Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán
Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản 2000
Cụ
Nguyễn Du, tên tự là Tố Như, hiệu Hồng Sơn Liệp Lộ, sanh
ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh. Là con
thứ bảy của ông Nguyễn Nghiễm, thủ tướng dưới triều
Lê. Bác ruột của thi sĩ là Nguyễn Huệ (không phải là anh
hùng Tây Sơn) đã đậu Tiến sĩ. Anh ruột là Nguyễn Khản
cũng
đậu Tiến sĩ và cũng cùng làm quan dưới triều Lê tới chức
Lại Bộ Thượng Thư (bộ trưởng bộ Tư Pháp). Người anh
thứ hai là Nguyễn Điềm cũng làm quan trấn thủ Sơn Tây.
Cả nhà, cha con, chú bác, anh em đều là người thi đậu cao
và làm quan to dưới đời nhà Lê. Đây là một gia đình rất
trí thức. Mẹ của thi sĩ Tố Như là người Bắc Ninh, có
bốn người con trai (cha của Nguyễn Du có nhiều bà) tên là:
Trụ, Nễ, Du và Ức. Nguyễn Du là con thứ ba. Chúng ta không
biết ngày sinh, chỉ biét thi sĩ sinh vào năm 1765 (năm Cảnh
Hưng thứ 26.) Nguyễn Du rất thông minh. Mười chín tuổi đậu
tú tài (khi đậu tú tài thì có thể đi thi Hội). Nhà Lê tàn
rụi, nhà Nguyễn Tây Sơn lên. (Trong khi Tây Sơn dấy lên, gia
đình Nguyễn Du không còn đóng vai trò quan trọng trong chính
quyền nữa.) Nguyễn Du tham dự vào kháng chiến chống lại
Tây Sơn nhưng không thành. Ông rất trung thành với nhà Lê.
Nguyễn Du bỏ về quê, đi chơi. Nghe nói ở nhà quê đó có
tới chín mươi chín ngọn núi Hồng Lĩnh, tha hồ đi rong chơi.
Thất bại trong công việc khôi phục nhà Lê nên ông bỏ đi
chơi. Nghe nói không có ngọn núi nào trong chín mươi chín ngọn
núi mà Nguyễn Du không trèo lên để chơi. Khi vua Gia Long đã
đánh bại Tây Sơn và lên ngôi hoàng đế. Vua muốn phục hồi
những người đã từng lmà việc cho nhà Lê ngày xưa, mời
ra làm quan trở lại. Nguyễn Du cố từ chối nhưng không được.
Bắt buộc phải ra làm quan. Ông có cảm tưởng ra làm quan
với triều Nguyễn tức là không trung thành với triều Lê.
Giống như một cô gái giang hồ. Đó là quan niệm ngày xưa.
Năm 1802 (năm Gia Long thứ nhất) Nguyễn Du phải ra làm tri huyện
ở Thái Bình. Sau đó là tri phủ. Nguyễn Du cáo bệnh xin về.
Nhưng đến năm Gia Long thứ sáu (bốn năm sau) Nguyễn Du lại
được gọi và Kinh Đô, giao cho chức Đông Các Đại Học
Sĩ. Năm 1809, được cử làm quan Bố Chánh ở tỉnh Quảng
Bình. Năm 1813, được thăng làm Cần Chánh Điện Học Sĩ,
sung chức Chánh Sứ sang Trung Hoa. Có lẽ trong khi làm Chánh
Sứ sang Trung Hoa Nguyễn Du đã mua và đọc được nguyên lục
của truyện Kiều. Trong thời gian đi sứ đó Nguyễn Du cũng
làm thơ và viết văn rất nhiều. Những bài thơ làm trong thời
gian đi sứ góp lại có tên là Bắc Hành Thi Tập. Đi sứ thành
công về được thăng chức Lễ Bộ Tham Tri (chức Hữu Tham
Tri trong Bộ Lễ). Có lẽ Nguyễn Du sáng tác truyện Kiều vào
khoảng năm 1813-1815 hay 816. Sau đó thì sáng tác Văn Tế Thập
Loại Chúng Sanh. Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi, muốn gửi
thi sĩ đi sứ lần thứ hai. Chưa kịp đi thì thi sĩ bị bệnh
và mất ngày 16 tháng 9 (10 tháng 8 năm Canh Thìn). Giai thoại
vua Minh Mạng ngồi uống trà và phê bình câu ‘Dọc ngang nào
biết trên đầu có ai’ có lẽ xảy ra vào năm 1820, khi vua
vừa mới lên ngôi.
Truyện
Kièu là một áng văn chương toàn bích về phương diện văn
chương. Nhưng đứng về phương diện tư tưởng Phật học
thì còn có những khuyết điểm. Cách sử dụng ngôn từ và
điển tích rất khéo léo. Tả về tình tiết trái tim con người
thì thi sĩ rất tài ba, sâu sắc. Nhận xét tâm lý tinh té cho
đến nỗi chúng ta phải giật mình nhiều phen. Nguyễn Du đã
thật sự sống trong cuộc đời. Những ánh sáng lóe lên (mà
chúng ta nhận diện như những tuệ giác đạo Bụt) không phải
do học Bụt mà có mà do tác giả sống trong cuộc đời và
tìm ra. Ví dụ như nhận xét ‘Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết
đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?’ hay ‘Trời còn để có
hôm nay, Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.’ Tuệ giác
Phật giáo có trong này nhưng không phải do thi sĩ học Phật
mà nói ra. Thi sĩ đã sống rất sâu sắc, trân quý từng giờ
từng phút của sự sống mà tìm dra và diễn tả sự thật
đó một cách khéo léo.
Phần
sau, chúng ta sẽ xét về kiến thức, cái gọi là triết học
Phật giáo trong truyện Kiều. Chúng ta tìm ra quan niệm của
tác giả về Nghiệp, Nhân quả, quan niệm còn có tính đại
chúng hóa, chưa tới mức độ của người học Phật thâm
uyên. Có những người nói cụ Nguyễn Du tinh thông về Nho
học và Phật học. Đó là do thương quá mà nói. Sự thật,
Nguyễn Du rất tài tình như một thi sĩ nhưng kiến thức Phật
học của cụ trong khi sáng tác truyện Kiều còn chưa chín.
Sau khi viết truyện Kiều, Nguyễn Du đã tiếp tục học thêm
văn học Phật giáo. Phật học của cụ sẽ sâu sắc hơn.
Bằng chứng là tác phẩm (chữ Nôm) Văn Tế Thập Loại Chúng
Sinh (‘Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt). Có cơ hội chúng
ta sẽ cùng đọc Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh.
NHÌN
SÂU VÀO TRIẾT LÝ TRUYỆN KIỀU
Chúng
ta đọc phần kết thúc truyện Kiều (từ câu 3241):
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua
vui cũng được một vài trống canh.
Thơ
rất hay mà lời lại rất khiêm nhường: ‘Lời quê chắp
nhặt dông dài.’ Nếu thơ của cụ Nguyễn Du mà quê thì thơ
mình còn… quê tới chỗ nào nữa!
Câu
chót của truyện Kiều (mua vui cũng được một vài trống
canh) có vần với câu đầu (trăm năm trong cõi người ta) nên
khi các cô miền Bắc hát đối thường hỏi:
Truyện Kiều anh học đã làu
Đố
anh kể được một câu hết Kiều?
Bên
con trai trả lời:
Trăm năm trong cõi người ta
Mua
vui cũng được một vài trống canh.
(Một
và hay một vài đều cùng nghĩa.) Có nghĩa là trong cuộc sống
trăm năm người ta thấy sự việc đi qua một cách chớp nhoáng
giống như chỉ trong một vài trống canh thôi. Câu này cũng
có ý nghĩa lắm.
‘Cho
hay muôn sự tại trời.’ Câu này hầu như nói rằng tất
cả mọi sự mọi việc trên đời đều được ông Trời sắp
đặt như trong thuyết Thiên mệnh. Trời ở đây có thể là
ông Trời nhưng cũng có thể là mạng lưới nhân quả. Tuy
nói ‘muôn sự tại trời’ nhưng sau đó cụ Nguyễn Du lại
nói: ‘Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn
trời gần trời xa.’ Hai điều có vẻ như chống trái nhau,
nhưng lại có thể bổ túc cho nhau. Đứng về phương diện
văn chương, tư tưởng, tâm lý thì không nói gì, nhưng đứng
về phương diện Phật học thì cái thấy của cụ Nguyễn
Du chưa được rạch ròi lắm.
Trời
kia đã bắt làm người có thân.’ Như vậy làm người, có
cái thân này có thể không phải là một điều vui mà là một
sự đày đọa (‘Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai?). Nhiều
người nói ‘Tôi không muốn làm người. Tôi không muốn có
thân. Tôi chống đối lại ý tưởng của Trời Đất của
Thượng Đế vì tôi thấy làm người mệt quá!’ Trong khi
đó được làm người có thể là một niềm vui. Tùy theo cách
nhìn của mình. ‘Trời kia đã bắt làm người có thân’
là tư tưởng có khuynh hướng yếm thế.
‘Bắt
phong trần phải phong trần’ nghĩa là nếu trời bắt mình
phải sống cuộc đời gió bụi (truân chuyên, đau khổ, rủi
ro) thì con người phải sống cuộc đời giớ bụi. Thuở trời
đất nổi cơn gió bụi.’ Trời đã làm ra con người rồi
lại làm ra gió bụi để cho con người lãnh đủ. Nhiều người
chống đối ông Trời, chống đối Thiên mệnh là vì vậy.
– ‘Cho thanh cao mới được phần thanh cao.’ Thanh cao có
nghĩa là nhàn hạ, có hạnh phúc, không bị rủi ro nhiều (ngược
lại với phong trần.) Có một lực lượng nào đó quyết định
việc mình sẽ bị phong trần hay sẽ được thanh cao. Vận
mệnh con người như đã được viết sẵn trong một cuốn
sổ ở Thiên Đình. Con người chết cứng. Vùng vẫy thế nào
cũng không thoát được. Nếu số mình là gió bụi phong trần
thì mình sẽ là gió bụi phong trần suốt đời. Còn nếu số
mình được thanh cao thì dù mình làm biếng, không tranh đấu
gì hết cũng vẫn được thanh cao, khỏe khoắn. Đó là thuyết
Thiên mệnh hay Định mệnh. Thiên là trời; mệnh là mệnh
lệnh hay mạng. Chữ ‘mạng’ cũng có nghĩa là đời sống.
Thiên mệnh nghĩa là ông Trời nắm giữ vận mạng, quyết
định đời sống của mình. Có những trường hợp người
ta không dùng chữ ‘ông Trời’ ; tuy không có ông Trời nhưng
số mạng con người đã được quyết định trước. Đó là
thuyết Định mệnh. Tất cả đều đã được xếp sẵn, con
người cứ việc vâng chịu thôi chứ không thể nào phản
đối, xoay sở hay cựa quậy gì được hết. Định là déterminé.
Khuynh hướng tin vào Thiên mệnh hay Định mệnh rất mạnh
trong tâm trí con người. Con người tuy vùng vẫy cũng khá,
mưu mô cũng nhiều nhưng rốt cuộc cũng cảm thấy mình bị
kẹt trong lưới Thiên mệnh. Vùng vẫy khó quá cho nên cuối
cùng phải tin rằng có một Thiên mệnh hay Định mệnh. Khi
còn trẻ, chúng ta hay phản đối tư tưởng Thiên mệnh hay
Định mệnh này. Chúng ta nói: ‘Mình có sức mạnh, có trí
tuệ, nhiều thứ lắm… Mình sẽ chống lại!’
Hồi
Thúy Kiều còn nhỏ, một ông thầy tướng nói: ‘Suốt đời
cô sẽ khổ vì tất cả những tinh hoa (tài sắc) trong con người
cô đều phát tiết ra ngoài hết. Cô không giấu giữ được
cái gì ở bên trong nên phải khổ suốt đời.’ - Ông thầy
tướng này nguy lắm! người ta còn con nít mà nói như vậy
là gieo một hạt giống dau khổ thắc mắc và lo sợ vào trong
lòng người ta! Người ta cứ yên chí rằng mình sẽ khổ suốt
đời, đó là cái không hay. - Trong đêm đầu tiên gặp Kim
Trọng, Thúy Kiều nói: ‘Nhìn anh em thấy anh là người có
phước đức. Em thì không. Vì vậy em không biết cuộc tình
của chúng ta có thành tựu được hay không?
‘Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
‘Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:
‘Anh hoa phát tiết ra ngoài,
‘Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
‘Trông người lại ngẫm đến ta,
‘Một
dày một mỏng biết là có nên?’
Kim
Trọng nghe Thúy Kiều lo lắng như vậy đã dùng đủ cách để
trấn an”
Sinh rằng: ‘Giải cấu là duyên,
‘Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều!
‘Ví dù giải kết đến điều,
‘Thì
đem vàng đá mà liều với thân.’
- Trong
lịch sử, con người đã quyết định và đã chiến thắng
ông Trời nhiều lần rồi. Em đừng lo! Chúng ta là những người
còn trẻ, chúng ta là những người thông minh. Chúng ta sẽ
tranh đấu! Nếu cần anh sẽ hy sinh cái thân này!’ Ai trong
chúng ta khi còn trẻ cũng đều như Kim Trọng cả. Cố nhiên
khi yêu mình có rất nhiều ‘xí quách’. Và mình cứ hứa
tùm lum mà không biết sức mình làm được tới đâu. Rốt
cuộc mười lăm năm mình mới biết là mình làm được gì.
Tư
tưởng Thiên mệnh trong truyện Kiều còn rất mạnh. Tư tưởng
đó được ông thầy tướng trình bày và trước Kim Trọng,
người yêu, cố tình chống lại. Nhưng rốt cuộc Đạm Tiên,
con ma, đã phát triển và củng cố niềm tin đó, ít hay nhiều.
Ta phải nhìn lại, xét thử mình tin bao nhiêu phần trăm ở
thuyết Thiên mệnh hay Định mệnh đó. Đây là bốn câu xác
định tuyệt đối về thuyết Thiên mệnh hay Định mệnh:
Cho hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho
thanh cao mới được phần thanh cao.
Nhưng
đến những câu kế thì ta thấy thuyết đó bắt đầu lung
lay: ‘Có đâu thiên vị người nào.’ Nghĩa là ông Trời
rất công minh. Không phải ông muốn cho mình thanh cao thì mình
được thanh cao, cho mình phong trần thì mình phải phong trần;
phải có lý do gì đó thì người này mới phong trần, người
kia mới thanh cao. Lý do đó nằm ở chỗ nào?
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ
tài chữ mệnh dồi dào cả hai.
Hai
yếu tố tài và mệnh đóng một vai trò nhất định trong sự
quyết đinh một người phải đau khổ hay hạnh phúc: Theo triết
lý của nguyên lục (mà cụ Nguyễn Du cũng bị ảnh hưởng
khi viết truyện Kiều) thì giữa tài và mệnh có sự chống
đối nhau. Càng có tài bao nhiêu thì số mạng càng ngang trái
bấy nhiêu. Người càng có tài thì càng khổ. Những người
có tài mà nhiều người thấy được sẽ bị ganh ghét. Sắc
và tài là hai cái khi phát hiện ra ngoài nhiều quá thì sẽ
làm người mang nó khổ. ‘Anh hoa phát tiết ra ngoài’ một
trăm phần trăm thì: ‘Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.’
Căn cứ vào nhận thức đó thì lỡ mà mình đã có tài và
có sắc rồi thì mình phải làm sao để giấu tài, giấu sắc
của mình đi. Mặt hơi đẹp thì phải lấy lọ nghẹ hoặc
bùn đất bôi lên cho bớt đẹp. Có tài thì giả bộ như mình
ngu để người ta khỏi ghét. Mấy cô gái không đẹp thì các
cô sợ ít. Mặt cô mà xinh thì cô sợ nhiều. Đức tin của
người ta cũng có căn cứ vào sự thật xảy ra chứ không
phải chỉ nghe một lý thuyết mà tin liền. Ở Đông phương
chúng ta phải biết ở ẩn, phải làm như ngu, như điếc, như
câm trong những lúc khó khăn thì mới sống được. Còn nếu
mình nói thẳng, chứng tỏ mình là người có dũng, có tài
thì mình chết rất mau. Ở Tây phương người ta cũng nói rằng
nếu muốn sống hạnh phúc thì phải sống ẩn danh. Pour être
heureux vivons cachés: Muốn được hạnh phúc thì phải ở ẩn
đi. Chứ nếu người ta thấy mình có hạnh phúc thì người
ta sẽ ghen, sẽ đập cho mình tan nát. Cho nên hạnh phúc không
bao giờ nên phô trương ra cả. Mà loài người rất dại dột!
Loài người không có hạnh phúc nhưng hay giả đò là mình
có hạnh phúc. Có những cặp trong nhà thì lục đục đánh
nhau, đi ra ngoài thì lmà như là mình có hạnh phúc nhiều lắm.
Trong khi đó trí tuệ là khi có hạnh phúc thật sự thì phải
giả bộ là không có hạnh phúc, che dấu đi, nếu không sẽ
bị ganh tuông. Thuyết tài mệnh tương đố ở đây chỉ nói
rằng có tài và có sắc thì khổ chứ không nói rõ là vì
tâm lý ganh ghét của con người.
‘Có
đâu thiên vị người nào. Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả
hai.’ Chúng ta thấy ở đây đã bắt đầu có sự đóng góp
của con người trong khổ đau hay hạnh phúc của mình rồi.
‘Có đâu thiên vị người nào’ tức là ông Trời công minh.
Trời công minh có nghĩa là con người có đóng một vai trò
nào đó. Người tốt thì được cái này, người xấu thì
bị cái kia. Không phải ông Trời muốn gì thì được đó.
Quyết định của ông Trời phải căn cứ trên thái độ, hành
vi của con người. Từ thuyết Định mệnh đi tới thuyết
Nghiệp. ‘Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai’ có nghĩa
là cả hai đều quan trọng.Tuy tài năng và số mệnh chống
trái nhau nhưng cách sống (hành động) của con người cũng
có thể đóng góp vào sự quyết định vận mạng của mình.
Có tài mà cậy chi tài
Chữ
tài cùng với chữ tai một vần.
Chơi
chữ rất khéo. Nếu có tài mà khoe khoang và hống hách thì
sẽ bị tai nạn. Chúng ta không biết những chi tiết về đời
sống hàng ngày, những rủi ro và may mắn của cụ Nguyễn
Du; chúng ta chỉ biết khi được lệnh phải ra làm quan dưới
triều Nguyễn thì cụ làm như ngu như điếc. Trong những buổi
họp nội các cụ không nói gì hết. Không khoe tài của cụ
ra; trong khi Nguyễn Du là người có tài! Có một hôm vua Gia
Long nói: ‘Này khanh, nhà nước dùgn người là để có thêm
trí tuệ, thêm nhận thức để chính trị có thể đem thêm
lợi ích cho nước cho dân. Tại sao khanh không chịu nói gì
hết mà cứ ngồi im lặng như vậy?’ Lý do mà mọi người
đều nói là cụ Nguyễn Du có cảm tưởng là ra làm quan với
triều đình Nguyễn tức là không trrung thành với nhà Lê,
giống như một người đàn bà phản bội chồng mình. ‘Trung
thần bất sư nhị quân’, người thần tử trung kiên thì
không bao giờ thờ hai vua cả. Đã thờ vua Lê mà lại ra thờ
vua Nguyễn thì không còn trinh tiết nữa. Lâu nay dạy truyện
Kiều người ta thường nói tới điều đó. Nhưng ít ai nói
tới lý do thứ hai: người có tài mà hợm hĩnh, khoe khoang
thì sẽ đau khổ. Có lẽ thái độ giả ngu giả điếc của
cụ Nguyễn Du trong triều đình là để tự bảo vệ tấm thân
của mình. Và như vậy có nghĩa là trước đó cụ đã từng
đau khổ vì cụ là người có tài. ‘Chữ tài liền với chữ
tai một vần’ câu thơ này có thể đến trực tiếp từ kinh
nghiệm của cụ. Khi có nhận thức ‘Có tài mà cậy chi tài’
cụ Nguyễn Du đã thực tập điều đó. Có lẽ cụ cũng chưa
quên được những khổ đau của mình ngày xưa do chỗ chưa
biết áp dụng triết lý này cho nên bây giờ quyết định
giấu tài giấu sắc của mình đi cho được an ổn.
Từ
thuyết Thiên mệnh và Định mệnh chuyển sang cách sống sự
khôn khéo của con người có thể làm cho cuộc sống con người
bớt khổ đau. Bây giờ cụ lại nói tới thuyết Nghiệp báo:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng
đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Nghiệp
báo này là do đâu? Do người hay do Trời? Không được rõ
ràng lắm. Chữ nghiệp trong câu thơ này chỉ có nghĩa tiêu
cực thôi. Trong khi đó chữ nghiệp (karma) trong Phật giáo có
nghĩa là hành động (action.) Nghiệp tốt đưa đến quả báo
tốt, nghiệp xấu đưa đến quả báo xấu. Thường thường
trong văn chương ngoài đời, chữ nghiệp luôn được dùng
trong nghĩa xấu. Điều này chứng tỏ trong quần chúng sự
hiểu biết về giáo lý Nghiệp báo không được vững chãi.
Ở Tây phương cũng vậy, karma nghĩa là ‘bad karma’ chứ không
hàm chứa ‘good karma’. Bổn phận người tu là phải giải
thích cho quần chúng để điều chỉnh cách sử dụng chữ
nghiệp này. Nghiệp có hai loại: thiện nghiệp (kusala) và ác
nghiệp (akusala). Thiện nghịêp là hành động đem lại an lạc
cho mình và người trong hiện tại và trong tương lai. Ác nghiệp
ngược với Thiện nghiệp. Hành động (nghiệp) phát xuất
từ thân, miệng và ý gọi là thân nghiệp, khẩu nghiệp và
ý nghiệp. Ba nghiệp này có thể là thiện hay ác. Nghiệp có
nghiệp nhân (karma hetu) và nghiệp quả (karma phala.) Phải phân
biệt nghiệp nhân và nghiệp quả, nghiệp thiện và nghiệp
ác. Khi nói ‘Đã mang lấy nghiệp vào thân’ cụ Nguyễn Du
hiểu rằng nghiệp là nghiệp xấu chỉ đem tới quả xấu
thôi. ‘Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa’: con người
đã có nghiệp trong người rồi thì đừng nói rằng tại Trời
quyết đinh thế này thế kia. Câu này làm sụp đổ câu ‘Ngẫm
hay muôn sự tại trời.’ Vừa mới nói: ‘Tất cả đều
do Trời!’ Tư tưởng Nghiệp báo và Nhân quả của cụ Nguyễn
Du vì vậy chưa được rõ ràng.
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Căn
là gốc rễ, Thiện căn là gốc rễ của cái thiện. ‘Thiện
căn ở tại lòng ta’ nghĩa là gốc rễ cái thiện nằm ngay
ở trong lòng mình chứ không ở đâu xa. ‘Chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài. Tâm này là tâm gì? Tâm có tâm ác, tâm thiện,
tâm chánh, tâm tà. ‘Chữ tâm’ dùng trong này nghiêng về
phía thiện: ‘Thiện căn ở tại lòng ta.’ Chữ Thiện căn
(kusala mula) là một danh từ thuần túy Phật học; cụ Nguyễn
Du đã được nghe những nhận thức của cụ chưa được hệ
thống hóa. Cụ Nguyễn Du đã thấy trong lòng chúng ta có những
hạt giống thiện. Chịu khó trở về vun tưới những hạt
giống đó thì tâm của chúng ta sẽ thiện và ta sẽ được
nhờ và vào đó rất nhiều, vì: ‘Chứ tâm kia mới bằng
ba chữ tài. Nếu mình không có tài mà có thiện tâm thì mình
vẫn có hạnh phúc và hạnh phúc hơn những người có tài
mà không có thiện tâm. Đó là triết lý của cụ Nguyễn Du.
Trong đoạn này chúng ta thấy chữ nghiệp được dùng theo
nghĩa nghiệp xấu và chữ tâm dùng theo nghĩa thiện tâm. Cách
dùng từ không được chính xác. Vì nghiệp có thể là nghiệp
lành hay nghiệp dữ, tâm có thể là tâm xấu hay tâm tốt.
Và nếu tâm mà xấu thì ‘chữ tâm’ đâu có thể ‘bằng
ba chữ tài’ được!
Triết
lý truyện Kiều cũng được phát biểu qua lời bình phẩm
và tiên đoán của nhân vật Tam Hợp Đạo Cô. Sau khi Thúy
Kiều đã đền ân báo oán, sư chị Giác Duyên từ giã ra đi.
Kiều xin sư chị ở nán lại với mình:
Nàng rằng: ‘Thiên tải nhất thì,
‘Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
‘Rồi đây bèo hợp mây tan,
‘Biết
đâu hạc nội mấy ngàn là đâu!’
Đây
là một đoạn văn xác nhận thuyết Định Mệnh:
Sư rằng: ‘Cũng chẳng mấy lâu,
‘Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.
‘Nhớ ngày hành cước phương xa
‘Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri,
‘Báo cho hội ngộ chi kỳ,
‘Năm nay là một nữa thì năm năm.
‘Mới hay tiền định chẳng lầm,
‘Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
‘Còn nhiều ân ái với nhau,
‘Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?’
Nàng rằng: ‘Tiền định tiên tri,
‘Lời
sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
Theo
thuyết tiền định và định mệnh thì những gì xảy ra trong
đời mình đều đã được viết trước rồi; chúng ta cứ
việc đợi, đến lúc đó thì việc đó sẽ xảy ra. Nếu là
người có khiếu tiên tri, nhìn cho kỹ thì có thể đoán trước
cái gì sẽ đến. Tất cả đã có sẵn, đã được quyết
định trước. Như vậy thì chuyện tu hành có ích lợi gì
đâu! Tu hay không tu thì nó cũng đã được quyết định sẵn
rồi! Tại sao phải tu? Vấn đề được đặt ra là con người
có tự do hay không? Con người có thể can thiệp vào mạng
lưới của Nhân Quả để thay đổi hay không? Đạo Phật trả
lời như thế nào?
Hôm
trước bên trung tâm Tây Tạng có người đặt câu hỏi vấn
đề quyết định: làm thế nào để có một quyết định
thông minh? Tôi trả lời: Trước khi mình quyết định thì
sự việc đã được quyết định rồi. Mình có cảm tưởng
mình có tự do quyết định, ai dè tất cả đều đã được
quyết định trước! Tôi đưa ra một ví dụ: Bữa đó tôi
vào trong một gian hàng Nhật Bổn để mua một vuông lụa về
cột mấy cuốn kinh mới thỉnh. Họ treo một dọc dài mấy
trăm tấm hình vẽ, màu sắc khác nhau. Mình đi ‘chọn’.
Cô tiếp viên hỏi: ‘Thầy chọn cái nào?’ Tôi cười nói:
‘Tôi đâu có chọn. Tôi để nó chọn tôi mà!’ Cô ta ngạc
nhiên. Nhưng sự thực là như vậy. Mình có cảm tưởng, ảo
tưởng là mình có đầy đủ tự do, muốn chọn cái nào thì
chọn; kỳ thực sự chọn lựa đã được hoàn tất từ bao
giờ rồi. Khiếu thẩm mỹ của mình, giáo dục của mình,
những hạt giống ông bà trao truyền, sự tu học của mình,
cái thấy của mình về vẻ đẹp, cái trang nhã… tất cả
những cái đó đều viết sẵn trong mình rồi. Mình trình diện
ra trước những tấm khăn đó, khi đi ngang qua ‘nó’ thì
mình bị ‘nó’ bắt. Cái gọi là ‘tiếng sét ái tình’
cũng vậy. Tại sao có ‘tiếng sét’ khi gặp anh đó hay cô
đó mà không có tiếng sét khi gặp những người kia? Tại
vì đã được quyết định trước. Con người thường có
ảo tưởng là mình có tự do trong khi chọn lựa. Những người
tin ở thuyết định mệnh và tiền định không có ảo tưởng
nhiều về sự tự do của mình. Tôi còn nói thêm: Ví dụ có
hai hoặc ba con đường chọn lựa. Mình tưởng rằng mình chọn
lầm một cái thì mình sẽ khổ suốt đời: ‘Ngày xưa nếu
mình chọn đi con đường kia thì mình sẽ không khổ như bây
giờ!’ Giả dụ có ba anh chàng mà mình bắt buộc phải chọn
làm chồng. Mình đã lớn rồi, cha mẹ buộc: ‘Mày phải chọn
một trong ba đứa!’ Mình phân vân… Chọn bừa anh chàng thứ
hai rồi đau khổ suốt đời. Mình nói: ‘Phải chi ngày xưa
mình chọn anh chàng thứ nhất hay thứ ba thì chắc mình không
đau khổ như thế này!’ Mình mà như thế thì chọn anh chàng
nào mình cũng làm cho anh chàng ấy đau khổ mà thôi. Tâm mình
chứa nhiều phiền não và u mê thì sống ở Mỹ cũng khổ,
ở Pháp cũng khổ, mà ở Anh cũng khổ… Không phải từ trại
tỵ nạn xin đi nước này hay nước khác thì mình có hạnh
phúc. Mình thường nghĩ vì đã chọn con đường đó cho nên
bây giờ mới có nhiều vấn đề. Biết vậy ngày xưa mình
đừng đi con đường này! Đi con đường khác thì sẽ khá
hơn! Đó là tự an ủi vậy mà thôi. Chỉ là đứng núi này
trông núi nọ. Thấy được điều này thì mình sẽ không có
ảo tưởng nhiều về cái tự do của mình.
Có
nhiều người tin rằng mình không làm gì được hết. Mạng
lưới nhân quả trùng trùng như vậy, quyết định hết rồi
thì có vùng vẫy cách nào cũng không thể thoát ra khỏi. Mình
chỉ là nạn nhân! Sống như vậy thì rất đau khổ, chịu
không nổi. Cho nên có thuyết ngược lại, chủ trương rằng
con người có tự do, có ý chí tự do (free will.) Đứng về
phương diện triết học, con người có tự do chọn lựa hay
không? Khi hành động, mình có tự do trong hành động đó không,
hay những nguyên do từ quá khứ đã quyết định dùm mình
rồi? Một số trong chúng ta đứng về phía tin tưởng rằng
chúng ta có không gian, có tự do - nếu không thì đời sống
không có ý nghĩa. Trong đạo Bụt chúng ta học về mạng lưới
trùng trùng nhân quả. Chúng ta thấy tự do của mình nằm chỗ
nào? Bây giờ chúng ta hãy tạm gác vấn đề lại. Hãy trở
về chuyện Kiều đọc thêm một đoạn nữa. Từ câu 2653,
khi sư chị từ giã sư em đi vân du và gặp lại Tam Hợp đạo
cô, hỏi thêm về tương lai của nàng Kìêu:
‘Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
‘Kiếp
sao gặp những đoạn trường thế thôi?’
Đây
là lời đạo cô Tam Hợp:
Sư rằng: ‘Phúc họa đạo trời,
‘Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
‘Có trời mà cũng tại ta,
‘Tu
là cỗi phúc tình là dây oan.
Mọi
tai nạn và mọi may mắn đều do trời quyết định. Tuy nhiên:
‘Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.’ Lý thuyết này
phù hợp với những câu chúng ta đọc ở cuối truyện Kiều.
Tuy rằng trời định nhưng cỗi ngụồn lại vẫn ở trong
tâm của con người. ‘Có trời mà cũng tại ta’: tức là
hai yếu tố, Trời (định mệnh) và con người. Nếu đi xa
hơn chúng ta có thể nghĩ Trời là cộng nghiệp và ta là biệt
nghiệp. Cái gì xảy ra không phải chỉ do cá nhân và biệt
nghiệp ta làm ra mà cũng do cộng nghiệp làm ra. Ví dụ ngồi
trên máy bay đều có thể chết, đó là cộng nghiệp. Nếu
có một người thoát được, không chết mà chỉ bị thương
sơ sơ, đó là biệt nghiệp. Biệt nghiệp trong cộng nghiệp.
Chữ ‘trời’ ở đây có thể được hiểu là cộng nghiệp
(collective karma) và ‘ta’ ở đây là biệt nghiệp individuel
karma. Ta đang cùng ngồi ở Làng Mai. Chúng ta có cộng nghiệp
Làng Mai do đó mới ngồi chung. Nhưng trong khi ngồi đây, cảm
giác của chúng ta có khác. Người thì thanh thoát nhiều hơn,
người thi lo lắng nhiều hơn. Đó gọi là biệt nghiệp. Không
phải ngồi chung một chỗ mà ta có cảm tưởng giống nhau.
‘Phúc
họa đạo trời’ là thuyết Định mệnh (determinism). ‘Cỗi
nguồn cũng ở lòng người mà ra’ đó là thuyết do tâm tạo.
Con người cũng đóng được một vai trò nào đó, mấy chục
phần trăm. ‘Có trời mà cũng tại ta’ là tiền đề để
đi đến kết luận: ‘Tu là cỗi phúc tình là dây oan.’ Ta
có thể làm gì? Ta có thể tu, làm nhẹ đi nghiệp của ta và
đem lại một ít hạnh phúc. Còn nếu ta không tu, cứ để
cho sợi dây tình cảm kéo buộc thì ta tọa cho mình những
oan nghiệp đau khổ.
Và
đây là lời phán quyết của ‘bác sĩ tâm lý trị liệu’
Tam Hợp Đạo Cô phân tích tâm lý Kiều:
‘Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô
duyên là phận hồng nhan đã dành.
Tuy
có thông minh, tài năng và sắc đẹp nhưng Kiều không có điều
kiện hạnh phúc. Đáng lý sắc sảo khôn ngoan thì phải thành
công trong cuộc đời và hạnh phúc chứ! Nhưng vì không có
cái căn bản là những thiện duyên cho hạnh phúc nên Kiều
phải đau khổ. Cái nghiệp của Kiều là vô duyên. Điều này
đã được viết trước rồi. Nhưng nếu chỉ như vậy thì
chưa đến nỗi gì cho lắm. Vì những cái này nữa nên mới
khổ thêm.
‘Lại mang lấy một chữ tình,
‘Khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong.
‘Vậy nên những chốn thong dong,
‘Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
‘Ma đưa lối quỷ dẫn đàng,
‘Lại
tìm những chốn đoạn tràng mà đi.
Ở
những chỗ đáng lý mình được tự do, thong dong mà mình vẫn
ngồi không yên, đi không vững. Những con ma sầu não, ma quá
khứ, ma tương lai, ma hờn giận từ bên trong hiện ra để
kéo mình đi. Tuy cùng đi thiền hành với những người khác
nhưng kỳ thực mình không đi cùng một hướng, mình bị những
ma quỷ đưa về những nẻo tối tăm. Và vì ma quỷ đưa về
những nẻo đó cho nên mình gặp những tai nạn chớ có gì
đâu!
‘Hết nạn ấy đến nạn kia,
‘Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần,
‘Trong vòng giáo dựng gươm trần,
‘Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi.
‘Giữa dòng nước dẫy sóng dồi,
‘Trước hàm rồng cá gieo mồi vắng tanh.
‘Oan kia theo mãi với tình,
‘Một mình mình biết một mình mình hay.
‘Làm cho sống đọa thác đày,
‘Đoạn
trường cho hết kiếp này mới thôi!’
Đạo
cô nói rằng Kiều sẽ khổ suốt đời. Đó là một lời kết
án. Án này không phải chỉ do Định mệnh tuyên đọc. Trời
định như vậy nhưng Thúy Kiều đã không tranh đấu được.
Chưa biết nắm lấy tâm mình để tìm một nẻo thoát. Cứ
bị ‘những sợi dây tình vướng víu kéo đi234, vì vậy trước
sau gì cũng đi tới chỗ tự tử ở sông Tiền Đường. Tuy
là một nhà tiên tri nhưng Tam Hợp đạo cô đã không nói rằng
tất cả đều do những điều kiện khách quan, cộng nghiệp
(Trời.) Tam Hợp nói: ‘Có trời mà cũng tại ta.’ Biệt nghiệp
của Thúy Kiều cũng góp phần vào hạnh phúc khổ đau của
cô. Thúy Kiều tự buộc mình vào những tình cảm giận hờn,
những nhận thức và ước muốn của mình. Và chính những
con ma, những con quỷ đó kéo Thúy Kiều đi về nẻo tai nạn,
rốt cuộc cô phải tự tử ở sông Tiền Đường. Tam Hợp
nói tới hai điều: một là tiền định và hai là cách hành
xử của Thúy Kiều. Không tìm ra nẻo thoát cho mình mà cứ
đi theo con đường của ma quái.
Giác Duyên nghe nói rụng rời:
‘Một
đời nàng nhé thương ôi còn gì!’
Sau
đây là lời của Đạo Cô, chúng ta hãy nghe với nhận thức
khách quan của mình chứ đừng bị Đạo Cô ảnh hưởng: Đạo
Cô có thể lầm, cụ Nguyễn Du cũng có thể lầm.
Sư rằng: ‘Song chẳng hề chi,
‘Nghiệp
duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.
- ‘Trong
thời gian lần lần và đi vào nẻo ma quỷ Kiều cũng có làm
một vài thiện nghiệp có thể đưa tới chỗ giải thoát nghiệp
cũ và đi vào một nghiệp mới tốt đẹp hơn’. Đạo cô
bây giờ không làm phận sự của một bác sĩ tâm lý nữa
là quay sang làm trạng sư bào chữa cho Thúy Kiều:
‘Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
‘Mắc
điều tình ái khỏi điều tà dâm.
Đó
là một điểm son của Thúy Kiều. Tuy vướng vào tình ái nhưng
thoát được tà dâm. Không để Kim Trọng làm cho phạm giới
thứ ba.
‘Lấy mình thâm trả nghĩa thâm,
‘Bán
mình đã động hiếu tâm đến trời!
Đó
là hành động tốt thứ hai. Hy sinh cuộc đời một cô gái
khuê các, bán mình chuộc cha. Đó là hành động có thể làm
cảm động cả Trời. Trời đã cảm động nhưng vẫn để
cho Kiều khổ mười lăm năm như thường! Ông Trời cũng sắt
đá thiệt! Thấy ông trời như vậy mình không phục. Ông trời
có thể là dễ chịu hơn! Những lý luận của Đạo Cô, chấp
nhận hay không là do mình. Họ có một lý thuyết, họ lý luận
để chứng minh lý thuyết của họ. Nhưng chứng minh đó hợp
lý hay không là chuyện khác.
‘Hại một người cứu muôn người,
‘Biết
đường khinh trọng biết lời phải chăng.
Nói
chuyện giặc giã tàn sát sinh linh và Kiều lừa cho Từ Hải
chết để cứu sinh linh. ‘Hại một người cứu muôn người.’
Chuyện này rất giả tạo. Cô Kiều có bao giờ muốn giết
chồng đâu! Chúng ta phải thấy điều này. Tam Hợp Đạo Cô
nói không đúng sự thật. Cụ Nguyễn Du không thấy điều
đó hoặc đã thấy nhưng vì sơ sót nên cứ lập lại như
thường. Khi khuyên Từ Hải về hàng, Kiều nói: ‘Ngàn năm
ai có khen đâu Hoàng Sào’, ‘Đống xương Vô-định đã cao
bằng đầu’ - 'Được làm vua thua làm giặc.’ Thôi anh đừng
tiếp tục gây nạn binh đao nữa, không để tiếng tốt mà
người ta chết nhiều tội lắm! Anh về quy thuận triều đình
đi. Anh được làm quan lớn mà em cũng được cơ hội đoàn
tụ gia đình.’ Nói những câu đó là ‘Biết đường khinh
trọng biết lời phải chăng.’ Câu này đúng. Nhưng ‘Hại
một người cứu muôn người.’ Thì không đúng. Ở câu 2550,
Kiều nói thật:
Rằng: ‘Từ là đấng anh hùng,
‘Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi.
‘Tin tôi nên quá nghe lời,
‘Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.
‘Ngỡ là phu quý phụ vinh,
‘Ai ngờ một phút tan tành thịt xương.
‘Năm năm trời bể ngang tàng,
‘Dẫn mình đi bỏ chiến trường như không.
‘Khéo khuyên kể lấy làm công,
‘Kể
bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
- ‘Đừng
nói là tôi có công! Nói tôi có công là tôi đau khổ lắm!’
Kiều nói rất đúng, rất hay. Nhưng hai câu này thì lại không
đúng, không hay gì hết:
‘Xét mình công ít tội nhiều,
‘Sống
thừa tôi đã nên liều mình tôi!
Công
nhận rằng mình có công, dù là công ít. Không đúng. Công
gì? Công giết (oan) chồng hay công gì? Trước khi gieo mình
xuóng sông Tiền Đường (từ câu 2629, Kiều than: ‘Giết chồng
mà lại lấy chồng. Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời?’
‘Giết chồng’ ở đây không phải là cố ý giết. Cố vấn
cho anh chàng nhưng cố vấn không hay nên anh chàng bị giết.
Cái mặc cảm ‘giết chồng’ này có thể chấp nhận được.
Chủ
trương của Thanh Tâm Tài Nhân (tác giả nguyên lục), cũng
là chủ trương của cụ Nguyễn Du, là Kiều có hai nghiệp:
một nghiệp xấu và một nghiệp tốt. Con sông Tiền Đường
là ranh giới giữa mười lăm năm khổ đau và quãng đời hạnh
phúc sau này. Làm nền tảng cho mười lăm năm khổ đau đó
có Thiên mệnh, những vốn liếng từ quá khứ, ông bà và
kiếp trước đi xuống. Vốn liếng của Thúy Kiều còn có
tài, sắc, tình (vướng mắc) và tâm (thiện tâm.) tài sắc
và tình, ba cái làm lưng tựa cho mười lăm năm khổ đau (theo
lý thuyết của Nguyễn Du.) Nhưng cái tâm tốt đồng thời
cũng tạo ra được vài thiện nghiệp (giữ giới không tà
dâm, bán mình cứu cha và ‘giết’ Từ Hải để cứu muôn
dân khỏi nạn can qua.) Nhờ tâm giữ giới, tâm hiếu và tâm
từ bi này mà thiện nghiêp tạo ra được giai đoạn thứ hai
của đời Kiều, giai đoạn tu hành với sư chị và chuyển
hóa được cho gia đình. Đó là phân tích của cụ Nguyễn
Du và của Đạo Cô Tam Hợp. Đạo Cô Tam Hợp và lý thuyết
gia mà tác giả nguyên lục và cụ Nguyễn Du đã đi theo. Tuy
mỗi tác giả có thay đổi đôi chút trong khi trình bày cuộc
đời Thúy Kiều nhưng đại khái thì cả hai vẫn đi theo cách
phân tích của Đạo Cô Tam Hợp.
Thuyết
âm dương ‘âm cực dương hồi’ sẵn có của Đông phương
cùng đã được nói tới. Âm là negative energy. Đau khổ (âm
cực) khi tới chỗ cùng cực thì hạnh phúc được sinh ra (dương
hồi). Âm cực của cuộc đời Thúy Kiều là khi tới sông
Tiền Đường.
Chúng
ta cũng thấy lý thuyết nhân quả trong truyện. Tuy có nghiệp
quá khứ hay Thiên định nhưng không phải là cái khối nghiệp
của quá khứ và của tiền định đó chịu trách nhiệm hoàn
toàn về mười lăm năm đau khổ. Thúy Kiều cũng có trách
nhiệm. Tài, sắc và tình của cô ràng buộc, làm cho cô cứ
đi theo riu ríu mà không mở ra được con đường máu thoát
khỏi vòng vây. Điều đó được cực tả trong câu ‘Ma đưa
lối quỷ dẫn đàng. Lại tìm những chốn đoạn tràng mà
đi.’ Cố nhiên khi bước vào những chốn như thanh lâu hay
quân đội thì mình bị kéo theo, đau khổ đã đành rồi. Nhưng
khi được bước vào những hoàn cảnh thanh thản như ở chùa
mà mình vẫn không an lạc. Không có khả năng an lạc. Bởi
vì mình vẫn khư khư giữ lấy ba cái tài, sắc, tình và không
nắm vững được cái tâm tu học để chuyển hóa, thoát khỏi
vòng vây. Thay vì đau khổ có thể chỉ là mười năm mà lại
kéo tới mười lăm năm. Mười lăm năm đó là thiên mệnh
tạo ra mà cũng do Thúy Kiều, một phần nào đó, tạo ra. ‘Có
trời mà cũng tại ta, Tu là cỗi phúc tình là dây oan.’ Thúy
Kiều tu được ba chuyện còn bao nhiêu chuyện khác đều là
tình hết. Nhưng nhờ có tu ba chuỵện, nên mới tạo được
giai đoạn sau.
Chúng
ta đọc truyện Kiều. Chúng ta thấy Giác Duyên là một yếu
tố rất đặc biệt đưa tới sự chuyển hóa của đời Kiều.
Ai đưa giác Duyên tới cho Thúy Kiều? Kiều đi tìm mới gặp
Giác Duyên hay gặp Giác Duyên là một điều tiền định đã
có sẵn? Giác Duyên là những điều kiện để bừng tỉnh.
Giác Duyên không phải chỉ là một con người. Giác Duyên là
tất cả những điều kiện có tác dụng làm cho mình thức
dậy, biết rằng mình đang làm cái đó, đang đi con đường
của ma quỷ. Những điều kiện có tác dụng làm cho mình thức
dậy, biết rằng mình đang làm cái đó, đang đi con đường
của ma quỷ. Những điều kiện đó do ai tạo ra? Cách đây
hai ngàn sáu trăm năm có một người ngồi dưới gốc cây
Bồ Đề và đã giác ngộ, người đó đã truyền lại cho
nhân loại những tia sáng của chánh niệm. Một tia hào quang
đã được phóng về hai ngàn năm trăm năm sau cho Thúy Kiều.
Người mang hào quang đó là một sư cô. Tia hào quang phóng
từ cội bồ đề là một trong những yếu tố khiến cho Thúy
Kiều có thể chuyển hóa được vận mệnh của mình. Nhưng
những điều kiện để được bừng tỉnh có thể là bất
cứ điều kiện nào. Ví dụ như những khổ đau cùng cực
của Thúy Kiều. Khi mình thấy mình khổ nhiều quá thì tự
nhiên mình có thể bừng tỉnh được. Có những người khổ
mà không bừng tỉnh được, nhưng có những người khổ bừng
tỉnh được. Không phải ánh sáng giác ngộ từ cây Bồ Đề
là điều kiện duy nhất giúp mình bừng tỉnh. Những đau khổ,
trui luyện trong vòng trầm luân cũng có thể giúp mình tỉnh
dậy… Nếu không có kinh nghiệm trực tiếp từ những đau
khổ đó thì ánh sáng kia có thể không đủ để làm mình
tỉnh dậy. Phải khốn khổ mới học hiểu được. Có những
người sinh ra là tự nhiên biết, gọi là sinh nhi trí. Có những
người phải học mới biết, đó là khổ nhi trí. Phải cùng
khốn thì mới hiểu được. Đó là một trong những điều
kiện để bừng tỉnh. Giác Duyên là một người tượng trưng
cho những điều kiện đó đến với Kiều. Giác Duyên nằm
ở chỗ nào? Ví dụ một cô thiếu nữ nói rằng: ‘Con không
lấy chồng. Ba anh chàng mà ba má đề nghị con không thể chấp
nhận anh nào cả vì con nghĩ rằng con sẽ không có hạnh phúc
với ai. Con đi tu. Con đề nghị một giải pháp thứ tư.’
Theo nguyên tắc thì giải pháp thứ tư cũng vậy thôi. Dầu
anh chọn người thứ tư hay thứ ba nhưng nếu con người anh
cứ như vậy thì anh cũng vẫn đau khổ. Anh đi tu anh cũng có
thể đau khổ như thường. Phải vậy không? Nhưng khi đi tu
thì anh có một điều kiện mới mà giải pháp một, hai, ba
không có. Tuy anh vẫn còn y nguyên là con người của anh, nhưng
khi đi tu anh được đặt vào một khung cảnh khác, mà anh không
có khi anh cưới người thứ nhất, thứ hai hay thứ ba. Anh
sống với tăng thân. Tăng thân không phải là một môi trường
có thể gọi là Giác Duyên, tức là những điều kiện để
cho mình tỉnh thức. Nếu bốn cái giống hệt như nhau và anh
quyết định với những nội kết của anh thì anh có thể
vẫn đau khổ như nhau. Nhưng trong trường hợp thứ tư anh
có Giác Duyên, một tia sáng của Bụt chiếu tới từ hai ngàn
năm trăm năm trước cho nên anh có cơ hội để thoát. Tự
do và giải thoát nằm ở chỗ Giác Duyên. Nếu chúng ta thoát
được màng lưới của nghiệp báo, đó là nhờ những tia
hào quang phóng tới từ những người giải thoát.
Thuyết
định mệnh chúng ta có thể thấy trong ba lĩnh vực:
Lĩnh
vực thứ nhất là đời sống thông thường. Trong đời sống
thông thường, chúng ta đặt câu hỏi: Có định mệnh hay không?
Ta có nên vâng theo hay không? Nếu vâng theo thuyết Định mệnh
thì chúng ta thấy rã rời, không có không gian thênh thang. Và
nếu còn trẻ, chúng ta muốn phấn đấu, chống lại định
mệnh. Vì vậy có hai phe: một phe định mệnh và một phe chống
lại định mệnh.
Lĩnh
vực thứ hai là trong phạm vi khoa học. Trong phạm vi khoa học
chữ déterminisme có nghĩa rất rõ ràng là nếu cùng những
điều kiện như vậy thì thế nào cũng đi tới những kết
quả như vậy. Ví dụ làm đậu hũ mà đúng theo những phương
thức a, b, c, d thì thế nào cũng có đâu hũ để ăn. Nhưng
thỉnh thoảng không biết tại sao chúng ta làm giống hệt như
vậy mà đậu hũ lại ra hơi khác. Trong lĩnh vực khoa học,
nhất là lĩnh vực khoa học nguyên tử (mécanique quantique) chuyện
này xảy ra rất thường. Tất cả điều kiện hội đủ mà
kết quả lại khác. Luật xác xuất (la loi de la probabilité)
cũng do khoa học tìm ra (cố nhiên đạo học cũng đã tìm ra)
cho phép những kẽ hở. Kết quẩ có thể xảy dra khác mặc
dầu có những điều kiện. Trong khi những nhà bác học nguyên
tử quán sát những vật thể li ti, chất điểm hay điện tử,
họ dùng trí tuệ và nhận thức của mình để quán chiếu
và ảnh hưởng được đối tượng của sự nghiên cứu. Có
sự tham dự của tâm con người vào thì sự thực có thể
biến dạng đi. Khi cần nhìn vào một vật thể li ti để quán
sát người ta cần phải chiếu ánh sáng vào. Vật thể vi tế
là một loại năng lượng, ánh sáng cũng là một loại năng
lượng. Khi ánh sáng chiếu vào thì vật thể đó đã thay đổi
rồi. Tâm thức cũng là năng lượng.Khi dùng tâm để quán
chiếu vào điện tử thì trong bản chất của điện tử cũng
có sự thay đổi. Tâm của nhà khoa học có ảnh hưởng tới
sự thật gọi là khách quan của thế giới nguyên tử vật
chất. Vì vậy luật xác suất tới bổ túc cho luật định
mệnh nói kết quả như nhau. Điều này đã được chứng minh
bằng khoa học. Tâm của Bụt, tâm của chúng ta đang có mặt
và đang ảnh hưởng tới thế giới vật chất, thế giới
xã hội, thế giới nhân quả. Yếu tố của tâm là một yếu
tố có thể can thiệp vào hoàn cảnh, về vật chất cũng như
về kinh tế, xã hội.
Đứng
về phương diện của những định luật tâm lý mà xét, chúng
ta thấy rằng khi những hạt giống của si mê, giận hờn,
ganh tị, khi những nội kết cũ… có mặt, chúng ta sẽ phản
ứng như thế này hay thế kia. Chúng ta có thể tiên đoán trước
phần nào căn cứ theo thuyết định mệnh. Ví dụ chúng ta
nói: Nếu mình gởi anh này vào buổi họp, thì khi những người
khác nói ra sự thật này anh ta sẽ phản ứng như thế, chắc
chắn như vậy, không thể sai được. Vì tâm của anh ta đang
có những tâm hành này, tâm hành kia nên mình tiên đoán anh
ta sẽ phản ứng như thế, không sai. Đó là mình theo thuyết
Định Mệnh. Căn cứ trên sự thật là trong buổi họp mà
có những người nói như vậy là anh ta đều phản ứng như
thế. Một trăm lần đều xảy ra như một. Quyết định không
cho anh ta vào buổi họp là hành động theo đức tin của mình
về thuyết định mệnh và mình thấy không có tự do gì trong
con người của anh ta hết. Nhưng Giác Duyên ở đâu? Giác Duyên
nói: ‘ Hôm nay anh đi với tôi và anh sẽ cầm tay tôi trong
suốt buổi họp. Khi nào tôi bấm tay anh một cái là anh không
nói gì hết.’ Tất cả mọi người đều sửng sốt vì anh
chàng tự nhiên xuất hiện trong buổi họp. Nhưng quan sát viên
hôm đó rất lấy làm lạ là tại sao buổi họp đã xong rồi
mà anh không nổi điên. Đâu biết rằng có một nguyên do ẩn
dấu là bàn tay anh ta đang được sư Giác Duyên nắm. Mỗi
lần biết anh này sắp phản ứng thì sư Giác Duyên lại nắm
chặt bàn tay anh lại và anh ta ngồi yên. Đó là yếu tố Giác
Duyên, chỉ có tăng thân mới tạo ra được và sẽ giúp được
anh chàng thay đổi, nhờ sự có mặt của Giác Duyên. Giác
Duyên là điều kiện của sự tỉnh thức. Chánh niệm của
anh ta rất yếu. Dù là được học một năm hay một năm rưỡi
rồi nhưng những lúc như vậy anh ta vãn không có khả năng
nắm lấy chánh niệm và cứ phản ứng một cách rất là…
‘tự nhiên’ Anh dã được hướng dẫn rằng mỗi khi gặp
trường hợp như vậy thì phải nắm lấy hơi thở. Anh cũng
cố gắng thực tập nhưng chất lượng của những hạt giống
kia nặng quá. Anh ta biết rằng những lúc đó thở được
thì rất hay, nhưng lúc đó tại sao anh ta không nhớ và không
thở! Vì vậy ta mới cần phải có Giác Duyên. Giác Duyên cần
phải đưa ta đi một đoạn đường thì ta mới có thể tự
mình di được. Sau mỗi lần anh ta phản ứng, ta hay nói: ‘Tôi
đã dặn anh là những lúc như vậy thì phải thở mà tại
sao anh không thở?; Anh ta trả lời: ‘Tại vì lúc đó sự
kiện xảy ra mau như chớp nhoáng, tôi không làm gì được
hết!’ Có nhớ thở mình thở cũng không được!’ Nếu chúng
ta buông xuôi, chịu thua thì anh ta không bao giờ có cơ hội.
Ta phải đóng cho hay vai trò của Giác Duyên. Có nhiều cơ hội.
Ta có thể nắm bàn tay anh, hướng dẫn anh. Ban đầu anh ta
ngưng được không phải là do tự điều phục bằng hơi thở
mà nhờ có một lời giao ước với mình là khi nào mình xiết
chặt tay anh thì anh dừng lại.
Sự
xuất hiện của Giác Duyên trong đời Thúy Kiều là sự xuất
hiện của Bụt. Và cũng nhờ Thúy Kiều đã đau khổ, chạm
đến đáy vực thẳm cho nên cái nắm tay của Giác Duyên càng
có hiệu nghiệm. Truyện Kiều không nói rõ điều đó. Sự
chuyển nghiệp là do công phu tu tập và do tăng thân, do sự
hướng dẫn chứ không phải là do chỉ làm ra được ba việc
mà Tam Hợp viện dẫn (không để Kim Trọng lấn tới, bán
mình và giết Từ Hải.) Trạng sư Tam Hợp nói sở dĩ Thúy
Kiều thoát được nghiệp xấu là nhờ có ba thiện căn đó.
Chúng ta thấy lý do không đầy đủ. Nói rằng ‘Bán mình
đã động hiếu tâm đến trời’ tại sao Trời lại để
cho tiếp tục khổ trdong mười lăm năm? Lý luận này không
xác đáng. Nói Thúy Kiều giết Từ Hải để cứu người,
đó là hoàn toàn giả tạo, không đúng. Vậy thì tại sao có
sự chuyển hóa? Có sự chuyển hóa là vì có những điều
kiện giúp mình tỉnh thức và tu tập. Sự tu tập với Giác
Duyên trước và sau khi tự tử đưa tới sự chuyển hóa của
Thúy Kiều sau này.
CHÁNH
NIỆM LÀ NẺO THOÁT
Trong
báo Giác Ngộ vừa rồi235 có bài của một bà Phật tử vào
khoảng bảy mươi tuổi, ở Huế. Bà kể chuyện hồi người
Pháp trở lại Việt Nam (khoảng năm 1946, 1947) bà tham gia kháng
chiến, bị bắt, ở tù. Bị giam chung với bà có rất nhiều
phụ nữ từ hai mươi tới ba mươi tuổi. Ngày đầu tiên bà
cũng có tâm trạng giống hệt những người nữ tù khác. Đêm
đó, trong khi mọi người thầm thì tâm sự thì bà quay mặt
vào góc tường khóc. Khóc một hồi thì thấy có một bàn
tay để trên vai. Một thiếu nữ hai mươi tuổi cho bà một
miếng kẹo mè xửng, nói: ‘Chị đừng khóc nữa. Để dành
sức. Con đường còn dài. Em đã bị tra điện tới năm mươi
mấy lần rồi nhưng em vẫn còn sống sót được.’ Bà cảm
thấy rất an ủi khi gặp cô thiếu nữ đó. Sau đó bà được
phóng thích. Cô thiếu nữ vẫn ở tù (từ 1948), cho đến năm
1954 mới được trao đổi tập kết ra Bắc. Từ đó về sau
bà không gặp cô nữa. Bà kể sau khi bà được phóng thích,
có bữa mấy cô tù nhân được phép đi ra giặt đồ và làm
việc gì đó, họ ghé tới thăm bà. Bà đã có thể gửi tặng
cho cô thiếu nữ đó, tên là Liễu, một số tiền nhỏ. Bây
giờ, năm 1993, ngồi trong một am lá nhìn ra ngoài và nhớ tới
chuyện xảy ra bốn mươi mốt năm về trước, bà nói: Không
biết bây giờ Liễu còn sống hay không. Bà muốn nói với
Liễu là có hai sự giam hãm. Một là sự giam hãm hình thức
và hai là sự giam hãm tinh thần. Khi được phóng thích, ra
khỏi tù thì mình có thể được gọi là tự do. Nhưng nhìn
trong nhãn quan của Phật pháp thì mình chưa bao giờ có tự
do cả. Đây là lời bà viết: ‘Ra khỏi tù tội có thể tạm
nói là tự do. Nhưng kiểm điểm lại gần cuộc sống khi chưa
đến với Phật pháp thì có lúc nào ta thật sự tự do đâu!
Tuy vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn đi, vẫn đứng, lên xe, xuống
ngựa… mà ta không ý thức được rằng mình đang ăn, đang
mặc, đang đi, đang đứng, đang lên xe, xuống ngựa… Cứ
để cho cái ngã chấp và kiến chấp hành hạ trói buộc thì
có khác gì mình đang ở trong tù?’ Ở tù trong cái thất niệm.
Mình bị mạng lưới của nhân quả kéo theo. Mình không có
một chút tự do nào cả. Dầu đã được thả khỏi tù, có
quyền đi chợ, vào bếp, ra bờ sông… làm đủ mọi thứ
nhưng mình vẫn vâng theo mạng lưới của nhân quả. Nó đẩy
mình đi tới đâu thì mình đi tới đó thôi. Mình thật sự
không có tự do. Ta hãy đọc lại lời bà viết: ‘Tuy vẫn
ăn, vẫn mặc, vẫn di, vẫn đứng, lên xe, xuống ngựa… mà
ta không ý thức được rằng mình đang ăn, đang mặc, đang
đi, đang đứng, đang lên xe, xuống ngựa… Cứ để cho cái
ngã chấp và ngã kiến hành hạ và trói buộc thì có khác
gì mình đang ở tù.’ Ngã chấp, kiến chấp đó là ma đưa
lối, quỷ dẫn đường trong truyện Kiều. Hoàn toàn sống
như là một nạn nhân của những tập khí từ trước, những
nghiệp cũ. Bà ta viết: ‘Nếu chúng ta hiểu rằng sự sống
nằm trong giây phút hiện tại, trong sự thức tỉnh, tiếp
xúc với thực tại và biết tiếp tục nuôi dưỡng ý thức
tiếp xúc đó là chúng ta đã được tự do.’ Theo ý bà, khi
mình sống có chánh niệm, đi biết là đi, đứng biết là
đứng, ngồi biết là ngồi, nằm biết là nằm… thì lúc
đó mình bắt đầu nắm được giềng mối của tự do. Còn
nếu không thì ta vẫn còn đang đi theo sự chỉ dẫn và sai
sử của tà dục, tà kiến, kiếp chấp và ngã chấp. Đó là
những kiết sử (samyojana), còn gọi là nội kết. Những cái
đó đã có sẵn trong lòng mình (nội) kết tại thành một
khối (kết) và sai sử mình làm cái này cái khác. Mình đâu
có tự do! Mình ưa cái đó, ghét cái kia là vì những ưa ghét
đó đã được quyết định sẵn trong tâm thức mình rồi.
Tất cả đều do nội kết của mình sai sử. Giây phút bắt
đầu nắm lấy chánh niệm, đi thì biết mình đi, đứng thì
biết mình đứng… lúc đó mình bắt đầu có một chút tự
do. ‘Ồ, tôi đang ăn ớt và tôi biết rằng tôi đang ăn ớt.
Dầu biết rằng ăn ớt không tốt cho ruột của tôi mà tôi
vẫn ăn.’ Như vậy, tuy mình đang còn yếu mà mình đã có
một chút tự do rồi. Chút tự do này là chánh niệm. Nếu
cứ nắm lấy chánh niệm đó mà đi tới thì một ngày kia
mình sẽ không nói: ‘Cho tôi xin một viên thuốc độc!’
nữa. Tác giả những câu này chứng tỏ đã tiếp xúc với
pháp môn hành trì của chúng ta: ‘Nếu chúng ta hiểu rằng
sự sống nằm trong giây phút hiện tại, trong sự thức tỉnh,
tiếp xúc với thực tại và biết tiếp tục sự nuôi dưỡng
ý thức tiếp xúc đó là chúng ta đã được tự do.’ Một
người đã ở tù, đã được phóng thích và đã thấy rằng
trước khi mình hiểu được Phật pháp thì tuy rằng mình có
tự do nhưng kỳ thực mình không có tự do gì cả. Mình hoàn
toàn vâng theo những sai sử của những nội kết, những cộng
nghiệp và biệt nghiệp. Những biệt nghiệp và cộng nghiệp
đó có thể được diễn tả bằng một ví dụ sau đây: Chúng
ta chịu ảnh hưởng của đám đông. Nếu chúng ta ngồi đó
với tư cách của một cá nhân thì chúng ta không có cảm xúc
đó. Nhưng nếu ngồi đó chung với một số người thì chúng
ta sẽ có cảm xúc đó. Một điều Thầy ta nói riêng với
ta có thể không có hiệu quả. Nhưng cũng một điều đó Thầy
ta nói trong một đám đông thì lại có hiệu quả. Đó là
biệt nghiệp và cộng nghiệp. Có những lúc ta bị cộng nghiệp
kéo theo. Vì mọi người như vậy nên ta cũng như vậy. Nhưng
nếu đứng một mình thì chưa chắc ta đã ồ ạt đi theo cái
đó. Đôi khi mình thấy nhiều người nghĩ như vậy thành ra
mình cũng nghĩ như vậy, còn nếu một mình thì chưa chắc
mình đã nghĩ như vậy. Trong suy nghĩ, trong sự đáp ứng lại
với một biến cố nào đó đều có hai phần: biệt nghiệp
và cộng nghiệp. Hai hình thức của nghiệp đó đã được
ghép sẵn trong nội kết của chúng ta. Nội kết riêng và nội
kết chung. Quan điểm của chúng ta về đẹp, về xấu cũng
có cộng nghiệp và biệt nghiệp. Mình rời Việt Nam trong lúc
các cô thiếu nữ áo dài rất dài (maxi), mình có thể mang
hình ảnh đẹp đó cho đến khi về. Mười năm sau về lại,
mình thấy không có cô nào mặc áo dài hết. Các cô mặc áo
dài ngắn cũn cỡn (mini) và mình thấy tại sao mà nó xấu
như vậy? Chúng ta đã có một ý niệm về cái đẹp ăn sâu
trong tâm rồi, so sánh ý niệm đó với thực tại bây giờ
thì chúng ta thấy rằng mặc áo dài mini không đẹp. Nhưng
không biết tại sao Sài Gòn kỳ này sa sút như vậy? Chúng
ta đã có một ý niệm về cái đẹp ăn sâu trong nội tâm
rồi, so sánh ý niệm đó với thực tại bây giờ thì chúng
ta thấy rằng mặc áo dài mini không đẹp. Nhưng không biết
tại sao ở lại Sài Gòn độ vài ba tháng thì ta lại bắt
đầu thấy cái áo dài mini đẹp! Đó là ảnh hưởng của
cộng nghiệp. Quan niệm về Chân, Thiện, Mỹ của chúng ta
nhiều khi bị ảnh hưởng quan niệm Chân, Thiện, Mỹ của
đám đông quần chúng. Biệt nghiệp và cộng nghiệp nằm trong
nội kết (kết sử) của chúng ta. nếu chúng ta sống ‘bình
thường’, nghĩa là sống không chánh niệm thì khi đi, đứng,
nói, cười, làm việc, ăn uống… chúng ta chỉ theo nghiệp
mà đi thôi. Chúng ta không có một chút tự do nào cả, hoàn
toàn đi theo định mệnh. Chỉ trừ khi nào có một Giác Duyên
xuất hiện, chỉ trừ khi nào có một tia sáng của cây Bồ
Đề chiếu tới chạm vào người ta. Cố nhiên, tia sáng đó
cũng là định mệnh. Tia sáng đó tới với tất cả mọi người
nhưng chính lúc đó mình chạm được mà người khác không
chạm được. Cũng trong một bài pháp thoại mà có người
bừng tỉnh trong khi nghe, có người không bừng tỉnh trong khi
nghe. Chưa tỉnh là tại vì chưa chín, những điều kiện của
sự tỉnh thức chưa có. Giác Duyên chưa thực sự có mặt.
Tu
hành có nghĩa là phát khởi chánh niệm. Đi thì biết là đi,
đứng thì biết là đứng, khổ thì biết rằng đang khổ.
Tuy rằng đang khổ nhưng đã bắt đầu thấy được, bắt
đầu mình là mình, mình có cái nhân cách của mình, mình bắt
đầu có chút ít tự do.
Không
có hạnh phúc chân chính nào mà không được thiết lập trên
tự do. Nếu không có tự do thì không thật sự có hạnh phúc.
Tự do chỉ có được khi mình chống lại được với định
mệnh. Địch lại với định mệnh, chọc thủng được mạng
lưới của nhân quả, là chỉ khi nào mình có chánh niệm mà
thôi. Ngồi thiền, đi thiền hành, bước những bước chậm
rãi, thảnh thơi, mà chủ được chính mình. Lúc khóc biết
mình khóc, lúc buồn biết mình buồn. Chánh niệm chiếu vào
chứng tỏ rằng mình bắt đầu có một ít tự do.Cái tự
do đó, ban đầu ít lắm, mong manh như sợi chỉ. Nhưng nếu
mình thực tập thì sợi chỉ đó càng ngày càng chắc, càng
lớn. Ban đầu cái khoảng trống để cho mình có thể sử
dụng chủ quyền rất hẹp. Giống như anh chàng sắp nổi khùng,
không có bàn tay của Giác Duyên cầm lấy và nắm chặt thì
anh chàng đã bùng nổ lên rồi. Anh chàng rất yếu đuối.
Cơ hội để thành công rất nhỏ lúc ban đầu. Nhưng không
thể có con đường nào khác hơn là đi thì phải biết đi,
đứng thì phải biết mình đang đứng, uống nước thì phải
biết mình đang uống nước. Đang buồn thì biết mình đang
buồn, đang khổ thì biết mình đang khổ. Đang tự làm mình
buồn thì biết mình đang tự làm mình buồn. Chánh niệm đó
là ánh sáng của tự do.
Thiên
hạ nói tới tự do, tranh đấu cho tự do; chẳng qua chỉ là
những tự do về xã hội, kinh tế, này kia kia nọ mà thôi.
Nhưng dầu có được những tự do đó người ta vẫn đau khổ
như thường. Họ có hộ chiếu (passport), muốn đi đâu cũng
được nhưng họ không đi đâu hết; họ tự tử. Tự do đó
họ đâu có sử dụng được! Trong khi đó, một người trong
trại học tập cải tạo, đang ở tù mà biết thiền hành,
thiền tọa, quán chiếu, tiếp xúc với những mầu nhiệm của
sự sống thì người đó có tự do, có hạnh phúc hơn những
người kia.
Đứng
về phương diện thực tập giáo lý mà xét thì tất cả chúng
ta đều đang bị tóm trong cái lưới Nhân Quả, Định Mệnh.
Con đường duy nhất để thoát khỏi mạng lưới ấy là Chánh
Niệm. Chánh niệm có thể do những điều kiện của sự tỉnh
thức đưa tới. Chúng ta có thể làm được gì để nuôi dưỡng
khả năng và cơ hội đó? Đó là nương tựa Tăng. Nương tựa
Tăng tức là biết rằng tăng thân là môi trường duy nhất
có thể giúp ta nuôi dưỡng chánh niệm đó. Nếu chánh niệm
đó mà tắt đi thì muôn ngàn đời ta sẽ giam hãm mình trong
mạng lưới của Nhân Quả và Định Mệnh. Làm sao để tiếp
xúc được với Giác Duyên đó là việc quan trọng nhất! Ban
đầu, ở bên cạnh Giác Duyên, ta có thể rất đau khổ. Ở
‘những chốn thong dong’ ta vẫn ‘Ở không yên ổn ngồi
không vững vàng.’ Nhưng phải nắm lấy tay Giác Duyên nắm
lấy hoàn cảnh thuận lợi đó. Rồi một hồi nào đó ta bắt
đầu có một chút tự do, một điểm tự do. Và nếu nắm
lấy điểm tự do đó mà đi tới thì tự do đó sẽ lớn lên,
bằng hột bắp, rồi từ từ bằng hột điều… Chỉ có cách
đó thôi. Lúc đó con người mới có không gian. Không gian thênh
thang. Có không gian thì mới sống hạnh phúc được.
Mỗi
quý vị, các sư cô, cac sư chú và các thầy đi thiền hành
hoặc ngồi thiền thì đừng nghĩ rằng mình bắt buộc phải
đi thiền hành, phải ngồi thiền. Đó là cơ hội duy nhất
để mình làm con người tự do, để sống như một người
tự do. Nếu trong khi di thiền hành mà ta bước những bước
chân không chánh niệm thì tức là ta không tha thiết đến
tự do của mình. Ta không thấy sự quý giá của không gian.
Con người sống không có không gian thì con người đó là một
kẻ nô lệ. Chánh niệm,. cũng như bất cứ một sinh vật nào
khác, phải được nuôi dưỡng. Nếu Thúy Kiều, nếu sư em
mà không có tăng thân nuôi dưỡng, không tạo lập những điều
kiện của tăng thân thì vốn liếng của chánh niệm của hạnh
phúc đã đạt được sẽ biến mất từ từ. Sự thiết lập
liên hệ với sư chị rất quan trọng. Sư chị phải có đó
sư em mới có thể đi xa được. Sư chị có đó dưới mọi
hình thức chứ không phải chỉ với hình thức của một ni
cô trong chùa mà thôi. Dựng tăng (sangha building) là một công
trình tiếp nối Bụt, làm cho những con người mất đi tự
do có một cơ hội. Tiếp xúc được với một Tăng thân tu
học là có một cơ hội để giải thoát ra khỏi biển khổ
trầm luân.
Thuyết
Định Mệnh, dù muốn hay không, vẫn đè nặng trên tâm tư
mình. Nhiều khi mình thấy bất lực. Tất cả đều như được
sắp đặt hết rồi và mình chỉ có vâng theo thôi! Khổ là
tại số mình như vậy, ráng chịu! Trong trường hợp Kiều,
người ta nói có một vài cố gắng, một vài thiện nhân dẫn
đến một giai đoạn khác của đời sống. Chúng ta tự an
ủi: ‘Số mệnh như vậy rồi!’ nhưng chúng ta phải thấy
rõ rằng con người có đóng một vai trò nào đó. Nếu ‘Số
mạng như vậy rồi!’ mà chúng ta còn buông thả nữa thì
hoàn toàn sẽ không có một nẻo thoát. Ta phải quyết định!
Không có gì nhiều, chỉ chánh niệm thôi! Tự do là thấy được
những gì đang xảy ra. Nhận diện được những con ma, con
quỷ đang đưa đường dẫn lối mình. Chỉ chừng đó thôi
là ta đã có thể bắt đầu nuôi dưỡng tự do của mình.
Thuyết
Định Mệnh đã được công kích. Bao nhiêu người muốn có
tự do. Nhưng những người muốn có tự do, chống lại Định
Mệnh kia không có phương pháp cụ thể nào cả. họ chỉ muốn
chống lại thuyết Định Mệnh đang đè nặng trên con người.
Và họ chỉ dùng những lý luận để chống lại, để nói
rằng con người có tự do mà thôi. Nhưng họ không có những
phương pháp cụ thể để có thể đi tới tự do thực sự.
Trong đạo Bụt, tự do bắt đầu bằng chánh niệm. Bắt đầu
bằng chánh niệm rất nhỏ. Trầm trầy trầm trật. Nhưng một
ngày nào đó nó sẽ trở thành một hạt giống tốt. Và chánh
niệm đó sẽ cho mình không gian, từ từ lớn lên. Trong Thánh
Kinh nói rằng hạt giống tuy nhỏ nhưng trồng xuống thì sẽ
trở thành cây lớn, chim chóc có thể bay về trên cây đó
mà nương tựa. Chánh niệm cũng vậy. Chánh niệm trong đạo
Bụt là Phật sẽ thành, là Phật. Nếu tiếp xúc được với
chánh niệm trong bản thân mình thì ta có thể tiếp xúc được
với Bụt trong mình. Đó là một Giác Duyên, một điều kiện
của sự tỉnh thức.
LỜI
CUỐI
Chúng
ta chỉ cần nói một câu thôi để kết thúc. Đứng về phương
diện văn chương, tâm lý, tả tình, tả cảnh (nhất là tả
tình) thì truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm tuyệt
hảo, không chê vào đâu được. Tác giả nói: Lời quê chấp
chặt dông dài. Nhưng tác phẩm không dông dài, không quê chút
nào. Ngược lại, rất thanh tú, rất mỹ lệ. Chỉ có một
điều: quan niệm, kiến thức Phật học của Nguyễn Du lúc
đó chưa uyên bác lắm. Quan niệm về nghiệp còn mù mờ, chất
phác. Có những học giả viết về những đề tài như ‘triết
học Phật học trong truyện Kiều’, thì triết lý Phật học
trong truyện Kiều rất mù mờ, chen lẫn với thuyết Định
Mệnh và quan niệm tài mệnh tương đố. Tuy nhiên điều đó
không có nghĩa là cụ Nguyễn Du không có tuệ giác đạo Bụt.
Tuệ giác của cụ lớn lắm, không phải là do cụ học Phật
mà có, mà do cụ đã tiếp nhận được từ các thế hệ tổ
tiên, từ văn hóa dân tộc, và nhất là từ kinh nghiệm sống
và tiếp xúc của cụ. Tuệ giác này đã không được diễn
tả dưới hình thức Phật học và với từ ngữ Phật giáo,
mà bằng những câu thơ, như câu “Biết đâu rồi nữa chẳng
là chiêm bao” hay “tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”
“ở không an ổn, ngồi không vững vàng” “một mình mình
biết, một mình mình hay,” v.v…
Trong
đời sống hàng ngày chúng ta có cảm tưởng bị bức bách,
sống trong tù ngục của mạng lưới Nhân Quả. Chúng ta không
có không gian để thở. Những nhà triết học cũng có cảm
tưởng đó vì họ thường suy nghĩ nhiều về kiếp người
về số phận con người. Nhưng mỗi khi chúng ta thực tập
chánh niệm, thở vào thở ra có chánh niệm, thì chúng ta tự
nhiên thấy có không gian. Chúng ta có cảm tưởng mình đang
có một chút ít tự do. Và nếu chúng ta tiếp tục thì tự
do càng lúc càng lớn. Chúng ta cảm thấy thoải mái.Nếu không
có chánh niệm chúng ta chỉ là những người mê ngủ, nô lệ
trong màng lưới Nhân Quả mà thôi. Những giờ phút thiền
hành, thiền tọa, ăn cơm im lặng, uống trà im lặng của quý
vị là những tặng phẩm quý nhất cuộc đời có thể hiến
tặng cho mình. Đừng cho đó là những sự bắt buộc. Sống
trong một tăng thân, những giây phút được đi chầm chậm
với nhau, ngồi uống trà im lặng với nhau, ngồi thiền với
nhau… đó là hạnh phúc chân thật của mình. Phải thấy được
những điều như vậy. Nhìn xuống hạ giới trầm luân mình
thấy người ta không có khả năng để hướng được những
thú vị cao siêu đó. Thú vị cao siêu đó là tự do. Tự do
thật sự của mình. Ai cho mình tự do đó? Chính mình và tăng
thân mình. Chúng ta phải giúp nhau.
Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền Quán
(các
bài giảng của Thầy ở Làng Hồng vào mỗi buổi chiều thứ
ba từ tháng 2/1992 đến tháng 6/1993)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Truyện Kiều: NXB Đại Học và Giáo Dục Chuyên Nghiệp, 1991 (xuất bản lần thứ IX), GS Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải.
Từ
điển Truyện Kiều: NXB (1976) Đào Duy Anh.
---Hết---
223 Đám mây gọi dòng suối về, tổ chức cuộc tranh đấu.
234 Thơ Xuân Diệu.
235 Tháng 6.1993