Tòng Lâm Tông Tượng

16 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 14224)


THẦY LÀ NGỌN HẢI ĐĂNG

Thích Thông Huệ
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006

blank
Đời Thầy tỏa sáng giới đức

TÒNG LÂM TÔNG TƯỢNG

 (Tưởng niệm nhân ngày Tiểu Tường
 cố HT Luật sư thượng Đỗng hạ Minh)



I- NHỮNG NGÀY THƠ ẤU.

Năm Đinh Mão (1927), nơi một làng quê nghèo của huyện An Nhơn tỉnh Bình Định, có một cậu bé ra đời.

Cha mẹ đặt tên là Đỗ Châu Lân, nhưng ở nhà thường gọi là Cu Quất. Cậu là người con thứ tư trong gia đình có năm người con (hai trai ba gái), cũng được xem là con trai út. Nhà nghèo, cha mất sớm, mẹ chú phải tảo tần nuôi mấy chị em. Cậu bé thông minh lại hiếu học, nên người mẹ dù vất vả cũng cho con cắp sách đến trường. Không phụ lòng thân mẫu, cậu đỗ bằng Yếu lược năm mới 11 tuổi. Đây là sự kiện trọng đại, không chỉ đối với gia đình mà còn với cả làng xã thời ấy.

Truyền thống nhiều đời tin sâu Tam Bảo, trong dòng họ có nhiều vị xuất gia, nên từ nhỏ cậu thường được theo mẹ đến chùa tụng kinh lạy Phật. Cậu đặc biệt kính trọng Hòa thượng (HT) Trí Thắng, người chú đã được phong chức Tăng Cang, đang tu tại chùa Khánh Vân - Bình Định, do Đại sư Chơn Quang trụ trì.

Năm cậu 12 tuổi, anh Bốn của cậu (nay là HT Thích Đỗng Quán) xuất gia tại chùa Khánh Vân. Chủng tử Phật pháp sâu dày, cậu bé Quất từ lâu đã muốn vào ở chùa, thấy thân quen từ lọ tương đến cái chuông cái mõ. Bây giờ người anh thương yêu của cậu đã làm tiểu điệu, cậu càng mong được đi tu. Nhà sinh hai trai, lẽ ra phải ít nhất một người lập gia đình để có con nối dõi. Bất hiếu vi hữu tam, vô hậu vi đại, trong ba tội bất hiếu, không người nối dõi tông đường là tội nặng nhất. Nhưng bà mẹ là một Phật tử thuần thành, thấy con còn bé mà đã có ý chí xuất trần, nên hoan hỉ gửi đứa con trai còn lại vào nương nhờ cửa Phật. Thế là từ tuổi 13, cậu bé Quất trở thành chú tiểu, làm quen với muối dưa, tập sống đời thiểu dục tri túc, theo HT Trí Thắng học oai nghi tế hạnh. Cuộc đời chú gắn bó với thiền môn từ đó.

Một năm sau, HT Trí Thắng về Phan Rang, trụ trì tại chùa Thiên Hưng. Chú tiểu 14 tuổi cũng quảy gói theo Thầy, sớm tối không rời, chuyên cần công phu bái sám. HT biết chú là pháp khí nên đặc biệt giáo dưỡng chú chu đáo, có phần nghiêm khắc, cốt đào luyện chú sớm nên người. Ngọc bất trác bất thành khí, viên ngọc quý phải nhờ tay người thợ tài hoa gọt dũa mới thành món trang sức hiếm có. Chú tiểu như tờ giấy trắng, được bàn tay họa sư Trí Thắng vẽ những nét đầu tiên điêu luyện, khởi đầu cho sự nghiệp vẻ vang sau nầy.

Năm 16 tuổi, chú thọ Sa-di tại Đại giới đàn Long Khánh. Một cơ duyên lạ đến với chú: Đệ tử lớn của HT Trí Thắng là thầy Huyền Tân từ Huế về trụ trì Sắc tứ Thiền Lâm tự Phan Rang. HT đưa chú Sa-di mới thọ giới đến đảnh lễ thầy Huyền Tân, xin làm đệ tử. Từ hôm ấy, chú gắn bó cùng Sư phụ Huyền Tân nơi Tổ đình Thiền Lâm, và tôn HT Trí Thắng làm Sư ông.
 
II- THỌ ĐẠI GIỚI.

Bản tính chăm chỉ cẩn thận, luôn chu toàn mọi việc được phân công, thêm cần cù chịu khó tu học, chú Sa-di trẻ được Sư phụ Huyền Tân thương mến. Mới 19 tuổi, chú được Sư phụ trình lên Hội đồng Thập sư Đại giới đàn chùa Thiên Đức, xin thêm 1 tuổi cho đủ tuổi thọ giới Cụ túc. HT Đàn đầu là Ngài Huệ Chiếu, tân Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh đầy đủ giới thể, giới tướng trang nghiêm, nhận lãnh trách nhiệm tác Như-Lai sứ hành Như-Lai sự. Thầy chính thức nối dòng Lâm-Tế Chúc-Thánh, đời thứ 42, một dòng Thiền do Thiền sư Minh Hải khai sáng, nối tiếp truyền thừa đã 400 năm với sự nghiệp rạng rỡ, trong đó viên ngọc sáng nhất là HT Thích Quảng Đức cùng trái tim bất diệt.

Từ đó, thầy Đỗng là cánh tay đắc lực của Sư phụ Huyền Tân, lần lượt được Sư phụ giao nhiệm vụ Thị giả rồi Thủ khố, Thủ tọa. Trong thôn Đắc Nhơn, mọi người đều tôn xưng Thầy là “Anh Thủ”. Danh xưng nầy theo Thầy mãi về sau; khi Thầy làm Thủ chúng ở Tỉnh hội Phật giáo Phan Rang, Nha Trang và Phật học viện Trung phần, chỉ thay bằng “Thầy Thủ” hay “Ông Thủ”.

Thời gian mười năm chịu ơn giáo dưỡng của Bổn sư tại Tổ đình Thiền Lâm (1947-1957), Thầy đã trang bị đầy đủ tư lương cho bước đường hành đạo về sau, theo tinh thần “Tu Bồ-tát đạo hành Bồ-tát hạnh”. Ngoài hai thời khóa tụng và bộ kinh Tam Bảo, Thầy còn học thêm các kinh Địa Tạng, Thủy Sám, Tứ Thập Nhị Chương, Lăng Nghiêm trực chỉ… toàn bằng chữ Hán. Tùng học tại Tăng Học Đường Nam phần Trung Việt (Nha Trang) trong 4 năm, Thầy lại được Ban Giám đốc Học đường (bấy giờ là HT Trí Thắng và HT Huyền Tân) cử vào Sài Gòn học các ngành nghề: Điều dưỡng, lái xe, tốc ký, bào chế dược phẩm và chế biến hóa chất.

Một lần nữa chứng tỏ trí thông minh hơn người, Thầy tốt nghiệp cả 6 bằng với điểm số rất cao, đặc biệt đậu thủ khoa ở hai ngành dược phẩm và hóa chất. Sau đó Thầy ra Huế tham học với các Ngài Đôn Hậu, Thiện Siêu, Trí Quang để hoàn tất chương trình Đại học Phật giáo. Như thế là, mười năm miệt mài đèn sách, vừa học tập vừa tu hành, vừa nghiên tầm Phật học vừa rèn luyện nghề nghiệp thế gian, chồi non xanh mượt ngày nào đã trở thành một cây cao tươi tốt, hứa hẹn sẽ tặng cho đời những bông hoa thơm ngát và những quả chín ngọt ngào. Cây được vun trồng tưới tẩm tại Tổ đình Thiền Lâm của Tông môn, nhưng hương thơm của hoa và vị ngọt của quả xin bình đẳng dâng hiến cho bốn phương tám hướng!

Năm 1957, bằng số vốn Phật học và thế học tương đối hoàn chỉnh, Thầy trở về chùa Long Sơn - Nha Trang, bắt đầu công cuộc hành đạo dưới nhiều hình thức: Vừa là nhà kinh tế tài hoa của Phật giáo, vừa là nhà mô phạm mẫu mực của các Tăng Ni sinh, là trụ cột đắc lực của Tỉnh hội Khánh Hòa, lại là dịch giả các kinh, luật Hán tạng. Ở lĩnh vực nào, với tài trí xuất cách, với đạo hạnh tỏa sáng, với nhiệt tình và ý chí kiên định, Thầy đều là đầu tàu gương mẫu. Lúc nầy, thầy Đỗng vừa tròn 30 tuổi.
 
III- KINH TẾ TỰ TÚC.

Phật giáo phát xuất từ hiện thực sinh động của vũ trụ vạn loại, và trở lại phục vụ cho cuộc sống sinh động ấy. Bằng tinh thần nhập thế của Phật giáo Bắc truyền, tinh thần “Một ngày không làm một ngày không ăn” của Tổ sư Thiền tông Bá Trượng, việc làm kinh tế tự túc cũng được xem như một pháp môn hành trì. Mặt khác, trong công cuộc đào tạo tăng tài - từ thuở nhỏ còn là tân Tỳ kheo đến lúc trưởng thành trên đường đạo, chưa kể đến tâm sức trí lực của chư tôn đức, chỉ nói về tài lực, cũng đã là vấn đề nan giải.

Muốn thực hiện tốt công tác trọng đại nầy, không thể chỉ nhờ sự hỷ cúng của đàn-na tín thí vốn không đều đặn và kịp thời, mà cần có nguồn kinh phí tương đối dồi dào và ổn định. Nhận thức rõ điều nầy, chư vị Tôn túc trong Giáo hội đã cùng họp bàn, cân nhắc và cuối cùng mạnh dạn vạch ra một hướng đi mới: Xây dựng một mô hình kinh tế tự túc chủ động, quy mô và bền vững. Thật ra, mô hình nầy đã được thực hiện khá thành công ở Nhật Bản, Hàn Quốc vào những thập niên cuối của thế kỷ 20; nhưng trong giai đoạn giữa thế kỷ ấy tại Việt Nam, có ý tưởng táo bạo như thế, quả không phải là chuyện thường.

Năm 1957, một cơ sở sản xuất nước tương (xì-dầu) ra đời tại Nha Trang, mang tên “Hãng Vị Trai Lá Bồ Đề”. Giám đốc hãng kiêm Trưởng ban Bào chế là “Thầy Thủ” Thích Đỗng Minh. Với tài trí và nhiệt tình của tuổi trẻ, lại hết mực thanh cao, Thầy Thủ đã điều khiển guồng máy kinh tế cho Giáo hội thành công ngoài mong đợi. Chỉ trong ba năm, cơ sở đã lập thêm hai chi nhánh ở chùa Giác Sanh (Sài Gòn) và Từ Đàm (Huế). Trong thời gian này, hãng xì-dầu Con Mèo của một người Hoa cũng rất nổi tiếng.

Chủ hãng nhận ra đối thủ cạnh tranh đáng gờm của mình, đến tận nơi thương lượng cùng quý Thầy, đề nghị mua lại cơ sở với giá thật hậu hĩnh. Nhiều vị tán đồng vì thấy lợi ích trước mắt là quá lớn, chỉ riêng Thầy cùng HT Thiện Minh không chấp thuận, vì tiên đoán rằng tương lai tốt đẹp của cơ sở mình. Thời gian sau cho thấy quyết định của hai Thầy là đúng đắn.

Ngoài sản xuất nước tương, Thầy Thủ còn chỉ đạo việc chế biến xà-phòng, thuốc tẩy, làm nhang và đèn cầy. Vừa làm vừa học vừa dạy nghề cho Tăng ni sinh, nhiều lần thất bại trong thí nghiệm được xem là tiền đề cho những thành công rực rỡ về sau, từng bước Thầy đã làm cho thương hiệu “Lá Bồ Đề” có chỗ đứng vững chắc trong thị trường. Cơ sở đã ký nhiều hợp đồng với cơ quan nhà nước, cung cấp hàng vạn tấn xà-phòng, nước chấm, đậu khuôn…, sản xuất meo nấm và nấm rơm, rượu 900 dùng trong công nghiệp.

Tiếng lành đồn xa, nhiều phái đoàn đã đến tham quan hoặc tìm đối tác, trong đó có Ngài Chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Lào và phái đoàn hóa chất Hà Nội - Hải Phòng. Tiến sĩ Hoán, trưởng đoàn hóa chất, ngạc nhiên về kiến thức khoa học sâu rộng của vị tu sĩ bề ngoài có vẻ chân chất giản dị. Ông muốn thử tài Thầy nên đề nghị Thầy chế biến cát lồi tại chỗ. Không có ý khoe tài, nhưng lúc cần cũng phải cho người biết khả năng, Thầy thực hiện thao tác một cách thành thạo trước các nhà khoa học trong đoàn, và cuộc thử nghiệm được hoàn thành tốt đẹp. Tiến sĩ Hoán vô cùng kính phục, gợi ý cùng Thầy nên đưa cơ sở sản xuất lên Đại xí nghiệp, và hứa sẽ làm cố vấn khoa học cho cơ sở tương lai. Rất tiếc là nhân duyên chưa hội đủ, Tiến sĩ từ trần sau đó vài năm và hãng Vị trai cũng giải thể, sau 20 năm hoạt động (1957-1977).

Trong thời kỳ kinh tế tự túc, nhờ HT Trí Thủ và HT Thiện Hòa tin tưởng cho phép, Thầy được quyền sử dụng nguồn tài chánh để làm nhiều việc lớn cho các Phật học viện (PHV). Hoạt động kinh tế là hoạt động tích lũy để làm giàu, nhưng riêng Thầy, bằng chánh mạng, chánh nghiệp, đã tích lũy tài sản một cách lương thiện và sử dụng tài sản ấy cho tập thể Tăng già, chứ không một mảy may tơ hào cho cá nhân. Trong tay có rất nhiều của cải tự do thu xuất, thế mà trong ngần ấy năm, Thầy luôn giữ đúng phẩm chất đạo đức của một người tu chân chính. Cuộc sống của Thầy lúc nào cũng đơn giản trong phong cách, đạm bạc trong ăn uống, cần kiệm trong y phục. Đơn giản cần kiệm đến độ trong phòng riêng không có vật gì đáng giá, dùng một đôi dép trong suốt hơn 30 năm trường!

Một lần nọ, đại diện một hãng mì ăn liền của người Hoa đến liên hệ với Thầy, xin dùng nhãn hiệu “Lá Bồ Đề” và trả tiền bản quyền. Thầy đã trả lời với vị Giám đốc hãng: “Chắc ông cũng là con nhà Phật. Ông đem gieo rắc Bồ-đề là tốt rồi, vậy tôi không lấy tiền gì hết”. Thầy chấp nhận cho sử dụng bản quyền, và thương hiệu “Mì ăn liền Lá Bồ Đề” đã một thời rất nổi tiếng. Các vị làm kinh tế đều biết, một thương hiệu có uy tín được chủ nhân của nó bảo vệ như thế nào. Vậy mà, đối với người không quen biết lại khác quốc tịch, nhưng vì là Phật tử, nên Thầy sẵn sàng biếu không một nhãn hiệu đã cầu chứng, chỉ với mục đích duy nhất là để “gieo rắc Bồ-đề”!

Một vị Thượng tọa đã viết về Thầy: “Có ý tưởng thông thoáng về kinh tế tự túc trong thiền môn đã là chuyện khó, thực hiện ý tưởng ấy càng khó, và thành công trong việc thực hiện càng là việc khó muôn phần. Vậy mà Thầy đã thực hiện thành công, lại thành công rực rỡ. Một nhân tài kinh tế của Phật giáo như Thầy quả là ít có”. Nhân tài kinh tế như thế đã ít có, sử dụng tài ấy để phục vụ lợi ích chung, còn cuộc sống riêng mình thì luôn giản đơn đạm bạc, sự thanh cao trong sáng ấy chẳng phải tầm thường!
 
IV- SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO.

Theo phương châm “Tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức”, suốt đời Thầy xem việc giáo dục và đào tạo Tăng tài là bổn phận chính. Dù có lúc do hoàn cảnh, tạm thời phải bôn ba nhiều nơi học hỏi và làm các nghề thế gian, nhưng bản thân Thầy luôn là nhà giáo dục. Ngay khi nhận trách nhiệm quản lý các cơ sở sản xuất, Thầy vẫn đồng thời dạy dỗ Tăng Ni sinh; và những lợi tức trong kinh tế cũng chỉ dành trang trải phí tổn cho việc giáo dục đào tạo.

Năm 1957, Tăng học đường Nha Trang và Phật học đường Báo Quốc Huế sáp nhập thành PHV Trung Phần (còn gọi là PHV Hải Đức Nha Trang). Đại Đức 30 tuổi Thích Đỗng Minh được công cử giữ trách nhiệm Giáo thọ chính thức, bắt đầu sự nghiệp hoằng truyền chánh pháp. Một kỷ niệm trong đời dạy học, Thầy không quên và chắc nhiều người chứng kiến vẫn còn nhớ mãi: Đó là lần thuyết giảng của Thầy tại làng An Truyền huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế.

Phái đoàn được cung nghinh từ bến đò Bến Ngự bởi hàng trăm đoàn sinh Gia đình Phật tử cùng các cư sĩ quỳ mọp hai bên đường. Sự tiếp đón trang trọng nầy làm vị Giáo thọ trẻ tuổi Đỗng Minh xúc động. Tự nhiên dòng nước mắt lăn dài trên má. Thầy vội lau nhanh, nhưng nhiều Phật tử đoàn sinh đã nhìn thấy. Ngay từ buổi đầu đã có sự đồng cảm giữa Thầy và trò, nhất là sau khi Thầy lên pháp tòa sau lời giới thiệu của HT Thiện Siêu, dùng ánh mắt từ hòa nhìn khắp lượt thính chúng. Buổi giảng hôm ấy thành công không ngờ, và ghi mãi dấu ấn khó phai cho người trong cuộc.

Thật ra từ năm 18 tuổi, Thầy đã có nhiều dịp làm quen với công tác giảng dạy, vừa học tập kinh nghiệm của các vị tôn túc vừa tự mình thực hiện. Thỉnh thoảng, các Ngài Đôn Hậu, Trí Thủ từ Huế vào Phang Rang, đến Tổ đình Thiền Lâm thăm Ôn Huyền Tân. Thầy làm thị giả đứng hầu Bổn sư, nghe các Ngài giới thiệu nhau: Đây là Ngài Giảng sư, đây là Ngài Giám luật… Không hiểu sao Thầy lại thích danh xưng “Giám Luật”, như có túc duyên với Luật học từ bao đời. Từ đó, Thầy chú tâm nghiên cứu và giảng dạy về Luật học. Chủ trương dạy dỗ đồ chúng bằng khẩu giáo và cả thân giáo, Thầy rất nghiêm cẩn giữ gìn giới luật trong suốt cuộc đời.

Một điểm đặc biệt của Thầy từ lúc trẻ, là nghiêm khắc với chính mình, nhưng từ bi độ lượng với người khác. Nhiều học tăng mới tiếp xúc với Thầy lần đầu, thấy Thầy có vẻ xa cách lạnh lùng, xưng với hỗn danh “Kỷ luật sắt”. Nhưng thật ra, đàng sau vẻ lạnh lùng ấy là cả một biển tình thương mênh mông ấm áp. Nhiều Tăng Ni sinh ở PHV Hải Đức và Ni viện Diệu Quang vẫn nhớ phẩm chất sư phạm của Thầy là tinh thần khôi hài, cách triển khai bài giảng rất linh hoạt, cách sử dụng từ ngữ thật giản dị có pha chút dí dỏm, khiến những bài Luật học khô khan trở thành dễ thuộc khó quên, những giờ lên lớp bó buộc trở nên hào hứng sinh động, đầy ắp tiếng cười sảng khoái. Hình ảnh Thầy cặm cụi bao tập, viết nhãn vở cho học trò - chỉ thấy những thầy giáo làng ngày xưa đối với lớp vỡ lòng, nay gặp lại nơi một vị tôn túc - thật là hình ảnh thân thương hiếm có. Thầy san sẻ cho mọi học trò của Thầy vị ngọt của giáo pháp và tình cảm Sư-Đệ thắm thiết, mà không cần sự đền đáp của bất cứ ai.

Phật Đản năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm, ra lệnh triệt hạ cờ Phật giáo. Mùa pháp nạn bắt đầu. Đại đức Thích Đỗng Minh, với tư cách thành viên Ủy ban Bảo vệ Phật giáo tại Nha Trang, cùng Tăng Ni Phật tử tranh đấu chống chính sách kỳ thị tôn giáo và đàn áp Phật giáo đồ, theo phương châm bất bạo động. Ngọn đuốc thiêng Quảng Đức dẫn đầu ngọn lửa vị pháp thiêu thân, thắp sáng cả năm châu, đánh thức lương tri của toàn thế giới.

Một triều đại tưởng chừng hùng mạnh bền lâu, đã bị sụp đổ vì không hợp lòng dân, không thuận lý đạo. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra đời. Viện Hóa Đạo chỉ định Thầy làm Phó Trưởng miền Khuông Việt gồm các tỉnh Cao nguyên Trung phần, sau đó làm Trưởng miền, khi Thượng tọa Trưởng miền Thích Quang Phú từ chức. Một năm sau, Ngài Trí Quang đề bạt Thầy làm Vụ trưởng PHV, điều hành 22 PHV gồm 996 Tăng Ni sinh, một chức vụ quan trọng nhất trong đời tu của Thầy.

Trong thời kỳ nầy, nội bộ Phật giáo có sự phân hóa. Một số Tăng Ni sinh có tâm hướng ngoại. Riêng Thầy vẫn giữ vững hoài bão giáo dục đào tạo Tăng tài. Bài thơ Thầy đăng trên báo Hoằng pháp có tính dí dỏm nhưng lại là lời thơ kêu gọi thống thiết:

Viện quý Tú lo tu
Viện cần Tú có tu
Viện thương tu thiếu Tú
Viện ngán Tú không tu.

Chư tôn đức trong Giáo hội bấy giờ hết lòng ủng hộ chương trình chuyên khoa của PHV do Thầy khởi xướng. Ba lớp chuyên khoa đầu tiên ở Hải Đức (Nha Trang), Huệ Nghiêm (Sài Gòn) và Thập Tháp (Bình Định) ra đời. Thầy lần lượt giữ chức Giám học, Phó Viện trưởng Điều hành Viện Cao đẳng PHV Hải Đức, là một trong hai trợ lý đắc lực cho HT Giám viện Thích Trí Thủ. Dù công việc bận bịu đến mấy, Thầy không bao giờ xao lãng những giờ lên lớp, những thời công phu, những buổi quá đường.

Thói quen đúng giờ từng phút một của Thầy là một trong những đức tính mà ai cũng nể phục nhưng không phải ai cũng làm theo được. Câu nói thời danh của Thầy: “Cảnh khổ là nấc thang của bậc anh tài, là kho tàng của người hiểu biết, là hố thẳm của kẻ ươn hèn” cũng là câu châm ngôn hướng dẫn Thầy và môn đệ vượt qua mọi biến động của hoàn cảnh. Đối với các học Tăng, Thầy vừa là thầy là cha, vừa là bạn là đồng sự, luôn có mặt luôn sát cánh trước những thuận nghịch của dòng đời và đổi thay của lòng người.

Nhiều vị dù đã trưởng thành thỉnh thoảng gặp chuyện không vui, vẫn về ngồi dưới chân Thầy để được Thầy khuyên bảo sách tấn. Nhìn gương mặt tươi tắn, ánh mắt độ lượng, nụ cười vừa chúm chím vừa bí ẩn vừa đầy ý nghĩa, vị ấy thấy vơi đi bao ưu tư khúc mắc. Và khi lạy Thầy từ giã, vị ấy ra về với một sức mạnh mới, một niềm tin mới, để có thể gánh vác trọng trách tưởng chừng quá sức kham nhẫn của mình!

Sau khi các cơ sở sản xuất ngừng hoạt động (1977), Thầy có thời gian toàn tâm toàn ý cho công tác giảng dạy và dịch thuật. Các Tự viện ở Nha Trang và một số nơi ở thành phố Hồ Chí Minh như Quảng Hương Già Lam, Vạn Hạnh… thường có bóng Thầy trong lớp học. Thầy cũng được tôn cử làm Tuyên Luật sư cho các Đại giới đàn Trí Thủ, Thiện Hòa, từ đó nhiều giới tử trở thành những cây xanh lá, tương lai của Giáo hội Phật giáo Việt Nam sau nầy.

Năm Thầy 70 tuổi (1997), Giáo hội PGVN tấn phong Thầy lên Hòa Thượng và suy tôn vào Hội đồng Chứng minh Trung ương. Sau đó, Thầy lại được suy cử làm Chứng minh và Cố vấn cho Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. 

Trải qua nhiều chức danh lớn trong Đạo pháp, trở thành Bậc cao Tăng thạc đức của Giáo hội, nhưng đối với Thầy, tất cả chỉ là hoa đốm giữa hư không. Người tu chân chính không màng danh lợi, biết thân tâm cảnh là duyên hợp tạm có, không bất biến, không thường hằng. Thầy làm mọi Phật sự với tinh thần vô ngã vị tha, chỉ với mục đích duy nhất: Giác ngộ và Giải thoát khỏi ba cõi trầm luân. Bài thơ khai bút Xuân Bính Tý (1997) Thầy viết khi đến tuổi “cổ lai hy” cho thấy ý chí của Thầy:

Tuổi Đinh Mão năm nay bảy chục,
Trải thời gian gạn đục lóng trong.
Quyết tâm rửa sạch cõi lòng,
Mới mau ra khỏi cái vòng tử sinh.
 
V- SỰ NGHIỆP DỊCH THUẬT.

Cuộc đời Thầy có duyên gắn bó với Luật học từ thuở theo hầu Bổn sư. Trong công phu tu hành, trong công tác giảng dạy và trong sự nghiệp dịch thuật, Thầy đều lấy Luật làm căn bản, như từng tâm niệm: “Thề sống chết với Luật học”.

Bộ luật đầu tiên Thầy được tiếp xúc là bộ Trùng Trị của Trí Húc Đại Sư viết bằng chữ Hán, Thầy học với Ngài Đôn Hậu từ năm 1953. Sau đó, lại được nhiều lần học với Ngài Trí Thủ, nên lúc nào rỗi rảnh, Thầy lại giở ra xem. Đây là một trong những dịch phẩm Thầy tâm đắc nhất khi phiên dịch.

Năm 1972, Thầy vào chùa Già Lam chủ trì an cư cho chúng phổ thông, để HT Trí Thủ về Nha Trang phụ trách chúng chuyên khoa. Suốt ba tháng tạm trú tại phòng của HT, có máy điều hòa xua hết cái nóng bức mùa hạ, Thầy ngồi nghiên cứu tạng Luật đều đặn 12 giờ mỗi ngày. Đọc đến đâu, Thầy thông suốt đến đó, không biết mỏi mệt mà thấy thích thú vô cùng. Khi được giải nhiệm chức vụ Trưởng phòng Bào chế của các Hợp tác xã Bồ Đề tại Nha Trang, Huế, thành phố HCM (1988), Thầy có nhiều thời giờ rảnh, càng chú tâm vào việc phiên dịch.

Phương pháp làm việc của Thầy chia làm nhiều bước một cách khoa học: Trước tiên, Thầy đọc qua tác phẩm một lần để hiểu toàn bộ nội dung. Kế đến, Thầy đọc lại lần thứ hai thật kỹ, chữ nào không hiểu là Thầy tra cứu và ghi chép cẩn thận. Bước thứ ba Thầy bắt đầu dịch. Sau khi dịch xong tác phẩm, Thầy đọc lại bản dịch mà không nhìn vào nguyên tác, để sửa chữa và bổ sung về văn phạm, ngữ pháp. Tiếp theo, Thầy đối chiếu bản dịch với nguyên tác, xem trong lúc thêm bớt câu chữ, có đi lệch với nguyên văn chữ Hán không. Khi đã chép lại bản thảo sạch sẽ, Thầy lại nhờ huynh đệ dò lại từng câu, đối chiếu với bản chữ Hán để chắc chắn không có sự sai sót. Bản dịch hoàn chỉnh được đánh vi tính thành sáu bản, gửi đến sáu nơi nhờ lưu giữ. 

Khi Viện Nghiên cứu Phật học Thành phố Hồ Chí Minh thành lập, Thầy đã dịch xong 3 bộ: Bộ luật Tiểu 4 quyển (dịch thuộc lòng ra văn vần), Bộ Trùng Trị Tỳ Ni 18 quyển và Tỳ kheo Giới bổn Sớ nghĩa. Tất cả các bản dịch, Thầy dâng cúng cho Viện Nghiên cứu tùy nghi sử dụng. Năm 1991, Phân viện Nghiên cứu Hà Nội ra đời tại chùa Quán Sứ, Thầy được mời vào Ban Phiên dịch. Thầy đã tích cực làm việc, góp công lớn trong việc dịch thuật và xuất bản tập I Bộ luật Tứ phần (gồm 15 trong số 60 quyển).

Những năm cuối đời, dù cơ thể mang nhiều bệnh tật, Thầy vẫn hăng say đóng góp tài trí của mình cho Giáo hội. Ngoài trách nhiệm Trưởng ban Phiên dịch Pháp tạng PGVN, Thầy còn làm Cố vấn chỉ đạo Ban phiên dịch Đại tạng kinh và Trưởng ban Bảo trợ Phiên dịch Pháp tạng. Ở cương vị nào, Thầy cũng chu toàn hết mực. Nhờ có Thầy với kinh nghiệm phong phú, với uy tín lớn lao đối với Tăng ni Phật tử trong và ngoài nước, Ban Phiên dịch đã hoạt động hiệu quả. Cụ thể là 17 tập trong Đại chính Tân tu Đại tạng Kinh đã được dịch và chứng nghĩa, chỉ trong vòng 3 năm.

Sự nghiệp tu học và hành đạo của Thầy đồ sộ như thế, thật khó có người sánh kịp. Nhưng khi có ai ngỏ lời ca tụng, Thầy chỉ một nụ cười mỉm bảo rằng, đó chỉ là nhờ nhân duyên lớn được gần gũi học tập nhiều vị chân tu thạc đức, từ khi đồng chơn nhập đạo đến lúc trưởng thành. Thật vậy, từ năm 13 tuổi, Thầy đã vào chùa Khánh Vân của Đại sư Chơn Quang, được HT Trí Thắng và sau đó HT Huyền Tân giáo dưỡng. 19 tuổi, Thầy được Bổn sư cho thêm 1 tuổi để thọ giới Cụ túc, dưới sự chủ trì của HT Huệ Chiếu là vị Đại lão HT đạo cao đức trọng.

Khi ra Huế, Thầy lại được học với các bậc thạch trụ tòng lâm chấn hưng Phật giáo Việt Nam như các Ngài Thiện Siêu, Trí Quang, Đôn Hậu. Lúc làm việc, Thầy thân cận với HT Trí Nghiêm, Minh Châu là những vị chân tu nổi tiếng của PGVN ngày nay. Như thế, được sự thân cận, giáo dưỡng, thương yêu của trên mười bậc cao tăng thạc đức, phước báo nầy của Thầy thật rộng lớn ít ai bằng. Có lẽ nhờ noi gương các Ngài nên cuộc đời Thầy cũng tỏa sáng giới đức, để đến lượt Thầy, trở thành một cây cao bóng cả của Giáo hội PGVN.


VI- BỆNH TẬT VÀ VIÊN TỊCH.

Năm 61 tuổi, Thầy tình cờ phát hiện mình bị cao huyết áp và đục thủy tinh thể (cườm mắt). Năm năm sau, Thầy mắc thêm bệnh Tiểu đường. Theo lời khuyên của bác sĩ điều trị, Thầy kiên trì dùng thuốc hàng ngày, cử kiên đúng cách. Thời gian làm việc giảm bớt, từ 8 giờ còn 4 giờ mỗi ngày.

Khi Thầy dịch vừa xong bộ Ngũ phần luật thì bệnh Tiểu đường tạm ổn. Lượng đường huyết còn cao nhưng không ở mức độ nguy hiểm, thần sắc vẫn tươi nhuận. Thường ngày, ngoài giờ làm việc, Thầy thích ngồi trên xích đu, một tay cầm quạt phe phẩy, tay kia luôn có chuỗi hạt đen tuyền.

Ngày 9/4/2005, sau khi vào Thành phố Hồ Chí Minh dự lễ húy kỵ Ôn Già-Lam, Thầy tự nhiên thấy trong người khó chịu, ăn uống kém hẳn. Bệnh viện tỉnh Khánh Hòa khám và chẩn đoán “nghi K gan đa ổ/ Tiểu đường type 2 + Cao huyết áp” và chuyển Bệnh viện Chợ Rẫy. Tại đây sau khi xét nghiệm cần thiết, chẩn đoán K gan được xác định. Thầy biết được, điềm nhiên bảo rằng: “Mười lăm năm tôi bị bệnh Tiểu đường, chữa trị chừng ấy là vừa, mọi việc không cần thiết nữa”. Ý Thầy muốn nói, với Thầy thì 79 tuổi là đủ, không nên sống đến 80, tuổi ngang bằng Đức Phật.

“Ung thư gan”, câu phán quyết của Bác sĩ như một lệnh tử hình! Cái chết được báo trước, không phải tính bằng năm mà bằng ngày bằng tháng. Sức khỏe Thầy suy sụp nhanh chóng, chỉ mới chín ngày nằm viện mà da đã vàng đậm, không tự đi được phải có người dìu. Mọi người đều bàng hoàng lo lắng, chỉ có Thầy vẫn bình tĩnh lạc quan. Nụ cười mỉm đặc biệt vẫn thoáng hiện khi có người đến thăm kể chuyện vui. Khi hơi khỏe lên chút ít, Thầy vẫn có những câu khuyên bảo khi nghe trò tâm sự. Trước khi về lại Nha Trang, Thầy còn đến Già-Lam xin gặp Ôn Trí Quang lần cuối. Hai vị tôn túc nói chuyện với nhau rất lâu. Đại sư biết rằng, lần chia tay này là vĩnh viễn!

Trở về chùa Tỉnh hội Long Sơn (Nha Trang), nơi gắn bó cùng Tăng chúng trên 50 năm, Thầy được quý thầy và các Y Bác sĩ tận tình thuốc thang chăm sóc. Thầy biết bệnh tình không qua khỏi, nên sắp đặt mọi việc chu đáo, dặn dò nhắc nhở không sót môt ai, kể cả những đệ tử từ lâu ở xa không gặp. Về hậu sự, Thầy nhờ HT Thích Chí Tín, trụ trì chùa Long Sơn, viết theo lời ủy thác của Thầy: “Lễ tang đơn giản, thời gian trong vòng 36 tiếng đồng hồ. Không xây tháp, dùng tịnh tài này để ấn tống kinh sách”. Chữ ký của Thầy bên trái tờ di chúc, lập ngày 17/6/2005, ngoằn ngoèo run rẩy nhưng vẫn toát lên sự rắn rỏi của một ý chí vững vàng trước ngọn cuồng phong bên lề cửa tử. Đến phút cuối, Thầy vẫn chỉ một lòng nghĩ đến việc chung, mà không hề muốn thọ nhận điều gì cho riêng mình!

10 giờ sáng ngày hôm ấy, Thầy tiếp thầy Thích Nguyên Giác, trụ trì Quảng Hương - Già Lam. Nằm trên chiếc võng quen thuộc, Thầy dặn dò nhiều điều và nhận tịnh tài cúng dường. Sau đó, Thầy nằm yên, chánh niệm tỉnh giác trong tiếng niệm hồng danh Đức Phật của Tăng Ni Phật tử.

14 giờ 30, Thầy bảo đưa từ võng lên giường, nghiêng về bên phải theo tư thế kiết tường, tư thế nằm thường ngày của Thầy khi ngủ. Sau câu nói khẽ với thị giả: “Tôi không uống nước và uống thuốc nữa”, Thầy im lặng, không cử động, hơi thở đều đặn nhẹ nhàng nhập Kiết tường tam muội!

Có thể nói, giờ phút xả báo thân là giờ phút được tôn vinh của một Bậc xuất trần Thượng sĩ. Giữ nguyên tư thế kiết tường, Thầy làm chủ thân tâm, tự tại trước bờ sinh tử. Cái đau thể xác do bệnh tật nghiệt ngã không làm ảnh hưởng định lực, Thầy nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng, thể nhập Pháp thân thường trụ. Bấy giờ là 18 giờ 45 phút, ngày 17/6/2005 (11/5 Ất Dậu), trụ thế 79 năm, 60 hạ lạp.

Sự ra đi của Thầy là một sự mất mát không gì bù đắp nổi. Đất nước mất đi một nhân tài, dân tộc Việt Nam mất đi một người con ưu tú. Phật giáo Việt Nam mất đi một thạch trụ vững chắc, Giáo hội mất đi một cánh tay đắc lực. Tăng Ni Phật tử mất một người Thầy - người Cha - người Anh hết lòng vì đàn hậu lai. Ban Phiên dịch Pháp tạng mất đầu tàu gương mẫu trong công tác dịch thuật đầy khó khăn trở ngại. Tông môn không còn nữa cội tùng già từ bao lâu tỏa mát nơi Tổ đình Thiền Lâm Tự.

Tuy vậy, tấm gương công phu đạo hạnh của Thầy vẫn mãi chói sáng cho muôn đời sau noi theo. Thầy sinh ra từ vùng địa linh nhân kiệt, nơi vua Quang Trung dấy nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, viết nên trang sử vẻ vang hào hùng của đất nước. Thầy được giáo dưỡng tại Tổ đình Sắc tứ Thiền Lâm Tự Phan Rang, nơi nắng gió khô hanh, nơi ngọn lửa nóng bức, biến vàng trong quặng thành khối vàng ròng tinh khôi quý giá.

Thắp sáng ngọn đuốc Thiền Lâm-Tế, Thầy về nhập chúng Long Sơn Nha Trang, nơi hội tụ nhiều bậc cao tăng thạc đức. Mối đạo tình keo sơn Trí Nghiêm - Chí Tín - Đỗng Minh - Thiện Bình trên đồi Trại Thủy kết dệt từ bao đời kiếp, chung vai chung sức trong sự nghiệp hoằng hóa lợi sanh, mãi mãi là một bản đạo ca làm rung động lòng người! Suốt cuộc đời, Thầy không mong cầu điều gì cho bản thân, mà chỉ lấy trọng trách đào tạo Tăng tài làm sự nghiệp lợi tha, lấy việc nghiêm trì giới luật làm công phu tự lợi. Không quản thành bại, không ngại khen chê, phấn đấu không mệt mỏi vượt qua mọi khó khăn bên ngoài và mọi trở ngại bên trong thân tâm, để đến lúc cuối, Thầy thanh thản ra đi trong tư thế kiết tường!

Suốt 79 năm trên sân khấu cuộc đời, tuy Thầy đóng khá nhiều vai diễn, nhưng lúc nào cũng sáng ngời một hình ảnh của bậc chân tu. Theo đạo đức Khổng Mạnh, mẫu người quân tử là “Phú quý bất năng dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ bất năng khuất”. Những đức tính ấy, nơi Thầy có đủ: Đối với tiền tài danh lợi, Thầy không ham muốn dù tự tay làm ra thật nhiều của cải; cả đời sống thiểu dục tri túc, thậm chí trước khi nhắm mắt còn dặn dò làm lễ tang đơn giản để dành tiền in kinh sách.

Đối với nghèo hèn hoặc trước hoàn cảnh khó khăn, Thầy không động tâm, chỉ một đức hy sinh kham nhẫn. Đối với uy vũ, chỉ một nụ cười mỉm cũng đủ hóa giải mọi điều. Nhưng hơn thế nữa, là một người tu Phật thực hành công hạnh Sa-môn, Thầy luôn tinh tấn trong công phu, nhiệt tình trong các Phật sự và dốc hết sức mình trong công cuộc đào tạo đội ngũ kế thừa. Bàn thờ của Thầy chỉ đặt một chữ XẢ, như nhắc nhở Thầy buông xả mọi phân biệt chấp trước, buông xả mọi ham muốn trần gian và cuối cùng, buông xả báo thân một cách an nhiên tự tại. Cuộc đời Thầy thật vô cùng trong sáng đẹp đẽ như viên ngọc quý không tỳ vết; bản thân viên ngọc dù trải qua bao lần bị dũa mài đau đớn, vẫn hoan hỉ vì đã góp phần làm đẹp cho đời!

Trong buổi lễ phúng điếu, nhiều người xúc động khi nghe bài điếu văn của Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa:

… Không thần thông phép lạ
Chẳng mật ngữ linh phù
Chỉ nhất tâm khổ hạnh công phu
Bốn chúng thảy trang nghiêm khể thủ.
Thân tứ đại ba y là đủ
Ngày hai thời tịnh chỉ công phu.
Tiền rừng bạc biển cho dù,
Trên tay Thầy một chuỗi xâu Bồ-đề!

Đại sư Trí Quang thường rất ít khen ai, cũng ít khi viết kệ phúng điếu, nhưng Ngài đã phá lệ tặng Thầy những lời trân trọng: 

Phụng cúng chúng trung tôn
Thiện thuận giải thoát giới
Bệnh tử bất khổ thân
Thị thắng dị thục tướng.

Khen cho vị Tăng khéo thuận giới giải thoát, bệnh chết không làm khổ thân, đó là tướng thù thắng của quả dị thục. Lời khen thật quý giá và nói lên đầy đủ công hạnh trong sự nghiệp giáo dục cùng những điều vượt thường của Thầy trong giờ phút lâm chung.

Ngày tiễn đưa Kim Quan Thầy, cả một rừng người tham dự và bao nhiêu nước mắt tiếc thương. Mọi người đều khóc, chỉ riêng Thầy mỉm cười. Có phải người chân chính nào cũng đều thể hiện tinh thần “Khi sinh ra, ta khóc trong khi mọi người cười. Phải sống thế nào để khi mất đi, ta cười trong khi mọi người khóc”? Di thể Thầy được thanh nghiêm nhập tháp gần bảo tháp cố Đại lão HT Thích Trí Nghiêm. Lúc còn sinh tiền, hai vị tôn túc đã làm việc cùng nhau, sát vai nhau vượt qua bao khó khổ. Ngày nay, nhục thân hai vị lại cùng nằm bên nhau trong lòng đất đồi Trại Thủy - Nha Trang, như một sự nghỉ ngơi bình yên sau bao năm phụng sự chúng sanh báo đền ơn Phật.

Thầy giờ thượng phẩm đăng lâm,
Nụ an nhiên ấy trong ngần như như.
(Đạo-Quang)

Cố Hòa thượng Luật Sư Thích Đỗng Minh đã “thượng phẩm đăng lâm”, nhưng hình ảnh Thầy vẫn luôn sống mãi trong lòng tứ chúng, vẫn sáng ngời trong tâm tưởng của hàng môn đệ. Đặc biệt là những người con xuất thân từ Tổ đình Thiên Hưng và Tổ đình Thiền Lâm - Phan Rang, dù đang còn làm Phật sự tại quê hương hay như những cánh chim trưởng thành bay đi tám hướng, vẫn luôn nhớ ơn Thầy đã làm rạng danh Tông phái.

Để thể hiện lòng thành kính tri ân ấy, chúng ta nguyện làm như Thầy đã làm, nói như Thầy đã nói, nghĩ như Thầy đã nghĩ; nguyện noi theo chí hướng của Thầy suốt đời rèn luyện thân tâm, hết lòng phụng sự cho dân tộc và đạo pháp, góp phần thanh tịnh quốc độ. Những di ngôn của Thầy sẽ luôn như những lời sách tấn, những viên diệu dược chữa trị tâm bệnh cho chúng ta trên bước đường hành đạo nhiều cạm bẫy chông gai. Và trước khi chia tay với Thầy, chúng ta hãy đọc lại trang Hồi ký có bài thơ Thầy viết lúc 8 giờ 30 ngày mùng một Tết Bính Tý (1997):

Khai thần bút, minh niên Bính Tý,
Từ Thị Ngài hoan hỷ càng thêm.
Con nguyền suốt cả ngày đêm,
Tinh tấn tịnh lự trang nghiêm đời mình.
 
Sống tri túc an bình thiểu dục,
Của người cho, đúng lúc mới tiêu.
Việc cần không kể bao nhiêu,
Lợi đời lợi đạo dẫu nhiều vẫn vui.
 
Nay tự nhủ đôi điều nên nhớ,
Đừng bội lòng, đừng chớ nói suông.
Luôn luôn nghĩ đến vô thường,
Mạng sống nào khác như sương đầu cành. 
 
Bệnh, lão, tử đến nhanh như chớp,
Mới đây mà lớp lớp ra đi.
Xoay qua xoay lại đã già,
Nay đà bảy chục thật là quá mau!
 
Vòng lẩn quẩn trước sau đều thế,
Có chi đâu mà để nói năng?
Chơn như Phật tánh vĩnh hằng,
Qui nguyên là đích, tuệ đăng dẫn đầu. 

 blank
Thầy buông xả báo thân một cách an nhiên tự tại. 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Bảy 2022(Xem: 3259)
20 Tháng Năm 2022(Xem: 9894)
Phật Giáo Hướng Dẫn Thế Kỷ 21 là một tài liệu gồm 12 tham luận được trình bày tại Hội Nghị Nghiên Cứu Học Thuật Phật Giáo Quốc Tế lần thứ Tám vào các ngày 27 và 28 tháng 10 năm 1995 tại Đài Loan bởi các diễn giả thuộc nhiều thành phần của nhiều quốc gia khác nhau. Nhằm cung cấp thêm tài liệu cho những ai đã và đang thao thức cho một nền Phật Giáo Việt Nam huy hoàng rực rỡ, chúng tôi cố gắng chuyển dịch tập sách này với mỗi một ước vọng duy nhất: Đóng góp phần nhỏ vào công cuộc phục hưng Đạo Pháp, lợi lạc quần sanh.
04 Tháng Hai 2022(Xem: 4180)