Phương ngoại với hồng quần

02 Tháng Năm 201816:22(Xem: 4883)

PHƯƠNG NGOẠI VỚI HỒNG QUẦN
Huỳnh Ngọc Chiến


sen tokyoKẻ tiêu dao ngoài đời bất tất phải giới tửu, nhưng nên giới tục; khách quần hồng bất tất phải hiểu văn chương nhưng cần phải cư xử dịu dàng. 方 外 不 必 戒 酒, 但 須 戒 俗; 紅 裙 不 必 通 文, 但 須 得 趣。

Phương ngoại bất tất giới tửu, đãn tu giới tục; hồng quần bất tất thông văn, đãn tu đắc thú. (Trương Trào - U Mộng Ảnh)

Đọc câu này, hẳn sẽ có không ít những vị chân tu - những người đã vui với mùi thiền duyệt trong cảnh tiêu dao thế ngoại, đã quyết tâm đem thân bỏ chốn am mây để cầu giải thoát - phải chau mày! Đem bậc phương ngoại tương phối với khách hồng nhan, chỉ có những tay tài tử như Trương Trào mới nghĩ ra ngẫu đề thú vị này.

Giới tục có nghĩa là đừng để trở nên thô tục, theo kiểu tục cốt phàm tâm. Tô Đông Pha có bài thơ nói về chữ tục.

Ninh khả thực vô nhục, Bất khả cư vô trúc. Vô nhục linh nhân sấu, Vô trúc linh nhân tục, Nhân sấu thượng khả phì, Sĩ tục bất khảy. 肉, 瘦, 肥, 。 Thà ăn cơm không thịt, Ở không thể thiếu trúc. Không thịt khiến người gầy, Không trúc khiến người tục Gầy có thể mập ra, Sĩ tục đành hết thuốc.

Mới là kẻ sĩ mà đã tục thì hết thuộc chữa, huống chi là những kẻ rong chơi trời phương ngoại? Đó là những kẻ đã ly gia xuất thế, phiêu nhiên như hạc nội mây ngàn, đoạn tuyệt những lụy phiền của thế tục để sống một đời du tăng trong cảnh giới tự tại an nhiên. Đã sống một đời phiêu nhiên như mây nước, lòng không còn vướng trong vòng tục lụy thì hiển nhiên cốt cách phải thanh cao, phong thái phải xuất trần. Nếu không phải là người có trí tuệ xuất chúng và có tâm vô chấp quyết không làm được. Đó là một Đỗ Bá Thăng trong thơ của Tô Đông Pha:

Dục thức đương niên Đỗ Bá Thăng, Phiêu nhiên vân thủy nhất cô tăng.

欲 識 當 年 杜 伯 升 , 飄 然 雲 水 一 孤 僧 。

Đỗ Bá Thăng là bạn Tô Đông Pha, người Thành Đô, đậu tiến sĩ, nhưng ý chí xuất trần, nên không muốn làm quan, mà xuất gia lấy pháp danhPháp Thông, qua lại ở miền Ngô Trung. Làm một du tăng sống đời “phiêu nhiên vân thủy”, như con nước chảy, như đám mây bay. Thân sống trong đời, nhưng tâm thuộc cõi trời phương ngoại. Đó là hình ảnh của tu sĩ độc cư “cô đơn như một con tê giác” sống hạnh xả ly trong kinh Khaggavisāṇa Sutta.

Giới tửu là điều cấm quan trọng của Phật giáo, đã có ngay từ trong tam quy ngũ giới của đệ tử tục gia, chứ chưa cần nói đến những giới cấm cao hơn. Nhưng uống rượu, giống như uống trà, cũng có nhiều cách uống. Đâu thể đem cách uống trà đá ừng ực như “ngưu ẩm” để sánh ngang với cách thưởng ngoạn trà theo phong cách trà đạo của người xưa? Đối với rượu cũng vậy. Người ta thường chia ra làm ba cách uống rượu: tục tửu, thường tửu và tiên tửu. Tục tửu là uống đến chỗ phóng đãng bừa bãi, không làm chủ được mình. Đây là cách uống của tục tử phàm phu. Thường tửu là uống cho sảng khoái, uống chỉ vì thích uống mà thôi. Đây là cách uống của hạng thường nhân. Còn tiên tửu là uống rượu như một thứ trợ hứng để nâng cao cảnh giới tinh thần mà phát huy sáng tạo.  Đối với kẻ phương ngoại thoát trần thì rượu uống hiển nhiên phải là tiên tửu. Cho nên đã thực sự là người thông tuệ, tự tại ngao du trong “cõi ngoài” như Đỗ Bá Thăng, nếu có một chút rượu để giúp tâm hồn thêm mênh mông tiêu sái thì hà cớ gì phải giới tửu? Hiền thánh như Khổng Tử mà còn không ngần ngại diện kiến người đẹp Nam Tử thì hà cớ gì kẻ tiêu dao phương ngoại phải giới tửu một cách khắt khe? Nhưng nếu những kẻ không tài hoa, nương nhờ cửa Phật chỉ vì cùng đường mạt lộ, hay vì kiếm kế mưu sinh mà cũng bắt chước thực hiện điều này thì e sẽ làm rối loạn cửa Thiền!

Trần Định Cửu 陳 定 九, khi đọc câu nói của Trương Trào, đã có lời bình rất lý thú:

Ta uống rượu không nhiều, nhưng kẻ tiêu dao thế ngoại mà không biết uống rượu thì thề không nói chuyện; khách hồng quần mà không biết cư xử dịu dàng thì cũng chẳng thích cận kề. (Ngã bất thiện ẩm, nhi phương ngoại bất ẩm tửu giả thệ bất dữ chi ngữ; hồng quần nhược bất thức thú, diệc bất lạc dữ cận. 我 不 善 飲 , 而 方 外 不 飲 酒 者 誓 不 與 之 語 ; 紅 裙 若 不 識 趣 , 亦 不 樂 與 近 。)

Đã thế phát quy y, đem thân gởi chốn Không môn thì có nghĩa là rượu thành thuốc độc. Nhưng tuy rong chơi trời phương ngoại mà không biết uống rượu há chẳng phải là mất đi một người bạn giỏi như Trần Định Cửu? Chẳng đáng tiếc lắm ru? Một cao tăng tiêu dao thế ngoại như Phật Ấn nếu không có giao tình với một kẻ tài hoa chốn quan trường như Đông Pha thì bản sự không khỏi khiếm khuyết mấy phần. Liệu người đời sau còn có nhớ đến Liễu Nguyên nếu như không có Tử Chiêm?

Hồng quần ở đây chỉ kỹ nữ thanh lâu. Kỹ nữ xinh đẹp mà lại thông thạo văn chương dù hãn hữu nhưng không phải là không có, được gặp gỡ dĩ nhiên là điều tuyệt thú. Nhưng ở chốn phong trần đó mà mong mỏi tìm được kỹ nữ xinh đẹp lại thông thạo văn chương thì điều đó e bộ quá cao, không khỏi có chỗ “bất cận nhân tình”! Đến nơi đó, hà tất phải đàm luận văn chương?

Trong lịch sử Trung Quốc, có nhiều giai đoạn kinh tế phát triển nhưng phong hóa suy đồi. Đó là những là giai đoạn mà người ta gọi là “anh hùng hạ đài nhi vô lại đương đạo. 英 雄 下 台 , 而 無 賴 當 道 。” (anh hùng xuống đài mà bọn vô lại lên ngôi.) Những kẻ bất tài, vô đức nhưng lắm tiền của, lại có quyền lực trong tay thay nhau thao túng xã hội, khiến tay danh sĩ đâm ra chán ngán thời cuộc, tìm lãng quên thế sự trong những kỹ viện, thanh lâu - nơi có những phụ nữ tài hoa nhưng do thời cuộc mà phải lưu lạc chốn phong trần. Trong số các kỹ nữ đó, có nhiều người tài mạo song toàn, ngoài nhan sắc diễm lệ, còn có thêm tài thi họa, hát xướng, đem lại những lạc thú tao nhã, từ đó đã tạo nên nhiều giai thoại để đời giữa danh sĩ và kỹ nữ. Thử hỏi chốn thanh lâu mà tìm được một Thúy Kiều, há chẳng phải là điều hạnh ngộ?

Đem kẻ tiêu dao ngoài đời tương phối với kỹ nữ thanh lâu, đúng là ý lạ, nên Chu Kỳ Cung 朱 其 恭 bỡn cợt vô cùng ý vị:

Để kẻ phương ngoại không giới tửu gặp gỡ khách hồng quần chẳng thông văn ắt có nhiều chuyện đáng xem. (Dĩ bất giới tửu chi phương ngoại, ngộ bất thông văn chi hồng quần, tất hữu khả quan. 以 不 戒 酒 之 方 外 , 遇 不 通 文 之 紅 裙 , 必 有 可 觀 。)

Câu nói của Chu Kỳ Cung khiến ta nhớ lại câu thơ tuyệt diệu của Đinh Hùng: Phù dung bên phù thế, cõi nào thực cõi tiêu tao? Hồng phấn lẫn hồng trần, đâu đã vì đâu ô trọc?

Kẻ tiêu dao phương ngoại xem cõi đời là phù thế để rong chơi làng “vô hà hữu” của Trang Châu, nhưng khói phù dung cũng đưa được tinh thần người thơ đến cõi tiêu tao. Vậy thì “cõi nào thực cõi tiêu tao?”. Kỹ nữ thanh lâu làm hoen ố cuộc đời hay chính cuộc đời làm hoen ố các kỹ nữ thanh lâu? Vậy thì ai dám khẳng định “đâu đã vì đâu ô trọc?”.

Đọc xong câu văn của Trương Trào và câu thơ của Đinh Hùng, ta không khỏi phát sinh vô vàn cảm khái. Đọc kinh Phật, nếu bớt quan tâm đến những lời chú giải hàn lâm, mà tập lắng nghe những câu kinh qua hơi thở bình thường của đời sống, đôi khi ta có cơ duyên phát hiện ra những điều vi diệu. Cho nên thử tưởng tượng nếu như những khách hồng quần tài hoa đang lăn lóc phong trần trong thiên hạ cùng nâng một ly rượu để mời tất cả những kẻ đang tiêu daophiêu nhiên vân thủy” ở cõi trời phương ngoại thì đùng một cái, phải chăng ta như nghe ra câu “bất cấu, bất tịnh” của Bát-nhã Tâm kinh?

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Bảy 2016(Xem: 5411)
28 Tháng Năm 2016(Xem: 5665)
Tôi nhớ rất rõ năm 1973, kỳ thi tuyển vào trung học (lớp Sáu) được tổ chức rất nghiêm ngặt. Cảnh sát gác vòng trong vòng ngoài. Phụ huynh các thí sinh thì nôn nóng, hồi hộp tụ tập rất đông bên ngoài cổng trường. Nội dung thi bao gồm 8 môn học, coi như học môn nào thi đủ môn ấy, hình như chỉ miễn môn thủ công hay nhạc, thể dục,...Nếu thi trượt, thí sinh sẽ phải ghi danh học các trường tư thục tư nhân hoặc của các tổ chức tôn giáo như trường Bồ Đề( Phật giáo), Thiên Hựu( Công giáo), v.v...
11 Tháng Năm 2016(Xem: 6205)
Trên bầu trời âm nhạc Việt Nam, Trịnh Công Sơn đã, đang và chắc chắn sẽ là một ngôi sao sáng mãi. Những bài hát bất tử về “quê hương, tình yêu và thân phận” của “người hát rong qua nhiều thế hệ” này vẫn mãi là nguồn cảm hứng bất tận cho những tâm hồn yêu thích chiều sâu triết lý nhân sinh, muốn tìm được ý nghĩa và mục đích sống đích thực.
05 Tháng Năm 2016(Xem: 5611)
Tôi sinh ra ở xã Đông Hòa, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Tôi lớn lên ở đó và đến 13 tuổi mới chuyển về Hà Nội sống và học tập. Vậy mà tôi vẫn đau đáu hướng về quê tôi. Cả xã Đông Hòa của chúng tôi chỉ có 1 ngôi chùa nhưng do một ông thầy cúng phụ trách. 2 xã trên là Đông Thọ và Đông Dương cũng có 2 ngôi chùa nhưng lại vẫn không có nhà sư. Vậy nên, hồi nhỏ, tôi có được thực sự đến chùa bao giờ đâu.
29 Tháng Tư 2016(Xem: 5684)
Đây là một bài viết ngắn, tóm tắt quan điểm và nhận định của riêng tôi về những vấn đề thường thấy đem ra thảo luận trên các diễn đàn Phật giáo. Viết ra để chia sẻ và cũng là một dịp tốt để cô đọng lại những gì mình đã tìm tòi, suy tư, trải nghiệm trong thời gian qua. Hoàn toàn không có ý chê bai, phê bình người khác, mà cũng không có ý bênh vực, biện minh cho con đường của mình.
29 Tháng Tư 2016(Xem: 5337)
Tuấn vẫn thích chủ đề này; đầu óc rối bù, càng đọc tụng, càng mờ mịt. Từ ngày vô tình tìm thấy cuốn sách "bước đầu học Phật" trên ngăn kệ sách trong tiệm bán sách cũ, như vớ được của quý, ngấu nghiến đọc.
29 Tháng Tư 2016(Xem: 5715)
“Tay thầy trong tay con” là cuốn sách tôi nghiền ngẫm cả tuần nay. Đọc và nghĩ. Đọc và ngẫm. Ngẫm về mình, về Thầy, về cuộc đời, về sự vi diệu của Phật Pháp. Tôi như bừng tỉnh. Tôi như đổi đời. Xung quanh tôi bao người đang thay dổi mỗi ngày.
29 Tháng Tư 2016(Xem: 6054)
Trong kinh Lăng Nghiêm, ở chương Đại Thế Chí Niệm Phật, ta được học rằng trong khi mẹ nhớ con và đi tìm con, nếu con cũng nhớ mẹ và đi tìm mẹ thì thế nào mẹ và con cũng tìm được nhau và hai mẹ con sẽ không bao giờ xa nhau. Điều này cũng đúng với liên hệ thầy và đệ tử: nếu thầy có chủ tâm đi tìm đệ tử trong khi đệ tử cũng có chủ tâm đi tìm thầy thì chắc chắn là thầy và đệ tử sẽ gặp nhau. Thầy tìm được con thì thầy nắm tay con để đi trên con đường thực tập, con trở thành thầy và thầy có trong con. Và như thế trong tay con đã có tay thầy.
28 Tháng Tư 2016(Xem: 4990)
Ngày 23 và 24 tháng 4 năm 2016, tại Thiền viện Quảng Đức - 294 Công Lý, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh đã có buổi tập huấn lần thứ 2 của Ban Thông Tin Truyền Thông Phật giáo, do HT. Thích Gia Quang, Trưởng Ban TTTT tổ chức.