Thiền trà cùng trăng

08 Tháng Mười 201619:45(Xem: 5440)

THIỀN TRÀ CÙNG TRĂNG
Diệu Trân

blankChiều nay, những nụ quỳnh óng mượt đã uốn cong, báo hiệu khi mặt trời khuất dạng, hoa sẽ cùng với bóng chiều chậm rãi nắm tay nhau đi dần vào màn đêm. Mỗi bước đi là mỗi hé nở. Mỗi hơi thở là mỗi ngạt ngào hương sắc.

Nhẹ nhàng.
Tĩnh lặng.

Quỳnh chỉ đến với trăng và thinh không bóng tối.

Quỳnh rất đẹp! Rất thơm! Tiếc là đời hoa quá ngắn, chỉ qua một đêm thôi. Tôi đã từng tham lam, khởi nghĩ “Phải chi quỳnh còn tới ban ngày!”. Nhưng sau đôi lần cùng quỳnh ngồi thiền dưới trăng khuya tôi mới biết rằng nếu quỳnh nở cả ban ngày thì không còn là quỳnh nữa!

Tối nay tôi sẽ đón quỳnh và trăng bằng trà quý. Tôi có hộp trà này là do tâm thành, cắt những bông sen đầu mùa mang tới chùa cúng Phật. Thầy trụ trì cảm kích bèn mở tủ, tặng lại hộp trà. Để dành mãi, chưa thấy bạn hiền nào ghé chơi nên hôm nay tôi sẽ đãi trăng và 39 đóa quỳnh hương. Vâng, tôi đếm cẩn thận lắm, 39 đóa quỳnh sẽ ghé thăm vườn tôi đêm nay.

Bóng tối đã bao phủ khu vườn nhưng trăng cũng long lanh ánh bạc trên vòm cây, nhánh lá. Tôi rót trà mời trăng khi quỳnh đang nhẹ nhàng hé cánh bạch ngọc. Những cánh trắng mong manh lụa nõn, thở từng làn hương thoảng, mở nhẹ từng búp, lộ dần nhụy hoa dáng thon dài như chiếc thuyền độc bản lững lờ trên giòng sông êm. Cứ thế, mỗi phút thầm lặng trôi qua, mỗi cánh hoa lay động nở dần.

 Tôi đã từng ngồi lặng hàng giờ, theo dõi bước thiền hành của hoa, từ lúc hé cánh tới khi mãn khai, hoan hỷ chiêm ngưỡng những đóa quỳnh– hương xiêm y trắng muốt, ca múa dưới trăng. Tôi đã được thấy nhiều lần, và không lần nào không rung cảm khi NHÌN được sự chuyển động mầu nhiệm của sự sống; sự chuyển động chuyên chở sức mạnh thầm lặng vô song trong tương quan vạn hữu.

Đêm về khuya, trăng như sáng hơn. Trăng lồng bóng hoa, quyện vào nhau, tới lúc không biết trăng là quỳnh hay quỳnh là trăng nữa. Lạ thay, tôi bỗng mở khóa chân kiết già khi nghe thấy âm–ba những câu thơ từ đâu dội tới:

“Trăng Huyền–Không mở hội
Hương lan ngát bên đồi
Mây ngàn phương về hội
Giờ tao ngộ đến rồi”

Giòng thơ cứ lập đi lập lại, chỉ bốn câu như thế thôi. Thơ đã chuyển thành nhạc, réo rắt, mênh mang. Nhưng điều đó có gì liên hệ đến lúc tôi đang ngồi thiền dưới trăng trong đêm quỳnh nở này? Và sao chỉ có bốn câu vần vũ mà thôi?

 Đổi lại thế ngồi bán già, tôi nhắm mắt, thở một hơi thật nhẹ, thật dài. Và bây giờ tôi chỉ còn nghe thấy một câu:

 “Giờ tao ngộ đến rồi” 

 Vâng, trăng ơi, tôi đã biết. Giờ tao ngộ của Thầy với Đất Phật đã đến. Ngài đã đi. Thầy Huyền–Không Mãn–Giác đã đi.

 Mà nào phải Thầy đi!? Không, trăng ơi, Thầy đã về mới đúng chứ! Thầy vừa trở về căn nhà Phật, nơi từ đó, Thầy đã khai sinh. Vậy thì, đi, hay về, với Thầy, chắc một nghĩa như nhau thôi.

Có lẽ bài thơ này làm đã lâu rồi, nhưng sao lời thơ như tiên tri vậy? Trăng muốn được nghe trọn bài ư? Mời trăng, mời quỳnh, hãy nhấp ngụm trà thơm rồi tôi đọc nhé:

“Bên bờ suối vô–vi
Trăng lên, chờ ta đó
Ngàn xưa, tự ngàn xưa
Trăng vẫn chưa hề lặn
Ta đi vào viễn xứ
Trăng đưa lối ta về
Trùng dương muôn bến mộng
Nên ta vẫn còn mê
Trăng Huyền–Không mở hội
Hương lan ngát bên đồi
Mây ngàn phương về hội
Giờ tao ngộ đến rồi
Quê–hương vẫn là đây
Trăng vẫn mảnh trăng này
Ngàn sau, ngàn sau nữa
Lồng lộng giữa trời mây”*

Cám ơn trăng đã xúc động, nhắc khẽ câu “Giờ tao ngộ đến rồi”. Quả đúng thế. Hai vị Thầy vừa gặp lại nhau sau nhiều thập niên xa cách.

Qua sách vở, họa hoằn lắm tôi mới bắt gặp thấp thoáng đôi câu hai Thầy bộc lộ về tình huynh đệ đồng môn, mà với tâm hồn cùng ẩn chứa chất liệu phóng khoáng của thi nhân, hai Thầy đã thân thiết nhau từ thời làm điệu ở chùa Bảo Quốc. Đã có người liên tưởng sự tâm đồng của hai Thầy như tình huynh đệ thắm thiết giữa hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên khi xưa. Thương thay, những chướng duyên nhân thế đã khiến không gian, thời gian thành nghìn trùng xa cách. Thầy Huyền–Không Mãn–Giác từng ngậm ngùi nói về bạn mình: “Thầy Nhất Hạnh là người có cái thấy vượt xa người cùng thời, có khi trước cả vài ba mươi năm. Cũng vì cái thấy đó mà từ ngày còn trẻ đến bây giờ, Thầy là nạn nhân tội nghiệp của những đối xử bất công từ những thành lũy bảo thủ cố chấp, thế mà tấm lòng với Đạo của Thầy vẫn muôn năm vằng vặc”

Thầy Nhất Hạnh có thấy trước, ngày Thầy Huyền–Không Mãn–Giác ra đi không? Trăng ơi, riêng tôi, tôi tin là có. Từ nhiều thập niên qua, hai vị Thầy vẫn chạnh nhớ về nhau mà không gặp được nhau vì đều quá đa đoan Phật sự. Nay, sự mầu nhiệm nào đã khiến Thầy Nhất Hạnh cùng tăng thân Làng Mai đến tận chùa Việt Nam thăm Thầy Huyền–Không Mãn Giác, trước chỉ một tháng, ngày Thầy Mãn Giác về cõi Phật? Làm sao đây có thể là sự tình cờ, khi hai vị đã từng cảm ứng nhau qua không gian vô tận và thời gian vô biên.

 Trăng chưa nhìn thấy hình ảnh cảm động đó phải không? Thầy Nhất Hạnh đến chùa Việt Nam khi tiền đình vừa nhuộm vàng nắng sớm. Tăng thân Làng Mai đều quỳ xuống khi Thầy Huyền Không Mãn Giác bước ra. Hai vị Thầy im lặng nhìn nhau, đôi giòng lệ lặng lẽ rơi trên đôi má Thầy Huyền Không Mãn Giác. Thầy Nhất Hạnh nắm lấy bàn tay run rẩy vì xúc động của bạn. Dù phong thái Thầy Nhất Hạnh an nhiên trong chánh niệm, nhưng đôi tay Thầy hẳn cũng bồi hồi, xao xuyến. Rồi hai Thầy ngồi xuống bên nhau.

Vẫn im lặng.
Mà ngàn lời đang nói.

Có lẽ đây là giây phút Minh Tịnh, chạm tới cái Tột của Không để vô– đoạn, vô–thường hiển lộ Chân Thường; vô–ngã, vô–phi–ngã hiển lộ Chân Ngã.

 Trăng ơi, khi Thầy Nhất Hạnh truyền tăng thân Làng Mai hát bài “Niệm Bồ Tát Quan Thế Âm”,

cúng dường Thầy Huyền Không Mãn Giác thì hầu như các vị hiện diện, không ai cầm được nước mắt! Không phải đây là nước mắt bi lụy đâu trăng ạ. Nước mắt rơi khi tiếng niệm Bồ Tát Quan Thế Âm trầm bổng ngân lên là nước mắt “Từ nhãn thị chúng sanh”, nước mắt của tình thương bao la từng nhỏ xuống vì thương xót hết thảy chúng sanh. Hai vị Thầy đã nhân lần gặp cuối, ngồi bên nhau, nắm tay nhau, truyền năng lượng Bồ Đề Tâm, cùng hướng về Đấng cứu khổ cứu nạn. Trăng ơi, chẳng phải là chúng sanh đang chìm ngập trong biển khổ vô cùng vô tận hay sao? Trăng hãy nhìn quanh xem, từ Đông sang Tây, từ Âu tới Á, những khắc nghiệt, những đọa đầy, những oan khiên, những tàn khốc đang nghiền nát nhân loại. Nên phút giây đó, dưới mái chùa Việt Nam, âm thanh niệm Hồng Danh Quan Thế Âm ngân lên, lúc khoan, lúc nhặt, lúc trầm, lúc bổng, qua hình ảnh đôi bạn Xá Lợi Phất – Mục Kiền Liên cùng tận dụng chuyển vận năng lượng cầu nguyện cho nhân loại, đã là những gì mà ngôn từ thế gian không thể diễn đạt nổi.

 Có chăng, chỉ là sự hùng tráng bất biến của:

“Ngàn xưa, tự ngàn xưa
Trăng vẫn chưa hề lặn”.

Diệu Trân

(Như–Thị–Am, tháng mười, 2006)



* Thơ Thiền sư Viên Minh
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
12 Tháng Tám 2014(Xem: 10004)
Nhưng Thầy ơi, như Thầy đã biết, con thích nhất cây chuối khi nó luôn mọc thẳng , và khá vững vàng nên người đời cứ cưởng chuối có thân cây thật, trong khi "thân" chuối là một "thân giả". Thân giả này là bài học cho con quý giá vô cùng về tính không, nhất là mỗi khi con tụng kinh Bát nhã. Ôi chuối vi diệu quá Thầy nhỉ.
10 Tháng Tám 2014(Xem: 6873)
Khuya. Một mình. Tình cờ đọc thấy một bài viết kỳ thú trên báo Tuổi Trẻ của Việt Nam mà nghe nao cả lòng. Bài báo viết về một chuyến du khảo tháng 10/2007 của nhóm phóng viên tờ Tuổi Trẻ trên Con Đường Tơ Lụa, bắt đầu từ Tây An rồi thì sau đó Đôn Hoàng, Cao Xương,... với khoảng 8000 cây số đi-về.
05 Tháng Tám 2014(Xem: 7558)
Một người bạn của chúng tôi ở Mỹ về thăm quê hương, gặp một vấn đề về sức khỏe , phải vào bệnh viện gấp . Ngay lập tức , tin xấu được truyền tới Mỹ cho bạn bè .Sáng hôm sau , tôi nhận được một lúc hai lá thư điện tử từ Mỹ gửi về .Bức thư thứ nhất : Nghe nói bạn A về Việt Nam chơi, trong lúc chờ máy bay về Mỹ thì bị đột quỵ phải vào bệnh viện gấp
04 Tháng Tám 2014(Xem: 5742)
Tôi có nhiều kỷ niệm với Tánh Không. Hiểu ở nghĩa nào cũng đúng. Trước tiên là với bài Bát Nhã Tâm Kinh, với những âm vang có nhiều sức mạnh từ những ngày thơ ấu đã theo đuổi mình rất nhiều năm, của những câu như "Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị..."
03 Tháng Tám 2014(Xem: 7212)
Có một truyện ngắn, của nhà văn nào đó tôi quên mất, kể về cái chết của một người mẹ trẻ trong thời chiến. Chuyện chẳng có gì, nhưng tôi cứ nhớ hoài hình ảnh đứa bé trong truyện. Giữa cơn nắng chiều khô nóng, nó bò quanh cái xác cứng đờ của mẹ rồi lay gọi bằng cái giọng ngọng nghịu chưa biết nói tròn câu.
01 Tháng Tám 2014(Xem: 6146)
“Tin Ta mà không hiểu Ta, ấy là phỉ báng Ta”. Với các đệ tử, Đức Phật Thích Ca từng gián tiếp nói về sự sùng bái gần 3.000 năm về trước… Câu nói tiềm ẩn năng lượng giải phóng quá trình nô-bộc-hóa-tư-tưởng mà nhân loại đã khởi đầu qua thói quen thần phục. Thói quen mà minh triết của sự kính-ngưỡng-đích-thực không bao giờ thỏa thuận.
01 Tháng Tám 2014(Xem: 6721)
Tôi đi thăm Yên Tử thuở núi rừng còn hoang vu. Bồi hồi, xúc động. Những cội tùng già cỗi cằn, khô gầy ngạo nghễ giữa thời gian và năm tháng. Ồ, bên này là rừng trúc và bên kia là triền đá dựng. Có phải ở đây mà thuở trước là, Cửa che giáo ngọc sum ngàn mẫu. Đá trải lược châu lửng nửa vời. Theo từng dốc đá rêu phong, tôi lần bước leo lên, leo lên mãi...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 5529)
Nói y như trong kinh thì vạn hữu không gì là ngẫu nhiên. Mỗi cọng rêu, ngọn cỏ hay từng con ong, cái kiến thảy đều do nhân duyên mà có. Ai người học Phật đều ít nhiều biết qua chuyện đó. Vậy mà có ai trong số này lại không một lần bất chợt đứng dưới hiên mưa mà bỗng nhiên nhớ về một chuyện xưa cũ càng không hò hẹn.
30 Tháng Bảy 2014(Xem: 8661)
Suy cho cùng, kiếp người hay cuộc tu chỉ là những lần ghé lại đâu đó. Nói ở nghĩa nào thì người ta không ai có thể chung thân với một thứ gì miên viễn. Mình không bỏ nó thì nó cũng xa mình. Ta có thể mất nó, vì nhàm chán hay không còn cơ hội nắm níu. Và cái mà ta yêu nhất cũng có nhiều kiểu bỏ ta ở lại mà đi. Hồi xưa bắt chước theo kinh mà nói thì cái gì cũng là bè cỏ qua sông...
25 Tháng Bảy 2014(Xem: 6104)
“Bình minh vừa rạng, như buổi sáng ban đầu, Chim sáo đã lên tiếng, như con chim ban đầu”. “Buổi sáng ban đầu” là ngày khởi đầu, ngày nguyên đán của vũ trụ, khi người nghe hiểu hết bài ca. Ánh dương vừa rạng, chim vừa cất tiếng, nhưng tâm người lại cảm nhận như buổi sáng tinh khôi của trời đất, như tiếng chim nguyên thủy của thiên nhiên. Kỳ lạ thay!