Kiến Bất Năng Cập

27 Tháng Tám 201000:00(Xem: 35081)
Xin cho biết câu "kiến bất năng cập" là câu của ai mà hay quá dậy cà ? Câu hay vậy mà sao ít người nói đến ? Phải chăng hiện nay quá nhiều người dùng tri kiến để thay cho giác ngộ nên ngại không nói đến ?

TRẢ LỜI: Bốn chữ “kiến bất năng cập” nằm trong một đoạn kinh văn trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển thứ 2 trong bộ 10 quyển. Nguyên văn chữ Hán như sau:

Thị cố A Nan! nhữ kim đương tri: kiến minh chi thời, kiến phi thị minh; kiến ám chi thời, kiến phi thị ám; kiến không chi thời, kiến phi thị không; kiến tắc chi thời, kiến phi thị tắc; tứ nghĩa thành tựu, nhữ phục ưng tri, kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến; kiến do ly kiến, kiến bất năng cập...”

Dịch Nghĩa: Cư sĩ Tăng Phụng Nghi; Dịch giả: Thiền sư Nhẫn Tế:

"Cho nên, Anan, bây giờ ông nên biết rằng :
Khi thấy sáng, cái thấy chẳng phải là sáng.
Khi thấy tối, cái thấy chẳng phải là tốị
Khi thấy không, cái Thấy chẳng phải là không.
Khi thấy ngăn bít, cái thấy chẳng phải là ngăn bít.

Bốn nghĩa đó đã thành rồi, ông lại nên biết: khi Thấy mà có tướng Thấy, cái Thấy đó chẳng phải là Tánh Thấỵ

Cái Thấy mà do lìa tướng Thấy, đó là Tánh Thấy Siêu Việt (Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến. Kiến do ly kiến, kiến bất năng cập).

"Vậy thì làm sao lại nói các tướng Nhân Duyên, Tự Nhiên hay Hòa Hợp ?"

Tông Thông rằng :

"Chỗ này Đức Thế Tôn hiển bày Đệ Nhất Nghĩa Đế, cái gọi là Con Đường Bồ Đề Nhiệm Mầụ Kiến và Kiến Duyên đủ năm thứ nghĩa : Sáng, Tối, Hư Không, Ngăn Bít là bốn thứ; Kiến Duyên và Kiến Tinh (cái Thấy) là một thứ Vọng Kiến.

Thế Tôn ở chỗ này mà lựa ra cái Kiến Tinh chẳng phải là bốn thứ Sáng, Tối, Không, Bít. Lấy bốn nghĩa này suy ra để rõ được cái Thấy lìa duyên trần mà vẫn tự có.

Ngay ở đây lại lựa ra cái Chơn Kiến (Tánh Thấy) soi rõ Kiến Tinh, là cái mà cái Thấy không thể bì kịp. Đây chính là mặt trăng thứ nhất, cho nên cái Thấy vẫn còn là vọng.

A ha ! Cái Chơn Kiến còn lìa cả mọi tướng thấy thì chỗ nào có hơi thở, bóng dáng gì để theo đó mà mô phỏng ra nó ? Nói Nhân Duyên, nói Tự Nhiên, nói Hòa Hiệp, há chẳng là hư vọng ư ?

Tổ Bá Trượng hỏi vị tăng :

"Thấy không ?"

Đáp :

"Dạ, thấy".

Tổ Trượng rằng :

"Sau khi thấy thì như thế nàỏ"

Đáp :

"Thấy chẳng có hai".

Tổ Trượng nói :

" Đã nói là thấy thì không hai, tức là không lấy cái Thấy mà thấy nơi Cái Vốn Thấỵ Nếu Cái Vốn Thấy mà trở lại thấy, thì cái Thấy trước là đúng hay cái Thấy sau là đúng ? Như nói, "Khi Thấy mà còn có tướng Thấy, đó chẳng phải là Chơn Kiến. Thấy mà do lìa tất cả tướng Thấy, cái Thấy ấy là Siêu Việt [ Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến. Kiến do ly kiến, kiến bất năng cập). ]". Bởi thế, chẳng hành cái Pháp Thấy, chẳng hành cái Pháp Nghe, chẳng hành cái Pháp Giác Ngộ, thì Chư Phật liền thọ ký".

Lại nữa, kinh Bảo Tích nói :

"PHÁP THÂN chẳng có thể lấy Thấy, Nghe, Hay, Biết mà tìm cầụ
Chẳng phải là chỗ thấy của con mắt thịt, vì là không có Sắc.
Chẳng phải là chỗ thấy của Thiên Nhãn vì không Hư Vọng.
Chẳng phải chỗ thấy của Huệ Nhãn, vì lìa hình tướng. Chẳng phải chỗ thấy của Pháp Nhãn, vì lìa các Hành. Chẳng phải là chỗ thấy của Phật Nhãn, vì lìa hết thảy Thức.
Nếu chẳng tạo ra các thứ Thấy như vậy, thì gọi đó là cái Thấy của Phật".

(Trích kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông, tập 1, trang 252-254; Soạn giả: Cư sĩ Tăng Phụng Nghi; Dịch giả: Thiền sư Nhẫn Tế (Tây Tạng Tự -- Bình Dương) Thành Hội Phật Giáo TP Hồ Chí Minh xuất bản 1997)

Bản dịch của Hoà Thượng Duy Lực như sau:

- Ta thuyết những tướng nhân duyên của thế gian chẳng phải đệ nhất nghĩạ A Nan, ta lại hỏi ngươi: người thế gian nói "tôi thấy", vậy cho thế nào gọi là thấy, thế nào gọi là chẳng thấy

A Nan đáp:

- Người thế gian nhờ ánh sáng nhật nguyệt và đèn, thấy tất cả tướng gọi là thấy, nếu không có ba thứ ánh sáng này thì chẳng thể thấỵ

- A Nan, nếu lúc không sáng gọi là chẳng thấy, thì chẳng thể thấy tối, nếu thấy tối chỉ là không sáng thì sao gọi là chẳng thấy

- A Nan, nếu lúc tối chẳng thấy sáng gọi là chẳng thấy; mà lúc sáng chẳng thấy tối cũng phải gọi là chẳng thấy, vậy thì hai tướng sáng tối đều gọi là chẳng thấỵ

- Do hai tướng sáng tối tự đoạt mất nhau, chẳng phải tánh thấy của ngươi tạm thời không có. Vậy thì cả hai đều là thấy, sao nói chẳng thấy

- A Nan nên biết, trong lúc thấy sáng, kiến tinh chẳng phải sáng; trong lúc thấy tối, kiến tinh chẳng phải tối; trong lúc thấy rỗng không kiến tinh chẳng phải rỗng không; trong lúc thấy ngăn bít, kiến tinh chẳng phải ngăn bít, bốn thứ nghĩa này vốn sẵn như vậỵ

- Lại ngươi nên biết: Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến do ly kiến, kiến bất năng cập, tại sao lại nói nhân duyên, tự nhiên và tướng hòa hợp? Hàng Thanh Văn như các ngươi trí kém tâm hẹp, chẳng thông đạt thật tướng trong sạch, nay ta dạy ngươi nên khéo suy tư, hãy siêng năng tinh tấn, thẳng vào diệu đạo Bồ Đề.

Hoà Thượng Duy Lực lược giải:

Hai chữ Kiến Kiến tức là bản kiến tự hiện, chẳng có năng kiến, sở kiến, Phật đã giải thích kỹ càng trong quyển nhì này; nếu có năng sở, đều là kiến bệnh đã thành từ vô thỉ, có năng kiến năng giác đều là bệnh. Vì bản kiến bản giác chẳng ở trong bệnh mới gọi là kiến kiến, tức là kiến tánh. Tự tánh chẳng phải sở kiến, nên cũng chẳng có năng kiến để kiến tự tánh, vậy lúc kiến kiến (Kiến kiến chi thời), dù nói kiến nhưng chẳng phải là kiến (Kiến phi thị kiến), vì chẳng có năng kiến và sở kiến, cho nên nói kiến còn phải lìa kiến (kiến do ly kiến), vì Năng kiến chẳng thể thấy đến, nên nói Kiến bất năng cập.
(Trích đoạn Kinh Lăng Nghiêm, Hoà Thượng Duy Lực, Từ Ân Thiền Đường Hoa Kỳ xuất bản 1990 trang 38-39 http://www.thuvienhoasen.org/khlangnghiem-02.htm

Hoà Thượng Thích Chơn Giám Chùa Bích Liên gỉai như sau:

Đây là Phật đem bốn cái Sáng, Tối, Sắc, Không mà suy luận cho ông A Nan rõ ràng: vốn cái tánh thấy nó vẫn ly tất cả bốn trần ấy thì đủ biết cái tánh thấy không thuộc về duyên sanh rồi.

Cái tánh thấy tuy không thuộc về duyên sanh nhưng còn thuộc về nghiệp thức biến hiện , nghĩa là còn cách với tánh diệu giác một từng, nên Phật mới nhân tiện phá nữa.

Đại ý nói rằng: Tánh ở trong cái thấy, kêu là kiến tinh; tánh ly cái thấy ra, có thể thấy được cái thấy, cho nên thấy sáng, thấy tối, thấy sắc, thấy không, mà cái thấy lại chẳng phải là sáng, tối, sắc, không, vì đó là kiến tinh.

Vì kiến tinh mà nó còn ly duyên thay, huống chi cái chơn kiến còn thấy được cả kiến tinh, như thế là nó đã xa lìa kiến tinh ra rồi mà kiến tinh cũng không thể theo kịp được, thì há có lẽ nào lấy các pháp hý luận là nhơn duyên, tự nhiên và hoà hiệp ấy mà vọng kể?

Chơn kiến là duyên theo cảnh chơn như, lý trí in một, năng sở không chia, cho nên gọi là chơn. Còn kiến tinh là duyên theo cảnh ở ngoài, do nơi nghiệp thức biến hiện, năng sở rõ ràng nên gọi là vọng.

Trong lúc cái chơn kiến đã rõ rệt thì quyết không có cái vọng kiến đối lập mà làm ra cái chỗ thấy, cũng như người ngủ mê khi tỉnh thức rồi thì rõ biết cái trước đó là mộng.

Nếu đã biết là mộng, thì còn đâu phải là mộng nữa, cho nên nói rằng: Đang lúc chơn kiến thấy vọng kiến thì chơn kiến chẳng phải là vọng kiến.

Song phải hiễu rằng: Tại sao hồi trước Phật lại hiển kiến tinh mà không hiển chơn kiến?

Vì thể chơn kiến rất tịnh, rất diệu, mà tâm chúng sanh còn trược, còn thô, khó lãnh hội đặng, nên Phật mới mượn kiến tinh mà hiển chơn kiến.

Nay Phật thấy ông A Nan và đại chúng đã khai ngộ được nhiều, sợ nhận theo kiến tinh mà không rõ thấy được mật ý của Phật, nên Phật mới trực chỉ chơn kiến không phải là cùng một thể với kiến tinh. ... Phật khuyên ông A Nan và đại chúng phải đem hết nghị lực tiến thủ, do nơi con đường chơn kiến ly kiến của Phật đã khai thị đó mà thẳng tới địa vị bồ đề... (Trích đoạn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Sa Môn Thích Chơn Giám,Hoà Thượng Chùa Bích Liên dịch và chú giải, Linh Sơn Phật Học Nghiên Cứu Hội xuất bàn năm 1957, trang 139)

Chú thích của BBT:

Chúng ta nên để ý những từ kép như: tánh thấy, cái thấy, kiến tinh, chơn kiến, kiến kiến, và vọng kiến:

Tánh Thấy = Chơn Kiến
Cái Thấy = Kiến Tinh = Vọng Kiến
Kiến Kiến = kiến tánh (tự tánh tự hiện)

Chữ Kiến Kiến, Hoà thượng Duy Lực giảng rằng: “Có người cho chữ kiến trước là năng, kiến sau là sở, nhưng sự thật thì “Kiến Kiến” là kiến tánh, là cái kiến không có bệnh, nay nếu dùng cái tri kiến có bệnh để thảo luận vấn đề này thì hết kiếp này qua kiếp khác cũng không giải được. Tri kiến của chúng sanh là cái bệnh từ vô thỉ đến nay, do con mắt bệnh mới thấy hoa đốm trên không, cho nên nói “Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến do ly kiến, kiến bất năng cập”. Hai chữ Kiến Kiến là tự tánh tự hiện, là kiến tánh, chứ chẳng phải có người dùng cái năng kiến để kiến cái sở kiến. (Duy Lực Ngữ Lục, Thành Hội PG TP Hồ Chí Minh xuất bản 2000, trang 82)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Mười 2015(Xem: 9723)
Thưa thầy, bái sám, lễ lạy nhiều thì có tội diệt phước sinh không? Tu và bái sám thế nào thì đúng với chánh pháp.
19 Tháng Mười 2015(Xem: 4409)
HỎI: Tại sao có nhiều người làm việc ác mà vẫn giàu có sung sướng, còn những người hiền lương lại hay bị hoạn nạn và nghèo khó? Luật Nhân Quả có bất công hay không?
15 Tháng Mười 2015(Xem: 7768)
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Mọi sự mê tín không bao giờ đạo Phật chấp nhận. Thế thì xin hỏi: Tại sao chúng tôi thấy rãi rác trong các kinh lại có nêu ra các vị Thần, như Thiên Thần, lâm Thần, thọ Thần, Quỷ, Thần v.v... điều nầy, có ý nghĩa gì ? Có phải Phật giáo cũng tin có Quỷ, Thần mơ hồ hay không? Và có phải Phật giáo cũng tin tưởng vào đa Thần giáo không?
08 Tháng Mười 2015(Xem: 4753)
29 Tháng Chín 2015(Xem: 6992)
Bạch thầy ! Chú MÃN NGUYỆN ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI có câu : Nếu muốn làm cho tất cả loài hữu tình, đang đói khát, được no đủ thảnh thơi, nên làm theo tay CAM-LỘ và đọc chân ngôn : ÁN, TÔ RÔ TÔ RÔ, BÁT RA TÔ RÔ, BÁT RA TÔ RÔ, TÔ RÔ TÔ RÔ DÃ, TÁT PHẠ HẠ. ( 5 lần ). Vậy xin hỏi cụm từ " làm theo tay Cam Lộ " có nghĩa là sao? Có phải là làm theo động tác trong hình vẽ hay chỉ cần đọc chân ngôn? Rất mong được sự chỉ dạy của quý thầy để con có thể thực hành đúng.
16 Tháng Chín 2015(Xem: 7886)
...Đứng trước sự việc này, sự hoang mang khiến tâm phát nguyện quy y của con cũng không còn nữa. Má con thì không còn đi chùa và cũng chẳng vui tươi như trước, mặt mày lúc nào cũng ủ dột và thường tránh mặt mọi người trong nhà. Xin thầy cho chúng con một lời khuyên, chúng con phải làm gì, phải hành xử như thế nào cho phải phép trong chuyện này ạ! Trước giờ con rất sùng tín Đạo Phật và Qúy Thầy, nay thì lòng tin đã giảm rõ rệt thay vào đó là sự hoang mang ngờ vực.
13 Tháng Chín 2015(Xem: 6515)
Cách đây ba năm, con được một số bạn chỉ cho cách tu nhân điện vì các bạn bảo đó là phương pháp tốt nhất giúp sớm định tâm quán tưởng, biết được nhiều chuyện nhiệm mầu, hiểu về thế giới xung quanh cũng như có một năng lực rất diệu kỳ.
11 Tháng Chín 2015(Xem: 8316)
Con có nghe một số người nói là với những người giới tính bất thường, đồng tính hoặc ái nam ái nữ, bán nam bán nữ thì không được quy y có đúng không ạ? Nếu đúng thì cho con xin phép hỏi thêm, con hiện giờ sinh ra với cơ thể là nam giới nhưng con cảm nhận bản thân mình là nữ giới và nếu con tiến hành phẫu thuật chuyển đổi giới tính thành 1 người nữ thì liệu con có được quy y và được tu học không? Nếu được thì con sẽ thọ giới của Tăng hay Ni ?
01 Tháng Chín 2015(Xem: 7750)
Trong dân gian xem tháng Bảy âm lịch là “tháng cô hồn”, tháng của ma quỷ. Đặc biệt rằm tháng Bảy là ngày mở cửa địa ngục để ma quỷ được tự do về dương thế. Dân gian tin rằng từ mùng hai tháng Bảy, Diêm Vương ra lệnh bắt đầu mở ... Xin cho biết, quan điểm của đạo Phật về vấn đề này thế nào?
29 Tháng Tám 2015(Xem: 9183)
Xin Sư cho con hỏi: người tu hành xuất gia có được tham dự chuyện thế sự và chính trị đời thường không? Con nghe nói người tu hành không được xen vào chuyện chính trị, chỉ lo thuyết pháp độ chúng, tu hành cho mình, nhưng con thấy rất nhiều các bài viết từ những người tu hành bàn luận chính trị, các chính sách của nhà nước, của nước ngoài, bàn chuyện đời nhiều hơn chuyện đạo như vậy là có đúng không?