Kỷ Niệm 745 Năm Khánh Đản Đức Điều Ngự Giác Hoàng - Trúc Lâm Lê An Bình

17 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 22551)


KỶ NIỆM 745 NĂM KHÁNH ĐẢN

ĐỨC ĐIỀU NGỰ GIÁC HOÀNG 
(Im Lặng Sấm Sét)
(Kính dâng kỷ niệm 745 năm ngày Khánh Đản của Đức Điều Ngự Giác Hoàng. Một bậc Thánh Quân, một biểu tượng của sự hài hòa tôn giáo và dân tộc, 1258-2003)
Trúc Lâm Lê An Bình

Đức Điều Ngự Giác Hoàng tức Hoàng Đế Trần Nhân Tông (*) là con lớn của Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Ngài húy là Khâm, đản sanh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258), niên hiệu Nguyên Phong thứ 8 (1258). Năm Mậu Dần (1278) ngày 12 tháng 2 được truyền ngôi vua, đổi niên hiệu là Thiệu Bảo. Khi đản sanh ngài có được tinh anh của bậc thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai vị hoàng phi đều cho là lạ, gọi là «Kim Tiền Đồng Tử» (sách Tam Tổ Thực Lực ghi Kim Phật).

Ngài đã hai lần lãnh đạo quân dân Đại Việt và cùng với các danh tướng như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, Bảo Nghĩa Hầu Trần Bình Trọng, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, Tướng quân Nguyễn Khoái v.v…xóa tan mộng xâm lăng nước ta của quân Mông-cổ do Hốt-Tất-Liệt cầm đầu.

Sau khi tạo nên những chiến thắng lẫy lừng lịch sử cổ kim, cũng như giữ gìn được toàn vẹn lãnh thổ và độc lập quốc gia, Hoàng đế Trần đã nhẹ nhàng thoái vị nhường ngôi vua cho thế tử Trần Anh Tông thay cha trị nước(*). Sau đó, dũ sạch hồng trần xuất gia và trở thành thiền sư Điều Ngự Giác Hoàng, đồng thời là sơ tổ của phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. Một phái thiền hoàn toàn do người nước Đại Việt chủ xướng và hành trì. Ngài biểu hiện sự thẩm thấu tâm linh trong tuyệt phẩm Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, quyển này có đoạn viết như sau:

Niệm lòng vằng vặc
Giác tính quang quang ;
Chẳng còn bỉ thử
Tranh nhân chấp ngã
Trần duyên rũ hết
Thị phi chẳng hề 

Chúng ta hãy thử nhìn ra bờ biển sẽ thấy từng đợt sóng từng đợt sóng lớn có nhỏ có liên tục liên tục theo gió thổi mà bềnh bồng trôi tắp vào bờ không ngưng nghĩ. Đó là một thí dụ cho thấy bên ngoài sự vật lưu chuyển như thế nào thì trong tâm của chúng ta nó chuyển động như thế ấy. Hết dòng tư tưởng này đến ngọn sóng vọng tưởng khác cuồn cuộn tràn lên lớp sau dồn lớp trước mãi mãi không ngừng. Do đó ngay từ khi còn hơi thở, mỗi người không ít nhiều cảm nhận mình đang ở trong vòng luân hồi sanh tử trong từng giây phút một, chứ không đợi tới khi nhắm mắt lìa trần, tùy theo nghiệp duyên mà đi vay mượn một hình hài khác. Cứ thế, xoay vần hết kiếp này đến kiếp khác. Vì vậy để cảnh giác chúng sanh về nguy cơ này, ngài Điều Ngự Giác Hoàng đã nói: «…chớ cho sống chết là chuyện chơi».

Ý thức được điều đó nên mọi người Phật tử đều gắng sức thực hành pháp môn nào mà cảm thấy thích hợp với căn cơ của mình. Dù là thiền tông, tịnh độ hay duy thức hoặc hành trì thần chú, nhưng trăm sông vẫn tuôn về biển. Biển đó là biển giác. Trên đường tu học, điều đầu tiên mà người Phật tử cần thực hiện đó là giữ gìn giới luật cho vẹn toàn. Nền tảng giới luật được thực hiện để kềm chế các niệm lòng cho chúng bớt phát khởi, dần dần khi nó đã thuần thục ta đi đến chỗ kiểm soát không cho nó phát khởi ngoài sự kiểm soát của ta. Niệm lòng (hay tâm niệm) muốn nói ở đây là buồn, vui, sung sướng, đau khổ, giận hờn v.v…Có người sẽ thắc mắc, như thế tu theo Phật giáo con người trở thành gỗ đá hết hay sao ? Người tu học theo PG là nhằm để kiểm soát tư tưởng, hành động cũng như lời nói của mình không cho chúng phóng túng, từ đó ta sẽ tạo được khung cảnh hạnh phúc thật sự ở chung quanh. Chỉ có những người sống và thực hành một cách đúng nghĩa mới cảm nhận được điều chúng tôi vừa trình bày. Cũng ví như muốn no bụng thì phải ăn bánh ăn cơm thật, còn ăn bánh vẽ làm thế nào no cho được?

Niệm lòng (tham, sân, si) thực sự lắng đọng cũng ví như ly nước đã hoàn toàn lắng xuống tất cả cát bụi sau khi đã để yên một thời gian. Ngắn hay dài còn tùy theo ly nước đục nhiều hay ít. Khi bụi lắng xuống ta sẽ được một ly nước trong. Không phải là trong bình thường mà là rất trong. Cũng vậy, ngài Điều Ngự cho ta thấy một người sau khi tiêu diệt hết phần phiền não thì cái tâm (hay lòng) của họ sáng vô cùng. Cũng như đêm trăng tròn ngày 15 âm lịch nếu trời không có mây, ta sẽ thấy được cái sáng vằng vặc mà tác giả muốn ẩn dụ cái tâm sáng không còn bị phiền não quấy rầy. 

Khởi đi từ cái tâm sáng vằng vặc do không bị phiền não câu thúc, nên tánh giác hiển lộ. Tánh giác mà ngài đề cập tới nó hàm chứa rất nhiều nghị lực biên trong. Chữ quang quang xin được hiểu là nghị lực, sự quả quyết. Sự quả quyết và nghị lực là chất xúc tác khiến cho người tu tập đi đến tận cùng của sự giác ngộ, do đó sẽ không còn thấy sự khác biệt giữa ta và người. Ta xem mọi người cùng giống như nhau, tôn trọng nhau và không gây đau khổ cho nhau. Vì ta tôn trọng người tức là tự mình tôn trọng mình, không gây đau khổ cho người tức là không làm cho ta khổ đau. Tác động này nó sẽ ảnh hưởng đầu tiên là tập hợp nhỏ như gia đình, sau đó ra đến địa phương cư ngụ, lớn hơn một chút là thành phố, tiếp thêm là kết nối giữa những thành phố với nhau không phân biệt lớn nhỏ. Đi xa hơn là ở phạm vi quốc gia cũng như giữa các nước với nhau trên hành tinh.

Đó là người Phật tử đã kiến lập được nhân gian Tịnh độ. Do Tịnh độ nhân gian được kiến lập nên sự phân biệt ta hay người, hay tranh chấp đúng sai giữa người và ta sẽ không còn chỗ đứng. Sở dĩ có sự tranh chấp ta người vì ta cho ta là đúng rồi bảo là người sai. Đúng hay sai cũng nằm trong vọng tường, khi vọng tưởng đã không còn thì đúng sai cũng theo đó mà tan. Thế rồi sự ràng buộc trong trần thế (trần duyên) do đó mà buông xuôi hết, ngay cả chuyện chê khen được thua xem nhẹ tợ sợi tơ. Nói đến đây sẽ có người thắc mắc, thế thì PG chủ trương buông bỏ tất cả mọi chuyện trên đời này hay sao, như thế có mâu thuẩn hay khi đạo Phật thường đề cập tới Tứ Ân cần phải báo đền? Như thế có tiêu cực hay không?

Thực ra PG không tiêu cực như vậy, qua trích đoạn trên, ngài Điều Ngự giác Hoàng khuyên mọi người chúng ta nên buông bỏ tức là không buông bỏ mà là buông bỏ. Buông bỏ là nên buông bỏ phiền não vọng tưởng; không buông bỏ là theo đuổi đến cùng để đạt tới mục tiêu giác tính quang quang; mà là buông bỏ tức buông bỏ chấp nhân chấp ngã.

Do quan niệm mở rộng như thế, ngài Điều Ngự Giác Hoàng đã không còn là một vị thiền sư của Phật Giáo, cuộc đời và hành trạng của ngài là biểu tượng chung cho sự hài hòa tôn giáo và sắc tộc của một thời thịnh trị cách đây 745 năm.

Với Im Lặng Sấm Sét, Hoàng đế Trần Nhân Tông đã lãnh đạo thành công quân dân Đại Việt đánh bại cuộc xâm lăng của quân tàu Mông-cổ (1285-1288). Trong Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, ngài Điều Ngự Giác Hoàng (Hoàng đế Trần) nói: «Niệm lòng vằng vặc, giác tánh quang quang» nó biểu lộ cả một quá trình tập trung tâm lực, và tập trung tâm lực tới mức tối cao. Im Lặng Sấm Sét cũng nằm trong ý nghĩa đó. Quá trình tập trung tâm lực đó được bắt đầu từ lúc ngài còn chưa được kế vị và được biểu lộ rõ rệt nhất trong các cuộc xây dựng đất nước và kháng Nguyên sau đó. 

Nam Mô Lịch Đại Tổ Sư Bồ Tát
Nam Mô Trúc Lâm Yên Tử Điều Ngự Giác Hoàng Tổ Sư tác đại chứng minh

Trúc Lâm Lê An Bình(Quốc lịch 4882 Phật lịch 2546 ngày 11 tháng 11 năm Quý Mùi, tức 4/12/ dương lịch 2003) 

Tham khảo: 
- Toàn Tập Trần Nhân Tông, Giáo sư Tiến Sĩ Lê Mạnh Thát.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
03 Tháng Sáu 2016(Xem: 5973)
Trong quá trình hình thành và phát triển Phật giáo, Phật tử Việt Nam tiếp nhận ba truyền thống Tu Tập chính yếu, đó là Thiền, Tịnh và Mật; nếu vận dụng tu tập đúng pháp thì có khả năng giải hóa mọi phiền não và được giải thoát. Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông.
09 Tháng Năm 2016(Xem: 6251)
Có những mất mát không gì bù đắp được, có những sự chia ly diệu kỳ như huyền sử. Kẻ ở cứ mãi nhớ thương, hồi ức đong đầy nơi khóe mắt. Người đi mỉm cười thinh lặng vô ngôn, có chút tiếc nuối mình vẫn chưa làm được gì nhiều cho đạo pháp như lòng hằng mong muốn. Cầu nguyện Hòa Thượng sớm trở lại cõi Ta Bà để giáo hóa chúng sinh. Nước sông Côn, đầm Thị Nại, biển Đề Gi, ngày đó sẽ xanh hơn trong hơn, cá nhởn nhơ bơi lội từng đàn trong giòng nước mát rượi như cam lồ tịnh thủy.Chúng con mãi mãi ngóng đợi trông chờ.
29 Tháng Ba 2016(Xem: 5630)
Những Thiền sư VN đã sống trọn vẹn đời mình theo những điểm căn bản của Đại thừa như vậy, và một khi phát khởi tâm Bồ đè, Trí Huệ soi thấy Tánh Không, lòng Đại Bi, phương tiện thiện xảo được phát triển một cách trọn vẹn, đã làm nên cái đặc trưng mà chúng ta thường nói là tính cách nhập thế của Phật Giáo Việt Nam.
18 Tháng Giêng 2016(Xem: 7631)
Năm nay, 2016, đánh dấu 50 năm Phật Giáo Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ, tính từ năm 1966, khi mà Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đến Mỹ dạy tại Đại Học UCLA và ở lại luôn để truyền bá Phật Giáo Việt Nam tại đây. Vì vậy, Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân là vị sơ tổ của Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ.
12 Tháng Giêng 2016(Xem: 6184)
Danh từ Nhân gian Phật giáo xuất hiện lần đầu tại Việt Nam trên Tuần báo Đuốc Tuệ do Hội Phật Giáo Bắc Kỳ xuất bản tại Hà Nội. Số đầu ra ngày 10/12/1935. Đuốc Tuệ hoạt động được 10 năm thì bị đình bản vì có cuộc cách mạng giành độc lập năm 1945.
01 Tháng Giêng 2016(Xem: 8022)
Từ khi biết đến tác phẩm quý “Thiền sư Khương Tăng Hội” này tôi đã đi rất nhiều chùa để tìm xem ở những đâu có thờ Tổ Khương Tăng Hội. Tiếc thay, tìm mãi mà không thấy. Nơi nơi chỉ thấy thờ tổ Bồ Đề Đạt Ma, một vị tổ người Ấn Độ đã mang Đạo Phật vào Trung Quốc rồi sau này mới lan sang đến Việt Nam.
01 Tháng Giêng 2016(Xem: 6461)
Khi học về truyền thống sinh động của thiền tập đạo Bụt, chúng ta đã bắt đầu từ Ấn Độ rồi sang Việt Nam. Khi nói về thiền Việt Nam, chúng ta có cơ hội xét lại thiền tông ở Trung Quốc. Chúng ta làm khác với cách thông thường là từ Ấn Độ đi sang Trung Quốc, rồi từ Trung Quốc mới về Việt Nam. Lý do là vì ở Việt Nam chúng ta có thiền phái Tăng Hội, được thiết lập vào thế kỷ thứ 3, tức 300 năm trước ngày tổ Bồ-Đề Đạt-Ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa để dạy thiền.
01 Tháng Giêng 2016(Xem: 6864)
Bài này viết được là nhờ thu thập công trình nghiên cứu trong luận án Phó Tiến sĩ của Budden Gyoshi (Phật Điển Hành Tư): Buddhism in Vietnam, the Period of Introduction and Development (Murdoch University, 1979).
23 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6230)
Thầy Thích Hạnh Tuấn là một trong những bậc Tăng tài của Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh nói riêng và của Phật Giáo Việt Nam nói chung trong thời đại ngày nay.