Căn cứ vào nhan đề Bardo Thődol của nguyên tác, có thể gọi sách này là Tử thư, hoặc đã từng được gọi là Luận vãng sanh. Ngoài phần chính văn của Luận vãng sanh, chúng tôi cũng đưa vào sách này phần Dẫn nhập của tiến sĩ W. Y. Evans Wentz, phần Giảng luận của Hòa thượng Chőgyam Trungpa và Luận văn tâm lý học của Carl Gustav Jung, và cuối cùng là một số suy nghĩ của người biên soạn. Với sự trình bày nhiều ý kiến khác nhau về cùng một chủ đề, chúng tôi đặt tựa sách theo chủ đề ấy là “Người chết đi về đâu”.
Nội dung chính của sách này quả thật đã trả lời câu hỏi ấy. Đây là những lời nhắn gửi với người chết, những lời tụng đọc trong lúc cầu siêu sau khi chết, nhằm có thể giúp cho người chết đạt đến một cảnh giới tốt đẹp nhất có thể có trong điều kiện riêng của mỗi người. Tuy không chính thức nằm trong hệ thống kinh điển Phật giáo, nhưng đây có thể xem là một cuốn luận bao trùm nhiều quan điểm của các tông phái trong đạo Phật. Điều này thật ra cũng không có gì khó hiểu, nếu chúng ta biết rằng các tông phái khác nhau chẳng qua chỉ là những phương tiện để dẫn đến cùng một mục tiêu duy nhất là giác ngộ.
Nếu phải phân loại sách này trong rừng kinh sách phong phú của đạo Phật, thì có thể xếp vào Tịnh độ tông và Mật tông. Xếp vào Tịnh độ tông, vì nó nhắc nhở thần thức người chết kiên trì niệm danh hiệu Phật A-di-đà để được vãng sanh về cõi Cực Lạc của ngài. Xếp vào Mật tông vì sách này xuất phát từ Tây Tạng và có những mô tả rất lạ lùng về cảnh tượng sau khi chết, không hề có trong Nam tông hay Bắc tông.
Nhưng xếp loại như thế cũng rất miễn cưỡng. Vì nội dung sách này còn chủ trương phải nhận rõ mọi cảnh tượng chẳng qua chỉ là biến hiện của chân tâm, và chủ trương này lại chính là thuộc về Thiền tông, vốn xuất phát từ tự lực để giác ngộ. Thiền tông được một số người xem là khác hẳn với Tịnh độ tông, vốn dựa nhiều vào đức tin nơi tha lực. Còn nói sách này thuộc về Mật tông cũng không đúng hẳn, vì trong sách nói rất ít về những khẩu quyết, thần chú, mà chỉ tha thiết giảng giải cho thần thức người chết về tâm và hoạt động của tâm thức, như Phật đã từng giảng về chân tâm trong kinh Lăng Nghiêm. Độc giả đã đọc kinh Lăng Nghiêm hẳn sẽ thấy đây là một hệ thống lý luận rất chặt chẽ, khoa học, chủ trương giải thoát bằng trí huệ, không hề dựa vào những khẩu quyết, thần chú.
Ngoài ra, nội dung sách này còn gợi nhiều liên tưởng đến Duy thức tông, đến các kinh quan trọng như Tâm kinh Bát-nhã, kinh A-di-đà... Các yếu tố quan trọng trong Duy thức tông như ngũ uẩn, bát thức... được trình bày hết sức sinh động chứ không còn là những yếu tố tâm lý như nhiều người hiểu. Đọc sách này mới thấy Tâm kinh Bát-nhã đúng là “bộ kinh một trang” nhưng đã cô đọng hết những gì chư Phật thuyết dạy. Còn những ai đã từng tụng đọc kinh A-di-đà, đọc sách này thì niềm tin càng thêm kiên cố và sẽ bớt phần sợ hãi khi lâm chung.
Sách này mô tả rõ ràng cảnh tượng mà tâm thức sẽ thấy sau khi chết, những giai đoạn từ ngày này qua ngày khác, từ tuần này qua tuần khác. Sách cũng nói về tác động của nghiệp lực và con đường dẫn đến tái sanh. Mô tả như thế, không phải để thỏa mãn trí tò mò của người đọc, vì thật ra sách này là để dành cho các vị Lạt-ma chủ trì lễ cầu siêu, nhằm chỉ dẫn cho thần thức người chết biết được rằng những cảnh tượng đều chỉ là do nơi tâm thức biến hiện ra, để họ không sanh tâm sợ hãi. Nội dung sách thể hiện một tấm lòng từ bi, thương xót vô hạn với những chúng sanh còn trầm luân trong cõi luân hồi.
Theo tương truyền, sách này do ngài Padmasambhava[1] soạn. Ngài là người đã đưa đạo Phật vào Tây Tạng. Trong cuốn “Đường mây qua xứ tuyết”, hòa thượng Govinda đã nhắc nhở nhiều đến vị đại sư này, được dân Tây Tạng xem là hóa thân của đức Phật Thích Ca. Theo hòa thượng Chőgyam Trungpa. Ngài Padmasambhava không những chỉ viết cuốn Bardo Thődol này, là tập luận nhằm “Giải thoát qua lắng nghe”, ngài còn viết một loạt các tập luận khác, trong đó có cả việc hướng dẫn “Giải thoát bằng sáu giác quan”. Các tập luận khác hiện nay vẫn chưa được dịch sang tiếng Anh hay tiếng Pháp. Đại sư Padmasambhva chính là người đã đẩy lùi ảnh hưởng của giáo phái Bon, đưa đạo Phật – với cứu cánh cuối cùng là giải thoát – vào văn minh Tây Tạng.
Cuốn Bardo Thődol này được tìm thấy trong một ngọn núi ở Tây Tạng, vốn dành cho các vị Lạt-ma đạo cao đức trọng để tụng đọc bên người chết, hoặc cầu siêu cho họ trong những tuần sau khi chết. Vào năm 1919, một vị Lạt-ma người Tây Tạng là Kazi Dawa Samdup dịch sang tiếng Anh và trao cho tiến sĩ W. Y. Evans Wentz, người Anh, và ông này đã viết thêm phần dẫn nhập rồi xuất bản tại Anh Quốc. Đến năm 1933 thì nó được bà Marguerite La Fuente dịch sang tiếng Pháp. Vào cuối thập niên 60 của thế kỷ 20, hòa thượng Thích Quang Phú đã cho xuất bản cuốn Liễu sanh thoát tử, chính là bản dịch sách này, nhưng dịch lại từ một bản dịch chữ Hán của ông Liêu Địch Nguyên. Chúng tôi đã xem và nhận thấy bản này chỉ dịch một phần rất ngắn của nguyên bản, có lẽ vì bản chữ Hán vốn đã không được đầy đủ.
Hòa Thượng Chőgyam Trungpa cho rằng tập Luận vãng sanh là một cuốn sách rất có ích, vì không chỉ dành cho người chết, mà là cả cho người sống nữa. Vì thế, cho dù có những hạn chế nhất định về năng lực, trình độ, nhưng chúng tôi cũng cố gắng hết sức để thực hiện công việc biên soạn sách này. Mong sao sẽ tiếp tục có thêm các vị thiện tri thức góp phần vào sửa đổi, bổ khuyết, để những lần tái bản thêm phần đầy đủ và chính xác hơn.
Cầu mong tập sách này đem lại giải thoát cho người chết, đem lại an vui cho người thân của họ vì đã làm được điều gì đó lợi lạc cho người vừa qua đời, đem lại chút lắng đọng cho những người khác, vốn biết mình sẽ chết nhưng quá sợ hãi đến nỗi không dám nghĩ tới sự thật hiển nhiên này.
Nội dung sách này rất sâu sắc, không giống như những cuốn sách bình thường khác. Vì thế, đứng từ góc độ những người biên soạn, chúng tôi xin mạn phép lưu ý mấy điều sau đây:
Sách này nói về chân tâm và hoạt động của tâm thức sau khi chết. Thể của tâm thì vắng lặng, trống rỗng, không sanh không diệt, nhưng dụng của tâm thì vô cùng vô tận. Ví như tất cả các giai điệu đều phát sanh từ sợi dây đàn, nhưng bản thân dây đàn không phải là các giai điệu đó. Mỗi giai điệu đều có hay có dở, có dài có ngắn, có bổng có trầm, có bắt đầu có chấm dứt; nhưng dây đàn thì không hay không dở, không dài không ngắn, không sanh không diệt. Nếu có chúng sanh nào sanh ra trong giai điệu nhạc, sanh sau khi giai điệu nhạc bắt đầu, và chết trước khi giai điệu nhạc chấm dứt, thì chắc chắn không bao giờ người ấy có thể hiểu được thể tánh của dây đàn. Chúng ta, người sống cũng như kẻ chết, đều đang quay cuồng trong các “giai điệu nhạc”, không ngờ rằng mình mang trong người thể tánh thanh tịnh không sanh diệt, tức là Phật tánh. Hiểu như thế, thì sách này cũng không khác kinh Lăng Nghiêm, kinh Bát Nhã, nên cũng không chỉ dành riêng cho người chết.