- Lời Giới Thiệu
- Buổi Tối Thứ Nhất Lời Dạy Mở Đầu
- Buổi Tối Thứ Hai Bát Chánh Đạo
- Buổi Sáng Thứ Ba Bài Thực Tập: Cảm Thọ
- Buổi Tối Thứ Tư Sự Chú ý Đơn Thuần
- Buổi Sáng Thứ Năm Bài Thực Tập: Tư Tưởng
- Buổi Tối Thứ Năm Khái Niệm Và Thực Tại
- Buổi Sáng Thứ Sáu Bài Thực Tập: Đối Tượng Của Cảm Giác
- Buổi Tối Thứ Bảy Những Mẩu Chuyện
- Buổi Sáng Thứ Tám Bài Thực Tập: Tác ý
- Buổi Sáng Thứ Chín Bài Thực Tập: Ăn Trong Chánh Niệm
- Buổi Tối Thứ Chín Năm Triền Cái
- Buổi Sáng Thứ Mười Bài Thực Tập: Quán Tâm Thức
- Buổi Tối Thứ Mười Dũng Sĩ
- Buổi Sáng Thứ Mười Một Trò Chơi Định Tâm
- Buổi Tối Thứ Mười Hai Ba Trụ Pháp: Ba-la-mật
- Buổi Tối Thứ Mười Ba Sự Tương Đồng
- Buổi Tối Thứ Mười Bốn Tứ Diệu Đế
- Buổi Tối Thứ Mười Lăm Sự Cương Quyết Nửa Vời
- Buổi Tối Thứ Mười Sáu Nghiệp Báo
- Buổi Tối Thứ Mười Bảy Bài Thực Tập: Hôn Trầm
- Buổi Tối Thứ Mười Tám Sự Trong Sạch Và Hạnh Phúc
- Buổi Tối Thứ Mười Chín Tín Ngưỡng
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Mốt Thập Nhị Nhân Duyên
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Hai Cái Chết Và Lòng Từ Bi
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Lăm Đạo
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Sáu Thất Giác Chi
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Chín Con Đường Của Phật
- Buổi Sáng Thứ Ba Mươi Kết Thúc
BA MƯƠI NGÀY THIỀN QUÁN
Joseph Goldstein
Nguyễn Duy Nhiên Việt dịch
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2008
Buổi tối thứ mười sáu
Có một người hỏi đức Phật rằng tại sao có người sinh ra lại giàu có, trong khi
những người khác nghèo khổ; có người được thân thể khỏe mạnh, trong khi kẻ khác
lại ốm yếu, bệnh tật? Tại sao có người đẹp đẽ và có người lại xấu xí? Tại sao
có người nhiều bạn hữu, trong khi người khác lại chẳng có ai? Điều gì có thể
giải thích được sự sai biệt này giữa mọi người với nhau?
Đức Phật trả lời rằng mỗi người đều là kẻ thừa kế, nhận lấy những nghiệp báo mà
chính họ đã tạo ra trong quá khứ. Thật ra, chính vì những việc làm trong quá
khứ mà chúng ta mới sinh ra trong cõi này. Cuộc sống mà chúng ta đang kinh
nghiệm trong giờ phút hiện tại đây chính là kết quả huân tập của những việc làm
trong quá khứ.
Đức Phật còn giải thích thêm rằng những hành động như thế nào sẽ đưa đến những
kết quả như thế nào. Ngài nói, những ai làm việc giết hại sẽ bị chết yểu. Những
ai phóng sinh sẽ có một cuộc sống trường thọ. Những người gây khổ đau cho kẻ
khác sẽ sinh ra ốm yếu bệnh tật. Những ai theo con đường không bạo động, sẽ có
một cuộc sống khỏe mạnh. Đức Phật dạy rằng, những ai tham lam ích kỷ sẽ có một
cuộc sống nghèo khó. Những ai biết bố thí, rộng rãi sẽ được giàu có sung túc. Đây
chính là sự vay trả theo luật nhân quả. Mỗi hành động đều tạo thành một kết
quả.
Những ai buông thả theo sự tức giận, luôn sử dụng ngôn ngữ thô lỗ sẽ có một vẻ
ngoài khó coi, xấu xí. Còn những ai thực hành tâm từ bi, ăn nói dịu dàng, sẽ có
một vẻ ngoài đẹp đẽ, sáng sủa. Chúng ta là người nhận lãnh kết quả những hành
động của chính mình trong quá khứ. Những người thường có hành động bất hòa, tà
dâm, trộm cắp, sẽ phải giao du với những kẻ mê muội, không có nhiều bạn hữu và
sẽ không có cơ hội gặp Phật pháp. Còn những ai biết giữ giới luật sẽ gặp những
hoàn cảnh thuận tiện, giao du với những thiện tri thức và được nhiều sự giúp đỡ
trong cuộc sống. Những ai không bao giờ biết thắc mắc về cuộc sống này, không
hề tìm hiểu bản tâm, cũng không để ý phân tách tự thể của sự vật chung quanh,
sẽ sinh ra với sự ngu si và mê muội. Còn những ai biết thắc mắc, tìm hiểu, luôn
đi tìm câu trả lời về ý nghĩa chân thật cuộc sống này, sẽ sinh ra làm người
sáng suốt, khôn ngoan. Tóm lại, tất cả chỉ là sự vận hành của luật nhân quả.
Không có ai ở trên trời quyết định số mạng, vận mệnh của ta hết. Hiểu được luật
nhân quả, ta sẽ có thể tự tạo lập số mệnh cho mình. Có những con đường dẫn ta
đến nơi cao thượng, an lạc; cũng có những con đường đưa ta xuống chốn khổ đau.
Khi chúng ta hiểu được điều này, ta được tự do hoàn toàn trong sự chọn lựa của
mình.
Có bốn loại nghiệp chánh tác dụng đến đời sống chúng ta. Loại thứ nhất được gọi
là nghiệp tái sinh. Chúng là sức mạnh quyết định cảnh giới cho kiếp sống sắp
tới của ta, được tạo ra bởi những hành động mà ta đã làm. Những hành động này
có khả năng dẫn ta tái sinh vào cảnh giới của người, hoặc những cảnh giới thấp
hơn, hoặc cảnh giới của chư thiên, hoặc của loài a-tu-la.
Loại thứ hai là nghiệp trợ duyên. Đây là những hành động có ảnh hưởng duy trì
và trợ lực cho nghiệp tái sinh. Thí dụ như ta có một nghiệp tái sinh tốt và
được sinh vào cảnh giới người. Đây là một cảnh giới có hạnh phúc. Nghiệp trợ
duyên là những việc làm giúp cho kiếp sống làm người của ta được thuận lợi hơn.
Chúng duy trì cho nghiệp tái sinh được tốt và trợ lực cho các hạnh phúc được
khởi sinh.
Loại thứ ba là nghiệp bổ đồng. Nó có ảnh hưởng ngăn trở nghiệp tái sinh. Giả sử
ta có những thiện duyên và được tái sinh làm con người, nhưng chúng ta lại bị
đủ mọi khó khăn, đau đớn, khổ cực. Đó là ảnh hưởng của nghiệp bổ đồng. Nghiệp
tái sinh dẫn đến cảnh giới tốt có đầy thiện duyên, nhưng chúng bị ảnh hưởng của
nghiệp bổ đồng làm suy yếu và trở ngại, khiến ta gặp nhiều hoàn cảnh khó khăn.
Nhưng nghiệp bổ đồng cũng có tác dụng ngược lại. Giả sử có người bị tái sinh
vào cảnh giới súc sinh. Đây là một nghiệp tái sinh xấu, vì bị sinh vào một cảnh
giới thấp hơn. Nhưng nghiệp bổ đồng khiến cho kiếp thú đó lại trở nên rất dễ
chịu, cũng giống như những con vật được nâng niu, chìu chuộng trong xã hội Tây
phương. Những con vật này đôi khi lại còn được sung sướng, đầy đủ hơn nhiều
người khác trên thế giới. Loại nghiệp này có tác dụng làm trở ngại nghiệp tái
sinh xấu. Nó có ảnh hưởng hai chiều.
Loại nghiệp cuối cùng được gọi là nghiệp tiêu diệt. Nó có khả năng tiêu diệt
hoàn toàn năng lực của một nghiệp khác. Giả sử bạn bắn một mũi tên vào không
trung. Mũi tên bay theo một sức đẩy nhất định nào đó, và nếu không bị ngăn trở,
nó sẽ tiếp tục bay cho đến khi hết sức rồi sẽ rơi xuống. Nghiệp tiêu diệt cũng
như một chướng ngại vật chận đứng sức bay của mũi tên và làm nó rơi xuống đất.
Có những người bị chết yểu. Những người này có thể có nghiệp tái sinh và nghiệp
trợ duyên tốt đẹp, nhưng vì một hành động xấu nào đó trong quá khứ mà nghiệp tiêu
diệt đã làm ngưng đường bay của mũi tên, tiêu diệt mọi năng lực của các nghiệp
tốt khác.
Vào thời đức Phật, có một câu chuyện thí dụ cho ta thấy sự hoạt động của những
nghiệp này. Có một người cúng dường thực phẩm cho một vị A-la-hán. Nhưng sau
khi dâng thực phẩm lên, ông lại cảm thấy tiếc rẻ, hối hận. Trong bảy kiếp liên
tiếp sau đó, ông ta được sinh ra làm người giàu có nhờ kết quả của việc cúng
dường. Cúng dường cho một bậc giác ngộ được phước báu rất lớn. Nhưng kết quả
của sự hối hận, tiếc rẻ là mặc dù ông ta sinh ra giàu có nhưng lúc nào cũng keo
kiệt, hoàn toàn không hưởng được sự sung túc của mình. Những nghiệp khác nhau
đem lại những kết quả khác nhau, tùy thuộc vào trạng thái tâm của ta lúc ấy.
Nghiệp tái sinh rất quan trọng và cần được hiểu rõ, vì nó có tác dụng quyết
định cảnh giới tái sinh của ta. Đây là loại nghiệp hoạt động rất mạnh trong
giây phút cuối cùng của sự sống. Trong giây phút lâm chung, có bốn loại nghiệp
có thể khởi lên:
Thứ nhất là trọng nghiệp, có thể là nghiệp thiện hay nghiệp ác. Trọng nghiệp
thuộc về ác có năm thứ, được gọi là ngũ nghịch đại tội. Đó là: giết cha, giết
mẹ, giết A-la-hán, chia rẽ Tăng chúng và gây thương tích cho đức Phật. Chỉ một
trong năm tội này có khả năng vượt trên mọi hành động trong quá khứ và quyết định
việc tái sinh. Chúng chắc chắn sẽ tạo quả trước nhất nên gọi là trọng nghiệp.
Những trọng nghiệp thuộc về thiện là kết quả của việc tu tập đạt được trạng
thái thiền định và duy trì cho đến khi lâm chung. Kết quả của nghiệp này là
được tái sinh vào cảnh giới của chư thiên.
Trọng nghiệp bao giờ cũng giữ một địa vị ưu thế hơn mọi loại nghiệp khác. Những
trọng nghiệp khác thuộc về thiện là kết quả của những giai đoạn giác ngộ khác
nhau. Chúng không quyết định chắc chắn cảnh giới tái sinh của ta, nhưng điều
chắc chắn là sẽ giúp đi lên những cảnh giới tốt đẹp hơn. Chúng ngăn chặn sự tái
sinh vào những thế giới thấp kém.
Những loại nghiệp không có một trọng nghiệp nào để làm điều kiện tái sinh thì
được gọi là cận tử nghiệp, tức là nghiệp tạo bởi những hành vi cuối cùng trước
khi lâm chung. Nói một cách khác hơn, trong giờ phút lâm chung, nếu ta chợt nhớ
đến những việc làm thiện, hay có ai nhắc nhở ta về những việc làm thiện, hoặc
là ngay trước khi lâm chung ta làm một điều gì tốt, chúng sẽ trở thành nghiệp
quyết định sự tái sinh.
Vào thời đức Phật, có một tên sát nhân sắp sửa bị treo cổ, lúc ấy hắn chợt nhớ
lại trong đời có một lần hắn đã dâng đồ ăn cho ngài riputra (Xá-lợi-phất), một
đại đệ tử của đức Phật. Tư tưởng cuối cùng của anh ta trước khi chết là về sự
cúng dường này. Mặc dù trong suốt cuộc đời, anh ta đã làm biết bao điều tội
lỗi, nhưng kết quả của tư tưởng lành cuối cùng đó đã giúp anh được tái sinh lên
cõi trời.
Cận tử nghiệp cũng có tác dụng ngược lại. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng những
nghiệp thiện, ác khác tích lũy từ trước sẽ không theo ta. Điều này chỉ có nghĩa
là cận tử nghiệp chiếm phần ưu tiên kết quả, có thể quyết định sự tái sinh của
ta. Nhưng thường thì trong giờ phút lâm chung tâm ta rất dễ tán loạn, sợ hãi,
nên tập trung tâm mình để nghĩ về một việc thiện đã làm không phải là chuyện dễ
làm.
Nếu không có cận tử nghiệp, thì thường nghiệp sẽ hiện diện. Thường nghiệp là
nghiệp tạo bởi những hành động thường xuyên lặp đi, lặp lại, hay những thói
quen. Nghiệp này sẽ xuất hiện trong giờ phút lâm chung. Nếu có một người nào
thường tạo nhiều nghiệp sát sinh, những tư tưởng ấy sẽ xuất hiện trong giây
phút cuối, đó là kết quả của thường nghiệp. Nếu người thường làm nhiều việc
thiện, bố thí rộng rãi, hay nhiều lần tu tập ngồi thiền, thì trong giờ phút
cuối cùng sẽ nhớ lại những hành động ấy, hoặc thấy lại hình ảnh đang ngồi thiền
trên tọa cụ. Điều đó sẽ trở thành nghiệp quyết định sự tái sinh vào đời sống kế
tiếp.
Nếu không có trọng nghiệp, không có cận tử nghiệp, cũng không có một thường nghiệp
nổi bật nào, thì nghiệp tích trữ sẽ xuất hiện để hướng dẫn sự tái sinh. Nếu
cuộc đời chúng ta là một chuỗi dài vô tận của những hành vi thiện, ác lẫn lộn,
thì bất cứ hành động nào trong quá khứ cũng có thể khởi lên trong phút lâm
chung.
Có thể ví dụ sự hoạt động của những nghiệp này bằng hình ảnh một đàn bò nhốt
chung trong một chuồng. Buổi sáng khi mở cửa, con bò ra đầu tiên sẽ là một con
bò khỏe mạnh nhất. Nó chen lấn với những con khác để được ra trước. Nếu không
có con bò nào là khỏe nhất, thì con ra trước nhất có thể là một con bò đứng
cạnh cửa chuồng. Nó chỉ cần nhẹ nhàng lách mình đi ra. Nếu như cũng không có
con bò nào đứng gần cửa chuồng, thì con bò ra trước nhất sẽ là con bò có thói
quen hướng dẫn những con khác. Và nếu như chẳng có con bò nào có thói quen đó,
thì bất cứ con bò nào trong đàn cũng đều có thể chen ra trước. Nghiệp lực hoạt
động tương tự như thế vào giây phút cuối cùng của đời sống: trọng nghiệp, cận
tử nghiệp, thường nghiệp và tích trữ nghiệp.
Có một yếu tố để giữ cho ta lúc nào cũng tiến về sự thanh nhẹ, hạnh phúc và an
lạc, đó là chánh niệm. Chánh niệm có ảnh hưởng đến kết quả của trọng nghiệp, vì
yếu tố giác ngộ. Chánh niệm cũng có ảnh hưởng đến kết quả ở cận tử nghiệp. Nếu
chúng ta có ý thức một cách sâu sắc, thì dù trong giờ phút lâm chung tâm ta vẫn
được quân bình và không bị chi phối bởi những sự bất thiện. Chánh niệm cũng là
thường nghiệp. Nếu chúng ta thực tập mỗi ngày một cách chuyên cần, chánh niệm
sẽ tự động khởi lên trong giây phút lâm chung. Ý thức chánh niệm mà chúng ta
đang tu tập ở đây là một năng lực vô cùng quan trọng. Chính nó sẽ là yếu tố
quyết định loại nghiệp nào hoạt động vào phút lâm chung.
Hỏi: Những sinh linh ở các cõi thấp hơn chúng ta có tạo nghiệp không? Thí dụ
như một con chó có thể tạo nghiệp vì sự hiền lành, dễ thương hay hung dữ, bạo
động của nó không?
Đáp: Chúng sinh nào cũng tạo nghiệp cả, loài thú cũng vậy. Bạn có thể thấy
những con vật rất dữ tợn. Bạn có thể thấy được sự sợ hãi, giận dữ, thù ghét ở
chúng. Cũng có những con vật rất đẹp, dễ thương, thoải mái. Tất cả đều tùy
thuộc vào phẩm chất của tâm.
Hỏi: Có nghiệp chung cho một gia đình không?
Đáp: Có một loại nghiệp chung được gọi là cộng nghiệp. Thí dụ như một quốc gia
theo một chính sách nào đó, sẽ tạo nên một cộng nghiệp cho quốc gia ấy. Chúng
ta chịu chung một nghiệp với những người khác nếu chúng ta chấp nhận hành động
của họ. Nếu chúng ta có tư tưởng chấp nhận việc làm của một người nào, thì cộng
nghiệp sẽ phát sinh. Bạn có thể thấy rõ điều này vào thời chiến tranh. Những ai
ủng hộ cuộc chiến sẽ phải cùng nhau chia sẻ nghiệp ấy. Còn những người không
chấp nhận, sẽ tránh khỏi việc chịu chung cộng nghiệp đó. Khi còn ở Ấn Độ, tôi
có quen một người bạn đến từ Hòa Lan. Anh ta kể lại chuyện của gia đình anh
trong Thế chiến thứ hai. Anh nói rằng, không hiểu vì sao gia đình anh lúc nào
cũng có đầy đủ thực phẩm, mặc dù cả nước đang trong tình trạng khủng hoảng,
thiếu thốn thực phẩm, nhưng đây đó vẫn có một số người không phải chịu chung
một hoàn cảnh đó. Bạn có thể thấy được ảnh hưởng của công nghiệp trên những
người không tham dự hay ủng hộ đường lối bất thiện của một quốc gia, một tổ
chức; họ không chịu chung một số mệnh. Và những người tán thành các hành động,
chính sách nhân đạo sẽ huân tập được những thiện nghiệp về sau.
Hỏi: Có nhiều danh từ và thí dụ của ông đưa ra làm tôi hơi bối rối.
Đáp: Hãy gác qua một bên những thí dụ. Hãy đi thẳng vào vấn đề để tự trải
nghiệm thế nào là chánh niệm. Khi có một tư tưởng khởi lên, bạn có hai sự chọn
lựa: hoặc là tư tưởng khởi lên rồi bạn hoàn toàn bị nó lôi cuốn theo, không còn
ý thức được mình đang nghĩ gì, hoặc là có sự hiện diện của chánh niệm và ý thức
được rằng có một tiến trình tư tưởng đang hoạt động. Mỗi khi có chánh niệm, tư
tưởng hay bất cứ đề mục quán niệm nào cũng đều đến rồi đi, nếu có ý thức một
cách rõ ràng, tâm ta sẽ giữ được sự quân bình sau đó.
Những danh từ, chữ nghĩa mà tôi đã dùng, có người lãnh hội được, cũng có người
không hiểu. Điều đó không quan trọng. Hãy chọn những danh từ, ý niệm nào giúp
bạn làm sáng tỏ được vấn đề, còn lại thì cứ bỏ hết. Chỉ có kinh nghiệm được
những gì đang xảy ra mới là quan trọng, chứ không phải sự mê muội chấp nhận
những gì người khác nói. Trí tuệ phát xuất từ một nội tâm thinh lặng chứ không
phải qua những lời phân tích, bàn luận.
Hỏi: Nhưng rất nhiều khi người ta ăn một cái bánh vì vẻ ngoài, vì màu sắc của
nó.
Đáp: Cứ chọn những vẻ ngoài, những màu sắc nào hấp dẫn bạn. Nhưng nhớ là phải
ăn cái bánh! Có một giáo sư đại học ra biển trên chiếc tàu nhỏ. Một hôm, ông
hỏi người thủy thủ già: “Ông có biết gì về Đại dương học không?” Người thủy thủ
già nói rằng ông ta thậm chí chẳng hiểu danh từ đó có nghĩa là gì. Giáo sư nói:
“Ông đã bỏ phí mất một phần tư cuộc đời vì sống trên biển mà lại không biết gì
về Đại dương học.” Sau đó, vị giáo sư lại hỏi: “Thế ông có biết gì về Khí tượng
học không?” Một lần nữa, người thủy thủ già đáp rằng ông chưa từng nghe qua
danh từ đó. Giáo sư chép miệng than rằng: “Thật đáng tiếc! Vậy là ông đã bỏ phí
cả một nửa cuộc đời rồi!” Lát sau, giáo sư lại hỏi: “Ông có biết gì về Thiên
văn học không?” Người thủy thủ già đáp: “Tôi không biết gì cả.” Vị giáo sư tỏ
vẻ thương cảm: “Thật tội nghiệp! Ông đi biển cả đời, rất cần những vì sao để
định phương hướng, nhưng ông lại không biết gì về Thiên văn học cả. Vậy là ông
đã bỏ phí mất ba phần tư cuộc đời mình rồi!”
Không lâu sau đó, người thủy thủ già vội vã tìm gặp giáo sư và hỏi: “Giáo sư,
ông có biết bơi không?” Vị giáo sư lắc đầu: “Không, tôi không biết. Tôi chưa
học bơi bao giờ.” Người thủy thủ già lắc đầu ái ngại: “Ồ, như vậy thật tội
nghiệp cho giáo sư! Tàu chúng ta đang chìm. Vậy là giáo sư đã bỏ phí cả cuộc
đời mình rồi!”
Hãy nhớ, chỉ có môn bơi lội mới thật sự là quan trọng!