm ác độc của
hắn chỉ khởi dậy khi trông thấy người có tạo ác nghiệp,
và dường như bỏ qua những người không có ác nghiệp trong
quá khứ.
Cũng
vậy, một nhà hảo tâm luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người,
nhưng khi gặp một kẻ đã gieo nghiệp bỏn xẻn quá nhiều,
tâm tốt của ông dường như lơ đãng chìm lặng không khởi
dậy, khiến cho ông quên đi việc giúp đỡ kẻ đó. Và tâm
ấy chỉ khởi dậy mạnh mẽ khi gặp những người đã gieo
nghiệp thiện từ quá khứ.
Thế
nên, một người gieo ác nghiệp quá nhiều, đi đến đâu chỉ
đánh thức ác tâm của mọi người chung quanh khiến cho họ
chỉ chực muốn hại mình, xua đuổi, mắng chửi mình. Ngược
lại, một người gieo thiện nghiệp quá nhiều, đi đến đâu
đều khơi dậy thiện tâm của mọi người, khiến cho mọi
người phải đối xử tử tế.
9- GIAO THÔNG
Trong
các việc phước thiện, đắp đường, bắt cầu là việc
thiện được nhiều người ca ngợi.
Giao
thông là yếu tố vô cùng quan trọng trong sinh hoạt của xã
hội. Ngay trong ngôi nhà nhỏ bé của chúng ta cũng cần phải
có lối đi; rồi từ làng này sang làng khác, vùng này sang
vùng khác tất cả đều cần đường sá để giao lưu qua lại.
Người ta đi lại để làm ăn, mua bán, học tập, thăm hỏi...
Hầu hết mọi sinh hoạt của con người đều dính líu với
đường đi (kể cả đường hàng không, và đường thủy),
nếu đường sá bị tắt nghẽn, sinh hoạt của con người
sẽ gặp nhiều trở ngại, thậm chí còn gây nên tai nạn nghiêm
trọng. Một người lái xe hai bánh đi từ Sài gòn về Tây
Ninh, bị vấp vào ổ gà, ngã soài xuống đường. Chiếc xe
lớn từ sau lướt tới cán anh chết tại chỗ.
Hiện nay, ở các quốc gia tiên tiến, đường sá thuộc về công trình quốc gia được thi công với kỹ thuật cao. Những đường xa lộ cao tốc, đường rày xe lửa cao tốc được thực hiện rất hoàn hảo. Mạng lưới giao thông trong quốc gia, liên quốc gia được phát triển không ngừng. Anh và Pháp đã hoàn thành đường ngầm xuyên biển Manche để nối liền hai quốc gia bằng đường bộ đi dưới đáy biển.
Thuở
xưa, kỹ thuật thi công cầu đường còn đơn sơ kém cỏi.
Những con đường đất bụi bặm, đường sá lởm chởm nối
các làng mạc, thị trấn lại với nhau. Họ phải vượt qua
những đường đèo hiểm trở, những dòng sông chảy mạnh
bằng đôi chân hoặc bằng sức ngựa. Ngay cả ngồi trên một
chiếc xe ngựa có bánh tròn cũng không sung sướng gì vì dằn
xóc dữ dội. Do giao thông bị hạn chế nên sự giao lưu văn
hóa, phát triển xã hội bị thu hẹp.
Trong
bối cảnh đó, việc tu sửa đường sá, nối bắt cầu cống
luôn luôn là việc làm cần thiết và được mọi người tán
thán. Đối với luật Nghiệp Báo, phước của hành vi đắp
đường bắt cầu cực kỳ lớn lao. Những quả báo lành xuất
phát từ nghiệp thiện đó có thể kể ra như sau:
-
Vì làm cho sinh hoạt của mọi người được thuận tiện nên
mọi sinh hoạt, mọi dự định của mình đều được trôi
chảy tốt đẹp.
-
Vì làm cho người đi đường được an toàn nên chính mình
không gặp tai nạn khi đi đường.
-
Vì khiến cho mọi người dễ dàng đi lại nên chính mình sẽ
được khỏe mạnh, không bị tật nguyền, lệch lạc.
-
Nếu dùng sức lực để đắp đường, quả báo trở lại
là được sức khỏe hơn người khiến cho gặt hái nhiều
thành công trong lao động.
-
Nếu dùng tiền bạc để thuê người làm, quả báo trở lại
là được giàu có sung mãn.
-
Luôn luôn được xe cộ xênh xang, di chuyển thuận lợi.
Hạnh
đắp đường bắt cầu được chú trọng đến nỗi trong kinh
điển của Phật giáo Bắc Tông xuất hiện một vị Bồ Tát
tên là Trì Địa với hạnh nguyện mãi mãi thị hiện vào
sinh tử để gieo duyên với mọi người bằng cách tu sửa
cầu đường.
Vua
Asoka chỉ hãnh diện vì đã trồng cây lấy bóng mát ven đường
cho khách bộ hành, đào giếng ven đường cho khách uống.
Một câu chuyện cảm động được kể trong “Góp nhặt cát đá” (Bản dịch Đỗ Đình Đồng) như sau:
Zenkai,
con trai một Samurai, du hành đến Edo và trở thành người hầu
cận của môt viên chức cao cấp ở đó. Zenkai yêu người
vợ của viên chức này và việc đó bị phát giác. Để tự
vệ, Zenkai giết người chồng và dẫn người vợ tẩu thoát.
Sau
đó cả hai trở thành những tên ăn cắp, nhưng người đàn
bà quá tham lam khiến Zenkai trở nên khinh bỉ. Cuối cùng Zenkai
bỏ người đàn bà và đến một tỉnh xa tên là Buzen. Ở
Buzen để chuộc lại dĩ vãng Zenkai quyết định làm một vài
việc tốt trong đời. Biết trên sườn núi đá có một con
đường nguy hiểm đã làm nhiều người bị thương và thiệt
mạng, Zenkai quyết định đào một con đường hầm xuyên qua
núi đá.
Ban
ngày xin ăn, ban đêm đào núi. Khi Zenkai hơn 30 tuổi thì đường
hầm đã đào được dài 695 thước, cao 6 thước, rộng 9 thước.
Hai
năm trước khi công việc hoàn thành, một người con trai của
viên chức bị Zenkai giết, đã học kiếm và trở nên một
người giỏi kiếm thuật, tìm được Zenkai và muốn giết
Zenkai để báo thù cho cha.
Zenkai
nói:
“Tôi
sẽ dâng mạng cho anh, nhưng hãy cho tôi làm xong công việc
này. Khi công việc hoàn thành anh có thể giết tôi cũng được.”
Người
con trai đồng ý đợi đến ngày xong việc. Nhiều tháng trôi
qua và Zenkai vẫn tiếp tục đào đường. Người con trai trở
nên chán nản vì không có việc gì làm nên anh bắt đầu giúp
Zenkai đào đường. Sau khi giúp Zenkai hơn một năm, anh ta trở
nên kính phục dũng chí và tư cách của Zenkai.
Cuối
cùng con đường hầm đã hoàn thành và người ta có thể qua
lại an toàn.
Zenkai
bảo:
“Bây
giờ việc đã xong rồi, hãy chém đầu tôi đi!”
“Làm
sao con có thể cắt đầu thầy được?” Người thanh niên
hỏi qua làn nước mắt.
Ở câu chuyện này công hạnh khổ nhọc đào đường hầm của Zenkai đã xóa được mối thù sâu đậm của người con trai. Ngoài việc này Zenkai còn hưởng vô lượng phước ở vị lai. Tuy nhiên, dù sao ông cũng phải trả quả báo giết người và đoạt vợ ở một kiếp khác.
Một
người phật tử bán sữa đậu nành ở Phan rang đã “công
quả đắp đường” bằng cách bồi dưỡng sữa cho công nhân
đắp đường gần đó.
Ở
nước ta lao động đắp đường có vẻ nặng nhọc và ít
được coi trọng. Nhưng không có ai ngờ là họ đang tạo phước
rất lớn. Sự giúp đỡ bồi dưỡng cho công nhân làm đường
luôn luôn là điều đáng khuyến khích, cũng giống như chính
chúng ta chung sức làm đường vậy. Hoặc nhặt mảnh vỡ,
gai góc trên đường để tránh cho người sau khỏi dẫm đạp
cũng là điều rất tốt.
Đôi khi chúng ta cũng cảm thấy buồn khi đi qua xóm nhỏ có những đoạn đường hư lỡ, những vũng nước ứ đọng trơ trơ trước mắt mọi người. Đó là những cơ hội để mọi người có dịp làm phước, nhưng họ bình thản vô tư bỏ qua. Những lợi ích chung của thôn xóm mà không ai thèm đoái hoài thì nói gì đến lợi ích của quốc gia, của nhân loại! Một đất nước chỉ phát triển khi những con người trong đất nước đó luôn luôn biết nghĩ đến lợi ích của toàn thể hơn là lợi ích của cá nhân.
Ngược lại với thiện nghiệp đắp đường là ác nghiệp phá đường. Người làm ngăn trở giao thông cũng sẽ chịu quả báo tương xứng như di chuyển khó khăn, sinh hoạt bị trở ngại, tật nguyền ở chân và nghèo khó. Đối với các công trình phúc lợi công cộng như đường sá, cầu cống, nếu không bảo vệ được thì thôi, chúng ta đừng vì lợi ích riêng mình mà xâm phạm làm cho hư lỡ. Quả báo về sau sẽ khó chịu vô cùng.
Nhu cầu về giao thông trên thế giới càng lúc càng tăng. Xe máy được sản xuất ồ ạt. Nạn kẹt xe thường xuyên xảy ra. Phải chăng vì có phương tiện dễ dàng nên con người càng muốn di chuyển nhiều hơn? Sở làm ở xa nhà là một yếu tố chính làm cho giao thông bị tắt nghẽn ở những giờ cao điểm.
Trong
tương lai không xa, phương tiện viễn thông được hoàn thiện
sẽ giải tỏa bớt nhu cầu đi lại của con người. Với hệ
thống truyền hình điện thoại được điều khiển tự động
bởi máy điện toán, người ta có thể ở nhà mà vẫn dự
được các buổi hội nghị, vẫn điều khiển công việc của
sở làm. Thậm chí người công nhân có thể ở nhà mà vẫn
điều khiển cỗ máy hoạt động bình thường qua máy viễn
thông điện toán.
Nhưng
điều đó không làm cho con người chấm dứt mộng ước đi
của họ. Họ sẽ lao tâm khổ tứ để đi đến các hành tinh
khác. Con người vẫn còn ham đi lắm.
10- DIỆN MẠO
Sinh
ra giữa đời ai cũng muốn mình được xinh đẹp. Giá trị
của sắc đẹp lớn lao đến nỗi người ta thường tổ chức
các cuộc thi hoa hậu để tìm ra những người đẹp nhất.
Người đoạt giải, ngoài món tiền thưởng hậu hỉ, còn
được săn đón bởi các hãng phim, các hãng thời trang lớn.
Hầu
hết các diễn viên thủ vai chính đều phải có diện mạo
nổi bật để thu hút cảm tình của khán giả.
Trong
giao tiếp xử thế, người có gương mặt khả ái dễ dàng
thành công hơn.
Sắc
đẹp như là một cái phước dành sẵn để người đó đi
đến đời sống sung sướng khi cơ hội mở ra. Ngược lại,
người có diện mạo xấu xí thật là một bất hạnh trong
đời, ít được cảm tình của mọi người và do đó dễ
bị thất bại. Sự xấu xí làm cho con người đau khổ, và
thẩm mỹ viện đã giàu to nhờ giúp cho người xấu trở nên
dễ coi hơn.
Có
nhiều nghiệp nhân khác nhau để tạo thành một quả báo diện
mạo đẹp đẽ.
Khi
hoàng hậu Mallika hỏi Đức Phật về nguyên nhân đẹp xấu,
Đức Phật trả lời rằng người có tâm nhu hòa, nhẫn nhục
sẽ được đẹp đẽ và kẻ có tâm sân hận sẽ chịu xấu
xí.
Đức Phật cho rằng nét đẹp được tạo nên từ một tâm lý đạo đức có giá trị hơn những loại khác. Người ta có thể gây nhiều nghiệp nhân khác để tạo ra quả báo xinh đẹp, nhưng nét đẹp tạo nên từ một đức tính tốt vẫn là nét đẹp chân thật. Trong lịch sử nhân loại không hiếm gì những người đàn bà đẹp với nhiều thủ đoạn độc ác để chiếm đoạt quyền hành và gây sóng gió khắp nơi. Cái phước xinh đẹp của họ được gây tạo từ một nhân nào đó không phải là đạo đức chân thật. Từ nơi cái phước xinh đẹp này, họ đạt được vinh quang và gieo rắc đau khổ cho người khác.
Đức Phật không khuyến khích người ta tìm sắc đẹp bằng những nghiệp nhân tạm bợ khác, ngài nhấn mạnh đạo đức bên trong làm căn bản cho sắc đẹp bên ngoài. Đó mới là một sắc đẹp nhân hậu và bền vững.
Thật
vậy, mỗi khi nổi giận, chúng ta đã tự tạo cho mình một
gương mặt nhăn nhó khó coi với mắt trợn, mày nhăn, miệng
quặm, răng nhe... nhiều lần tự tạo nét mặt như thế, kiếp
sau nét mặt khó coi đó sẽ trở thành cố định lâu dài.
Với người hiền lành từ ái, vẻ mặt hiện ra là đôi mắt
ân cần, miệng cười vui vẻ, gương mặt bình thản nhẹ nhàng.
Lâu dần, nét mặt dễ coi đó sẽ trở thành cố định ở
kiếp sau.
Trong
cuộc đời chúng ta vẫn gặp nhiều người đẹp đẽ, nhưng
có những tính chất khác nhau. Có nét đẹp gây nên sự qúy
mến kính trọng trong sạch; có nét đẹp gây nên sự ham muốn
chiếm đoạt thấp hèn. Có nét đẹp bày tỏ sự cao thượng
từ tốn. Có nét đẹp lộ ra sự kiêu hãnh tự phụ. Có nét
đẹp kín đáo. Có nét đẹp lẳng lơ... Sở dĩ có sự sai
khác giữa các nét đẹp bởi vì mỗi người đã gieo những
nghiệp nhân khác nhau.
Nếu người tạo nên nét đẹp từ nơi tâm lý đạo đức thuần thục, nét đẹp này sẽ toát ra vẻ thánh thiện, hiền lành, khả kính.
Nếu người thường hay mang hoa trang trí đền thờ các bậc thánh, họ sẽ được cả hai quả báo. Một là sắc đẹp như ngàn đóa hoa kết tụ, hai là sẽ được các công hạnh như các bậc thánh. Mỗi tôn giáo đều có thờ các vị Thánh đặc trưng riêng. Người tín đồ cúng dường hoa cho vị Thánh nào sẽ trở nên giống hao hao phong cách của vị Thánh đó. Hoặc một người không theo tín ngưỡng, chỉ đem hoa trang trí tại tượng của các vĩ nhân thế giới, cũng sẽ gặt hái được kết quả tương tự. Tâm sùng kính một Thánh nhân hoặc vĩ nhân sẽ gây thành quả báo giống hao hao phong cách của vị đó.
Nếu người ít có chê bai kẻ khác, thường hay khen ngợi điều tốt lành của mọi người, cũng sẽ thành tựu được quả báo có hình dáng đẹp đẽ. Họ ít chê bai ai nên không bị xấu xí để bị chê bai trở lại. Họ hay khen ngợi nên được vẻ đẹp để được khen ngợi trở lại.
Nếu người hay dùng tài năng để tô vẽ tranh tượng của các vị Thánh, làm tôn thêm vẻ khả kính của các Ngài, quả báo đẹp đẽ là điều hiển nhiên. Còn những họa sĩ hay vẽ tranh biếm họa, chuyển gương mặt của các nhân vật nổi tiếng sang dạng méo mó, kỳ cục, hài hước sẽ phải chịu quả báo có gương mặt rùng rợn, quái đản ở kiếp sau.
Có người, để cầu phước, đã đem tiền cất chùa, xây nhà thờ, tạo cảnh, đắp tượng, trang trí điện đài... Họ rất tốt với ngôi chùa, với nhà thờ, với tượng Phật, tượng Chúa nhưng không tốt với mọi người chung quanh. Quả báo trở lại là họ được diện mạo đẹp đẽ nhưng để lộ ra vài nét vị kỷ hẹp hòi mà một người tinh ý sẽ nhìn thấy.
Đúng là nếu biết gieo nhân, một người vẫn có thể tạo cho mình một quả báo có diện mạo đẹp đẽ về sau, nhưng nét đẹp đó không liên quan tới đạo đức. Mặc dù đẹp nhưng họ vẫn có thể là người ác. Theo nhận xét của tâm lý học, một người càng chú trọng tới việc trang điểm cá nhân nhiều chừng nào, tâm địa càng hẹp hòi chừng nấy. Người đứng đắn là người chỉnh tề, vừa phải, không dơ bẩn cũng không se xua chưng diện quá đáng. Một người có đôi mắt lẳng lơ cũng là người có tính tình độc ác hung dữ. Thói lẳng lơ hoa nguyệt với tính hung dữ thường đi đôi với nhau.
Trong cuộc đời thỉnh thoảng chúng ta gặp một vài người đẹp mà không có duyên, hoặc có duyên mà không đẹp.
Thường là người đẹp nhanh chóng thu hút kẻ khác ngay buổi đầu nhưng không giữ được tình cảm lâu bền vì không có duyên. Từ “có duyên” của Việt Nam thật là đặc biệt. Nó nói lên cái gì ẩn dấu kín đáo đằng sau mà làm người khác phải xiêu lòng. Người có duyên mới là người giữ được tình cảm tốt của người khác một cách bền bỉ.
Hầu hết những mệnh phụ phu nhân đều thuộc về hạng người có duyên này. Chồng của họ “đi lang thang” rồi cũng phải trở về với họ. Còn các kỹ nữ hầu hết đều đẹp mà “vô duyên” khách ghé lại giây lát rồi đi mất.
Những người “có duyên” chính phục được tình cảm kẻ khác lâu bền chỉ bởi vì họ đã từng kiên trì làm các công đức từ đời trước. Hoặc họ đã từng kiên trì giữ giới hạnh, sắt son chung thủy với bạn đời, tín nghĩa với bạn bè, hiếu để với cha mẹ, trung hậu với chủ nhân, cúng dường bố thí không ngừng nghỉ... Chính những phước nghiệp được theo đuổi kiên trì đã tạo cho họ một cái “có duyên” ở đời sau để cho mọi người quý mến họ mãi mãi.
Còn
những người có tính hay thay đổi, phát tâm làm phước rồi
bỏ dở, hoặc ít giữ chung thủy, hiếu để, tín nghĩa, trung
thành với mọi người sẽ cảm quả báo vô duyên ở đời
sau. Dù có đẹp họ cũng chỉ chiếm được cảm tình của
người trong chốc lát.
Để
nhìn thấy cái “có duyên” của một người chúng ta phải
có trực giác tế nhị vì cái “có duyên” không lộ ra ngoài
như nét đẹp. Nó thường ẩn dấu trong ánh mắt và sắc da.
Các nhà xem tướng số đã căn cứ vào hình tướng và sắc khí để đánh giá cuộc đời của một người. Họ có thể biết người đó thọ hay yểu, giàu hay nghèo, trí tuệ hay đần độn... Đối với những nhà tướng số giỏi họ có thể đọc được 60% cuộc đời của con người hiện ra trên hình thể. Như vậy có sự tương quan giữa Nghiệp Báo và tướng mạo. Nghiệp đã in dấu vết lên hình dáng con người!
Ví dụ một người trong quá khứ đã từng nóng nẩy, hung dữ làm hại kẻ khác. Qua đời này người đó sẽ phải chịu một tai nạn thảm khốc. Nghiệp đã quy định như vậy. Song song với sự an bài của nghiệp, trên gương mặt họ, dấu vết của sự hung dữ còn in trên đôi mắt. Các nhà tướng số nhìn thấy “hung quang” lộ trên đôi mắt và kết luận rằng kẻ này phải chịu một tai nạn nặng nề. Và đúng như thế tai nạn đã xảy ra.
Ví
dụ, một người trong quá khứ từng giúp đỡ mọi người,
làm cho mọi người được vui vẻ, bình yên, vững tâm. Qua
kiếp này người đó cũng trở thành một kẻ giàu có sung
sướng. Bên cạnh sự an bài của nghiệp, gương mặt họ còn
hiện ra vẻ độ lượng, vui tươi, vững tâm, bình tĩnh trên
ánh mắt, miệng cười, dáng điệu khoan thai, sắc da tươi
nhuận. Nhà tướng số nhìn thấy biểu hiện đó và nhận
định rằng kẻ này sẽ trở nên giàu có. Sự thật đã đến
đúng như dự đoán.
Các
nhà tướng số còn đọc được rất nhiều dấu hiệu tinh
tế khác để nhận định về con người, ví dụ như đôi
tai to là dấu hiệu thọ, tai dày là sung mãn tài vật, răng
trong đẹp là phú quý, hàm tròn đầy là phước về hậu,
hàm tóp nhỏ là yểu hay cơ cực lúc già, lông mày gần mắt
là người hẹp hòi, trán rộng là vinh hiển sớm, mũi to đầy
kín là tạo được sự nghiệp lớn...
Thật ra không phải là nhà tướng số mới có thể hiểu được các dấu hiệu của diện mạo con người. Ai có trực giác đều có thể hiểu được mỗi dấu hiệu đó muốn nói lên điều gì. Một người trước kia chưa có trực giác, nhìn đôi mắt của mọi người không thấy ý nghĩa gì. Sau một thời gian tu tập thiền định, trực giác phát triển, người này chợt hiểu được mỗi một ánh mắt, một nét mặt, một nụ cười đều là biểu hiện của Nghiệp Báo. Các dấu hiệu đó là mật mã của nghiệp đời trước ghi lại cho đời này, ai khéo đọc được sẽ hiểu rất nhiều về con người.
Vì
tướng mạo là biểu hiện của nghiệp nên nó cũng bị thay
đổi theo nghiệp.
Một
tay bán dầu tên Bùi Độ (đời vua Hán cảnh Đế) nghèo khổ
lang thang, được thầy tướng số cho biết sẽ chết đói
vì có hai đường chỉ chạy xéo từ cằm lên mép miệng. Ngày
kia Bùi Độ gặp một thiếu nữ ngồi khóc bên giếng sâu.
Hỏi ra sự tình mới biết thiếu nữ mang vàng đi để chuộc
tội oan của cha, chẳng may bị đánh rơi xuống giếng. Ai cũng
nói dưới giếng có con trăn to. Thiếu nữ đang tuyệt vọng
muốn quyên sinh.
Bùi Độ thương tình, nghĩ mình trước sau cũng chết đói nên liều mạng leo xuống tìm được vàng cho thiếu nữ. Nhờ đó gia đình thiếu nữ được phục hồi danh dự và quyền thế.
Một lần gặp lại, nhà tướng số kinh ngạc nói rằng tướng chết đói của Bùi Độ đã biến mất mà thay vào đó là tướng công khanh phú quý rực rỡ.
Đúng vậy, sau này thiếu nữ tên Ngọc Hà đền ơn, đem Bùi Độ về dạy học và giao ước vợ chồng rồi mới thưa với phụ thân. Cha nàng gửi gắm Bùi Độ sang một người bạn khác để nhờ tiến cử. Thời gian xa cách Ngọc hà, Bùi Độ đã lạc lòng với những hình bóng giai nhân khác.
Trên
bước đường tiến quan, Bùi Độ ghé vào thăm nhà tướng
số cũ để tạ ơn, nhưng ông bảo Bùi Độ đã hiện lại
tướng chết đói. Bùi Độ tức giận bỏ đi.
Sau
khi được làm quan, Bùi Độ đánh mất nhân cách, chỉ lục
lạo, cưỡng bức các cô gái đẹp, bị triều đình hạ lệnh
bắt về kinh trị tội. Bùi Độ sợ hãi trốn vào rừng rồi
chết đói cạnh một mỏm đá. Ngọc Hà đau khổ tìm chồng,
trông thấy bộ xương và cũng gục chết bên cạnh.
Cái
phước của Bùi Độ xuất hiện do tâm niệm liều mạng tìm
vàng cứu cô gái. Phước đó quá lớn đến nỗi chuyển hẳn
tướng mạo và số mệnh để cho Bùi Độ trở thành quan chức
vinh hiển. Nhưng rồi, tư cách tầm thường tham dục đã phá
vỡ phước cũ để cho nghiệp chết đói đủ cơ duyên xuất
hiện trở lại.
Như
vậy, tướng mạo tùy thuộc vào nghiệp chứ không cố định.
Nếu chúng ta thường xuyên biết “liều mạng” cứu giúp
mọi người, ắt hẳn tướng mạo và số kiếp chúng ta sẽ
thay đổi một cách tốt đẹp lắm.
11- TÀI NĂNG
Mỗi người sinh ra có cấu trúc não bộ khác hẳn nhau nên trí thông minh đã không đồng. Người sáng suốt, kẻ ngu si. Người giỏi về kinh doanh, kẻ có khiếu về âm nhạc. Có những thần đồng vừa mới sinh ra đã biết nói như Christian Heineken. Ông có thể đọc lại nhiều đoạn trong Thánh kinh lúc lên một, trả lời những câu hỏi về địa dư lúc lên hai, nói được tiếng Pháp và tiếng Latin lúc lên ba, và khi lên bốn đã theo học các lớp triết.
”... John Stuart Mill có thể đọc chữ Hy lạp lúc mới ba tuổi; Macanlay có thể viết thế giới sử lúc mới mười sáu tuổi; William James Sidis đọc và ráng đọc rành chữ mẹ đẻ (Hoa Kỳ) lúc mới lên hai, và đã nói được tiếng Pháp, Nga, Anh, Đức, chút ít Latin, Hy lạp khi lên tám... Charles Bennet xứ Manchester có thể nói được nhiều thứ tiếng lúc mới ba tuổi...” ( Trích Đức Phật và Phật pháp của ĐĐ Narada)
Hiện nay báo chí thế giới nói nhiều về em Arthur, cha người Madagascar, mẹ người Pháp. Năm chín tuổi, Arthur đậu bằng BEPC (trung học đệ nhất cấp, cấp 2 Việt nam), hai năm sau đậu tú tài. Năm 12 tuổi em mới bắt đầu ghi danh vào một khóa học tập thể để làm quen với lề lối thi cử, khi em chuẩn bị lấy bằng cử nhân toán. Hiện nay em đang chuẩn bị một bằng sau đại học về toán thuần lý, đồng thời nghiên cứu định lý cuối cùng của Fermat. Hầu hết thời gian học của em là tự học có sự hướng dẫn của cha mẹ.
Einstein đã hoàn thành thuyết Tương đối hẹp lúc mới 25 tuổi. Cho đến nay, không hẳn là mọi người hiểu rõ khi nghe thuyết trình về đề tài đó mặc dù sách vở đã nói đến rất nhiều.
Vô số những bộ óc kỳ diệu đã đóng góp làm cho nền văn minh của nhân loại càng lúc càng tiến bộ. Có những người tên tuổi vang lừng. Có những người dấu kín tên tuổi vì những lý do khác.
Bên cạnh các tài năng đặc biệt đó cũng có những người “chậm hiểu” đến kỳ lạ. Họ không thể tiếp thu bài toán của lớp năm hoặc lớp sáu. Một cái hàng rào giới hạn vô hình nào đó đã chận đứng tâm trí, không cho phép họ tiến sâu vào các vần đề phức tạp. Họ đành chấp nhận các nghề thủ công để sinh sống.
Các
nhà giáo dục đều nhìn nhận rằng yếu tố giáo dục chỉ
có giá trị một phần nhỏ trong việc khai mở tâm trí con
người. Sự giáo dục chỉ bao gồm vấn đề:
-
Truyền đạt kiến thức.
-
Tập cho học viên suy luận.
Tuy
nhiên, hai vấn đề từ bên ngoài đem đến đó còn bị giới
hạn bởi yếu tố chủ quan của học viên là:
-
Khả năng tiếp nhận kiến thức nhiều hay ít.
-
Khả năng suy luận nhanh hay chậm, sâu hay cạn, phối hợp các
dữ kiện rộng hay hẹp.
Mỗi bộ não con người giống một máy tính đã được chế tạo sẵn. Tùy theo sự chế tạo ban đầu mà khả năng máy tính có thể xử lý bao nhiêu lượng thông tin (tính theo đơn vị byte, kilobyte, megabyte...) Vấn đề quá phức tạp so với khả năng được chế tạo, máy tính không thể giải quyết, hoặc giải quyết rất chậm với sự trợ giúp của chuyên viên.
Từ khi sinh ra, tùy theo nghiệp đời trước, mỗi người có một não bộ khác nhau và mỗi não bộ “dường như” có một khả năng được quy định sẵn. Với khả năng giống hệt nhau nhưng gặp hoàn cảnh giáo dục khác nhau, tài năng của họ sẽ khác nhau. Như vậy có hai loại quả tạo thành tài năng của một người.
- Một, loại quả báo tạo thành não bộ có một khả năng nhất định chừng mực nào đó (chủ quan).
- Hai,
loại quả báo tạo thành môi trường giáo dục hay dở nào
đó (khách quan).
Phối
hợp hai quả báo này, tài năng của một người được hình
thành.
Có
những người được phước thông minh nhưng không có phước
được học nhiều nên tài năng bị hạn chế. Ngược lại,
có người kém thông minh, lẽ ra kém tài, nhưng được ở trong
môi trường giáo dục tốt, được cha mẹ, anh chị, thầy
cô chăm sóc dạy dỗ kỹ lưỡng nên cũng đạt được một
số khả năng nhất định.
Mặc dù ngay từ khi còn trong bào thai, não bộ con người đã hình thành xong các chi tiết và như thế đã quy định xong mức độ thông minh của từng người, nhưng cũng giống như thời vận, cái thông minh của một người cũng bị thăng trầm tăng giảm theo duyên nghiệp. Vào những giai đoạn phước lành bộc lộ, người đó bỗng nhiên sáng suốt kỳ lạ, phán đoán tiên liệu sâu sắc từng vấn đề. Đến khi phước đã hết, cũng con người đó, tự nhiên trở nên lú lẫn mờ mịt, không thể nhìn xa trông rộng, không thể phán đoán sự việc sẽ xảy đến, và họ đi vào thất bại.
Khi đương thời, những bạo chúa như Napoléon, Hitler tính đâu được đấy, có sức cuốn hút kỳ lạ đối với mọi người, chiến công vang dội hoàn cầu. Khi phước đã hết, trận Waterloo chôn vùi sự nghiệp đế quốc Napoléon, còn Hitler thì tự sát dưới hầm trú ẩn.
Một số doanh gia cũng rơi vào trường hợp tương tự. Khi thời vận hanh thông, họ phán đoán trước sự diễn biến của thị trường để đầu tư thích hợp và đạt được những thành công lớn. Đến khi phước đã hết, họ tiên liệu sai lầm, đầu tư không đúng chỗ và bị phá sản.
Luật
Nghiệp Báo xuất phát từ Bản Thể Tuyệt Đối nên nó chi
phối tận trong tâm thức sâu kín của con người. Khi quả
báo lành xuất hiện, nó thúc đẩy tâm con người khởi ra
những dự tính chính xác, độc đáo. Với những dự tính
đó, họ nỗ lực hành động và thành công. Ngược lại khi
quả báo dữ xuất hiện nó thúc đẩy tâm con người mưu tính
chuyện trật đường rầy để họ rơi vào thất bại.
Một
doanh nhân quyết định mua một số đất tại khu vực mà ông
biết rằng gần đấy một hải cảng lớn sẽ được xây
dựng. Khi hải cảng thành hình, giá đất sẽ tăng lên gấp
10 lần. Điều ông không ngờ được là biến động chính
trị đã xảy ra khiến cho đề án bị hủy bỏ. Khu đất ông
mua vẫn phải để hoang và vốn ông bị kẹt vào đó khá nhiều.
Một
chuyên viên sửa máy vô tuyến viễn thông thú nhận rằng có
một loại trực giác nào đó bên trong giúp ông nhanh chóng
đoán được phần hư của máy giữa hệ thống máy chằng
chịt như đám rừng già. Vì nhanh chóng đoán được pan nên
ông giải quyết lẹ làng khiến cho bạn bè nể phục. Riêng
ông tự xét mình và “nhìn thấy” một loại tâm linh đặc
biệt nào đó đã giúp ông trong công việc khó khăn này.
Chính
cái phước trong quá khứ xa xăm đã tạo ra những cái sáng
suốt kỳ diệu trong hiện tại, và bởi suy nghĩ đúng, họ
hành động đúng.
Như vậy những phước nghiệp như bố thí, cúng dường, đắp đường, bắt cầu, giúp đỡ người hoạn nạn, bênh vực kẻ thế cô, săn sóc người bệnh... đã góp phần tạo ra trí sáng suốt cho những đời sau. Nếu phước nghiệp được bền bỉ gây tạo mãi, những đời sau chúng ta có được sự thông minh thường xuyên. Nếu phước nghiệp được làm “có cơn”, nghĩa là khi thì hăm hở, khi thì lười biếng, đời sau chúng ta sẽ có được một trí thông minh “có cơn” khi thì khôn ngoan, khi thì khờ khạo.
Có
một số người có học trong nhà trường, trong sách vở rất
giỏi, nhưng bước vào đời họ như con nai vàng ngơ ngác,
không lường được sự gian trá của con người và liên tiếp
gặp thất bại. Nhân Quả được đánh giá như sau.
Sự
thành công có được là do nghiệp giúp đỡ kẻ khác. Chính
vì thiếu sự giúp đỡ mọi người một cách thực tế nên
họ không gặt hái được thành công. Trong cuộc đời chúng
ta cũng thấy nhan nhản nhiều người rất siêng năng đọc
sách, nghiên cứu đủ thứ vấn đề, nhưng dường như rất
hiếm khi họ bắt tay làm việc thiện một cách cụ thể. Thói
quen nghiền ngẫm lý thuyết cũng tạo ra cho họ một khả năng
suy luận các vấn đề trừu tượng ở đời này và đời
sau. Dĩ nhiên không phải họ mang khả năng tri thức đó qua
đời sau bởi một loại linh hồn thần thức. Chỉ là ý nghiệp
đời trước tạo ra nhân cách cho đời sau mà thôi. Và ở
đời sau họ có khiếu suy tư trừu tượng, nhưng lại cảm
thấy mờ mịt hoang mang khi phải bước ra làm ăn buôn bán...
Có
thể một người tạo phước học giỏi bằng cách siêng năng
dạy học cho học trò. Vì họ tận tụy trong việc dạy các
môn toán, văn, ngoại ngữ... nên đời sau họ được phước
vừa thông minh, vừa gặp được môi trường giáo dục tốt.
Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần dạy các kiến thức khoa học
(khoa học tự nhiên, và khoa học xã hội) mà không có kèm
theo việc làm từ thiện, họ sẽ chỉ được thông minh mà
ít thành công ở cuộc đời thực tế. Đó là hình ảnh các
nhà giáo, các nhà nghiên cứu chỉ giỏi về lý thuyết nhưng
vẫn nghèo khổ trong đời sống. Nếu các nhà giáo trong khi
truyền đạt kiến thức, có dạy cho học trò đạo đức làm
người, hoặc có làm thêm các việc từ thiện, thì chính cái
phước lớn lao của việc truyền đạt đạo đức hoặc việc
làm từ thiện sẽ tạo nên sự thành công cho người đó về
sau. (Ở phần sau chúng ta sẽ trở lại bàn về cái phước
của việc truyền bá đạo đức).
Trong
kinh Bổn Sanh Đức Phật có kể về nhân duyên của trưởng
lão Culla Panthaka. Những đời về trước, trưởng lão là một
người học nhiều hiểu rộng. Tự thị vì tài trí của mình,
trưởng lão đã cười khinh bỉ một huynh đệ thiếu trí,
khiến vị đó mắc cỡ không thể tiếp tục học tập kinh
điển. Do nghiệp nhân như thế nên vào đời hiện tại (thời
Đức Phật ) trưởng lão phải chịu qua một thời gian đần
độn, không thể học thuộc một bài kệ ngắn. Trưởng lão
đau khổ vô cùng vì sự kiện này. Đến khi nghiệp đã hết,
Đức Phật dùng phương tiện khai ngộ khiến cho trưởng lão
chứng được quả vị A La Hán, sự thông minh uyên bác trổi
dậy mãnh liệt, trưởng lão khởi biện tài thuyết pháp như
mây như mưa khiến cho đại chúng kinh ngạc thán phục vô cùng.
Như
vậy, thái độ khinh thị người dở cũng khiến cho chúng ta
chuốc lấy quả báo kém tái năng. Nhưng con người bao giờ
cũng thế, luôn luôn thán phục trước bậc kỳ tài và coi
thường kẻ kém cỏi. Sự kính trọng bậc kỳ tài tạo
một quả báo tốt lành về sau, trong khi sự khinh thường người
dở tạo một quả báo bất lợi. Vấn đề rắc rối nằm
tại chỗ làm sao chúng ta vẫn giữ được sự kính trọng
người có tài mà vẫn giữ được sự thương mến kẻ kém
cỏi. Như thế mới tránh được quả báo xấu về sau.
Hơn
nữa, nếu chẳng may chúng ta lại là người thông minh đĩnh
ngộ, nhìn quanh có rất nhiều người dở kém hơn ta. Nếu
ta xem thường mọi người, quả báo hèn hạ chắc chắn sẽ
xảy đến. Sự khiêm hạ luôn luôn phải được giữ gìn kỹ
lưỡng như giữ gìn xương thịt của mình.
Một
số nhà thôi miên đã làm thí nghiệm như sau:
Một
vài người không biết vẽ, được các nhà thôi miên ám thị
rằng họ chính là những danh họa siêu tuyệt như Picasso, Constable,
Vangogh... Trong trạng thái được thôi miên, những người kia
vốn không rành về hội họa, bỗng vẽ nên những bức tranh
tuyệt diệu. Họ đã đồng hóa với các danh họa và đạt
được tài năng không thua kém bao nhiêu.
Một
số nhà ngoại cảm có thể đi trên lửa, cất mình lơ lửng
giữa hư không, một số nhà tiên tri biết trước từ rất
lâu các việc xảy ra trên thế giới...
Qua
các hiện tượng đó, các nhà khoa học cho rằng khả năng
con người vô cùng lớn lao nhưng chưa được khai thác. Những
vùng não chứa các khả năng tuyệt vời vẫn còn yên nghỉ
chưa chịu hoạt động. Nếu đánh thức được các vùng não
còn yên nghỉ thì khả năng con người sẽ vượt bực không
ngờ.
Riêng
các nhà đạo học Đông Phương chẳng lạ gì vấn đề đó
và cách giải quyết rất rõ ràng. Mọi khả năng phi thường
của con người được dấu âm thầm trong vô thức (xem Năm
ấm là gì). Chỉ có người nhập được thiền định mới
có thể sử dụng các khả năng dường như vô hạn của tâm
vô thức này... Như đã nói ở phần trước, không gian tâm
linh có tác dụng lệ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Có khi nó phá vỡ các quy luật vật lý thông thường để
tạo nên những kỳ tích. Nhà ngoại cảm có thể nhìn xuyên
qua vách tường, đọc được ý nghĩ người khác, chữa bệnh
bằng tâm lực, tàng hình... Tất cả điều đó là do năng
lực tâm linh và năng lực tâm linh lại do vô thức điều khiển.
Ai “nắm” được vô thức, người đó là siêu nhân. Con
đường đưa đến sử dụng được vô thức là thiền định.
Trong
khía cạnh nói về nghiệp quả của tài năng, chúng ta cũng
nhìn thấy mỗi người dường như có năng khiếu bẩm sinh
khác nhau. Người giỏi về khoa học tự nhiên như toán, lý,
sinh... trong khi người khác chỉ thích thú với ngôn ngữ, lịch
sử, luật pháp... Người học võ thuật một cách khéo léo
giỏi giắn, trong khi kẻ khác tập cho xong một bài quyền chậm
chạp vất vả. Chính những nghiệp nhân sai biệt từ đời
trước đã tạo nên các năng khiếu sai biệt cho đời này.
Người say mê âm nhạc tức là đã tạo cho mình một năng khiếu âm nhạc ở kiếp sau. Xin lập lại không phải một loại thức nào đó đã mang cái say mê qua kiếp sống mới, chỉ là ý nghiệp tạo thành nhân cách cho đời sau mà thôi. Tuy nhiên nếu ngoài cái say mê, họ còn truyền dạy âm nhạc cho người khác, đời sau năng khiếu âm nhạc được tăng lên bội phần.
Một võ tướng từng tạo nên chiến công hiển hách rồi sau cáo quan ẩn tu. Trong quá trình tu hành, ông luôn luôn muốn quên đi khả năng võ thuật phi thường của mình. Kiếp sau, thuở còn trẻ, ông có một đam mê võ thuật đến kỳ lạ, rèn luyện không mệt mỏi, mặc dù tính tình hiền lành như một nhà sư. Nhưng do tâm nguyện đời trước không muốn nhắc đến chuyện kiếm cung nên khiến cho ông dù có đam mê vẫn không có điều kiện được đào luyện để thành tài. Rồi dần dần sự đam mê biến mất đúng như ý nguyện của kiếp trước.
Một
bác sĩ, nếu thiếu lòng vị tha tận tụy, chỉ tìm cách làm
giàu, đời sau nghiệp y vẫn còn đeo đuổi nhưng ở mức độ
thấp hơn : y tá. Ngược lại một y tá bình thường nhưng
tâm hồn quảng đại, tận tình chăm sóc cho bệnh nhân, kiếp
sau ngành nghề được phát triển để trở thành bác sĩ giỏi.
Vô
số nghiệp nhân phức tạp linh động để tạo thành tài năng
của mỗi người. Nhưng tất cả đều được phát triển nếu
có tâm hồn vị tha hướng dẫn.
12- SỨC KHỎE
Trong không gian vật lý có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Chúng ta có thể kể ra như sau:
* Nguồn gốc của gène. Một số người được thừa hưởng
các gène của tổ tiên nên có được sức khỏe tốt, khả
năng đề kháng của cơ thể cao, sự lão hóa đến rất chậm.
Các yếu tố làm người khác gây bệnh vẫn không ảnh hưởng
đến được loài người có gène trời cho này. Vi trùng vừa
xâm nhập liền bị tiêu diệt; có lỡ ăn nhiều mỡ (Cholestérol)
cũng được cơ thể chuyển hóa và đốt bớt; các ADN luôn
điều hòa không cho tế bào phát sinh bừa bãi tạo thành u
bướu; não bộ rất tốt, dễ ngủ, hoặc thức nhiều vẫn
không mệt...
Ngược
lại với loại người có phước này là những người đã
mang sẵn mầm bệnh từ khi còn trong trứng. Họ đã có sẵn
các gène gây bệnh tiềm ẩn chờ đúng thời gian là phát bệnh.
Đây là những bệnh di truyền, khó có thể chữa lành bằng
phương pháp thông thường. Do vấn đề gène chưa được giải
mã hoàn toàn nên các nhà khoa học vẫn chưa hoàn toàn biết
được là bệnh nào có thật do di truyền, bệnh nào không.
* Do ăn uống. Mỗi món ăn đều có dược tính của nó.
Có món ăn chữa bệnh này, nhưng làm sinh bệnh kia. Các vitamin
và chất vi lượng trong thức ăn cần thiết cho cơ thể, đồng
thời các độc tố tích tụ cũng phá hại cơ thể không ít..
Món ăn được con người sử dụng sau một quá trình “ăn
thử” thấy không có hại gì. Tuy nhiên về sau, với sự kiểm
nghiệm của khoa học, nhiều món được xem là có hại như
bắp cải làm thải Iod, thịt mỡ động vật làm tăng nguy
cơ bệnh tim mạch, Vitamin C sau bữa ăn làm mất chất đồng...
Giáo
sư OHSAWA người Nhật, có phổ biến phép ăn uống theo nguyên
lý âm dương. Nhưng về sau, một số điều được công nhận
là đúng và một số bị xem là sai.
Có
những người vô tình ăn nhầm các món không thích hợp với
thể tạng và bệnh phát sinh; ngược lại, có người bỗng
hết bệnh không rõ nguyên do, chỉ vì vài ngày trước vô tình
ăn một món có dược tính chữa đúng căn bệnh.
Các
nhà khoa học có khuynh hướng tìm hiểu về thức ăn, phổ
biến cho toàn nhân loại để mỗi người tự chọn thức ăn
thích hợp cho chính mình trong việc phòng và chữa bệnh. Nhà
sinh học Liên Xô Xuren Avacovich Arakelian tin rằng con người
có thể thọ đến 300 tuổi nếu biết ăn kiêng đúng phương
pháp. Thời gian ăn kiêng, người ta chỉ dùng nước và các
loại rau. Có thể ăn kiêng mỗi tháng 3 ngày liên tiếp, hoặc
mỗi năm có một tháng.
* Yếu
tố làm việc và nghỉ ngơi. Một người không có vận
động sẽ làm cơ thể suy yếu. Nhưng một người không biết
nghỉ ngơi đúng lúc cũng làm tổn hại cơ thể. Sự vận động
và nghỉ ngơi phải được thực hiện một cách hợp lý theo
thể tạng và tuổi tác. Người trẻ, khỏe có thể làm nhiều,
làm nặng và nghỉ ít. Nhưng người già, yếu chỉ được
làm việc tượng trưng và nghỉ ngơi nhiều. Các bác sĩ cho
rằng một giờ nghỉ trưa có lợi cho sức khỏe và ngăn ngừa
bệnh tim mạch.
Những
sự căng thẳng (Stress) trong đời sống cũng là nguyên nhân
gây bệnh đáng kể. Khi hệ thần kinh trung ương bị suy yếu
bởi stress, nó sẽ không còn làm đúng chức năng điều hòa
cơ thể, và rất nhiều bệnh phát sinh sau đó. Vì thế, các
nhà khoa học đã ca ngợi thiền định như là một phương
pháp tuyệt diệu để chữa trị bệnh stress của thế kỷ
hôm nay khi mà cuộc sống con người có tốc độ chóng mặt.
Hai mươi bốn giờ trong một ngày không còn đủ cho con người
sử dụng nữa. Họ chắt mót từng phút để sống thật căng
thẳng.
Yếu
tố tinh thần được xác nhận là một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Với người có nội
tâm thanh thản, thân thể sẽ khỏe khoắn hơn, và những bệnh
thuộc về thân cũng giảm mức độ tác hại hơn. Ngược lại,
một tâm lý bất ổn như buồn bã, nóng nảy, ganh ghét, tham
lam... làm tăng nhanh một số bệnh của cơ thể.
* Vi khuẩn. Từ lúc Pasteur đem vi trùng ra ánh sáng, nền y học thế giới bước được một bước dài. Sự xâm nhập của vi khuẩn đã làm cơ thể sinh bệnh. Một số bệnh dịch lan rộng nhanh chóng do sự lây nhiễm của vi khuẩn. Hiện nay Virus HIV gây bệnh AIDS làm kinh hoàng con người hơn cả.
* Địa lý. Các nhà khoa học đang củng cố về lý thuyết
địa lý với bệnh tật. Vào cuối thế kỷ VI, giáo chủ Grigori
Tursky kể lại về nạn dịch ở thành phố Narbon và đưa ra
nhận xét. Những con người trốn ra khỏi vùng hoành hành của
nạn dịch, đợi khi nạn dịch đã qua mới trở về, liền
phát bệnh mà chết.
Vào
năm 1720, tại Marseille lan tràn dịch hạch. Một số người
may mắn trốn được sự kiểm soát của chính quyền để
thoát ra khỏi vùng bệnh và được sống sót. Sau khi cơn dịch
đã yên, họ trở về và phát bệnh chết.
Năm
1896, tại Bombay, dịch hạch cướp đi 400 ngàn mạng người.
Các bác sĩ Anh tìm thấy vi trùng dịch hạch ở những người
trốn từ Bombay đến Calcutta. Nhưng tại đây suốt hai năm,
chẳng có ai lây bệnh cả.
Vào
đầu thế kỷ 20, nhà vi trùng học Nga Vladimir Khavkin bào chế
dược thuốc chủng ngừa dịch hạch, cứu sống hàng ngàn
người Bombay. Cũng vẫn thứ thuốc này lại hoàn toàn vô hiệu
đối với vùng Mãn Châu và 100 ngàn người chết vì dịch
hạch vào năm 1910-1911.
Năm
1982, các nhà y học Scandinavie phát hiện thấy trong Fromage mua
từ Pháp về, có vi trùng kiết lỵ đã làm nhiều người dân
Scandinavie phải cấp cứu. Nhưng người dân Pháp ăn thứ fromage
đó và tỉnh bơ.
Ngày
25/5/1987, báo Times đăng một tin giật gân: Cô Susanna Palerian
là kiều dân Philippins hành nghề y tá ở Nhật, đã bị đuổi
về nước vì phát hiện thấy có virus SIDA trong máu cô ta.
Nhưng khi về đến quê nhà và khám lại thì các chuyên gia
y học nhiều nước tiên tiến lại đưa kết luận là cô Susanna
bị oan! Đương sự thưa tòa và đòi bồi thường 1 triệu
đôla.
Từ
nhiều sự kiện tương tự như thế, các nhà khoa học đưa
ra giả thuyết là sự cấu tạo về tính chất của từng vùng
có ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, trong đó trường
điện từ của quả đất được nói đến nhiều nhất.
* Yếu tố môi trường. Ô nhiễm môi trường là một yếu
tố ảnh hưởng đến sức khỏe con người rất nhiều. Khí
thải độc hại vào khí quyển; rác; sông ngòi nhiễm bẩn;
bức xạ của sóng điện từ, âm thanh ồn ào... làm cho nguy
cơ mắc bệnh của con người tăng cao hơn.
Ngoài
vô số những yếu tố vật lý tác động vào sức khỏe con
người còn có các yếu tố của không gian tâm linh cũng ảnh
hưởng không kém.
Nhân
điện từ bàn tay người mẹ khi săn sóc vỗ về làm cho đứa
trẻ phát triển cơ thể tốt hơn.
Tình
thương chân thành của những người cùng sống gần nhau cũng
làm cho cơ thể họ khỏe hơn mà họ không hề hay biết.
Phương
pháp xoa bóp phản xạ thần kinh được giới y học đánh giá
cao trong việc phòng và chữa một số bệnh. Nhưng thật ra
hết 30% là do tâm lực của người xoa với ý muốn cho bệnh
nhân khỏi bệnh. Nếu có tâm lực mạnh thì chính năng lực
tâm linh đã góp phần làm lành bệnh hơn phân nửa.
Khi
con người chăm sóc cây cối, cái tương tác tâm linh giữa
cây và người làm cho cả hai đều khỏe mạnh hơn. Đó là
lý do tại sao những cây mọc gần nhà thường tốt hơn cây
mọc xa nhà. Vậy chúng ta hãy nâng niu trân trọng từng cọng
cây chiếc lá. Hãy dành một ít thì giờ để chăm sóc vườn
tược hoa kiểng. Sức khỏe chúng ta nhờ đó sẽ tốt hơn.
Với
thực vật còn như vậy huống hồ là với thú vật và con
người. Nếu chúng ta được sống trong môi trường mà người
và chim thú đều quấn quýt thương yêu nhau, người với người
cũng thương nhau chân thành, không có hận thù ganh ghét, thì
tác động của không gian tâm linh hỗ tương cũng làm cho mọi
người khỏe mạnh. Đây không phải là vấn đề tâm lý !
Không phải vì tâm chúng ta thấy dễ chịu khi thương yêu và
được thương yêu, rồi sự dễ chịu thoải mái đó làm chúng
ta mạnh khỏe. Không phải vậy! Chính năng lực vô hình phát
ra từ sự thương yêu đã làm nên phép lạ, làm tăng sức
đề kháng của cơ thể hơn.
Một
số thống kê mới đây cho thấy rằng người độc thân mau
chết hơn người có gia đình. Ban đầu các nhà y học đánh
giá là do vấn đề sinh hoạt tính dục. Nhưng ngay cả những
người độc thân có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân (mua
bán) cũng vẫn chết sớm. Người ta lại cho rằng khi có gia
đình ổn định, con người được chăm sóc tốt hơn nên sức
khỏe cải thiện hơn. Thật ra đó chỉ là lý do phụ, lý do
chính là chính tình thương yêu chân thật của vợ chồng đã
tạo ra năng lực tâm linh làm cho họ khỏe hơn.
Như
vậy chìa khóa vấn đề nằm ở chỗ là một môi trường
có tình thương! Nếu chúng ta sống độc thân, như các tu sĩ
chẳng hạn, hãy chọn một tu viện nào trong đó mọi người
biết thương mến lẫn nhau thắm thiết, và nhờ vậy, sức
khỏe mọi người sẽ tốt hơn.
Trường
hợp phải sống cô độc để tĩnh tu, hãy bỏ một ít thì
giờ để chăm sóc vườn cây, vài chậu kiểng. Tình thương
đối với cây cỏ cũng làm sức khỏe chúng ta khá hơn.
Đặt vấn đề ngược lại, nếu sự chăm sóc cây cối làm sức khỏe tăng tiến thì ngược lại chắn chắn sự tàn phá cây cối làm cho sức khỏe của con người bị giảm sút. Những người thường xuyên chặt phá cây cối thường gặp điều kém may mắn và hay nhuốm các bệnh lạ. Khi cây bị xâm phạm, phản ứng tâm linh yếu ớt của cây cũng đánh vào thủ phạm. Mỗi lần một ít, lâu dần người đốn cây sẽ bị bệnh nặng nề.
Có một số cây lâu năm, số tuổi đến vài trăm năm, vài ngàn năm, năng lực tâm linh của cây rất mạnh. Nó có thể phát ra phản ứng tâm linh làm hộc máu lập tức người muốn đến cưa đốn. Các cụ chứng kiến hiện tượng dị thường này đã kết luận rằng cây có thần linh trú ngụ hoặc yêu tinh qủy quái gì đó. Thật ra chỉ tại vì cây càng lâu năm nên phát ra năng lực tâm linh càng mạnh mà thôi.
Hiểu
được điều này, chúng ta hãy chung sức bảo vệ rừng cây,
bảo vệ sự sống màu xanh cho trái đất thân thương này để
mọi người đều được khỏe mạnh.
Tuy
nhiên, ẩn dấu kín đáo từ trong Bản Thể, luật Nghiệp Báo
đã chi phối tình trạng sức khỏe của con người một cách
chặt chẽ.
Nếu
một người thường hay dùng sức lực để giúp đỡ mọi
người, hoặc thường xuyên chăm sóc sức khỏe của nhiều
người. Thiện nghiệp như thế đã trở nên thuần thục, trở
thành bản chất gần như cố định, nó khiến cho đời sau
người này có được các gène di truyền vô cùng đặc biệt
tự
điều chỉnh cơ thể một cách hoàn hảo, tự bảo vệ cơ
thể khỏi mọi sự xâm nhập tai hại từ bên ngoài. Những
người này sẽ sống một đời khỏe mạnh và sẽ chết một
cách êm ái không đau đớn.
Kỹ
sư Eiffel, người đã dựng tháp Eiffel tại Paris nổi tiếng
khắp thế giới, suốt đời chỉ tận tụy bắt cầu qua sông.
Vào ngày sinh nhật 90 tuổi, sau khi dự tiệc với con cháu,
ông cảm thấy hơi mệt và đi vào trong nằm nghỉ, rồi ông
đi vào giấc ngủ nghìn thu một cách êm ả nhẹ nhàng.
Tùy
theo nghiệp đời trước qui định khiến cho cơn bệnh của
một người phải dây dưa khó chữa hay nhanh chóng chấm dứt.
Có khi họ đi từ nơi này sang nơi kia tìm thầy chữa mãi không
khỏi. Đến lúc nghiệp đã hết, họ vô tình ăn phải thức
ăn có dược tính, và bệnh khỏi một cách không ngờ. Hoặc
đến khi phước đã đủ, họ mới gặp được thầy thuốc
giỏi chữa trị.
Khi
nghiệp chưa hết, đôi khi họ cũng gặp thầy thuốc hay, nhưng
nghiệp đã khiến cho tâm trí người thầy bị che ám, không
chẩn bệnh một cách chính xác và không thể chữa lành.
Ngoài
ra, mỗi nghiệp sẽ tạo ra một loại bệnh khác nhau.
Với
người tạo ra khói bẩn thải vào chỗ đông người, quả
báo nhiều đời sau họ thường bị bệnh khó thở, viêm khí
quản hoặc lao phổi.
Với
người lấy cắp đèn nơi công cộng, quả báo nhiều đời
sau là đôi mắt mờ kém.
Với
người phá hư đường sá cầu cống,quả báo là đôi chân
tật nguyền.
Với
người làm đổ máu mọi người, do sát sinh thú vật hay chiến
đấu ở chiến trường, sau khi trả những nghiệp chính, nghiệp
phụ còn lại là xanh xao thiếu máu thường xuyên.
Với
người khinh bỉ coi thường bậc Thánh, quả báo tìm đến
là bệnh phong cùi lở lói.
Với
người hay cự nự, cằn nhằn, gây rối làm cho người khác
lo lắng bất an, quả báo trở lại là một số bệnh về nội
tiết, thần kinh làm cho não bộ căng thẳng, khó ngủ, xao xuyến.
Với
người nghe hoặc thấy người hoạn nạn mà làm ngơ, quả
báo trở lại là tai điếc, mắt mù.
Vân
vân....
Vô
số nghiệp của mọi người tạo thành vô số bệnh trạng
phong phú đa dạng, làm điên đầu các nhà khoa học. Vì bệnh
là do nghiệp nên khi mọi người chưa dừng tay tạo nghiệp
thì bệnh không bao giờ hết. Khoa học có tiến bộ thế nào
chăng nữa, thế gian cũng xuất hiện tiếp bệnh nan y mới
để thử thách trí tuệ và đạo đức của con người. Bệnh
AIDS hiện nay là một điển hình rõ rệt.
13- ĐỊA VỊ
Con người sống trong xã hội tức là bắt buộc sống trong một cơ cấu tổ chức, hoặc giản đơn hoặc phức tạp. Vào thời xa xưa, tổ chức của xã hội khá đơn giản. Ông quan cai trị một vùng vừa là nhà làm ra luật lệ (lập pháp), vừa là thi hành luật lệ đó (hành pháp) và vừa bảo vệ luật lệ đó (tư pháp). Ngoài việc chăm sóc đời sống cho người dân, ông còn là một quan tòa xử kiện. Khi cần, ông phải lên lưng ngựa truy lùng giặc cướp.
Đến khi dân số loài người tăng lên dần dần, tổ chức xã hội phức tạp hơn, nhà cầm quyền muốn tăng cường khả năng kiểm soát của mình đối với cộng đồng nên phải bổ sung đội ngũ quan lại. Luật pháp cũng vì thế mà phong phú chi li hơn.
Ở
đâu có xã hội, ở đó có luật pháp. Ngạn ngữ La Mã đã
nói như vậy. Chúng ta có thể nói thêm, ở đâu có xã hội
ở đó có tổ chức, có người cai trị và kẻ bị trị.
Dù
một xã hội thu gọn như một gia đình, cũng vẫn có người
lãnh đạo là cha mẹ với thần dân là con cái. Một tốp thợ
xây cũng phải có người cai coi ngó chỉ huy công việc. Và
riết rồi trong một lớp học người ta cũng phải tổ chức
trưởng lớp phó lớp.
Điều
kiện để được gọi là người chỉ huy khi người ấy có
được một số người chịu vâng lời sai bảo, dù là sự
phục tùng đó do sự tự nguyện hay do bị bắt buộc. Ở địa
vị chỉ huy đó, người này có quyền ăn trên ngồi trước,
buộc những người dưới quyền phải ngồi nghe mình tuyên
thuyết hùng biện hằng giờ, buộc kẻ dưới quyền phải
làm theo ý của mình nếu không muốn bị trừng phạt.
Cái quyền được chỉ huy đó đã làm mê say tâm hồn của bao nhiêu người. Họ khát khao quyền lực đến độ cuồng nhiệt và sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để tranh giành lẫn nhau, giết hại lẫn nhau không thương tiếc. Có người nhờ thủ đoạn và may mắn đã đạt được địa vị như mơ ước. Có người kém may mắn, tuy cũng dùng thủ đoạn, nhưng thất bại và nhục nhã ê chề. Lại có người bỗng dưng được mọi người đề bạt đưa lên địa vị chỉ huy như trường hợp Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên làm vua mở đầu triều đại Lý của Việt nam. (Tuy về sau các nhà sử học cũng có cho rằng đã có sự chuẩn bị của Sư Vạn Hạnh). Hoặc có những người do công lao khó nhọc được thăng thưởng lên địa vị chỉ huy...
Con
đường đi đến quyền lực rất đa dạng. Có người dùng
thủ đoạn để đạt đến. Có người nhờ mọi người tôn
cử. Có người nhờ tài năng tháo vát. Có người nhờ thân
thích quen biết. Có người may mắn. Có người xứng đáng
ở địa vị cao. Cũng có kẻ bất tài kém đức nhưng do nhiều
lý do nào đó, vẫn được ở địa vị cao.
Dù
với bất cứ lý do nào, kẻ đạt được quyền lực vẫn
là kẻ có tạo phước từ kiếp trước. Chúng ta có thể điểm
qua một số nghiệp nhân có thể đưa đến địa vị cao ở
mai sau như:
Khi ở địa vị cao, họ luôn được mọi người kính trọng nể phục. Với quả báo đó, ắt hẳn từ đời trước họ phải là một người khiêm hạ, biết tôn trọng các bậc trưởng thượng, kính trọng các bậc thánh, không khinh rẻ những người thấp kém hơn mình. Với nghiệp nhân thường kính trọng những người đáng kính, họ đạt được địa vị sang trọng ở những kiếp về sau. Tuy nhiên, nếu chỉ thuần gieo nghiệp phổ kỉnh (kính trọng mọi người) mà thiếu nghiệp bố thí cúng dường, họ sẽ được địa vị cao nhưng vẫn nghèo khổ. Đó là trường hợp của nhân vật Mạc Đĩnh Chi. Từ những đời trước ông biết kính trọng những bậc hiền tài thánh đức nên vào đời đó (nhà Trần), ông có tài xuất chúng, đậu Trạng Nguyên Việt nam và được vua nhà Nguyên phong luôn trạng nguyên của hai nước. Những câu đối đáp phi thường của ông vẫn được nể phục của nghìn năm sau nữa. Tuy nhiên, ông rất nghèo và rất xấu (tương truyền mẹ ông bị một con vượn cưỡng hiếp rồi sinh ra ông). Có lẽ bởi vì ông đã thiếu gây nhân bố thí cúng dường, và hay dùng văn tài của mình châm biếm diện mạo của người khác.
Ở
mặt khác, người ở địa vị cao luôn có nhiều thuộc hạ
để sai khiến. Kẻ dưới quyền luôn nơm nớp làm theo từng
ý muốn nhỏ nhặt của chủ nhân không dám trái phạm. Hình
ảnh đó là do sự thọ ân quá nhiều của những đời trước.
Như vậy, để có được nhiều thuộc hạ, kẻ này phải là
người đã từng ban ân rộng rãi từ nhiều đời quá khứ.
Thật vậy, sự bố thí lớn lao cũng đem lại quả báo quyền
lực. Tuy nhiên chúng ta sẽ nhận thấy sự khác biệt của
mỗi loại.
Nếu
là người được địa vị bởi nghiệp nhân khiêm hạ, họ
vẫn còn giữ được phong cách từ tốn lễ độ tôn trọng
mọi người, kể cả người dưới quyền.
Còn
người đạt được địa vị bởi nghiệp nhân ban ân rộng
rãi, đời này họ rất giàu có và có vẻ thiếu khiêm tốn,
vì đời trước mỗi khi ban ân cho ai họ đều cảm thấy đôi
chút tự hào. Chính tâm lý tự hào tích góp lâu ngày biến
thành thái độ cao kỳ ở kiếp sau khi họ đã nắm trong tay
quyền lực.
Đôi khi một người cũng đạt được địa vị cao sang chỉ bởi vì đời trước đã từng cung kính cúng dường những bậc chân tu đạo hạnh. Lẽ ra nghiệp nhân này sẽ đưa họ đến vị trí một tu sĩ thượng phẩm ở đời sau, nhưng do tâm họ không hướng về một đời sống thoát tục, chỉ thuần lo toan việc thế gian nên quả báo đã đi lạc sang hướng khác: Họ được quyền chức lớn trong xã hội. Ở địa vị này họ vẫn là người có đức độ, đôi khi hao hao giống một ẩn sĩ, tuy có quyền chức mà vẫn thích có một am thất vắng vẻ để tĩnh tâm. Và không hẳn họ là một người có tài. Những thành công đem đến hầu hết do may mắn và do người cộng sự giúp đỡ mà thôi.
Có
một số vì phải tuân lệnh cấp trên nên đã sốt sắng làm
những công đức lớn như đắp đường, bắt cầu, đắp đê,
dẫn nước, khẩn hoang lập ấp định cư cho dân từ xa đến,
tổ chức công ăn việc làm cho người lao động, xây dựng
bệnh xá trường học, kiến thiết nhà cửa cho dân nghèo...
Họ chẳng có chút tâm từ thiện nào đối với mọi người.
Họ chỉ đơn thuần muốn làm thật tốt để lấy lòng cấp
trên, để được khen thưởng. Với nghiệp nhân như vậy,
đời sau họ cũng được địa vị lớn vì đã làm lợi ích
cho nhiều người, nhưng tâm địa họ rất hẹp hòi ích kỷ.
Khi cần, họ sẵn sàng sử dụng thủ đoạn để tranh đoạt
quyền lợi với kẻ khác. Hơn nữa, do thiếu đạo đức nên
họ luôn luôn cậy quyền ỷ thế.
Ở
thời đại phong kiến quân chủ, ông vua được xem là con của
trời, do thượng đế an bài sắp đặt, cả giang san gấm vóc
thuộc quyền sở hữu của vua. Sự trung thành đối với vua
được đề cao gần như tuyệt đối vì “vua bảo bầy tôi
phải chết, nếu bầy tôi không chịu chết là bất trung”.
Trừ trường hợp ở Anh Quốc có mầm mống dân chủ rất
sớm nên nói rằng “Khi mặt trời đã lặn, nếu không được
phép của chủ nhà, Nữ Hoàng cũng không được bước vào”.
Với vị trí thượng tôn quá độ như vậy, một ông vua được
hưởng sự kính trọng tột cùng của mọi người.
Bước
sang thời đại dân chủ, người lãnh đạo tối cao của đất
nước do dân đề cử thông qua lá phiếu. Ý nghĩa tinh thần
có vẻ thần thoại đã biến mất, người Tổng Thống không
còn cái hào quang thiêng liêng như ông vua ngày xưa nữa. Họ
vẫn đạt được kính mến bởi mọi người, vì nếu không,
người dân đâu có bỏ phiếu đề cử, nhưng mức độ trở
nên vừa phải chừng mực. Không còn cái cảnh kẻ bề tôi
dập đầu trước bệ rồng cầu kiến tung hô vạn tuế. Nếu
cần phải nịnh, kẻ thuộc quyền phải khéo léo và kín đáo
hơn.
Cùng ở vào địa vị lãnh đạo đất nước như nhau, nhưng một tổng thống không còn được hưởng sự kính trọng chất ngất như một ông vua nữa. Rõ ràng nghiệp nhân của họ đã có chỗ sai khác. sự sai khác đó do khoa học, do quan điểm triết học đã có nhiều thay đổi.
Ở
thời đại cổ xưa, con người rất tin vào thần linh và thượng
đế. Tín ngưỡng lúc bấy giờ hướng dẫn con người phải
đặt trọn lòng kính tin vào thần thánh và các tu sĩ đại
diện cho thần thánh. Song song với niềm kính tin mãnh liệt
đó, họ còn được hướng dẫn làm các điều thiện một
cách triệt để, xả thân, không tiếc mạng sống. Kẻ nào
thực hiện được cả hai điều đó, vừa có niềm kính tin
mãnh liệt, vừa làm việc thiện triệt để, sẽ cảm quả
báo làm vua ở những kiếp sau để hưởng lại sự kính trọng
quá mức của mọi người.
Khi
khoa học tiến bộ, màu sắc thần thoại trong thế giới quan
bị xóa dần, quan điểm triết học bị thay đổi tận gốc
rễ, nên niềm tin của con người đối với thần thánh và
đại diện cho thần thánh (giai cấp tăng lữ) đã giảm sút
quá nhiều. Họ vẫn thích làm điều thiện vì lương tâm của
họ cảm nhận cái hay của từ thiện chứ không phải như
ngày xưa làm việc thiện với sự giám sát của thần linh.
Vì vậy mức độ làm việc thiện không còn mãnh liệt như
trước. Con người của thời đại khoa học vật lý hôm nay
trở nên dễ ngờ vực, ít kính phục, có khuynh hướng thực
dụng cá nhân. Nhân như thế nên quả báo trở lại một cách
tương xứng. Do làm việc thiện rất nhiều nên một kẻ sẽ
được phước làm lãnh tụ, nhưng không còn được người
dân nhìn vào với vẻ thiêng liêng thần thánh như một hoàng
đế nữa.
Người
hiểu rõ luật Nghiệp Báo thì không mong cầu quyền cao chức
trọng. Vì họ biết rằng sự mong cầu đó là dấu hiệu của
tham vọng cá nhân, là dấu hiệu của sự tổn đức bên trong.
Họ chỉ bình thản kính trọng mọi người và sẵn sàng giúp
đỡ mọi người với khả năng sẵn có của mình.
Chúa
Jésus cũng nói:
“Kẻ
nào chen lên phía trước sẽ phải bị đẩy lùi về sau; kẻ
nào lui về phía sau sẽ được đưa lên phía trước”.
14- NHÂN CÁCH
Từ
“Nhân cách” bao quát môt phạm vi rộng rãi gồm cả tâm
lý, cá tính, thái độ cư xử ở đời, khả năng kiềm chế
tâm, phong thái biểu lộ ra ngoài nơi cử chỉ...
Có
những nhân cách vĩ đại như các bậc thánh muôn đời được
truyền tụng như Socrate, Jésus, Đức Phật, Lão Tử, Khổng
Tử, San Francisco, Martin de porres, Gandhi, Vinoba, Trang Tử, Vương
Dương Minh... Rồi trong mỗi tôn giáo có các bậc Thánh riêng
biệt được các tín đồ ngưỡng mộ mãi mãi như các vị
thánh của Thiên Chúa Giáo, các vị A La Hán, Thiền Sư của
đạo Phật... Trong lịch sử của mỗi quốc gia cũng có những
nhân cách xuất chúng với lòng yêu nước nồng nàn, và chiến
công giữ gìn đất nước, xây dựng quê hương. Trong lĩnh
vực khoa học cũng có những nhà bác học đem cả cuộc đời
cống hiến cho nền văn minh tiến bộ của nhân loại với
lòng kiên trì không mệt mỏi như Pasteur, Newton, Einstein, Marie
Curie...
Họ
là những người vừa có công lao lớn đối với nhân loại,
vừa có nhân cách cao cả khả kính.
Ngược
lại với những nhân cách trác việt đó, cũng có những hạng
người tầm thường chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân, nham
hiểm, ác độc, lừa đảo, nóng nảy, cố chấp, hẹp hòi...
Con số này khá đông đến nỗi các trại giam chật cứng,
khiến cho Mỹ phải chấp nhận thiết lập nhà tù tư nhân.
Nhà nước muốn tư nhân giam giữ các phạm nhân theo đúng
chính sách và nhận tiền thù lao của chính phủ.
Luật
pháp chỉ xử lý khi đã có dấu hiệu phạm tội, chế tài
để không cho kẻ đó tái phạm, nhưng khó thay đổi được
ác tâm đã bám sâu vào tiềm thức của con người. Nhiều
kẻ vừa được phóng thích đã gây án lập tức. Có kẻ giả
vờ ngoan ngoãn để được giảm án, được trả tự do sớm
hơn, nhưng vừa ra khỏi nhà tù là trở lại con đường tội
lỗi.
Thế
gian này dường như đã trở thành địa ngục khi mà “Con
người còn là sói đối với người”. Sự đấu tranh giành
giật quyền lợi xuất hiện ở khắp mọi nơi. Trong gia đình,
trong trường học, trên ruộng đồng, trong xí nghiệp, ngoài
xã hội, giữa các quốc gia, giữa các công ty lớn... Khắp
nơi đều có xâu xé, thủ đoạn, lừa lọc, chửi mắng, chém
giết và cả ở mức độ tàn khốc như chiến tranh hủy diệt
cả những vùng rộng lớn.
Trước
những cảnh đau lòng như vậy, nhiều người mơ ước có một
thế gian mới, trong đó con người biết yêu thương lẫn nhau,
sống vui vẻ với nhau như bộ lạc Papua ở đảo New Guinée.
Quanh năm họ vừa lo làm lụng tìm thức ăn, vừa vui chơi múa
hát với nhau và thường tiến hành viếng nghĩa địa của
những người đã khuất. Họ sống trong tự do, chết trong
tình thương nhớ của cộng đồng bộ lạc. Họ sống trong
cảnh núi rừng âm u vắng lặng, nhưng vẫn đoàn kết thương
yêu, vui tươi hạnh phúc. Đó là điều đáng cho chúng ta phải
suy nghĩ.
Các
nhà đạo đức học đã kêu gào giữa thế gian để cho con
người đạo đức hơn, nhưng tiếng kêu của họ lạc lõng
như tiếng vang giữa sa mạc. Con người vẫn trụy lạc, ác
độc như xưa.
Nhiều
tôn giáo đã ra đời để tạo ra một sắc thái thần bí thiêng
liêng nhằm đem con người đến với đạo đức qua cửa ngõ
niềm tin thần bí. Họ tin rằng các thần linh luôn luôn theo
dõi mọi hành động của họ, sẽ ban thưởng khi họ làm lành
và sẽ trừng phạt khi họ làm ác. Mỗi tôn giáo có những
thần linh riêng, nhưng đều giống nhau ở chỗ thưởng thiện
phạt ác. Tuy nhiên, về sau này các tôn giáo mới xuất hiện
càng nhiều với những mục tiêu quái lạ. Thậm chí hiện
nay ở Ấn Độ, có một tôn giáo đã phá hết tất cả mọi
giá trị cũ, ca ngợi sự giải thoát bằng con đường tự
do tình dục bừa bãi- chỉ trừ những người mắc bệnh AIDS.
Tôn giáo mất dần giá trị thánh thiện vì không còn đứng
vững ở vị trí xây dựng đạo đức cho xã hội. Đôi khi
một số tôn giáo trở thành cái gai chọc tức các nhà xã
hội học và khoa học.
Như chúng ta đã biết, ý nghĩ là nhân mà hành động là kết quả. Có ý muốn làm mới có sự thực hiện. Đôi khi ý muốn xuất hiện ở kiếp này và việc làm xuất hiện mãi ở kiếp sau. Lạt ma Govinda ở kiếp trước là một nhà văn Đức, chết khi còn trẻ và từng ấp ủ ý định đi tìm chân lý với đạo Phật. Kiếp này sinh sang Colombia, ông xuất gia theo đạo Phật rồi đi du học ở Tích Lan, sang tham học ở Tây Tạng, viết nhiều quyển sách nổi tiếng.
Như
vậy, nhân cách là nguyên nhân, và hành động là kết quả.
Một nhân cách tốt thì trong tương lai-kiếp này hay kiếp sau-
chắc chắn sẽ tạo ra những hành động tốt. Người thường
nuôi nấng những hoài bão cao thượng, chắc chắn sẽ làm
được những hành vi cao cả. Do đó, trau dồi nhân cách là
một việc làm vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người.
Không những chúng ta chỉ biết tự trau dồi nhân cách của
mình mà còn phải giúp đỡ mọi người chung quanh xây dựng
nhân cách của họ.
Tuy
nhiên, như đã nói, nhân cách không phải là nguyên nhân ban
đầu, nó vẫn còn là kết quả của một nguyên nhân trước
đó. Nắm được nguyên nhân phía trước này, chúng ta sẽ
có phương pháp để cải hóa nhân cách hiệu quả hơn.
Ví
dụ, sự ngưỡng mộ phong thái trầm mặc của một bậc thánh
sẽ gây cho chúng ta một phong thái trầm mặc tương tự ở
vị lai. Sự ca ngợi tâm từ bi của một vĩ nhân cũng tạo
nên tâm từ bi trở lại trong chính chúng ta.
Vì
thế, nếu con người được đọc nhiều về các giai thoại
đạo đức tuyệt vời của các danh nhân, lòng họ khởi lên
một chút kính ngưỡng nào đó, ấy chính là nguồn gốc tạo
thành nhân cách tốt đẹp cho họ về sau.
Các
tội phạm bị giam giữ lâu ngày trong trại dường như không
bao giờ được nghe kể chuyện về những thánh nhân vĩ đại.
Họ chỉ chứng kiến vô số chuyện tội lỗi, lừa đảo,
giết hại lẫn nhau, kẻ có sức mạnh và mưu mô là kẻ chiến
thắng. Lòng nhân ái không bao giờ được nhắc đến. Những
lúc trò chuyện, tay nào cũng kể những thành tích rùng rợn
của mình để làm cho kẻ khác nể phục. Được tắm mình
trong bầu không khí đó, chẳng trách được vì sao ít có ai
khi mãn hạn tù sẽ trở thành một kẻ lương thiện. Lòng
thán phục đối với các tay anh chị gan lì, ác độc và ích
kỷ sẽ tạo ra một nhân cách ghê tởm cho họ. Và như vậy,
trại tù sẽ không bao giờ là nơi làm cho con người được
thuần lương cải hóa.
Bắt
đầu bằng sự kính phục một nhân cách nơi kẻ khác, nhân
cách đó sẽ hiện hữu nơi chúng ta. Có một người mắc tật
nóng nảy, anh cũng rất phiền với thói xấu này. Nhưng mỗi
khi nổi nóng anh vẫn không thể nào kềm chế được. Một
lần anh vô tình đọc câu chuyện về thiền sư Bạch Ẩn (Hakuin)
của Nhật giữ được vẻ bình thản khi bị người ta vu khống
đã gây ra một bào thai cho cô gái trong làng. Khi đứa bé được
sinh ra, nó được giao cho ông. Ông bình thản đi xin sữa cho
đứa bé mặc dù mọi tiếng tăm vinh quang đã mất sạch. Sau
này, cô gái ân hận thú thật rằng cha đứa bé là một thanh
niên bán cá ngoài chợ. Cha mẹ cô đến xin lỗi ông và xin
đứa bé trở lại. Ông cũng bình thản như chưa từng có việc
gì xảy ra. Câu chuyện làm anh xúc động. Anh tự vẽ hình
thiền sư Bạch Ẩn treo ở trong phòng để chiêm ngưỡng. Vài
năm sau trong giới bạn bè, anh nổi tiếng là một người trầm
tĩnh, không bao giờ nổi nóng khi đối diện nghịch cảnh.
Cái
khó khăn trong việc cải hóa nhân cách con người là làm sao
cho họ biết xúc động, kính ngưỡng trước một nhân cách
phi phàm nào đó. Họ cần có tấm gương thực tế của những
người xung quanh; họ cần được đọc nhiều về cuộc đời
thánh thiện của các vĩ nhân trong quá khứ.
Trong
tập “Góp nhặt cát đá” cũng kể câu chuyện một tên ăn
trộm, sau khi ra tù đã đến xin xuất gia với một thiền sư
mà trước đó anh đã đến lấy cắp, chỉ bởi vì khi bị
ăn cắp như vậy, tâm hồn vị thiền sư vẫn ung dung và tràn
đầy sự tha thứ. Suốt thời gian trong tù, có lẽ lòng kính
phục của anh đã chín muồi lớn mạnh.
Đôi
khi chúng ta lên án sự kiểm duyệt văn hóa phẩm ở phương
Tây quá lơi lỏng. Những câu chuyện thiếu lành mạnh đã
giáng những đòn nặng nề vào nền đạo đức của nhân loại.
Những lối sống ích kỷ, thực dụng, oán thù được đề
cao đã tác hại không lường được cho các thế hệ. Tại
sao người ta cấm đoán ma túy, thực phẩm độc hại... nhưng
vẫn nhân danh tự do ngôn luận để cho sự ác độc lan tràn
vào tâm hồn con người qua ngõ sách báo phim ảnh?
Cỏ dại luôn luôn dễ mọc. Cây lương thực luôn luôn khó trồng tỉa. Cũng vậy, bản năng chấp ngã, ích kỷ, hưởng thụ của con người rất dễ nẩy nở phát triển, trong khi tâm hồn vị tha, nhu hòa, tha thứ rất khó nuôi trồng giữ gìn. Những tác phẩm văn hóa độc hại giống như những thùng phân bón vào cánh đồng cỏ ác độc trong tâm hồn con người. Không biết bao giờ thế giới mới kiểm soát được các tác phẩm gây tác hại cho đạo đức của loài người!
Bên cạnh cái nghiệp nhân kính ngưỡng nhân cách cao cả của bậc Thánh để tạo thành nhân cách cao cả của chính chúng ta, còn một nghiệp nhân thứ hai cũng có hiệu quả không kém đó là TÂM NGUYỆN.
Nếu
bạn là người có tín ngưỡng, bạn hãy chân thành qùy trước
lễ đài, gửi trọn lòng thành kính lên đấng tối cao và
dâng lên vị đó tâm nguyện tha thiết của mình.
“Con
nguyện từ đây và mãi về sau, con sẽ từ bỏ mọi tâm niệm
ích kỷ, hẹp hòi, độc ác, nóng nảy,tham lam, ganh tị... Con
nguyện sẽ yêu thương tất cả mọi loài với tình thương
thắm thiết nhất. Con nguyện tất cả cuộc đời con, chỉ
để dành sống vì tất cả mọi người, sống để thương
yêu và phụng sự tất cả, dù có phải xả bỏ thân mạng
này con vẫn mỉm cười vui vẻ. Đây là lời nguyện hứa chân
thành của con, xin ơn trên soi sáng cho con.”
Chỉ cần mỗi ngày một lần, bạn quỳ trước lễ đài để tâm nguyện tương tự như thế, không bao lâu, một nhân cách tuyệt vời sẽ xuất hiện nơi tâm hồn bạn. Bóng tối đang lui dần, ánh sáng đang ngự trị.
Nếu bạn là người không có tín ngưỡng, không có tôn giáo, không đặt niềm tin nơi giáo chủ nào, một vị thần linh nào, không sao ! Miễn là bạn tin rằng tất cả mọi người đều có không gian tâm linh giao xen lẫn nhau, miễn là bạn tin rằng tất cả vạn hữu đồng một Bản Thể Tuyệt Đối là đủ ! Bạn vẫn có thể ngồi lại trầm lắng nội tâm của mình và tự nhủ rằng:
“Từ
nay ta sẽ từ bỏ mọi sự ích kỷ, hẹp hòi độc ác, tâm
ta sẽ trải rộng tình thương đối với tất cả muôn loài.
Ta sẽ sống để đem lại bình an và hạnh phúc cho mọi loài”
Với
sức mạnh của tâm linh, lời tâm nguyện đó đủ sức chuyển
hóa nhân cách bạn và còn lây lan nhiễm vào tâm hồn của
nhiều người sống gần đấy. Còn Bản Thể thì đã tạo
xong một quả báo mới : Một nhân cách phi phàm, đang dần
dần được hiện ra nơi con người vật lý của bạn.
Ở
khía cạnh khác, sự chê bai nhân cách kẻ khác cũng gây ra
một nhân cách tương tự nơi chúng ta. Ví dụ, chúng ta thường
chỉ trích kẻ khác về sự thiếu khiêm tốn. Sau này, bỗng
nhiên nơi hành vi của chúng ta lại lộ ra một số biểu hiện
tự cao, ngạo mạn. Hoặc chúng ta chê bai sự ích kỷ của
người, để rồi trong một lúc không kiểm soát được, sự
hẹp hòi chợt hiện diện nơi chính chúng ta.
Thế
nên người hiểu đạo rất dè dặt khi phải chỉ trích người
khác. Nếu có duyên giáo hóa kẻ xấu thì hãy nói thẳng với
họ. Còn không, nên tránh việc nói vòng quanh, nói nhắn, hoặc
rao lỗi người một cách rộng rãi.
Đôi
khi ở kiếp trước chúng ta không phải là một người nóng
nảy, nhưng chỉ vì quá công kích sự nóng nảy của người,
nên đời này chúng ta bỗng mắc tật nóng nảy không kềm
chế được.
Ngoài
những nguyên nhân sâu xa kể trên, nhân cách còn là kết quả
thiết thực của một số tâm lý, quan điểm.
Ví dụ, khi ngã chấp trở nên lớn mạnh, chúng ta sẽ trở nên nóng nảy, bảo thủ, cố chấp, tham vọng... Tục ngữ Việt Nam có câu : “Già sanh tật, đất sanh cỏ”. người già thường dễ phát sinh một số thói tật quái gở mà con cháu lấy làm khó chịu không hiểu nổi. Riết rồi người ta đành phải chấp nhận xem như một hiện tượng bình thường phải xẩy ra như đất bắt buộc phải mọc cỏ mà thôi. Lý do rất đơn giản chỉ vì khi người ta lớn tuổi, con cháu càng đông, thấy mình thuộc vai vế lớn, là ông, là bà, ai cũng gặp phải chào kính tôn trọng. Lâu ngày chấp ngã tự tôn bên trong được củng cố dần dần. Rồi cái tâm lý tự tôn đó kéo theo sự rối loạn nhân cách trầm trọng như bảo thủ, cố chấp, hờn dỗi, khoe khoang...
Hoặc
một số nhân vật bỗng nhiên được nổi tiếng thành công
vang dội, được nhiều người nể phục. Nếu không kềm giữ
được tâm lý tự cao, họ cũng dễ phát sinh một số tật
kỳ cục. Đây là điều mà các ông bầu gánh hát phải thường
xuyên chịu đựng với các đào kép nổi tiếng. họ vòi vĩnh,
hờn dỗi, đủ chuyện.
Hoặc
một số học giả đọc được một số triết lý đề cao
cái “tuyệt đối tánh” nơi chính mình, phủ nhận sự tương
quan chung quanh, cho rằng chỉ có cái tuyệt đối sẵn có nơi
mình mới là quan trọng hơn cả. Quan điểm triết học này
cũng rất dễ phát minh tâm lý tự tôn ngạo mạn và kéo theo
sự rối loạn nhân cách như gàn gàn, kênh kiệu, kỳ lạ,
nghe ai nói gì cũng cãi cũng chống...
Ngoài nguyên nhân tâm lý, còn có nguyên nhân bệnh lý cũng đưa đến thay đổi nhân cách. Một số bệnh về tuyến nội tiết cũng làm xáo trộn tâm lý nhân cách của con người. Các tuyến yên, tuyết giáp trạng, tuyến thượng thận, tuyến tụy... ảnh hưởng rất rõ lên tâm lý con người. Người bị bệnh suy tuyến giáp trạng thường có tâm trạng uể oải, chán nản. Ngược lại người bị cường tuyến giáp trạng thường sôi nổi hiếu động. Đôi khi một số dục vọng, ham muốn, tự cao... bị phát khởi, hoàn toàn chỉ do sự rối loạn của tuyến nội tiết chứ không phải do sai lầm về tâm lý hay quan điểm. Thế nên, ở những trường hợp này, sự can thiệp chữa trị của y học là điều cần thiết chứ không phải chỉ đưa ra những lời khuyên nhũ đơn thuần cho người bệnh.
Những
bệnh nội tạng như loét dạ dày, yếu phổi, suy gan... cũng
gây ra những bực bội, căng thẳng tại thần kinh não làm
ảnh hưởng đến nhân cách. Người bệnh vẫn có thể dùng
ý chí và sự khéo léo của mình để kềm giữ không cho tâm
lý mình bị rối loạn quá đáng, nhưng vẫn không đủ để
chấm dứt cơn bệnh. Cần phải có sự can thiệp y học từ
bên ngoài để chữa căn bệnh thực thể.
Hiện
nay các nhà khoa học đang đi sâu tìm hiểu dần dần mọi chức
năng của não bộ. Họ nhận thấy rằng mỗi vùng não chịu
trách nhiệm một trạng thái tâm lý. Nếu “vùng não nóng
nảy” lớn hơn bình thường thì rõ ràng kẻ này rất nóng
tánh. Nếu “vùng não dục vọng” teo nhỏ hơn bình thường
thì rõ ràng kẻ này ít có ham muốn thấp hèn.
Tuy
nhiên vì sao vùng não này lớn, vùng não kia nhỏ vẫn còn là
điều phải tìm hiểu. Có thể chính tâm lý ham muốn dục
vọng làm cho vùng não dục vọng phát triển hơn bình thường.
Hoặc
một người có “vùng não tự cao” lớn nhưng họ biết chuyển
hóa tâm lý của mình trở thành khiêm hạ và thế là vùng
não này teo nhỏ lại theo sự tự cải tạo bản thân của
mình.
Như
vậy, có nguyên nhân tâm lý chủ quan cộng với nguyên nhân
bệnh lý khách quan cùng tác động thành nhân cách của con
người. Muốn cải hóa con người trở thành cao thượng hơn,
chúng ta phải nắm vững nhiều mặt của vấn đề mới có
thể đạt được hiệu quả.
Bảo
một người đừng nóng nảy độc ác nữa, vô ích! chỉ vì
tuyến nội tiết của họ bị rối loạn trầm trọng cần
phải chữa trị thích hợp.
Tuy
nhiên, chữa xong các bệnh thực thể rồi vẫn chưa đủ, cần
phải gây cho họ tâm lý cao thượng để họ tự giáo dục
lấy chính họ. Tâm lý chủ quan của con người mới là yếu
tố bền vững lâu dài.
Một
nhà thôi miên có thể tác động vào tâm thức sâu thẳm của
một tên cướp để hắn dừng lại tâm ác độc. Nhưng đó
chỉ là tạm thời. Lâu dài về sau sự ác độc sẽ tái phát.
Phải làm sao chính tên cướp ý thức được tội lỗi xấu
xa của mình và tự phát tâm hoàn thiện. Và công việc này
chỉ có thể thực hiện bằng con đường giáo dục chân chính.
Nếu
sau này, mọi nhà tù đều có những nhà thôi miên, tâm thần
phụ trách, thì có lẽ số tội nhân sẽ không tái phạm. Khi
mãn hạn tù vì họ đã được cải hóa trên cả hai lĩnh vực.
Sự tác động khách quan của thôi miên, y học và sự giáo
dục chân chính để gây nên sự cải hóa chủ quan nơi chính
họ.
Việc
giam giữ, đánh đập dọa nạt không bao giờ làm cho con người
chuyển hóa nhân cách. Hơn nữa một môi trường toàn là những
kẻ ác độc ở chung với nhau, tâm ác độc đó sẽ cộng
hưởng, khuếch đại càng lúc càng mạnh và cuối cùng nhà
tù chính là lò đào tạo tội ác.
Đến
lúc nào đó, người ta sẽ xem những tội nhân chính là người
bệnh, bệnh nhân cách, giống như những bệnh nhân tâm thần,
bệnh nhân cơ thể...
Đa
số các bệnh nhân cơ thể đều được khuyên dùng thuốc,
giải phẫu (tác động khách quan) và tự luyện tập thể thao
dưỡng sinh (tác động chủ quan). Cũng vậy, những người
bệnh nhân cách cũng phải được dùng thuốc, được thôi
miên (tác động khách quan) và được giáo dục để tự ý
thức về đạo đức của chính mình (tác động chủ quan).
Ngoài ra họ cũng cần phải được ở trong môi trường không
bị lây nhiễm xấu, giống như những bệnh nhân cơ thể tránh
sự nhiễm trùng vậy.
Với
cái nhìn mới mẻ như vậy, chúng ta sẽ cảm thấy yêu thương
con người hơn, sẽ khoan dung hơn khi đối diện với kẻ xấu
(kẻ bệnh nhân cách).
Các
nhà nghiên cứu còn cho biết rằng vào thời kỳ trăng tròn,
con người cũng dễ bị kích động hơn bình thường.
Ngoài các vấn đề căn bản trên, thỉnh thoảng có một số người bị bệnh “đa nhân cách”. Khi thì họ thấy mình là một nhà văn. Chợt hôm sau họ thấy mình là một bà tiên tri nổi tiếng... Nhiều người đã giải thích đây là hiện tượng nhập đồng. Xác họ đã bị các vong hồn về mượn tạm. Tuy nhiên lời giải thích đó không hoàn chỉnh.
Một
số diễn viên xuất sắc khi đóng vai đã nhập vai một cách
trọn vẹn. Họ thật sự thấy mình là nhân vật được ghi
trong kịch bản và diễn xuất thật hoàn hảo. Trong một đời
làm diễn viên, họ đã nhập quá nhiều vai và vai nào cũng
đóng một cách như thật. Đó là nguyên nhân của bệnh “đa
nhân cách” ở kiếp sau. Hoàn toàn chẳng có gì lạ. Họ đã
sống lại từng vai mà họ đã diễn từ kiếp trước. Điều
quan trọng là ở kiếp trước, họ đã tự ám thị mình quá
mạnh rằng chính mình là nhân vật đang đóng để đạt được
khả năng diễn xuất cao độ. Sự tự kỷ ám thị đó đã
gây ra một nhân cách cho đời sau. Nhiều vai diễn khác nhau
với nhiều lần tự kỷ ám thị đã gây ra kết quả “đa
nhân cách” làm ngạc nhiên các nhà tâm thần học.
Ngoài
ý nghĩa nhân cách cao cả hay hèn hạ, còn có những người
bị rối loạn nhân cách nghiêm trọng mà người ta quen gọi
là điên và y học gọi là những bệnh tâm thần kinh với
sự phân biệt phức tạp. Những người điên không còn giữ
được sự hòa hợp bình thường với xã hội chung quanh. Họ
bị kích động kỳ lạ từ bên trong rồi biểu lộ ra ngoài
những lời nói và hành vi quái gở. Có người trong cơn điên
vô cùng hung dữ, sẵn sàng đập phá giết hại tất cả những
gì chung quanh mình. Có người trong cơn điên nói lảm nhảm
như đang nói chuyện với một kẻ vô hình. Có người quên
tất cả mọi quan hệ với người chung quanh và như lạc vào
thế giới ảo tưởng của riêng họ.
Một
số bệnh nhân tâm thần tự cho mình là thần thánh giáng thế.
Một số khác tuyên bố không thèm yêu ai mặc dù tất cả
thế giới đang xin cưới mình. Một số rơi vào bệnh loạn
dâm khủng khiếp. Một số khác bỗng thèm được giết thật
nhiều người... Vô số tình trạng quái gở của bệnh tâm
thần khó lý giải.
Thân
và tâm là một khối thống nhất, ảnh hưởng qua lại rất
chặt chẽ. Những rối loạn nhân cách như trên rõ ràng là
sự biến dị của não bộ hoặc một vài vùng của não bộ.
Khi một vùng nào đó bỗng nhiên phình to (u não), nó tự hoạt
động mạnh mẽ và chèn ép các vùng chung quanh. sự hoạt động
mạnh mẽ của nó lập tức thúc đẩy sự sai lệch trong tư
tưởng, lời nói và việc làm. Ví dụ vùng hoang tưởng chợt
lớn hơn bình thường, khiến cho người này luôn luôn cảm
thấy căng thẳng (tăng áp sọ não) khó ngủ và luôn luôn phải
tiếp xúc với các ảo ảnh chập chờn chung quanh, hoặc nghe
nhiều tiếng nói bên tai xúi giục làm chuyện bậy bạ.
Những
biện pháp cần được xử lý là thuốc men, thôi miên hoặc
giải phẫu để giải quyết cấp thời. Sau đó dùng sự giáo
dục để khơi dậy ý thức tỉnh táo chủ quan của người
bệnh để giải quyết lâu dài về sau.
Một
số người do tập trung tư tưởng nhiều quá vì công việc
bề bộn, hoặc vì dụng công tọa thiền sai cách, hoặc tham
vọng quá lớn, hoặc tâm lý tự cao quá mạnh, hoặc mê tín
dị đoan quá đáng... đều có thể làm biến dị não bộ để
xuất hiện trạng thái bệnh tâm thần kinh.
Chúng
ta cần sống một cách thảnh thơi, hợp với chánh pháp, hợp
với khoa học, hợp với đạo đức. Cần tự cải tạo mình
thoát khỏi tâm lý tham vọng quyền lực hoặc tự tôn thái
quá. Trong truyện Lục Mạch Thần Kiếm của Kim Dung tiên sinh,
nhân vật Cô Tô Mộ Dung cuối cùng bị bệnh điên vì khát
khao quyền lực quá mạnh mà không thành công. Hằng ngày ông
ra bờ ruộng mua bánh phát cho những trẻ chăn trâu để được
tụi nó kêu là đại vương, nhằm thỏa mãn phần nào ước
mơ thống trị thiên hạ.
Tâm lý mê tín quá đáng như tin tưởng có quỷ thần lảng vảng xung quanh để xin ăn, để gia hộ, cũng làm nhiều người xuất hiện bệnh điên. Vào bệnh viện tâm thần, hạng người điên vì mê tín khá đông.
Tuy
nhiên, đó chỉ là những nguyên nhân gần, nguyên nhân sâu
xa thật sự vẫn chính là nghiệp từ quá khứ. Tại sao hai
người có tham vọng quyền lực giống nhau mà một người
nổi điên và một người không điên. Khi hai người cùng mê
tín mà một điên, một không! Hai người cùng tu thiền chung
một phương pháp nhưng một điên, một không? Tại sao u não
xuất hiện ở người này và chừa lại những người khác
?... Nguyên nhân thật sự vẫn thuộc về nghiệp từ quá khứ
xa xăm.
Những
nghiệp gây nên bệnh điên được kể ra như sau:
Một,
sự hủy báng chánh pháp, công kích lẽ thật làm cho mọi người
lạc vào tà kiến là tội lỗi nặng nề nhất. Một số người
vì bảo vệ chủ thuyết của mình, đã thẳng tay chống đối
tất cả triết thuyết khác, trong đó có những triết thuyết
rất chân chính hợp lý. Phủ nhận chân lý là tội lỗi nặng
nề nhất.
Hai,
công kích người thể hiện được chân lý. Người thể hiện
được chân lý có thể là một vị Thánh đã đắc đạo,
có thể là một triết gia có suy nghĩ đúng, có thể là một
người không nói nhiều nhưng sống đời đức hạnh cao cả.
Sự công kích những hạng người này là tội lỗi nặng nề
thứ hai đủ để làm cho bệnh điên xuất hiện.
Ba,
trong cơn say sưa vì chất kích thích như rượu, ma túy, một
kẻ đã quậy phá tùm lum. Họ đã tập điên bằng rượu mặc
dầu họ chưa điên. Nhưng đó cũng là cái nhân để gây nên
quả báo điên loạn về sau.
Bốn,
chọc ghẹo những người điên một cách tàn nhẫn như ném
đá, nhái điệu bộ, chửi rủa.
Năm,
tâm ác độc quá nhiều lúc nào cũng muốn hãm hại kẻ khác.
Đại
khái năm nghiệp nhân trên là căn bản để gây nên bệnh điên
sau này. Ngoài ra còn có rất nhiều những nguyên nhân phụ.
Như
vậy, nhân cách là một vần đề đa dạng phức tạp. Chúng
ta cần xét qua nhiều khía cạnh để có cái nhìn bao quát,
để biết thương yêu và giúp đỡ kẻ khác hơn là mãi lo
chê trách họ. Kẻ có nhân cách thấp kém, thật ra cũng chỉ
là một dạng bệnh trừu tượng hơn bệnh thực thể mà thôi.
Và nếu đã là bệnh thì phải có cách chữa bởi kết hợp
tác động khách quan và ý thức chủ quan. Riêng đối với
người bị điên không còn ý thức được điều gì nữa thì
thân quyến phải làm phước rất nhiều để cầu nguyện cho
họ, chứ chính họ không tự giúp mình được điều gì.
15- GIỚI TÍNH
Vũ trụ là một cơ thể sống thống nhất với nhau, trong đó mọi vật thể đều dường như có một sức sống thầm kín ẩn dấu bên trong dù đó là chất hữu cơ hay chất vô cơ. Ngay cả sự bùng vỡ một tinh cầu cũng chỉ là giai đoạn cho những sự sinh hóa kế tiếp theo sau của vũ trụ. Ngay cả một chiếc lá vàng rơi rụng cũng không nằm ngoài tiến trình sống của vạn hữu. Tất cả đều sống, đều sinh hóa vô tận.
Tuy
nhiên, sự sống biểu hiện rõ nét nhất nơi đời sống của
sinh vật qua quá trình giao phối của hai giao tử đực cái
để cho ra đời những giống con tiếp tục duy trì chủng loại.
Giao tử đực có nhiệm vụ cung cấp cho đủ điều kiện để
giao tử cái nuôi dưỡng phát triển thai mầm lớn lên.
Dường
như giống cái có trách nhiệm nhiều nhất trong việc sinh sản
con cái. Giống đực chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ ban đầu qua
giao phối, có khi chỉ để tìm khoái lạc cho bản năng. Một
vài giống đực có giúp đỡ nuôi nấng vợ mình trong quá
trình thai sản. Một số khác chỉ cung cấp tinh trùng rồi
chuồn êm, không một chút bận tâm vì bổn phận.
Con
người cũng vậy, tình yêu và tình dục làm cho nam nữ gần
gũi nhau để duy trì nòi giống. Người mẹ mang nặng đẻ
đau. Người cha làm lụng nuôi nấng. Đó là mẫu gia đình
bình thường trong xã hội.
Nhưng
sự khác biệt về vai trò, năng lực, quyền hạn giữa nam
và nữ đã là một vấn đề có ý nghĩa lớn. Một số dân
tộc tôn trọng phụ nữ và một số khác thì ngược lại.
Thậm chí hiện nay tại một vùng quê ở Á Châu, nếu biết
được đứa con sẽ ra đời là con gái, người ta sẽ phá
thai. Trong kinh A Di Đà của Phật giáo Bắc Phương, hình ảnh
một thế giới lý tưởng là thế giới “không có người
nữ và không có đường ác”. Quan niệm trọng nam khinh nữ
trở thành phổ biến suốt các đại lục từ Trung Đông qua
Châu Á. Điều này có thể giải thích theo luật cung cầu.
Dường như tỉ lệ người nữ luôn luôn cao hơn người nam
trong cơ chế nhiễm sắc thể khi thụ tinh. Tỉ lệ nhiễm sắc
thể có dạng Y để tạo thành bào thai nam luôn luôn thấp.
Thêm nữa, người nam do có sức khỏe nên phải luôn luôn dự
phần vào chiến tranh và không tránh khỏi chết chóc. Điều
này càng làm cho tỉ lệ nam nữ mất cân đối hơn. Khi nữ
nhiều nam ít sự phân biệt đối xử là một hệ quả tất
yếu buộc phải xảy ra. Giá trị người nữ trở nên thấp
kém so với nam giới.
Người
ta thành lập ngày phụ nữ 8-3, người ta đấu tranh đòi quyền
bình đẳng cho phụ nữ... Tất cả những điều đó càng chứng
tỏ rằng thực sự phụ nữ đã từng bị ngược đãi.
Ngoài
lý do cung cầu để giải thích sự phân biệt đối xử giữa
nam và nữ, người ta còn đưa ra một số lý do về tính khí.
Người nữ được xem là hạng người yếu đuối, ích kỷ,
gian trá, thâm hiểm... Đến nỗi chữ “gian” của Trung Quốc
được ghép bằng ba chữ “nữ” lại với nhau. Triết gia
Schopenhawer cay cú với người nữ không biết dường nào. Ông
cho rằng:
“Chỉ
có một người đàn ông bị mờ mắt vì sự thúc đẩy của
xác thịt mới có thể tặng danh từ phái đẹp cho cái giống
người thấp bé, vai hẹp, mông rộng, chân ngắn kia, vì toàn
thể vẻ đẹp của giống này đều luôn kết chặt chẽ với
bản năng tính dục. Thay vì gọi họ là phái đẹp, để bảo
đảm hơn, nên tả đàn bà là giống thiếu thẩm mỹ...”
(Luận về đàn bà)
Chỉ có luật Nghiệp Báo thì vô tư công bình thoát ra ngoài các định kiến của con người. Nơi này người đàn bà phải quy phục với đàn ông thì tại một nơi khác đàn bà là nữ hoàng. Nơi này người đàn bà phải chìu chuộng chồng thì ở nơi khác người đàn bà được galant hết mực. Có những người đàn ông phải đi ăn xin trong khi kẻ bố thí là một phụ nữ giàu có sang trọng. Biết bao nhiêu sinh viên nam giới phải lẳng lặng nghe lời giảng sâu sắc của một nữ giáo sư đại học. Biết bao nhiêu quyết định sáng suốt của một lãnh tụ là do gợi ý của vị phu nhân ở phía sau...
Dựa vào một tiêu chuẩn nào đó để đánh giá trị hơn kém giữa người nam và người nữ là một điều thiên lệch bất công. Trên bất cứ lãnh vực nào, nữ cũng như nam đều có khả năng đạt đến như nhau. Mặc dù tỉ lệ thành công của người nam cao hơn người nữ rất nhiều. Số lãnh tụ nam, bác học nam, nghệ sĩ nam luôn luôn đông hơn nữ. Một lý do vô cùng đơn giản là vì người nam không bị gián đoạn bởi quá trình thai sản. Thời gian mang thai và chăm sóc trẻ con đã làm gián đoạn sự nghiệp của người nữ, khiến cho họ không thể nào thành công như người nam. Nhiều công trình đang thực hiện phải dang dở. Nhiều khóa học phải bỏ ngang. người nữ đã khiêm tốn nhận lấy trách nhiệm nuôi dạy con để cho người nam được liên tục trong quá trình tạo nên sự nghiệp. Sự thành công của người nam chính là phần nổi của tảng băng rất dễ trông thấy, trong khi phần chìm ở dưới là công lao của người nữ.
Chính
Đức Phật , giữa một xã hội Ấn Độ trọng nam khinh nữ,
cũng nói rằng:
“Có
nhiều người nữ còn tốt hơn người nam”.
Tuy
nhiên, một số sai biệt căn bản sau đây vẫn là tiêu chuẩn
thông thường giữa nam và nữ.
Một là sức khỏe. Tính trung bình sức khỏe của nam giới vượt hơn nữ giới. Vì thế, tiêu chuẩn thi đấu thể thao của nữ luôn luôn được đòi hỏi thấp hơn của nam.
Hai là vóc dáng. Trung bình vóc dáng người nữ nhỏ nhắn hơn người nam. Nếu đi sâu vào phân tích giải phẫu cơ thể thì còn rất nhiều điểm khác biệt, bên cạnh hình thể, âm thanh người nữ cũng khác với người nam.
Ba là tâm lý. Tính chất đặc trưng của người nữ là kín đáo, rụt rè, kiên nhẫn, dễ xúc động, đa cảm, nhẹ về lý trí, trực giác mạnh. Đôi khi người ta còn gán cho người nữ tính ích kỷ, hẹp hòi.
Bốn
là sinh lý. Sinh lý giữa nữ và nam có rất nhiều sai biệt
để mỗi bên có thể thực hiện chức năng của mình. Các
nội tiết tố, các thời kỳ hành kinh, cấu tạo não, tổ
chức sinh dục... làm phân biệt rõ nét hai giới tính.
Nhưng
ngoài cấu tạo sinh lý, những tiêu chuẩn khác không lấy gì
làm cố định. Có những người nam mang nhiều tính chất của
người nữ và ngược lại, cũng có những người nữ mang
tính chất của người nam. Có những người nam yếu đuối,
rụt rè, ích kỷ và cũng có những người nữ mạnh bạo,
phô trương, rộng rãi.
Rất
là dễ dàng để cho một người bị chuyển giới tính khi
sinh sang một đời sống mới.
Nếu
một người nam có tư tưởng khinh thường người nữ, có
hành vi hạ thấp nhân phẩm phụ nữ. Kiếp sau, anh ta sẽ sinh
làm người nữ trong một xã hội có truyền thống trọng nam
khinh nữ để anh ta phải chịu đựng lại những đau khổ
mà anh ta từng gây ra cho nữ giới.
Hoặc
một chàng trai đa tình, suốt đời dẫm lên không biết bao
nhiêu cuộc đời của phụ nữ, kiếp sau anh cũng sẽ làm được
người nữ để chịu đựng sự bạc tình của người khác.
Ngay
cả một người chồng tốt, chung thủy với vợ, nhưng đã
làm cho vợ sinh đẻ quá nhiều. Kiếp sau anh cũng có thể trở
lại làm người nữ để chịu đựng cái cảnh mang nặng đẻ
đau đầy ý nghĩa.
Thông thường, một người nam chuyển thân làm nữ vẫn còn giữ lại nhiều tính chất của người nam như cứng rắn, dạn dĩ, xốc vác. Đôi khi họ tự cảm thấy bực bội vì thân thể nữ giới của mình.
Ngược lại, có những người nữ hăng hái làm việc từ thiện xã hội, xông xáo vào nơi nguy hiểm để cứu giúp nạn nhân, trong tâm thích được làm người nam để tiện làm việc thiện. Đời sau họ sẽ chuyển thân nam để tiện làm việc thiện, nhưng vẫn còn phảng phất một số tính chất của người nữ như dáng đi mềm mại, giọng nói trong thanh.
Có một số người chuyển giới tính ngay trong kiếp hiện tại. Đang là người nam, bỗng nhiên họ dần dần xuất hiện tính chất của người nữ như đổi giọng nói, ngực và mông to ra, vai và eo nhỏ lại. Hoặc một số người không bị biến dạng về hình thể nhưng luôn luôn mang một ý nghĩ mạnh mẽ rằng mình là người nữ, và đem lòng thương yêu những người nam (hiện tượng pédé).
Sự chuyển đổi giới tính này đều có nguyên nhân từ quá khứ. Hoặc là họ đã đủ duyên để làm nữ, khiến cho nghiệp thúc đẩy tâm lý, sinh lý (tuyến nội tiết) hoặc phẫu thuật đưa họ sang nữ giới ngay trong hiện tại. Hoặc sự trêu chọc kẻ á nam á nữ cũng tạo thành quả báo lưỡng tính không rõ rệt nơi một người.
Bình thường thì người nữ nhiều tình cảm hơn người nam, do đó, dường như người mẹ thương con nhiều hơn người cha. Tình thương của người mẹ là một hình ảnh đẹp đẽ muôn đời được loài người ca ngợi. Chính tình thương con sâu đậm của người mẹ làm cho người mẹ được phước rất nhiều mà đôi khi người cha không bằng được. Đó là nói trong phạm vi gia đình. Nhưng khi bước sang lãnh vực xã hội, người nam với tính chất hào phóng, gan dạ, xông xáo... đã chiếm ưu thế, đã đóng góp được nhiều công sức hơn người nữ, và do vậy, phước cũng nhiều hơn.
16- NGHỀ NGHIỆP
Vào thuở hoang sơ con người chỉ biết hái trái rừng để sống. Khi có những khám phá mới về thức ăn động vật, họ bắt đầu săn bắn và bắt tôm cá để bổ sung nguồn lương thực. Tiến dần lên, con người biết định cư để chăn nuôi và trồng trọt. Trong thời kỳ đó, một người phải biết làm lấy tất cả những công việc theo nhu cầu của mình như cất nhà, trồng cây, săn bắn, chế tạo dao búa, cung tên, đẽo thuyền... Lâu dần con người biết trao đổi.Người đem thịt đến đổi lấy lưỡi dao tinh xảo. Tiếng tốt đồn xa, nhiều người khác đều đến năn nỉ để được đánh đổi lưỡi dao của một kẻ có khiếu đặc biệt về công việc rèn đúc dáo mác này. Từ đó người thợ rèn ở nhà đi hẳn vào chuyên môn vũ khí và đổi lấy lương thực của những người khác.
Khi
giai đoạn chuyên môn tăng dần, xã hội hình thành sự phân
công tự nhiên, mỗi người một việc hợp với năng khiếu
của mình.
Thị
trường đơn giản khởi nguồn từ dạo ấy.
Một
khi đã có sự phân công nghề nghiệp, con người trở nên
lệ thuộc lẫn nhau. người thợ rèn cần lương thực của
người nông dân. Người nông dân cần cột nhà của người
tiều phu. Người tiều phu cần đôi giày của người thợ
thuộc.
Khi
thị trường của cung và cầu xuất hiện, nó biến thiên theo
các quy luật khách quan chi phối kinh tế của toàn bộ cộng
đồng con người. Có những lúc nhu cầu về dao cuốc tăng
cao, người thợ rèn trở nên giàu có. Đôi khi thời tiết
thất thường, người nông dân trở nên nghèo khổ.
Những
yếu tố tác động vào thị trường một cách bất ngờ và
không ai có thể lường trước là nghề nghiệp của mình sẽ
trở nên phát đạt hay suy thoái. Mỗi nghề đều có ít nhiều
tính chất may rủi, nghĩa là đều có tính kinh doanh. Con người
phải phán đoán tình hình, bỏ công sức của cải để đầu
tư, và thời gian sẽ cho biết thành công hay thất bại.
Xã
hội càng phức tạp thì sự phân công càng rõ rệt dứt khoát.
Người chỉ thuần lập chương trình cho máy tính, người chỉ
thuần chế tạo thuốc kháng sinh. Kẻ chỉ thuần tạo mẫu
thời trang. Kẻ chỉ thuần trình diễn âm nhạc...
Rồi
trong mỗi ngành nghề, sự phân công được diễn ra với mức
độ vô cùng chuyên sâu tỉ mỉ. Trong việc xây dựng một
căn nhà, không một người thợ nào đảm trách tất cả mọi
công đoạn. Cần phải có thợ xây, thợ cốt thép, thợ sơn,
thợ cấp thoát nước, thợ điện...
Thế
là, đứng trong xã hội, hầu như ai cũng phải có nghề để
sinh sống. Tuy nhiên, một nghiệp duyên từ kiếp nào đó đã
thúc đẩy chúng ta chọn lấy nghề của mình, và chịu luôn
cái nghiệp của nó.
Có
người chọn ngành y tế chỉ vì từ kiếp trước anh đã từng
hành nghề này và rất yên tâm thoải mái với cuộc sống
nghề nghiệp của mình. Anh không mơ ước gì khác, không đứng
núi này trông núi nọ. Kiếp này, từ thuở bé, anh đã có
con đường đi rõ ràng là y khoa, không phải phân vân tính
toán gì thêm nữa. Và anh vào nghề rất suôn sẻ thành công.
Có
người thường mang vải vóc cúng dường bậc chân tu, bố
thí vải cho người nghèo khổ. Nghiệp nhân đó đưa đến
nghề mua bán vải trong kiếp này và bà trở nên giàu có.
Có
người thích đắp đường, bắt cầu, đào giếng nơi công
cộng để làm phước. Kiếp sau anh trở thành kỹ sư công
chánh với nhà cửa rộng lớn, tiền bạc sung mãn.
Có
người trở thành kẻ chăn ngựa cho một ông chủ, chỉ vì
đời trước anh và bầy ngựa là kẻ mắc nợ ông chủ. Riêng
anh may mắn giữ được thân người. Những kẻ khác đọa
làm ngựa. Duyên xưa chưa hết anh vẫn lẩn quẩn bên bầy
ngựa để chăm sóc chúng nó.
Có
người đời trước làm ca sĩ, được lệnh trên là phải
ca ngợi lính chiến, kêu gọi thanh niên tham gia quân đội.
Đời sau anh phải đeo đẳng nghiệp quân sự suốt đời.
Có người làm nghề lái xe. Không chắc vì đời trước anh là người lái xe để sinh sống. Có khi đời trước anh là một kẻ giàu có và rất mê lái xe. Kiếp này nghèo, trở lại hành nghề lái xe để sinh sống theo đam mê lúc trước của mình.
Như
đã nói, ý nghĩ là nhân và hành động là quả. Đôi khi đời
trước một người làm nghề khác, nhưng tâm tư lại hướng
về nghề này. Tâm ước mơ đó cũng làm xuất hiện kết quả
đổi nghề mới ở kiếp sau. Ví dụ một bác sĩ thích đọc
sách rồi mơ ước viết văn. Nhưng công việc bận rộn khiến
cho ông không bao giờ thực hiện được điều đó trong kiếp
này. Phải đợi đến kiếp sau ông mới bắt đầu lạc qua
nghề văn chương mặc dù vẫn còn dính líu khá nhiều với
nghề thuốc.
Có
một số bác sĩ làm giàu nhờ người bệnh, nghĩa là sống
sung sướng nhờ vào sự đau khổ của người khác bằng cách
tính tiền thù lao quá nặng. Phước bị tổn, đời sau kẻ
này vẫn còn ở trong ngành y tế, nhưng nghèo khó và bằng
cấp nhỏ.
Có
những người chuyên nghiên cứu về nghệ thuật nên ít có
thì giờ làm phước. Đời sau họ sẽ trở thành những nghệ
sĩ nhưng cầm chắc cái nghèo trong tay. Chỉ những người đã
từng làm phước rộng rãi mới có thể thành đạt trong lĩnh
vực nghệ thuật để trở nên nổi danh và giàu có.
Người xưa có câu “Đại phú do thiên, tiểu phú do cần”– Giàu lớn nhờ trời (may mắn) giàu nhỏ do siêng năng. Người thành công trong nghề nghiệp cũng vậy. Có những cơ hội làm ăn từ đâu đem tới ngoài dự định của họ. Thậm chí có khi họ mệt mỏi, bỏ công việc đi chơi cho khuây khỏa rồi cũng gặp mối lái làm ăn. Ngược lại có những người vắt tâm kiệt óc tìm đủ phương kế mà vẫn bị trật vuột thất bại. Cùng một nghề như nhau, nhưng kẻ thì phất to, người thì lụn bại. Tất cả đều do duyên nghiệp quá khứ.
Đức Phật khuyên hàng cư sĩ tại gia phải nuôi sống bằng một nghề chân chính (Chánh mạng). Ngành nghề trong xã hội rất đa dạng phong phú. Nhưng có những nghề càng làm càng có phước và có những nghề càng làm càng có tội. Ví dụ nghề giết thịt, nghề nấu rượu, nghề buôn ma túy, kinh doanh phim ảnh, sách báo đồi trụy, phá rừng... là những nghề làm cho người ta chồng thêm tội lỗi. Sống bằng những nghề đó thì đời sau luôn luôn gặp đau khổ, bất hạnh. Quả báo bệnh hoạn, chết yểu, điên loạn, đọa làm súc sinh chắc chắn phải xảy ra.
Có những nghề càng làm càng có phước như xây dựng đường xá, cầu cống, trường học, thủy điện, an ninh, giáo dục, bảo vệ môi trường, y tế, lương thực... Nói chung những ngành nghề đem lại lợi ích cho xã hội, đều làm cho chủ nhân có phước, nếu họ biết phục vụ một cách tận tụy cao cả. Đôi khi một người ở trong một ngành nghề dễ tạo phước nhưng họ quá ích kỷ, chỉ nghĩ tới đồng lương, gây khó khăn cho mọi người. Họ cũng bị tổn phước trầm trọng.
Như vậy, có hai yếu tố thực hiện nghề nghiệp chân chính là: Chọn nghề dễ tạo phước và phục vụ tận tình. Hãy nghĩ đến lợi ích chung của xã hội và làm việc nhiệt tình hơn là chỉ nghĩ đến lợi nhuận cá nhân. Đương nhiên ai cũng cần phải được hưởng thành quả lao động của mình với số tiền kiếm được để sinh sống. Nhưng một người biết làm phước là người luôn luôn “đóng góp nhiều hơn hưởng thụ”. Hãy làm việc thế nào mà chúng ta cảm thấy sự đóng góp của mình đối với xã hội luôn luôn cao hơn quyền lợi thu về. Được như vậy chúng ta sẽ có phước lớn về sau. Còn những kẻ chỉ muốn hưởng thụ tối đa với công sức bỏ ra tối thiểu. Trước mắt họ có vẻ giàu sang nhưng tương lai họ sẽ là một người khốn khổ vì thiếu phước.
Mỗi
tuần, mỗi tháng khi kiểm lại số tiền kiếm đựợc chúng
ta hãy so sánh với công sức lợi ích mà mình đã đóng góp
cho xã hội. Nếu thấy công sức nhiều hơn, chúng ta có quyền
nở một nụ cười vui vẻ vì biết rằng mình đang tích lũy
phước dần dần theo năm tháng. Ngược lại, nếu thấy mình
không làm được lợi ích gì cho xã hội mà kiếm tiền được
quá nhiều, hãy lo lắng hơn là mừng rỡ, và cũng phải tìm
cách cúng dường bố thí để bù đắp lại cái phước đang
bị hao tổn kia.
Có
một nghề mà không phải nghề, đó là tu sĩ. Đa phần khi
khai giấy tờ, một tu sĩ luôn luôn ghi vào mục nghề nghiệp
: tu sĩ. Như vậy, phải chăng mọi người công nhận tu sĩ
là một nghề để sống như bao nhiêu nghề khác ? Một số
nhân viên chính quyền ít thiện cảm với thầy tu cũng xem
làm tu sĩ như là một nghề để kiếm cơm !
Tuy nhiên vấn đề này khá tế nhị.
Nếu
xét về phương diện cung cầu, thì tu sĩ là người thoả mãn
nhu cầu tín ngưỡng, cúng tế, giảng dạy giáo lý cho tín
đồ, còn tín đồ thì tùy tâm tùy sức giúp đỡ đời sống
cho tu sĩ. Điều này giống như một dịch vụ có trao đổi
và đòi hỏi tu sĩ phải có một mức độ chuyên môn nhất
định nào đó về nghi thức và giáo lý.
Nhưng
đứng ở phương diện khác, cách “trao đổi” trong lĩnh
vực tôn giáo này không có tính cách thị trường thương mại
vì người tu sĩ xem việc làm cúng tế, giảng dạy giáo lý
là một bổn phận thiêng liêng để giúp đỡ đời sống tinh
thần của tín đồ chứ không nhắm vào mục đích lợi nhuận,
không qui định giá cả, lễ vật mà người tín đồ phải
dâng cúng. Cũng vậy, người tín đồ vì tôn trọng đạo đức
và minh triết của tu sĩ nên nương tựa và giúp đỡ để
vị tu sĩ đó được rảnh rỗi chứ không nghĩ rằng họ phải
đánh đổi vật chất để được lợi ích của Thánh linh.
Dĩ
nhiên, không một tổ chức nào, một đảng phái nào, một
tôn giáo nào, dù tốt đẹp đến đâu đều có thể tránh
khỏi sự trà trộn của những phần tử xấu xa, ích kỷ.
Chính những phần tử này đã làm tổn thương uy tín của
tôn giáo và hàng ngũ tu sĩ, chứ bản chất đường lối của
các tôn giáo hoàn toàn không có mục tiêu trục lợi hoặc
tìm kiếm lợi nhuận .
Dù
sao, một tu sĩ chân chính suốt đời dùng cuộc sống mình
để làm gương, dùng lời nói mình để rao giảng đạo đức,
họ xứng đáng được hưởng sự kính trọng và giúp đỡ
của người tín đồ.
Thế gian này vốn ngập tràn tội ác, thế nên sự truyền bá đạo đức là một nhu cầu bức thiết của xã hội. Đạo đức cần phải được giảng dạy ở khắp mọi nơi, trong gia đình, học đường, các đoàn thể và các tôn giáo. Mỗi nơi đều có phương pháp riêng để nêu lên hệ thống đạo đức của mình. Tôn giáo vừa mang tính chất thần bí, vừa mang tính chất đạo đức. Ở phương diện đạo đức, tôn giáo là một hình ảnh đẹp của loài người vì đã rao giảng cải hóa tâm hồn con người trở nên thuần lương hướng thượng. Ở khía cạnh thần bí, tôn giáo bị nghi ngờ phê phán, vì có nhiều điểm chưa (xin nhấn mạnh chữ chưa) phù hợp với khoa học.
Hầu hết con người tìm đến tôn giáo vì mục đích tâm linh. Nhưng một tôn giáo chân chính là tôn giáo vừa có khả năng giúp con người đạt được mục đích tâm linh, vừa có khả năng giúp con người cải tạo đạo đức phù hợp với văn minh của cộng đồng xã hội, vừa có khả năng lý luận phù hợp với khoa học để không bị đào thải vì lạc hậu. Nếu một tôn giáo chỉ thiên hẳn về một khía cạnh thần bí, khiến cho tín đồ lập dị, quái lạ với cộng đồng xã hội, đồng thời có quá nhiều điểm phản khoa học. Tôn giáo đó sẽ bị đào thải.
Một người muốn trở thành tu sĩ cũng vậy, phải sáng suốt lựa chọn một tôn giáo nào có thể giúp cho mình trở nên thánh thiện và sau đó đem lại lợi ích cho nhiều người trên cả ba lãnh vực: tâm linh, đạo đức và tính khoa học. Chỉ như vậy hình ảnh của tu sĩ mới là một hình ảnh vừa siêu thoát, vừa gần gũi với con người. Tu sĩ không còn là một nghề tìm sinh kế nữa, mà đã trở thành một thiên chức cao cả cần thiết cho cuộc đời hôm nay và mai sau.
17. TÌNH CẢM
“Con
tim có những lý lẽ mà lý trí không hiểu nổi” Một triết
gia phương tây đã nói như vậy.
Đúng!
Ý thức dường như không hiểu hết sự hoạt động của tình
cảm thương ghét trong lòng mình. Tại sao vừa gặp một người
lạ, tâm ta chợt xuất hiện ác cảm. Chợt nhìn thấy một
hình bóng xa xa, lòng ta rộn lên niềm cảm xúc. Ý thức chưa
kịp nói năng gì thì tình cảm đã rộn ràng múa may quay cuồng
kêu réo.
Các
nhà khoa học đã tìm thấy hoạt chất ảnh hưởng lên tình
cảm của con người. Ví dụ bác sĩ Liebowitz tìm thấy khi não
bộ sản xuất ra chất Pheniletilamin thì tình yêu mến tự nhiên
dâng trào trong lòng. Một số tình cảm thù ghét, bực bội
khó chịu cũng đều liên quan đến các hoạt chất trong cơ
thể. Có thể sự tương quan có tính cách hai chiều. Vì tình
cảm khởi dậy nên hoạt chất phát sinh, và ngược lại, khi
hoạt chất phát sinh (hoặc do tiêm chích) thì tình cảm khởi
dậy.
Người
ta tiêm một hoạt chất thúc đẩy tình thương con vào chuột
mẹ thì thấy tình thương của con chuột này tăng lên rõ rệt
đối với bầy con của nó. Hoạt chất này xuất hiện rất
nhiều khi người phụ nữ sinh nở.
Đó
là nguyên nhân gần tác động lên tình cảm của sinh vật.
Nguyên nhân sâu xa vẫn còn dấu trong luật Nghiệp Báo.
Một
nguyên nhân gần khác đáng được lưu ý là do tâm lý phát
sinh tình cảm.
Ví
dụ khi một chàng trai nhìn thấy một cô gái đẹp, một minh
tinh màn bạc, một cô tiểu thư nhà giàu, một cô gái thông
minh tài giỏi... Lòng anh ta cũng phát sinh một tình cảm ưu
ái và muốn chiếm đoạt về mình. Tình cảm ưu ái đó phát
xuất từ tâm lý vị kỷ cố hữu của con người luôn luôn
muốn quơ quào về cho mình thật nhiều mọi cái gì tốt đẹp
trên thế gian. Tình cảm ưu ái đó là hệ quả của tâm lý
tham lam mà thôi !
Trong
trường hợp khác, một số cô gái bỗng cảm thấy khó chịu
với thí sinh vừa đạt danh hiệu hoa hậu quốc gia. Tình cảm
ganh ghét này là hệ quả của tâm lý đố kỵ thầm kín giữa
phái nữ với nhau, đó là chuyện thường tình.
Có
khi một thiếu phụ tìm cách chiếm đọat tình cảm của một
người đàn ông nhưng không thành công. Từ yêu mến, bỗng
bà ta trở nên thù hận cực điểm và tìm cách trả thù cho
hả dạ. Như vậy tình cảm yêu mến hay hận thù của người
đàn bà này hoàn toàn chỉ là tâm lý ích kỷ tham lam, không
phải là tình yêu thương chân thật.
Khi
khảo sát về tình cảm thương ghét của con người, chúng
ta nhận thấy rằng tất cả đều xuất phát từ tâm lý vị
kỷ. Cái gì thỏa mãn được lòng tham muốn, sự ưa thích
sẽ phát sinh. Cái gì ngăn cản lòng ham muốn, sự thù ghét
sẽ xuất hiện. Tình cảm con người chỉ là một trò lừa
dối của chấp ngã bí ẩn phía sau.
Chính
vì nhìn thấy bản chất thật sự của tình cảm này mà các
bậc thánh nhân luôn luôn kêu gọi một tình thương không điều
kiện, một tình thương không đòi hỏi cho tự kỷ, chỉ thuần
có ban phát và hy sinh, một tình thương hoàn toàn vô ngã. Tuy
nhiên để vuợt qua được ngã chấp sâu kín từ trong bản
năng vô thức (xem Năm Aám Là Gì), chúng ta phải khổ công
thực hành thiền định đúng phương pháp. Quả thật không
dễ dàng chút nào khi một người muốn vuợt khỏi ngã chấp
để đạt được một tâm đại bi vô lượng trùm phủ thương
yêu tất cả mọi người. Tâm đại bi đó mới là tình thương
yêu chân thật, hoàn toàn hy sinh cho tha nhân mà không mong mỏi
điều gì trở lại cho tự kỷ.
Đối với hạng phàm phu như chúng ta, điều quan trọng là cố gắng kiểm soát tâm lý tham lam ích kỷ của mình, phải tự xét nét kỹ lưỡng xem sự thương yêu của mình đối với mọi người có ẩn chứa một mưu tính, một sự trục lợi nào ẩn dấu sâu kín bên trong hay không. Bởi vì chúng ta hầu như chỉ thương yêu cái gì đem lại lợi ích cho mình. Không có lợi ích cho mình, tình thương sẽ vắng bóng (!) Ai mưu hại ta, ta sẽ ghét họ. Ai giúp đỡ ta, ta sẽ thương họ. Đó là quy luật thường tình mà tất cả mọi người không thể vựợt qua nổi.
Chúng
ta muốn đi tìm một chân lý cao cả, một con đường hướng
thượng bao la. Hãy cố gắng thứ tha và “thương yêu kẻ
thù ghét mình” (Phúc Âm) và thương yêu kẻ tích cực giúp
đỡ mình sau khi đã gạn lọc xong tâm lý “vì họ đem lại
lợi ích cho mình”.
Ngoài
những nguyên nhân gần, tình cảm còn xuất phát từ nghiệp
duyên trong quá khứ.
Một
hòa thượng được một gia đình thí chủ thỉnh về cung dưỡng
trân trọng đầy đủ để hòa thượng yên tâm tu hành. Sau
một thời gian dài hai bên trở nên thù ghét nhau dữ dội và
hoà thượng phải ra đi. Nguyên nhân được tìm thấy là từ
đời trước gia đình kia chịu ơn với hòa thượng nên đời
này phải cung phụng để đền trả. Dĩ nhiên trước khi thỉnh
hòa thượng về họ phải khởi lên tình cảm kính thương
sâu đậm với hòa thượng. Sau khi trả xong món nợ quá khứ,
họ cảm thấy hòa thượng là một gánh nặng đối với gia
đình. Tình cảm ưu ái biến mất, sự ghét bỏ thế chỗ,
và rồi hòa thượng phải ra đi.
Như
vậy tình cảm đời này có khi xuất phát từ một món nợ
của quá khứ. Khi thấy ai tự dưng yêu mến giúp đỡ mình,
chúng ta đừng vội cho mình có nhiều ưu điểm. Có khi chỉ
vì họ mắc một ân nghĩa gì đó và đang trong thời gian đền
trả. Trả xong, tình cảm sẽ biến mất. Hiểu được điều
này chúng ta sẽ giữ được bình thản khi thấy con người
khi thì vồn vã với nhau, khi thì hờ hững với nhau.
Tương tự những lời nói công kích sỉ nhục từ kiếp trước, sự giết hại chiếm đoạt từ quá khứ cũng gây ra tâm lý thù ghét của nạn nhân trong đời này. Chúng ta lỡ lời làm mất thể diện của một người. Rồi chuyện trôi vào quên lãng. Nhưng qua kiếp sau, vừa trông thấy mặt nhau, tâm người kia bỗng khởi lên một sự ác cảm kỳ lạ đối với ta mà chính họ cũng không biết tại sao. Cũng chưa hẳn là sự ác cảm của họ sẽ gây ra phiền toái cho chúng ta, nhưng dù sao ác cảm vẫn còn đó. Vì thế trên bước đường luân hồi vô tận này, chúng ta hãy cố gắng tránh né làm phật lòng, xúc phạm đến người khác để tránh được oán thù về sau.
Hầu
hết các nhân vật nổi tiếng giữa xã hội như các nhà chính
trị thành công được nhiều người ưa thích hâm mộ. Nguyên
nhân của sự hâm mộ này có thể bắt nguồn từ sự ban ân
rộng rãi từ những kiếp trước. Quá nhiều người đã thọ
ân của họ nên đời sau buộc lòng phải ủng hộ cho họ
đạt đến địa vị trên chính trường thông qua lá phiếu
hay một cách thức vận động nào khác.
Chưa
hết, nếu trong thời gian làm chính trị, họ giữ được uy
tín, tình cảm của quần chúng sẽ còn kéo dài qua nhiều kiếp
sau nữa.
Khi so sánh cuộc đời của vua nhạc Rock Elvis Presley, các nhà sử học rất ngạc nhiên khi thấy gương mặt của Elvis Presley giống hệt như bức tượng của một vị vua Ai Cập thời xưa. Vì vua Ai Cập này đã sống ở một địa danh tên là Memphis ở Ai Cập. Trong khi Elvis sống tại Memphis ở Mỹ. Vị vua Ai Cập này tôn thờ Thần Mặt Trời để thay thế các thần linh khác, trong khi Elvis trở nên nổi tiếng với băng nhạc “Sun” (mặt trời) đầu tiên. Elvis Presley được sự hâm mộ của công chúng, đến nỗi sau khi chết, anh được mọi người yêu cầu tổng thống Carter phải tổ chức quốc tang trọng thể.
Có
thể nào cái dư hưởng làm vua từ quá khứ xa xăm vẫn còn
đọng lại trên tâm tình của quần chúng, mặc dù bây giờ
Elvis Presley đã trở thành một vị vua mới, Vua nhạc Rock chăng?
Trong
luật Nghiệp Báo, một ông vua vẫn có thể trở thành nghệ
sĩ nếu trong thời gian trị vì ông đã từng ưu đãi giới
nghệ sĩ quá mức. Sau này ông sẽ trở thành nghệ sĩ để
được ưu đãi trở lại.
Có
hai nguyên nhân dẫn đến sự thu hút tình cảm của mọi người.
Một,
đó là người có tâm từ ái rộng lớn, luôn luôn biết thương
yêu, đối xử tử tế, hòa nhã với mọi người. Kiếp sau
họ có khuôn mặt hiền lành, phúc hậu khả ái kỳ lạ, bất
cứ ai vừa trông thấy đều cảm mến.
Hai, đó là người siêng năng làm việc từ thiện bằng lý trí. Tâm hồn họ không có nhiều tình cảm nhưng lý trí họ rất sáng suốt, luôn luôn chịu khó tích lũy phước thiện, luôn luôn chịu khó giúp đỡ mọi người. Đời sau họ cũng được nhiều người (đã thọ ân) yêu mến mặc dù gương mặt họ có vẻ cứng cỏi khôn ngoan chứ không có vẻ hiền lành tự nhiên như trường hợp thứ nhất.
Có một loại tình cảm được đề cập đến nhiều nhất trong tất cả tác phẩm văn hóa của nhân loại đó là tình yêu nam nữ. Có lẽ đây là loại tình cảm mãnh liệt hơn các loại tình cảm khác bởi vì nó liên quan đến bản năng sâu kín của con người. Thứ nhất con người luôn luôn muốn chiếm đoạt về mình mẫu người có thể đem lại hạnh phúc cho mình (tâm lý vị kỷ). Đó là mẫu người đẹp đẽ, có tài năng, có tiền bạc, đối xử tế nhị. Thứ hai, tình cảm nam nữ có sự thôi thúc âm thầm của hoạt động tính dục, một loại hoạt động gây khoái cảm xác thịt rõ rệt nhất. Ngoài những nhu cầu về ăn uống, tổ chức sinh lý của con người đã sắp sẵn một sự đòi hỏi để được thỏa mãn về khoái cảm tính dục. Vì thế người nam và nữ luôn luôn tìm kiếm đối tượng thích hợp để trao đổi khoái cảm này. Có khi tình yêu và hôn nhân dẫn đến hoạt động tính dục. Có khi họ đến với nhau vì khoái cảm và mua bán mà thôi.
Dù
sao thì duyên nghiệp từ quá khứ cũng đã chi phối cho loại
tình cảm này.
Nếu
quả thật có duyên nợ, hai người sẽ yêu nhau chân thành
và đi đến hôn nhân để trả xong nợ quá khứ (và tiếp
tục gây nợ mai sau)
Nếu
không có nợ, chỉ có duyên, họ sẽ yêu nhau qua một giai đọan,
rồi trắc trở, tình cảm phai nhạt dần theo năm tháng.
Đôi
khi chỉ có tình yêu đơn phương. Người này mơ tưởng đến
người kia nhưng không được đáp lại. Họ tìm thấy người
kia những tiêu chuẩn về sắc đẹp, tư cách thích hợp, muốn
người kia trở thành của mình, nhưng từ kiếp trước đã
không có duyên nên họ không nhận lại một sự đáp ứng
nào cả.
Nhưng
rồi tình yêu cũng chỉ là bề mặt của bản chất ích kỷ,
hưởng thụ của con người. Chính bản năng hưởng thụ đã
thúc đẩy nam nữ tìm đến nhau, thì nó cũng thúc đẩy họ
làm khổ lẫn nhau. Biết bao chuyện vợ chồng gây gổ, đánh
đập, bao nhiêu chuyện ngoại tình, giết hại lẫn nhau bỏ
mặc con cái bơ vơ đau khổ.
Nếu
bên cạnh tình yêu, họ có thêm chút tình thương chân chính
của sự hy sinh, độ lượng, vị tha, tình yêu đó khả dĩ
bớt đi màu sắc ảm đạm của bản năng ích kỷ. Họ biết
tha thứ, thông cảm lẫn nhau để cùng xây dựng hạnh phúc.
Nếu thiếu tình thương chân chính, một mình tình yêu chỉ
là hiện thân của cảm xúc, tính dục và vị kỷ. Thời đại
hôm nay vợ chồng dễ ly dị, dễ ngoại tình, dễ hành hạ
nhau bởi vì tình yêu của họ thiếu tình thương vị tha chân
chính.
Rồi
sự ngoại tình, ly dị làm khổ con cái, hành hạ làm khổ
nhau sẽ gây thành nghiệp nhân không tốt cho đời sau.
Chiếm
vợ người dễ bị người chiếm vợ lại. Hành hạ vợ mình
sẽ bị đọa làm người nữ để bị hành hạ trở lại.
Ly dị, bỏ rơi con cái sẽ trở thành mồ côi ở đời sau.
Có
lẽ Schopenhower đã có lý khi nói rằng” chỉ có những triết
gia chân chính mới sống hạnh phúc trong hôn nhân, nhưng tiếc
thay, nếu là triết gia chân chính, họ sẽ không bao giờ lập
gia đình.”
Ngay
trong gia đình chúng ta cũng thấy tình thương của cha mẹ với
con cái cũng không được đồng đều. Có người con được
cha mẹ ưu tiên thương yêu nhiều. Bên cạnh đó là người
con bị lơ là ít chú ý. Tất cả đều do ân nghĩa trong quá
khứ nhiều hay ít mà thôi. Cha mẹ mang nặng ân nghĩa với
người con nào sẽ thương mến người con đó nhiều hơn.
Cũng có trường hợp trong gia đình một đứa con bị ghét thậm tệ, bị đánh đập mắng nhiếc thường xuyên, mặc dù nó là đứa con ruột. Đây chỉ là sự trả thù trở lại. Kiếp trước, khi từng là cha mẹ, nó đã đối xử tàn tệ với con cái của mình. Kiếp này duyên nghiệp đưa đẩy nó rơi vào gia đình có bậc cha mẹ thô lỗ, cộc cằn, hung bạo để nó phải chịu đựng trở lại nỗi khổ mà nó đã gây ra cho người khác.
Đi tìm sự bình đẳng đồng đều trong cuộc đời này là việc làm không tưởng bởi vì nghiệp duyên của mọi người không đồng nhau. Kẻ phước nhiều, người phước ít, tất cả đều sai biệt. Người có phước luôn luôn thu hút sự chú ý thương mến của mọi người, trong khi kẻ thiếu phước ít khi nhận được cái nhìn nồng nàn của mọi người, huống nữa là nhận được sự đối xử ưu ái.
Ngay cả một số tu sĩ cũng bị phê phán là đã vồn vã với kẻ giàu và thờ ơ với kẻ nghèo. Họ vẫn khó giữ được sự đối xử bình đẳng với tất cả mọi người tìm đến nguồn an ủi nơi tín ngưỡng chỉ bởi vì phước của tín đồ đã sai biệt nhau quá nhiều. Chỉ có những tu sĩ đạt được một đạo lực thâm sâu, đủ sức vượt lên trên nghiệp sai biệt của mọi người mới có thể đối xử bình đẳng với tất cả mọi người. Họ sẽ không thờ ơ với kẻ này và ân cần với kẻ kia. Tất cả đều được thương mến như nhau.
Như
vậy, bình đẳng là một “thái độ đạo đức” tự giác
của mỗi người chứ không phải là một cơ chế san bằng
quyền lợi. Sự san bằng quyền lợi không phải là bình đẳng.
Chúng ta cần phân biệt kỹ về ý nghĩa của hai phạm trù
này.
Chúng
ta kêu gọi một xã hội bình đẳng có nghĩa là chúng ta kêu
gọi con người phát huy được đạo đức cao độ để có
thể đối xử ưu ái với kẻ có phước cũng như người thiếu
phước, chứ không phải bình đẳng là san bằng quyền lợi
của mọi người như nhau. Vì sao, vì kẻ đóng góp được
nhiều công sức hiệu quả cho xã hội bắt buộc phải được
hưởng quyền lợi nhiều hơn. Sự san bằng quyền lợi là
sự bất công, làm giảm mất sự hứng thú lao động của
mọi người và kéo xã hội về sự thoái bộ. Không ai chấp
nhận kẻ lười biếng, kém tài năng được hưởng quyền
lợi ngang với kẻ siêng năng giỏi giắn.
Còn
bình đẳng là “đạo đức trong giao tiếp” nó giúp cho chúng
ta lịch sự, lễ độ, tôn trọng với tất cả mọi người.
Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, đòi hỏi chúng
ta phải đạt được chiều sâu thiền định, tâm được thanh
tịnh để thoát khỏi sự cuốn hút bởi phước nghiệp sai
biệt của mọi người. Người có phước sẽ cuốn hút chúng
ta nhiều hơn kẻ thiếu phước. Chúng ta phải đủ đạo lực
để thoát khỏi sự thu hút bí ẩn này, để giữ được tình
thương bình đẳng với tất cả mọi người.
Tình
cảm cũng có khuynh hướng lập lại. Với những người đã
từng thương mến nhau từ kiếp trước, kiếp này gặp lại,
tình thương mến dễ dàng phát sinh. Đôi khi hai người đã
từng là vợ chồng. Kiếp này duyên nợ làm vợ chồng đã
hết, nhưng khi gặp nhau, họ vẫn khởi lên một tình cảm
nồng nàn khó diễn tả mặc dù vẫn phải xa nhau. Tương tự
như vậy đối với tình anh em, bạn bè, cha con và thầy trò.
Có
tu sĩ cảm thấy quí mến một vài tín đồ và muốn họ trở
thành đệ tử xuất gia với mình. Nhưng duyên thầy trò là
duyên nhiều đời không thể gượng ép. Không có duyên sâu
dày với nhau, người đệ tử này cũng sẽ bỏ tìm thầy khác.
Hiểu được điều này, một vị thầy luôn luôn bình thản
trước các kẻ đến xin học đạo, vì trong số đó, không
phải ai cũng là kẻ có duyên làm đệ tử gắn bó suốt đời.
Tóm
lại tình cảm là kết quả của nghiệp duyên quá khứ, là
hệ quả của những tâm lý ích kỷ thầm kín bên trong. Điều
chúng ta cần phải nhắm đến là loại tình thương đại bi
trùm phủ tất cả mọi người. Tình thương đó không xuất
phát từ bản năng vị kỷ và vượt khỏi duyên hệ lụy của
nhiều đời.
Nếu
nhiều người trên cuộc đời này có thể trừ diệt bớt
bản năng vị kỷ của mình, họ sẽ là những người góp
phần tạo nên một khuôn mẫu tốt đẹp cho cộng đồng thế
giới, đó là sự đoàn kết.
Do
bản năng vị kỷ, con người có tính tỵ hiềm, chia rẽ, hơn
thua, luôn luôn đi tìm sự độc tôn cho mình và đè bẹp kẻ
khác. Người ta hơn thua với nhau trong từng lời nói. Các giáo
phái không tiếc lời chỉ trích lẫn nhau. Các thế lực chính
trị dùng mọi thủ đoạn để tiêu diệt lẫn nhau. Ngay trong
cùng một mái nhà, anh em cũng tranh giành, trong một hội đoàn,
hội viên cũng ganh tị.
Ai
cũng muốn mình hơn hẳn mọi người về tài sản, địa vị
và danh tiếng.
Thế
giới này là bức tranh đậm nét của sự chia rẽ. Các tập
đoàn kinh tế triệt hạ lẫn nhau. Các bang chủng ly khai với
nhau. Có khi vì vấn đề ngôn ngữ bất đồng, một vài tỉnh
cũng đòi ly khai khỏi cộng đồng quốc gia. Nước nào cũng
muốn cho ngôn ngữ của nước mình trở thành ngôn ngữ thế
giới.
Ở
đây, bản ngã đã phình to để trở thành gia đình tôi, tông
giáo tôi, chủ thuyết tôi, ngôn ngữ tôi... Và không có cái
tôi nào chịu thua cái tôi nào. Thế là con người tiếp tục
phân hóa, chia rẽ, thù ghét lẫn nhau.
Nhưng
may mắn thay, con người cũng vẫn còn lý trí. Thay vì tiếp
tục cạnh tranh, chia rẽ để tìm sự chiến thắng độc tôn,
họ đã thấy kết quả ngược lại là sự hao tổn và thất
bại. Họ bắt đầu hướng đến sự hợp tác để có thể
đạt được sự thành công lớn lao hơn. Những công ty đa
quốc gia được hình thành. Châu Âu chuẩn bị thống nhất.
Các cường quốc hợp tác với nhau chặt chẽ trên lãnh vực
công nghệ vũ trụ và bảo vệ sinh thái. Nhiều hội đoàn
từ thiện quốc tế được thành lập.
Đó
là hệ quả của văn minh nhân loại. Khi tư duy con người càng
phát triển cao hơn, lý trí dần dần vượt khỏi sự kềm
tỏa của bản ngã, con người thấy rõ sự sai lầm của thái
độ chia rẽ thù nghịch. Chỉ có sự hợp tác đoàn kết mới
đem lại lợi ích cho lẫn nhau. Kẻ nào tiếp tục ngủ yên
trong thái độ độc tôn và chia rẽ, kẻ đó sẽ thất bại,
lạc hậu và tự đào thải khỏi quá trình tiến bộ của
nhân loại.
Trong
cuộc sống hằng ngày, nếu không tỉnh táo, chúng ta cũng rất
dễ gây ra sự chia rẽ giữa mọi người với nhau. Đôi khi
chúng ta nói xấu một kẻ vắng mặt trước nhiều người
chỉ vì vui miệng. Nhưng điều đó khiến cho kẻ vắng mặt
bị ác cảm. Thế là mầm mống của sự chia rẽ đả xuất
hiện.
Đôi khi vì bênh vực tôn giáo mình, chúng ta đã công kích tôn giáo khác và làm cho xã hội bị phân hóa nặng nề hơn. Hãy làm đẹp tôn giáo mình bằng cách tự hoàn chỉnh sự tu hành nơi đồ chúng của mình hơn là tìm cách hạ thấp tôn giáo khác. Muốn nhà mình đẹp cứ tự xây cất lên, không việc gì phải đi đập nhà của người khác. Muốn mình được trọng vọng hãy tu ttì giới hạnh thay vì lo hạ uy tín kẻ khác.
Có
một vài người mắc loại bệnh tâm lý kỳ lạ là thích ly
gián. Thấy những kẻ khác thân ái với nhau, họ bèn tìm cách
châm ra chọc vào để gây sự nghi kỵ, chia rẽ. Dường như
bệnh tâm lý này phát sinh từ một uẩn khúc sâu kín trong
vô thức là mặc cảm cô độc. Họ bị cô độc, bị bỏ
quên và không muốn ai hợp đoàn vui vẻ. Nhưng càng gây nhân
như thế, họ sẽ càng bị đơn độc, lẻ loi, đau khổ nhiều
hơn nữa.
Thế
giới đã trở nên nhỏ bé. Sự tương quan giữa cộng đồng
nhân loại càng lúc càng chặt chẽ. Con người cần đoàn kết,
cần chấm dứt sự chia rẽ. Quả báo lành lớn lao sẽ chờ
đợi cho những ai đóng góp được cho tình đoàn kết của
mọi người. Và công việc gây tình đoàn kết cho mọi người
phải được hiểu là giữa từng người trong đời sống,
giữa các chủng tộc, các tôn giáo, các tổ chức, cuối cùng
là giữa loài người với loài thú. Tất cả đều cần đoàn
kết thương yêu nhau.
18- SINH THÁI
Trong
những thập kỷ gần đây vấn đề bảo vệ môi trưòng sống
của trái đất được đặt thành vấn đề quan trọng và
thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. Song song với
sự tiến bộ vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự ô nhiễm
môi trường cũng tăng lên với mức báo động. Có những thành
phố lớn bị khói thải nặng nề đến nỗi không còn nghe
tiếng chim hót như Seoul. Hoặc ở Mexico một con chim có thể
rơi xuống chết khi bay qua một vùng không khí độc. Số lượng
người bị bệnh đường hô hấp tăng nhanh. Nhưng không riêng
hô hấp, các tạng phủ, hệ thống thần kinh, mạch máu, tuyến
nội tiết của con người đều bị ảnh hưởng xấu.
Sóng
điện từ bao phủ dầy đặc cả Địa cầu và đang bị nghi
ngờ là nguyên nhân gây ra Stress, ung thư. Hệ thống dây dẫn
điện cao thế làm xuất hiện sóng từ tai hại cho môi trường
sống ở hai bên đường dây.
Những
hóa chất công nghiệp như Fréon trong máy làm lạnh phá hoại
tầng Ozone bảo vệ trái đất. Rừng cây bị đốn phá bừa
bãi làm rối loạn nhiệt độ, độ ẩm, lượng nước, sự
lọc khí của hành tinh, góp phần làm tăng thêm hiệu ứng
nhà kính.
Những
lò phản ứng hạt nhân luôn luôn ám ảnh mọi người nếu
nó gặp phải sự cố rò rỉ hay nổ tung mà vụ Trernobyl là
một điển hình.
Thuốc
trừ sâu hóa học làm sinh vật bị nhiễm độc lây. Con người
cũng không thoát khỏi tai họa do mình gây nên trong khi tìm
cách diệt trừ sâu bệnh cho cây cối.
Rồi
rác, chất phế thải do chính con người tạo ra đang tràn ngập
chung quanh mọi người và cũng trở thành vấn đề nghiêm trọng.
Những
nhiên liệu địa khai cần thiết cho máy nổ trong phương tiện
giao thông, phát điện đều thải ra lượng khói tai hại lớn
lao vào khí quyển, nhưng cho đến nay nó vẫn không thể nào
được thay thế bởi chất liệu khác. Trong nhiều thập kỷ
tới, con người vẫn còn phải lệ thuộc vào dầu mỏ, than
đá và khí đốt.
Bên
cạnh những khó khăn về sinh thái môi trường, con người
còn phải đối diện với một ô nhiễm của các siêu vi gây
lây nhiễm mà không có cách nào kiểm soát được như HIV (gây
AIDS) các siêu vi A,B,C,D,E (gây ung thư gan) Các virus này lây
qua đường máu, sinh dục và cả nước bọt (siêu vi gan).
Dường
như với vẻ ngoài văn minh, tiến bộ, con người đang đứng
trước hiểm họa diệt vong mà họ phải tất bật tìm cách
chống đỡ rất vất vả gay gắt. Các nhà khoa học âm thầm
lao vào cuộc chiến thầm lặng này để tìm ra những phương
thức hiệu quả nhằm giành lại môi trường sống tốt đẹp
cho con người. Nhiều danh nhân nghệ sĩ đứng lên kêu gọi
con người cần phải ý thức nhiều hơn nữa về hiểm họa
sinh thái đang đe dọa hành tinh của chúng ta. Không ai có quyền
quay lưng lại trước vấn đề sinh thái vì tất cả con người
đều là thủ phạm gây nên sự ô nhiễm môi trường. Ai cũng
phải dùng chất đốt để nấu ăn, để di chuyển, thắp sáng
và các tiện nghi khác. Bất cứ ai có mặt trên hành tinh này
đều cũng đã có “tội” góp phần vào việc làm ô nhiễm
môi trường chung, chỉ khác nhau là mức độ nhiều hay ít
mà thôi.
Với
người hiểu rõ Luật Nhân Quả Nghiệp Báo, họ sẽ ý thức
cao độ trong việc bảo vệ sinh thái của Địa cầu. Bởi
vì những ai góp phần làm dơ bẩn môi trường, trong tương
lai, họ sẽ phải sinh về nơi dơ bẩn, phải làm các
nghề nghiệp chỗ tối tăm, bụi khói độc hại, hôi hám hoặc
nặng nề hơn đọa làm các loài thú vật sống nơi nước
tù ao đọng, sống nơi các vùng yếm khí, nóng nảy lạnh giá...
Nhưng
chúng ta rất dễ thờ ơ với loại nghiệp nhân này. Xe chúng
ta xì khói mù mịt vào đường phố, mặc kệ. Chúng ta quét
rác tung vãi bụi li ti vào hàng xóm chung quanh mặc kệ. Khói
thuốc lá chúng ta thấm vào phổi của những người cùng phòng,
mặc kệ. Người nông dân đốt rẫy, đốt rạ để khói bay
vào khí quyển đâu biết rằng điều đó làm cho hiệu ứng
nhà kính tăng thêm. Một xí nghiệp xay đá không tưới nước
để cột bụi bốc cao cả vùng trời, ảnh hưởng đến cư
dân lân cận. Người ta xúm nhau thắp nhang xông khói mờ mịt
các đền chùa vào ngày lễ hội làm nhiễm độc phổi lẫn
cho nhau. Không biết thần linh có chứng giám cho lòng thành
của họ hay không, nhưng trước hết các tín đồ phải chịu
hít khói đầy phổi.
Tiếng
ồn cũng là yếu tố làm dơ bẩn môi trường sống của sinh
vật (kể cả cây cối). Chúng ta mở nhạc ầm ĩ làm ảnh
hưởng đến thần kinh não của hàng xóm. Có những loại nhạc
không phù hợp với sở thích và thể tạng sẽ làm tâm lý
người nghe bị dồn nén nặng nề, lâu ngày sẻ sinh ra các
bệnh thực thể, nội tiết, rối loạn thần kinh chức năng.
Hoặc
những người làm các nghề nghiệp phải gõ đập liên tục
làm chói tai mọi người. Lâu ngày nghiệp tích lũy rất nặng.
Họ sẽ bị những quả báo về bịnh hoạn, và bị lọt vào
sống trong những môi trường có nhiều sự huyên náo gây bứt
rứt thường xuyên.
Do thiếu hiểu biết về vấn đề sinh thái, và cũng do thiếu tình thương yêu mọi loài, chúng ta sẽ tạo nhiều nghiệp nhân làm ô nhiễm môi trường chung quanh của Địa cầu, góp phần tăng thêm đau khổ cho nhau. Đối với luật Nghiệp Báo công bình khách quan, hậu quả xấu mà chúng ta phải gánh chịu là điều không thể tránh khỏi. Chúng ta không được quyền thiếu kiến thức về khoa học để khỏi bị sai lầm trong sinh hoạt, để góp phần bảo vệ sinh thái Địa cầu ngày một tốt hơn.
Một
trong những vấn đề bức xúc hiện nay trong việc bảo vệ
sinh thái Địa cầu là bảo vệ những khu rừng nguyên sinh
và phát triển những khu rừng nhân tạo. Từng chiếc lá xanh,
từng bóng cây mát đều góp phần bảo vệ sinh thái Địa
cầu. Chúng ta mong mỏi những người có đạo tâm, có hiểu
biết Luật Nhân Quả Nghiệp Báo, hãy chung tay góp sức với
nhau trồng nên những khu rừng rộng bạt ngàn mênh mông bát
ngát. Làm được điều này tức là làm được điều phước
thiện lớn lao vì chúng ta để lại cho thế hệ mai sau tài
nguyên về gỗ và môi trường sống tốt đẹp. Nào giờ các
tín đồ cứ nghĩ rằng chỉ có cúng chùa, đãi tăng mới là
phước nghiệp đáng chú ý. Thật ra không đơn giản như vậy.
“Đạo
Phật có mặt để đem lại lợi ích cho cuộc đời, chứ không
phải để cuộc đời đem lợi ích lại cho đạo Phật”
Một
đệ tử Phật chân chính là người thấm nhuần giáo lý của
Đức Phật, rồi sau đó quay lại sống với mọi người, sống
vì mọi người bằng trái tim từ bi vô ngã. Phật pháp là
con đường để sống, là ánh sáng hướng dẫn mọi người
sống đúng với chân lý. Rồi vì lẽ đó, mọi người kính
trọng Phật pháp. Nhưng chúng ta đừng để cho sau đó, Phật
pháp trở thành đối tượng để cung phụng quá đáng.
Chúng
ta tôn trọng Phật Pháp vì Phật pháp cho chúng ta con đường
sống tốt đẹp, một con đường giải thoát khỏi đau khổ
và thương yêu vô hạn với mọi người. Nhưng không phải
vì sự tôn trọng đó mà chúng ta đặt lên một Phật pháp
hình thức để cung phụng tôn thờ đến nỗi quên đi sự
đau khổ của vô số mọi người chung quanh.
Các đệ tử Phật cần phải thấm nhuần trí tuệ của Phật, mà trí tuệ đó là gì nếu không phải là sự hiểu rõ Nhân Quả Nghiệp Báo, hiểu rõ con đường vượt khỏi sinh tử luân hồi ?
Và
trên bình diện Nghiệp Báo, chúng ta phải biết tất cả những
gì cấu thành tội cũng như tất cả những gì tạo thành phước.
Bảo
vệ sinh thái Địa cầu! Đó là một việc từ thiện có ý
nghĩa lớn lao đối với mọi người nói chung và đối với
tín đồ đạo Phật nói riêng.
Ngoài
sự ô nhiễm sinh thái có tính cách vật lý vừa kể chúng
ta còn phải chống trả lại sự ô nhiễm sinh thái trong không
gian tâm linh.
Tư tưởng con người luôn luôn có khuynh hướng lây nhiễm vào tâm hồn của con người chung quanh. Chúng ta có thể thí nghiệm bằng cách như sau. Khi ở gần một vài người bạn, chúng ta thử chọn một vài bài hát bất kỳ trong số người bạn đó đã biết. Rồi chúng ta hát thầm một cách mạnh mẽ trong lòng mình. Lát sau chúng ta sẽ thấy người bạn đó bật khẽ hát theo bài hát đó!
Đó
là một ví dụ đơn giản. Còn trong đời sống hàng ngày,
tư tưởng thiện và tư tưởng ác của con người lan truyền
ngổn ngang trong không gian tâm linh lẫn nhau. Nếu tư tuởng
thiện nhiều hơn tư tưởng ác, chúng ta có một “sinh thái
tâm linh” tốt đẹp. Nếu ngược lại, chúng ta phải chịu
một “sinh thái tâm linh” xấu xa.
Với
những người thụ động, không có lập trường kiên định
về đạo đức, những tư tưởng ác lan truyền trong không
gian rất dễ ảnh hưởng đến họ. Ban đầu họ chưa phải
là kẻ ác, nhưng vì sống trong môi trường có tư tưởng ác
quá nhiều, họ dần dần trở thành kẻ ác độc.
Chỉ
những người có lập trường kiên định về đạo đức mới
đủ sức “đề kháng” với tư tưởng ác lang thang trong
không gian. Nhưng trên cuộc đời này, kẻ có lập trường
vững chắc về đạo đức rất ít. Đa số rất dễ bị lây
nhiễm bởi tư tưởng ác độc, ích kỷ, bạo động.
Chúng
ta chứng kiến ở các nước phương Tây những phong trào hiếu
động, bạo hành, trác táng, biểu dương lực lượng, kích
động tập thể, thường xuyên xảy ra là do ảnh hưởng của
tư tưởng. Bắt đầu bằng sự kích động của một người.
Sau khi có nhiều người bị kích động, sức mạnh của tư
tưởng được cộng hưởng và khuyếch đại, nó nhanh chóng
lan vào tâm của mọi người với cường độ mạnh làm cho
họ trở nên cường bạo hiếu động một cách kỳ quái. Nhất
là những loại tư tưởng đánh mạnh vào bản năng ích kỷ
của con người như đề cao chủng tộc (phát xít,) đề cao
tinh thần quốc gia cực đoan, đề cao tự do tình dục...
Đa số các trại giam hình sự đều là lò tạo ra kẻ ác, vì nơi đó tập trung nhiều kẻ ác độc. Tư tưởng của họ cứ lây nhiễm vào nhau và cùng làm cho tính chất ác độc của tù nhân được củng cố thêm. Hiếm có ai ra khỏi tù sẽ trở thành kẻ lương thiện. Nếu ngành tư pháp không nắm vững vấn đề này, họ sẽ còn nhiều vất vả trong việc bảo vệ an ninh trật tự cho xã hội. Ngành tư pháp cần phải hiểu rõ hơn về tính cách “sinh thái tâm linh” này, về sự lây nhiễm vô hình của tư tưởng giữa mọi người với nhau.
Đến lúc đó, chúng ta sẽ thấy trại giam, cái còng, khẩu súng, chưa đủ để chuyển hóa con người. Cần phải có một “sinh thái tâm linh” sạch sẽ, cần có nhiều nhà giáo dục về đạo đức Nhân Quả Nghiệp Báo, cần có nhiều nhà thôi miên để chuyển hóa nhân cách, cần phải có những chuyên gia “sinh hoá đạo đức” để dùng các hoạt chất thay đổi tạm thời các tư tưởng ác của con người. Một số hoạt chất có khả năng khống chế tạm thời khuynh hướng bất thiện trong con người. Phải phối hợp rất nhiều chuyên gia trên nhiều lĩnh vực mới có thể khiến cho con người được cải hóa tốt đẹp hơn.
Như vậy ý nghĩa của sinh thái phải được hiểu rộng rãi trên cả hai lãnh vực: vật lý và tâm linh, và ở lĩnh vực nào, chúng ta cần phải tích cực đóng góp làm cho sinh thái Địa cầu được chuyển biến tốt. Với sinh thái vật lý, chúng ta tránh gây ra sự nhiễm bẩn, phóng xạ điện từ, tiếng ồn, phá rừng... Với sinh thái tâm linh, chúng ta tránh gieo những tư tưởng ác lang thang vào không gian kẻo làm ô nhiễm tâm hồn của những người thụ động.