Nguồn Gốc Đại Tạng Kinh

06 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 17166)

ĐẠI TẠNG KINH NHẬP MÔN
Giới Thiệu 139 Kinh Điển Phật Giáo

Hán dịch: Thích Ấn Hải, Thích Nguyện Quỷnh
Việt dịch: Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt Nam và Triêt Học Thế Giới xuất bản 1999


Phụ Lục: Nguồn Gốc Đại Tạng Kinh
Thành Lập Đại Tạng Kinh Ngôn của Đức Phật Thích Ca

Trong suốt thời gian 45 năm, từ lúc giác ngộ năm 35 tuổi cho tới khi nhập diệt năm 80 tuổi, Đức Phật Thích Ca đã thuyết giảng giáo lý của ngài một cách liên tục. Lời giảng của ngài được ứng dụng tùy theo khả năng lănh hội và hoàn cảnh của người nghe, giống như phương thuốc được ứng dụng thích hợp với nhu cầu của bệnh nhân. Kết quả là những kinh điển ghi chép lại ngôn giáo của ngài đã đạt tới số lượng rất lớn.

Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển. Họ đã bàn luận suốt mấy tháng để bảo đảm không có những sai lầm khi nhớ lại những lời giảng mà các vị thánh tăng đã được nghe từ Đức Phật. Kết quả của công việc đó là toàn bộ giáo lý được chính thức kết tập, làm căn bản cho những kinh điển được viết ra sau này.

1/ Thành Lập Tam Tạng và Sự Phân Rẽ Giáo Đoàn Phật Giáo

Lúc đầu, kinh điển Phật giáo gồm hai bộ chính là “kinh” (sutra) và “luật” (vinaya): “Kinh” ghi lại giáo lý của Đức Phật, “Luật” là những giới luật mà Đức Phật đã chế định cho hàng tăng nhân tu hành tại các tự viện. Về sau này có thêm những lời chú giải về kinh và luật đó, và được gọi chung là “luận” (abhidharma), kết quả là có ba bộ sách gồm kinh, luật, và luận, tức là “Tam Tạng” (Tripitaka). Dần dần xuất hiện những dị biệt trong những lời giải thích về giáo lý của Đức Phật và giới luật của tự viện; và, điều đó gây ra sự phân rẽ trong cộng đồng Phật giáo, đưa tới sự phân chia thành hai bộ phái chính yếu đó là Thượng Tọa Bộ (Therevada) có tinh thần bảo thủ và Đại Chúng Bộ (mahasamghika) có tinh thần cấp tiến. Mỗi bộ phái có một bộ kinh điển riêng, được coi là chính thức bao gồm những quan điểm của mỗi phái.

2/ Kinh Điển Pa-Li Ngữ

Về sau, đạo Phật của phái Thượng Tọa Bộ bảo thủ được truyền bá sang Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan và những xứ khác trong vùng Đông Nam Á. Bộ kinh này được gọi là “Pa-li Văn Đại Tạng Kinh” (vì viết bằng tiếng Pa-li) gồm ba phần kinh, luật và luận. Tạng kinh tiếng Pa-li này đã được các học giả Tây phương chú ý tới, khi họ bắt đầu nghiên cứu về Phật giáo, và đã có nhiều sách bình luận và sách dịch kinh điển Phật giáo sang Anh ngữ đã được xuất bản ở Anh Quốc. Bản dịch Đại Tạng Pa-li sang Nhật ngữ, nhan đề là “Nam Truyền Đại Tạng Kinh” (Nanden-daizokyo) đã dùng bản Anh dịch này để tham khảo và đã được xuất bản ở đầu Thời Đại Chiêu Ḥa, năm 1930.

3/ Kinh Điển Phật Giáo Đại Thừa

Phái Đại Chúng Bộ có tinh thần cấp tiến đã tự xưng là “Mahayana” (“Đại Thừa,” “Cỗ Xe Lớn”) và phát triển bộ giáo lý của họ. Phái này bác bỏ những hình thức Phật giáo khác và gọi phái kia là “Hinayana” (“Tiểu Thừa,” “Cỗ Xe Nhỏ”), và thật ra nó giống như một phong trào quần chúng có mục đích thu hút quảng đại quần chúng ngả theo giáo lý của họ. Trong số kinh điển của phái Đại Thừa có những kinh sách thuộc Đại Tạng Pa-li ngữ, nhưng những sách nói về chủ trương thì phản ảnh sự phát triển và hệ thống hóa những lý thuyết của các tông phái Trung Quán (Madhyamika), Duy Thức (Yogacara) và Như Lai Tạng (Tathagatagarbha). Sau này xuất hiện tông phái Mật Giáo, và dần dần Phật Giáo đã biến khỏi mảnh đất Ấn Độ.

4/ Phật Giáo Trung Hoa

Phật giáo đã du nhập vào Trung Hoa qua ngă Trung Á, và tới thế kỷ thứ nh́ sau Tây lịch kinh điển Phật giáo đã được dịch sang Hán văn. Đặc điểm của Phật giáo Trung Hoa là vai trò quan trọng của việc phiên dịch kinh sách; nhiều vị tăng sĩ nổi tiếng kiêm dịch giả, như Cưu Ma La Thập (Kumarajiva), Chân Đế (Paramartha), Bất Không (Amoghavajra), Huyền Trang, v.v..., đã xuất hiện. VÌ quư ngài tinh thông tất cả ba ngành kinh, luật và luận của Đại Tạng Kinh nên được tôn xưng là “Tam Tạng Pháp Sư.”

Việc phiên dịch cần phải qua sự lý giải, cho nên, trong bản Hán dịch có những phần dẫn giải mà người ta không thấy trong Phật giáo Ấn Độ. Trong Đại Tạng Kinh bằng Hán văn, có những trường hợp có vài bản dịch của các dịch giả khác nhau, và ngày càng có nhiều tác phẩm viết bằng Hán văn. Để tránh trùng nhau, các triều đình Trung Hoa đã vài lần ban sắc lệnh biên soạn Đại Tạng Kinh. Vào những thời kỳ sơ khai, kinh điển được sao chép bằng tay, nhưng tới thời nhà Tống thì được in bằng cách khắc chữ vào gỗ.

5/ Phật Giáo Nhật Bổn

Phật giáo được truyền vào Nhật Bổn qua ngă Trung Hoa và Cao Ly, do đó việc nghiên cứu những kinh điển chính gốc chỉ bắt đầu từ Thời Đại Minh Trị. Trước thời kỳ này, người Nhật đã dùng kinh điển Hán dịch làm cơ sở, điều đó khiến cho Phật giáo Nhật Bổn có những khác biệt đáng kể đối với Phật giáo Ấn Độ. Họ chủ yếu dùng Đại Tạng Kinh nhập cảng từ Trung Hoa, nhưng tới đầu Thời Đại Giang Hộ (Edo) có một tăng sĩ tên là Thiết Nhãn (Tetsugen) đã dùng những bản Hán dịch làm hướng dẫn để xuất bản Đại Tạng Kinh bằng Nhật văn theo lối chữ “Huỳnh Bá” (Obaku).

Kể từ Thời Đại Minh Trị, Nhật Bổn chịu nhiều ảnh hưởng của các học giả Tây phương, đồng thời họ cũng gia công nghiên cứu những kinh điển chính gốc. Những kinh sách nguyên bản bằng tiếng Pa-li văn và Phạn văn đã được dịch sang Nhật văn và phổ biến trong quảng đại quần chúng, và người Nhật đã dịch Đại Tạng Kinh Pa-li văn (Nam Truyền Đại Tạng Kinh) như đã nói ở phần trên. Trong thời gian gần đây người Nhật cũng chú ý nhiều tới Phật giáo Tây Tạng.

Phật giáo Tây Tạng – được truyền vào từ Ấn Độ ở thế kỷ thứ 7 – có màu sắc Mật Tông rất sâu đậm, và có khi được gọi là Lạt-Ma giáo. Một số lớn kinh điển Phật giáo Ấn Độ đã được dịch sang tiếng Tây Tạng, về sau trở thành “Đại Tạng Kinh Tạng Văn.” Cho tới nay người ta chưa tìm thấy ở Ấn Độ một bộ kinh điển Phật giáo nào đã được hệ thống hóa, cho nên Đại Tạng Kinh Tạng Văn – được dịch một cách trung thực từ bản gốc – là nguồn tư liệu rất quan trọng. Từ Thời Đại Minh Trị, thậm chí một số học giả Phật tử Nhật Bổn, như Hà Khẩu Huệ Hải (Kawaguchi Ekai), đã đến tận Tây Tạng để tầm cầu những kinh điển chính gốc.

6/ Xuất Bản Đại Tạng Kinh Hán Dịch

Do ảnh hưởng những cuộc nghiên cứu kinh điển gốc, vài ấn bản mới của Đại Tạng Kinh Hán dịch đã được xuất bản ở Nhật Bổn vào cuối thế kỷ 19 và những năm đầu thế kỷ 20. Sau đó tới việc xuất bản “Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh” (Taisho shinshu daizokyo) vào thời kỳ từ năm 1924 tới năm 1934. Đây là tạng kinh được tham khảo và so sánh kỹ lưỡng với tạng kinh Cao Ly và những kinh sách xuất bản trước đó, để mong đạt tới một tạng kinh chính xác và đáng tin cậy nhất. Chính tạng kinh này ngày nay được Phật giáo thế giới sử dụng nhiều nhất.

7/ Dịch Đại Tạng Kinh Sang Anh Ngữ

Dùng Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh nói trên làm bản gốc, nay Hiệp Hội Truyền Đạo Phật Giáo quyết định dịch Đại Tạng Kinh Hán Văn sang Anh văn. Việc lý giải là phần không thể thiếu của công trình dịch thuật, và việc thực hiện một bản dịch hết sức trung thực với nguyên bản là công việc có nhiều khó khăn. Nhưng bổn phận của Phật tử là cần phải cung cấp cho mọi người khắp nơi trên thế giới những kinh sách Phật giáo dễ đọc. Trong dự án hiện thời, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh những phán đoán do ảnh hưởng giáo phái và những thiên kiến khác, và, chúng tôi vững tin rằng bản dịch sang Anh văn, mà ngày nay vẫn còn nhiều phần chưa được khai phá, với mục ̣đích hoằng dương Phật pháp khắp thế giới, là một công trình lớn lao và đầy ý nghĩa.

Ước nguyện của chúng tôi là tiếp tục những nổ lực của mình để cống hiến cho thế nhân một bản Đại Tạng Kinh Phật Giáo – từng có một lịch sử dài như đã nói sơ lược trên đây – ở hình thức dễ hiểu.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Sáu 202310:51(Xem: 2242)
Phật pháp tại thế gian thời kỳ mạt pháp xuất hiện nhiều dị giáo làm cho hành giả sơ tâm tu tập dễ vướng các chướng do không biện được chánh, tà. Bởi thiếu phân định nên dễ đi vào con đường thành kiến sai lầm khiến một đời nỗ lực tu tập nhưng cứ mãi lẫn quẩn trong vòng luân chuyển của khổ đau, sanh tử. Với xuất phát điểm nơi tâm hướng đến con đường giải thoát, hành giả tu tập cần nương nhờ vào đoàn thể Tăng già - là những người thừa tự pháp của Phật, chọn đúng đường hướng hầu mong thoát khỏi cái khổ trần thế, thoát khỏi sự thiêu đốt của nhà lửa đang bốc cháy hừng hực nơi Ta Bà uế trược.
12 Tháng Sáu 202316:26(Xem: 1922)
Đức Phật đã từng dạy, trong mỗi chúng sanh đều có Phật tính và đều là những vị lai Phật. Hy vọng rằng mùa Phật đản về cũng là lúc chúng ta trở về với Phật tính, lắng nghe Pháp âm trong chính mình, để mỗi thời khắc đều là Phật thị hiện và, mỗi tấc đất trong cõi Ta Bà này đều là y báo trang nghiêm của chư Phật Thế Tôn. Có như vậy chúng ta mới thật sự đón mừng một mùa Phật Đản với tất cả tâm thành và ý nghĩa.
13 Tháng Ba 202315:04(Xem: 2080)
Đạo Phật chủ trương lấy con người làm trung tâm điểm để cải hóa và xây dựng xã hội. Con người tốt, xã hội tốt và ngược lại. Giáo dục con người để trở thành một tài bảo của thế giới nhân loại là bước căn bản và hết sức quan yếu mà Phật giáo gọi là Nhân Thừa trong Ngũ Thừa giáo. Con người là tài nguyên lớn vô giá như Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhân thị tối thắng - Con người là trên hết”; ... Truyền thống giáo dục của Phật giáo là truyền thống giáo dục toàn diện. Đức Phật được tôn xưng như là một nhà giáo dục vĩ đại và thánh thiện, là bậc đạo sư tiêu biểu, mẫu mực (bậc Điều Ngự, đấng phước trí vẹn toàn), đức Phật chủ trương giáo dục con người giải thoát mọi kiến thủ đ
27 Tháng Chín 202222:32(Xem: 82927)
Lúc đầu, kinh điển Phật giáo gồm hai bộ chính là “kinh” (sutra) và “luật” (vinaya): “Kinh” ghi lại giáo lý của Đức Phật, “Luật” là những giới luật mà Đức Phật đã chế định cho hàng tăng nhân tu hành tại các tự viện. Về sau này có thêm những lời chú giải về kinh và luật đó, và được gọi chung là “luận” (abhidharma), kết quả là có ba bộ sách gồm kinh, luật, và luận, tức là “Tam Tạng” (Tripitaka). Dần dần xuất hiện những dị biệt trong những lời giải thích về giáo lý của Đức Phật và giới luật của tự viện; và, điều đó gây ra sự phân rẽ trong cộng đồng Phật giáo, đưa tới sự phân chia thành hai bộ phái chính yếu đó là Thượng Tọa Bộ (Therevada) có tinh thần bảo thủ và Đại Chúng Bộ (mahasamghika) có tinh thần cấp tiến. Mỗi bộ phái có một bộ kinh điển riêng, được coi là chính thức bao gồm những quan điểm của mỗi phái.
22 Tháng Chín 202215:38(Xem: 2824)
thiền Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất để chấm dứt hoàn toàn khổ đau. Pháp môn này giúp hành giả có thể khiến tâm an trú trong chánh niệm, tỉnh giác, xả ly tham ái, đạt tâm vô ngã, không thủ chấp, giải thoát toàn bộ lậu hoặc có đầy đủ từ bi và trí tuệ và, từ bi và trí tuệ chính là động lực khiến hành giả đồng cảm với những nỗi khổ của tha nhân. Trên căn bản của đại bi tâm hành giả sẽ không ngừng vận dụng mọi thiện phương tiện để cứu độ chúng sinh giải thoát vòng luân hối sanh tử. Do đó, hãy tinh tấn thực hành thiền Tứ Niệm Xứ để giải thoát khổ đau cho mình và muôn loài...
21 Tháng Chín 202200:00(Xem: 32397)
Tinh yếu của đạo lý Tánh Không của Bồ Tát Long Thọ xưa nay vốn là thểtài sâu rộng mà biết bao luận sư, giảng sư, học giả, trí thức đã dày côngnghiên cứu và lưu bố. Nhưng, không phải vì thế mà không còn gì để truy tầmhay ham học. Ngược laị, càng có nhiều người diễn giải càng có thêm nhiềuchiếu kiến mới lạ rất giá trị để suy nghiệm. Nay Thượng Tọa Thích Viên Lý, một tác giả và dịch giả của hàng chục pho sách rất giá trị, phát tâm dịch sang tiếng Việt để giúp cho người học Phật, nhất là những ai quan tâm đến giáo nghĩa Không Tánh của Bồ Tát Long Thọ. Mặc dù, đây là một tác phẩm chứa đầy những phương pháp lý luận tinh vi, những thuật ngữ triết luận lý học, và Tánh Không học chuyên biệt, dịch giả bằng phong cách đặc dị và bút pháp trong sáng đã giúp cho người đọc cảm thấy nhẹ nhàng và dễ nắm bắt hơn.
15 Tháng Chín 202221:02(Xem: 1842)
Thiền Trong Nghệ Thuật Bắn Cung là tác phẩm mà Eugen Herrigel đã trình bày một cách tinh yếu nghệ thuật bắn cung ở Nhật và qua đó để lộ sắc diện và phong thái ưu việt của thiền đối với các môn nghệ thuật nói riêng và đối với nghệ thuật sống cho con người nói chung. Tác phẩm này nay được Thượng Tọa Thích Viên Lý dịch sang tiếng Việt với lời văn trong sáng, từ ngữ chuẩn xác đã chuyển hiện được tất cả tinh hoa của nguyên tác sang dic̣h bản. Thượng Tọa Thích Viên Lý là một nhà lãnh đạo trẻ của Phật giáo Việt Nam, một nhà văn hóa đã đóng góp xứng đáng cho gia tài văn hóa dân tộc và Phật giáo qua nhiều công trình sáng tác và dịch thuật giá trị. Chính bối cảnh này làm tăng thêm phẩm chất quý giá của bản dịch Việt văn.
15 Tháng Chín 202201:20(Xem: 3549)
Bản dịch của Thượng Tọa Thích Viên Lý được xuất hiện đúng lúc; trong những hoàn cảnh khó khăn nhất và thường xuyên bận rộn suốt ngày đêm qua bao nhiêu công việc Phật sự phức tạp nan giải, thế mà Thượng Tọa Thích Viên Lý cũng đã nỗ lực thể hiện đức Tinh Tấn Ba La Mật hy hữu và đã dịch trọn vẹn một tác phẩm có tiếng là khó hiểu nhất trong những tác phẩm khó hiểu nhất của nhân loại. Không phải chỉ giỏi chữ Hán là có thể dịch nổi Trung Luận của Long Thọ, cũng không phải chỉ giỏi Phật học là dịch được Trung Luận. Biết bao nhiêu vị học giả uyên bác về Hán học và Phật học phải đành cảm thấy bất lực khi muốn dịch Trung Luận ra chữ Việt. Thế mà Thượng Tọa Thích Viên Lý đã làm được điều ít ai làm được; bản dịch của Thượng Tọa chẳng những là bản dịch
14 Tháng Sáu 202210:27(Xem: 5154)
Nhằm góp phần vào việc hoằng dương chánh pháp trong thời đại mới, thời đại mà hầu như tất cả mọi việc làm và ý nghĩ đều hướng đến thực dụng. Để giúp cho mọi người dễ dàng tiếp xúc với kho tàng giáo lý của Đức Phật, giúp cho mọi người dễ dàng hơn trong việc nghiên cứu tìm hiểu lời Phật dạy trên cơ sở chánh tín.
01 Tháng Sáu 202222:56(Xem: 6093)
Lịch sử Phật Giáo là một dòng chảy xuyên suốt mà mối liên hệ gắn bó của nó không chỉ là những thời khắc ngắn ngủi nhưng lại là một nối kết mật thiết được khởi đi từ nhiều kiếp quá khứ.