- Mục Lục / Lời Giới Thiệu / Lời Người Dịch
- Chương 1 Khoảng Lặng
- Chương 2: Hành Trình Về Thiền
- Chương 3: Ly Đã Bể
- Chương 4: Căn Bản Thiền
- Chương 5: Bình An & Tĩnh Lặng
- Chương 6: Bước Sen
- Chương 7: Nước Và Sóng
- Chương 8: Tu Tập Giải Thoát
- Chương 9: Con Đường Chuyển Hoá
- Chương 10: Cánh Cửa Giải Thoát
- Chương 11: Khám Phá Ánh Sáng
- Chương 12: Phấn Đấu Đến Giải Thoát
- Chương 13: Thiền Và Hội Họa
- Chương 14: Hoa Tâm Thức
- Chương 15: Đôi Mắt Là Viên Ngọc Quý
- Chương 16: Ai Chữa Lành?
- Chương 17: Phật Pháp Trong Đời Sống Gia Đình
BƯỚC SEN
NỮ TU VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO
CUỘC SỐNG, TÌNH YÊU VÀ THIỀN ĐỊNH
Walking On Lotus Flowers: Buddhist Women Living, Loving and Meditating
Tác Giả: Martine Batchelor - Biên Tập Viên: Gill Farrer-Halls
Việt Dịch: Diệu Ngộ -Mỹ Thanh & Diệu Liên-Lý Thu Linh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010
Chương 1
KHOẢNG LẶNG
Ani Tenzin Palmo
Ani Tenzen Palmo sinh năm 1943 tại Anh. Năm 1964, bà sang Ấn Độ và đã ở lại đó tổng cộng 24 năm. Bà đã trãi qua 6 năm ở Dalhousie trong tu viện của Thầy bổn sư, và 18 năm ở Lahul (gần Ladakh, phía Bắc Ấn Độ, vùng Hy Mã Lạp Sơn), trong đó có 12 năm nhập thất trong một hang núi, trước khi trở lại Âu châu để sống ở Assisi, Ý, năm 1988. Dầu bản chất thích sống ẩn dật, nhưng bà Ani Palmo là người rất vui tính, thẳng thắng, cởi mở khi tiếp xúc với người khác.
Bắt Đầu Từ Chỗ Của Bạn
Ai cũng phải bắt đầu từ một nơi nào đó. Không ai trên thế gian nầy có thể bắt đầu ngồi xuống tọa thiền ngay. Người Tây phương thường có quan niệm sai lầm là người Á châu chỉ cần ngồi xuống là mọi việc sẽ tuần tự xảy ra một cách hoàn hảo. Sự thật thì không phải vậy, tôi đã hỏi nhiều thiền sinh và các vị lạt ma về điều nầy. Tất cả đều cho biết lúc khởi đầu khó khăn thế nào, họ đã phải khổ công tu tập như thế nào. Vì thế chớ nên sớm nản lòng.
Nếu tâm bạn còn quá nhiều phiền não, bạn sẽ thấy rất khó định tâm lúc bắt đầu. Có nhiều con đường khác nhau để xuất phát, bởi nhiều phương cách hay bằng cách quán nội tâm. Điều quan trọng là: đừng nghĩ rằng bạn chỉ rèn luyện tâm khi ngồi trên chiếu thiền.
Thực Tập Từng Phút Giây
Người Tây phương thường nản chí vì cảm thấy họ không có thì giờ để thực hành. Họ luôn nói: "Chúng tôi phải làm việc, chúng tôi không có thời gian ngồi thiền". Họ nghĩ rằng chỉ có thể thực hành khi ngồi tụng niệm hay khi thực tập thở ra hít vào. Không đúng như thế. Thực tập là việc ta phải làm trong từng phút giây, suốt cả ngày. Đó là cách bạn tiếp xúc với người khác. Cách bạn uống trà, cách bạn làm việc và cách bạn cảm nhận được những phản ứng nội tâm với mọi sự. Đó là sống một cách tỉnh thức. Phần đông chúng ta sống trong trạng thái của người mộng du.
Thực tập là (bà búng ngón tay) sự tỉnh thức, phát triển trí tuệ, sáng suốt, đồng thời cũng thương yêu, tử tế, quan tâm đến người khác. Nhưng ta không chỉ tử tế đối với tất cả chúng sanh trong mười phương, như trong lời nguyện cầu, mà thực tế là phải tử tế với những người ở bên cạnh ta như chồng, như vợ, con cái, đồng nghiệp, người hành khách ta gặp trên xe buýt, hay bất cứ một ai. Bạn nên biết là họ cũng khổ như ta. Vì thế một nụ cười, một cử chỉ tử tế có ý nghĩa biết bao đối với họ. Đó là thực tập.
Không phải là bạn đã niệm được bao nhiêu câu kinh, điều đó không quan trọng. Thật là sai lầm khi người ta nghĩ là phải nhập thất cho lâu, hay phải thực hiện hằng triệu thứ thực tập khác nhau mới đạt được điều gì. Sự thực tập chân chính của Bồ Tát đạo không liên quan nhiều đến những điều đó, mà quan trọng là cách chúng ta sống, đối xử với mọi người quanh ta.
Hằng ngày, tôi thực tập quý trọng mọi người, không kể họ là ai, tuổi tác thế nào. Mọi người đều xem mình quan trọng. Chúng ta phải coi trọng điều đó. Tôi cũng cố gắng để người khác có thể là họ, mà không phán đoán, đánh giá họ.
Mỗi người đều đặc biệt, có cá tính riêng trong cách của họ. Giống như trong một vũ điệu, mà mỗi người đều có điệu nhảy riêng. Hay như trong một dàn nhạc giao hưởng, mỗi người sử dụng một nhạc cụ riêng, với tiết tấu riêng của mình. Người ta không phải hành động theo một mẫu mực nào đó; họ có quyền tự do được là họ.
Tôi thích có những lúc được ở một mình, nhưng không phải vì tôi không thích tiếp xúc với người khác. Chỉ vì trong tĩnh lặng, tôi tìm thấy sự hòa đồng cũng vũ trụ. Tôi không bỏ quên thế giới bên ngoài. Ngược lại, chính nhờ có những khoảng thời gian một mình, tôi cảm thấy cởi mở hơn với người khác, cảm nhận được sự có mặt của người khác.
'Bạn Là Một Kaguypa' (1)
Tôi trở thành một Phật tử năm 18 tuổi và bắt đầu tu tập ở Luân Đôn từ đó. Sau 6 tháng, tôi gia nhập hội Xã Hội Phật giáo. Họ có lớp cơ bản Phật giáo và lớp thiền.
Lúc bắt đầu tôi theo Nguyên thủy, tu tập ở Sinhalese Vihara. Lúc đó, bạn hoặc là tu theo Nguyên thủy hoặc là thiền. Phật giáo Tây tạng bị xem là không có phẩm chất, thấp hèn, với các phép thuật ma quái, những cách thể hiện dục tình kỳ quặc - tóm lại tuyệt đối không phải là Phật giáo, nên dứt khoát là tôi không muốn dính dáng gì đến. Nhưng một ngày kia, tôi đã đọc một quyển sách, đến phần cuối có đoạn ngắn nói về Phật giáo Tây tạng như sau: "Ở Tây tạng có bốn tông: Nyingmapa, Sakyapa, Kagyupa và Gelugpa".
Khi đọc đến đó, bên trong tôi như có tiếng nói: "Bạn là một Kaguypa". Tôi không biết khám phá nầy có ý nghĩa gì, nên đã hỏi một người thông thái về Phật giáo Tây tạng, "Kagyupa là gì?" Cô bạn bảo tôi đọc Milarepa, rồi cô trao cho tôi một quyển sách dịch của Evans-Wentz's về cuộc đời của Mila. Sự kiện đó đã thay đổi hoàn toàn cái nhìn của tôi. Tôi nhận ra rằng mình phải tìm một vị thầy, có nghĩa là tôi phải đi Ấn Độ.
Khoảng thời gian đó, ngài Chogyam Trungpa Rinpoche đã có mặt cùng với Akong Rinpoche từ Ấn Độ, và ông đã hướng dẫn tôi tu thiền. Một ngày, ông bảo tôi: "Có thể Cô khó tin điều nầy, nhưng ở Tibet, tôi cũng là một lạt-ma có tiếng. Tôi không hề nghĩ sẽ đến nơi đây, nhưng tôi có thể dạy thiền cho Cô không? Tôi phải có một đệ tử chứ".
Tôi trả lời không có vấn đề gì đối với tôi, thế là ông bắt đầu dạy tôi thiền. Đó là phương pháp Mahamudra, ngồi xuống, để tâm thư giãn, rồi quán sát các vọng tưởng đến rồi đi.
Mahamudra (2)
Phương pháp Mahamudra rất đơn giản, và có lẻ đó chính là cái khó của phương pháp nầy. Căn bản phương pháp nầy chỉ việc là ngồi xuống với tâm thư giãn, đồng thời giữ tâm rất chánh niệm, tỉnh giác. Bạn chỉ thực tập nhận biết các vọng tưởng khi chúng đến rồi đi, mà không cố gắng phát khởi, ngăn cản hay chạy đuổi theo chúng. Bạn chỉ biết sự có mặt của chúng. Bản chất của tư tưởng là trong sáng. Một khi sự thực tập đã được phát triển, các vọng tưởng sẽ thưa dần, vì tâm được thư giãn. Khi các vọng tưởng đã thưa nhạt, khi sự tỉnh giác của bạn ở cao điểm, ở khoảng giữa của hai tưởng, bạn có thể bắt gặp được một sự thanh tịnh ở giữa và sau các vọng tưởng. Sự trong sáng cực độ nầy là không gian bao la, sự tỉnh giác, bản tâm chân thật.
Bạn có thể chỉ thực hành duy nhất phương pháp Mahamudra. Cần có một vị thầy uyên thâm cạnh bên, vì ta dễ đi bị dẫn dắt đi lang thang, lúc đó cần có người chất vấn ta: "Cái gì đã xảy ra? Như thế nào? Có giống như thế nầy hay thế kia?" Điều đó giúp cho sự thực hành của ta được định hướng, rõ ràng. Bằng không, nên thực hành Mahamudra ở cuối thời thực tập quán tưởng chính của ta. Rồi hãy để tâm được thư giãn đi vào khoảng vắng lặng của nội tâm, và ý thức được điều đó. Cái không gian bao la, sự sáng suốt, sự tỉnh giác mà bạn nắm bắt được giữa các vọng tưởng, đó là tâm không.
Nếu chánh niệm của bạn rất cao ở lúc đó, bạn sẽ thấy được nó. Nói rằng 'thấy' có thể làm bạn hiểu lầm, vì ở thời điểm đó, không còn cái thấy nữa. Mahamudra là như thế đó.
Dĩ nhiên là khi đã nhận biết được trạng thái đó, bạn bắt đầu có thể phân tách được điều đó với cái nhìn thật sự của Phật giáo: chánh niệm, vọng tưởng, sự vắng lặng sau vọng tưởng, chúng có giống nhau hay khác nhau? Nếu chúng khác thì khác như thế nào? Nếu giống nhau, thì giống ở những điểm nào? Bạn bắt đầu đặt câu hỏi để thấu đạt được cái kinh nghiệm đó. Điều nầy rất quan trọng khi tu tập theo Phật giáo; hành giả không chỉ có chứng nghiệm, mà còn phải hiểu được sự chứng nghiệm của mình bằng cách phân tích, đặt câu hỏi.
Pháp Nhiệm Mầu
Tôi luôn mơ ước được trở thành một nữ tu. Khi còn nhỏ, tôi đã nghĩ đến tu theo dòng Carmelites, là nơi mà bạn bước vào, cửa đóng lại sau lưng, và bạn sẽ không bao giờ ra khỏi nơi ấy. Rất tiếc là tôi không tin vào ý nghĩa của một vị Trời nào đó, nên Thiên Chúa giáo không hấp dẫn tôi. Khi mới được nghe nói đến Phật giáo, tôi chỉ nghe người ta nhắc đến các vị Tăng, nên tôi rất buồn vì tưởng là không có các nữ tu sĩ. Khi cuối cùng được thấy các ni cũng được nhắc đến ở đâu đó, tôi quá đỗi vui mừng, và biết đó là việc mình muốn được trở thành.
Nếu nhìn bề ngoài, tôi không giống một tu sĩ chút nào. Tôi luôn ăn mặc đẹp, có nhiều bạn trai, chạy lăng xăng bên ngoài -không phải là loại người sẽ trở thành người tu. Tuy nhiên, khi gặp được vị lạt-ma của tôi, tôi chỉ muốn được ở cạnh Thầy, muốn hoàn toàn dâng hiến cả đời cho Phật pháp. Tôi hỏi Thầy cho tôi được xuất gia và Thầy đã chấp thuận dầu chỉ mới biết tôi được ba tuần.
Vì Phật pháp quá thâm thẳm nhiệm mầu, tôi cảm thấy không thể bỏ phí chút thì giờ nào, mà không trì Pháp. Tôi không muốn bị xao lãng vì những công việc khác; tôi chỉ muốn suốt đời được ở bên Thầy, hành pháp, trì giới bằng tất cả khả năng của mình. Tôi không muốn phí thì giời cho tình cảm trai gái. Nếu tôi thật sự muốn yêu thương ai, thì tôi chỉ muốn dành sự thương yêu đó cho vị lạt-ma của mình, mà không cần gì thêm nữa. Dĩ nhiên là khi ở bên cạnh Thầy, tôi làm việc. Tôi là thư ký của Thầy, cũng như dạy tiếng Anh cho các vị tăng trẻ. Tôi làm việc 12 tiếng mỗi ngày. Vì tất cả là cho vị lạt-ma của tôi, cũng là cho Phật pháp.
Quan hệ của tôi với người khác giới hoàn toàn thay đổi. Là người tu, tôi có thể thân cận với họ mà không còn có ý niệm trai gái nào. Họ cũng cảm thấy thoải mái cạnh tôi. Tôi coi họ như bạn, anh hay em tôi, nên đơn giản là không có vấn đề gì. Điều nầy làm cho sự quan hệ của chúng tôi thêm cởi mở, phóng khoáng, và tôi rất cảm ơn điều đó.
Trong suốt bao năm làm nữ tu sĩ, tôi không hề, dù trong phút giây, ân hận về quyết định của mình. Tôi luôn hết lòng kính trọng, thương yêu tăng đoàn. Cái cảm giác rằng đã có được một truyền thống gìn giữ từ thời Đức Phật đến nay, cho tôi một sức mạnh, niềm vui vô bến bờ. Hình ảnh các vị tăng ni là tấm gương của cuộc sống vì đạo Pháp.
Tây phương cần có những tăng đoàn nhỏ, bao gồm các vị tăng ni thật sự là những người tận tụy, để trở thành trung tâm điểm của cuộc sống đầy chánh pháp. Điểm chánh yếu của việc trở thành tăng ni là chỉ với một hành động đó, nó có thể quét sạch bao vướng víu trong cuộc đời của bao người: sự quan hệ với người khác giới, việc yêu thương, ghen tuông, bất an, lập gia đình, có con cái. Đây là những điều quan trọng, nhưng chúng có thể làm suy giảm năng lực, sức mạnh tâm linh mà ta có thể dành cho sự thực hành Phật pháp.
Không phải ai cũng cần xuất gia, và cũng thật sai lầm nếu nghĩ rằng chỉ có người tu mới có thể hành pháp. Nhưng Đức Phật đã gầy dựng nên tăng đoàn vì rõ ràng đó là một cách sống giúp người ta có sự tự do, phóng khoáng, và thời gian để dành cho sự tu tập thực hành pháp trọn vẹn.
Cuộc Sống Ẩn Dật
Thầy Lạt-ma bảo tôi: "Phần con, sống một mình thì tốt hơn". Bất cứ khi nào tôi đề nghị được sống với ai, với một vị ni khác, thì Thầy luôn bảo: "Không, với con, tốt hơn là sống một mình".
Lúc đầu khi đến Lahul, tôi sống trong khuôn viên của tu viện, dù tôi sống một mình trong một gian nhà, cũng như mọi người khác trong tu viện. Có cả tăng và ni ở đó. Nói chung, chúng tôi sống rất hoà hợp, không có vấn đề gì. Tuy nhiên, đó không phải là nơi lý tưởng để nhập thất, vì thường tôi là người duy nhất nhập thất, và nhà tôi ở giữa khuôn viên tu viện. Ai cũng có những sinh hoạt bình thường, tụ họp bạn bè, nói chuyện dai dẳng, trên các sân thượng từ nhà nầy qua nhà kia, vì thế thật không được yên tĩnh lắm.
Tôi quyết định phải sống cô lập hơn. Sau đó, tôi được nghe về một cái hang, nên đến đó sống. Thật là một nơi lý tưởng, tôi sẽ không trách được ai nếu việc tu tập không có kết quả. Rõ ràng là nếu bạn thực sự muốn tu chuyên sâu, thì hoặc là bạn phải tuyệt đối sống một mình hoặc là phải ở với những người cùng mục đích. Nếu không thì sẽ rất khó khăn.
Mỗi năm tôi thường bị tuyết giam một thời gian dài, nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy cô đơn. Trái lại, tôi thường nghĩ rằng không có nơi nào trên trái đất nầy tôi muốn có mặt hơn là ở đây và không có việc gì tôi muốn làm hơn là tu tập.
Lần duy nhất trong đời tôi cảm thấy cô đơn là khi tôi sống với Thầy lạt-ma của tôi trong tu viện của Thầy với 80 vị tăng khác và tôi là người ni, người ngoại quốc duy nhất. Mọi người sống với nhau như một cộng đồng, còn tôi luôn là người đứng ngoài. Khi tôi thực sự sống một mình, tôi lại không cảm thấy cô đơn dù trong phút giây. Thật là vui sướng khi biết rằng tôi có tất cả thời gian, không gian nầy để hoàn toàn chú tâm vào việc tu tập mà không bị cái gì khác làm xao lãng. Nếu thỉnh thoảng tôi thấy có hơi chán, tôi lại đọc một quyền sách thú vị về Phật pháp.
Tôi rất thích được một mình. Tôi cũng thích có người khác, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, trong khi tôi có thể ở một mình mãi mà không bao giờ chán. Tôi nghĩ có lẽ vì khi có người khác, tôi thường phải thỏa hiệp với họ, để thích hợp với hoàn cảnh, nên không hoàn toàn sống thật với chính mình. Khi một mình, tôi có thể sắp xếp việc trong ngày cho riêng mình, có thể chân thật với chính mình và tu tập. Điều đó khiến tôi cảm thấy không bị gò bó.
Phần đông đều có khó khăn khi phải nhập thất một mình, nhưng theo tôi nghĩ, đó là tuỳ thuộc tâm bạn thế nào. Có một số người đến ở trong hang của tôi, khi tôi không có mặt ở đó, họ vấp phải nhiều khó khăn. Cuối cùng họ trở về tu viện, hoặc tệ hơn trở về làng. Họ không thể ở một mình trong hang. Họ trở nên quá giải đãi, hay rơi vào trạng thái hoang tưởng hay sợ hãi cùng cực, khiến họ không biết giải quyết thế nào.
Một số người nghĩ rằng việc sống một mình để tu tập là chủ nghĩa trốn tránh, nhưng thực ra đó khoảng thời gian khi bạn có thể thực sự đối mặt với thực tại vì không còn có nơi nào để trốn tránh. Bất cứ việc gì xảy ra, bạn không thể mở TV, tán gẫu với hàng xóm, đi lang thang hay làm gì đó, bạn chỉ phải ngồi đó và đối mặt với nó. Dầu cho đó là một vấn đề ở bên ngoài hay ở nội tâm, chỉ có bạn mới giải quyết được. Riêng cá nhân tôi, tôi cảm thấy điều đó cho tôi thêm sức mạnh, vì tôi khám phá ra rằng thực sự tôi có nhiều khả năng hơn tôi tưởng.
Đào Hầm Ra!
Một năm kia, một trận bão tuyết bất thường đã kéo dài bảy ngày, bảy đêm. Nó gây ra những trận lở tuyết kinh hồn khắp nơi ở Lahul, nhiều làng mạc bị hủy hoại hoàn toàn, hàng ngàn cây cối bị tróc gốc và hàng trăm người tử nạn. Tôi bị kẹt trong hang dưới hàng tấn tuyết. Ống khói bếp lò của tôi bị bể, nên tôi không thể đốt lửa. Bên trong hang, mọi thứ tối đen, còn khi tôi mở cửa ra thì chỉ có bức tường nước đá trước mặt.
Tôi bị kẹt trong khoảng không gian nhỏ bé nầy. Tôi cảm thấy không khí càng lúc càng ít đi, tôi thực sự cảm thấy cái chết gần kề. Tôi còn có thời gian nghĩ đến điều đó. Giờ nhìn lại, cũng thấy thú vị vì tôi không cảm thấy hoảng loạn, không có cảm giác bị giam hãm, tù túng; tôi rất bình tĩnh, hoàn toàn chấp nhận sự việc. Sau khi nghiền ngẫm, tôi nhận ra rằng chỉ có vị lạt-ma là đáng cho tôi nhớ đến; ngài là chỗ nương trú duy nhất của tôi.
Với tất cả lòng thành, tôi cầu nguyện ngài dẫn dắt tôi trong cõi trung ấm (cõi ở giữa sự chết và tái sinh), và khi tôi làm thế, tôi nghe một giọng nói vang lên trong tôi: "Đào hầm ra!" Nên tôi bắt đầu đào tuyết ra khỏi cửa. Dỉ nhiên làm thế thì tôi lại phải mang tuyết vào trong hang, không còn chỗ nào khác nữa. Lúc đầu tôi dùng một cái xẻng, sau đó, khi tôi bắt đầu có một đường hầm, tôi dùng nắp nồi, rồi sau đó là dùng tay. Mất khoảng một giờ hay gì đó. Có lúc tôi như bị nén trong cái ống nước đá nhỏ xí nầy. Bên dưới cũng tối, mà trước mặt cũng đầy bóng tối.
Dần dần đường hầm bắt đầu có ánh sáng, và tôi thoát ra được. Tuyết phủ nhiều đến độ không còn thấy cái hang đâu nữa. Tôi không còn nhìn thấy cây cối gì chung quanh, cũng không thấy nóc của cây trụ ba thước cao của tôi, chỉ là một không gian trắng xoá, trong khi bão tuyết vẫn không dứt.
Tôi phải xúc tuyết ra khỏi hang, nên lại chui trở vào hầm. Khi vào đến bên trong, mắt tôi cảm thấy đau buốt, đỏ cạch như thể có ai đã thải cát nóng vào đó. Nước mắt chảy ra, và tôi nhận biết mình đã bị chói tuyết. Dù sao, tôi cũng đã thoát chết.
Hôm sau, tuyết phủ trở lại, tôi lại phải xúc tuyết ra. Tôi phải làm như thế ba lần trước khi trận bão tuyết tan đi. Khoảng một tháng sau đó, một tăng sĩ từ tu viện đến báo cho tôi biết là các xóm làng đều bị tàn phá. Có lẻ tôi là người được an toàn nhất, sống trong cái hang không thể bị tàn phá nầy. Tôi nhận ra rằng trong lúc nguy kịch đó, tôi chỉ có thể dựa vào những gì mình có trong tầm tay và nghị lực bên trong. Không có ai để gánh vác cho tôi, tôi phải một mình vượt qua, và tôi đã làm được một cách hoàn toàn điêu luyện.
Đài Truyền Hình Nội Tâm
Tôi thường nhập thất từ tháng mười một đến tháng năm hay sáu. Thường là tháng năm, vì khoảng thời gian đó tuyết bắt đầu tan, và tôi phải để ý đến điều đó, nên thực sự không thể tiếp tục nhập thất một cách nghiêm ngặt nữa. Những gì tôi làm giữa tháng Năm và tháng Mười Một thường thay đổi. Tôi phải chăm sóc vườn tược, lấy thêm đồ dự trữ, kiếm củi, trét bùn lên hang, vân vân. Thỉnh thoảng cũng có người đến thăm. Tôi cũng dùng thời gian đó để đọc sách, vẽ nhiều hơn.
Rồi khoảng tháng mười, tôi đi Tashijong để thăm thầy lạt-ma và trên đường về đôi lúc tôi ghé qua Manali để mua đồ dự trữ. Dỉ nhiên tôi vẫn hành thiền vào sáng sớm và tối, khi tôi phải bận rộn trong ngày.
Có lần tôi nhập thất ba năm, nhưng cuối cùng bị gián đoạn, nên thực sự chỉ có hai năm và chín tháng. Trong khoảng thời gian nhập thất đó, một người Lahul tiếp tế vật thực cho tôi hằng năm.
Về nội tâm, vấn đề chính, là có những lúc tôi cảm thấy chán thực tập. Suốt mười hai năm sống trong hang, điều đó thường xảy ra. Thời gian đầu sau khi nhập thất, sau khoảng hai tuần lễ, tôi cảm thấy: "Ấy dà! Mình phải còn thực hành đến bao nhiêu tháng nữa!" Tóm lại, cũng giống như phải xem một chương trình truyền hình, bốn lần một ngày, tuần nầy sang tuần khác, tháng nầy qua tháng kia. Có những lúc, tôi cảm giác, "Thôi, không làm nữa!"
Vì không có ai ở đó để sách tấn tôi, hay để tôi tâm sự, hầu thoát ra khỏi sự đơn điệu, lần nữa tôi biết mình phải tự giải quyết thôi. Tôi biết cách duy nhất là không được đầu hàng, cứ phải tiếp tục. Sau một thời gian, tôi nhận diện được cảm thọ chán nản, nên nó không còn là vấn đề nữa. Tôi cứ tiếp tục, cứ tuân theo công việc đều đặn. Điều căn bản là không được gián đọan, không được tự hỏi là có thích thực hành không. Sau một thời gian, việc tu tập của tôi tự nhiên trôi chảy đâu vào đấy. Rồi nó bắt đầu lên một tầng cao hơn, trở nên rất thú vị, gần như cuốn hút. Vào cuối thời nhập thất, tôi tự động cảm thấy hăng hái tu tập hơn là lúc bắt đầu mới nhập thất.
Cuối cùng tôi nhận ra vấn đề chỉ là ở trong suy nghĩ của ta hơn là thực tế; cái ý nghĩ rằng làm sao tôi có thể chịu đựng suốt thời gian nhập thất, trong khi vẫn biết rằng thực ra tôi rất thích làm việc đó.
An Trú Và Hỷ Lạc
Khi mới bắt đầu tu Thiền, nhiều người thường quá hăng hái, bắt đầu ngay bằng cách ngồi cả tiếng đồng hồ. Nhưng thực tế cho thấy là họ khó duy trì được sự chủ tâm trong suốt thời gian đó, ví thế họ trở nên chán nản. Sau đó, thì dù có ý hướng tốt, họ cũng đành bỏ cuộc. Tôi nghĩ tốt hơn hết là bắt đầu bằng 10 hay 20 phút mỗi ngày.
Bắt đầu bạn có thể đặt hình tượng vị nào mà bạn tôn kính, đốt nhang đèn, để chuẩn bị tâm thức. Hãy ngồi xuống và tự nhủ rằng bạn sẽ dành trọn khoảng thời gian ngắn ngủi nầy cho việc tham thiền, một việc không chỉ đem lại lợi ích cho bạn mà cho cả những người bạn tiếp xúc. Dầu ngắn ngủi, nhưng là một khoảng thời gian đặc biệt, riêng dành cho sự tu tập của bạn.
Khi bạn khởi niệm gì, suy tư hay lo lắng, hãy để chúng qua đi. Bằng cách chỉ ngồi theo dõi hơi thở. Đức Phật đã chứng ngộ bằng phương cách đó. Đó không phải điều đơn giản, nhưng ai cũng có thể làm được, rồi từ đó tiến lên, tiến lên mãi. Không có sự cùng tận.
Vì thế hãy ngồi im lặng, theo dõi hơi thở vào ra, ở mũi hay ở bụng, nơi nào bạn thấy thõa mái là được. Cố gắng trụ theo hơi thở, theo sự vào ra, đừng lo sợ mất tâm. Không có vấn đề gì đâu. Bạn dừng mong đợi mọi thứ sẽ tốt đẹp ngay lúc bắt đầu; đó là kiêu mạn. Hãy theo dõi hơi thở vào ra. Nếu tâm khởi vọng tưởng, chỉ cần kéo nó trở lại, lần nầy tới lần khác. Kéo tâm trở về với hơi thở chính là sự thực tập.
Thực tập như thế trong 10 hay 20 phút. Và hãy dừng ở đó dầu bạn vẫn còn có thể tiếp tục. Hãy ngưng lại ở đó hơn là tiếp tục đến khi bạn trở nên trạo cữ. Bằng không, lần sau bạn sẽ không cảm thấy sốt sắng ngồi nữa. Trái lại, nếu bạn ngưng lại khi vẫn còn muốn tiếp tục ngồi, thì bạn sẽ thấy hứng thú để ngồi lần sau. Hành thiền không phải là một thử thách, mà phải là sự an trú và hỷ lạc.
Quá Trình Khám Phá
Qua nhiều năm thực tập, việc hành thiền của tôi đã chuyên sâu hơn, trở nên rõ ràng hơn. Người ta thường nói về những điều thiền giả đạt được khi hành thiền, nhưng đối với tôi điều quan trọng không phải là mình đã đạt được gì mà là mình đã đoạn diệt được gì. Quá trình hành thiền là để bộc lộ, khám phá ra những gì ta vẫn hằng biết. Bạn sẽ không khám phá ra được điều gì mới lạ đâu. Chỉ là những điều bạn đã biết mà không biết rằng mình biết. Chúng ta biết tất cả, nhưng chỉ là không nhận thức được điều ấy thôi. Thiền mở ra cho ta những lối về với chính trí tuệ nội tâm, và phá vỡ các chướng ngại để ta có thể thấy rõ ràng hơn.
Mỗi người khi hành thiền đều có những khó khăn riêng. Tuy nhiên nếu ta thực tập trong sự thoải mái, và có chú tâm thì khó thể sai lệch. Vấn đề là đôi khi ta thấy sự hành thiền của mình dễ dàng quá. Ta cảm thấy được an lạc, trong khi thực sự thì tâm ta lúc đó ở trạng thái ù lì. Bạn có thể dể dàng ngồi như thế vài tiếng đồng hồ mà không hề hay biết tâm đang bị hôn trầm.
Dấu hiệu thực sự của việc hành thiền đúng cách là khi tâm sáng suốt, rõ ràng và hoàn toàn tỉnh thức, đồng thời cảm thấy thư giãn, nhẹ nhàng. Điều quan trọng là giữ được sự cân bằng nầy. Nếu bạn đạt được sự cân bằng đó, bạn sẽ biết ngay. Trong trạng thái tự tại, tỉnh thức, sáng suốt, bạn không thể nào có thể sai lạc được.
Vị Thầy Chỉ Đường
Tôi không nghĩ nhất thiết phải có thầy. Nếu bạn ở trong hoàn cảnh không có thầy, thì đó không phải là lý do để ta không thể bắt đầu tu tập. Có rất nhiều sách vở, và với chút ít hiểu biết căn bản, bạn có thể tự đi một bước dài mà không có thầy hướng dẩn.
Tuy nhiên, nếu có được một vị thầy chân chính thì chắc chắn là mọi việc sẽ dễ dàng hơn nhiều. Như trên một cuộc hành trình, bạn có thể đi một mình, nhưng nếu có người hướng dẩn đã qua đoạn đường ấy, đã biết địa thế rõ ràng thì chắc chắn là chuyến đi của bạn sẽ dể dàng, nhanh chóng hơn. Bạn được đảm bảo không bị lạc đường, không phải lo lắng, vì bạn biết mình được bảo vệ. Đó là trách nhiệm của vị thầy, là để chỉ đường cho bạn. Họ không thể đi dùm bạn, không ai có thể làm được việc đó cho bạn. Họ chỉ có thể chỉ cho bạn hướng đi.
Với Thầy của tôi, thật là tuyệt vời. Từ lúc bắt đầu, ngay khi vừa nghe tên ông, tôi biết ngay đó là Thầy tôi. Ông cũng không nghi ngờ dù chỉ trong phút giây rằng tôi là đệ tử ông, nên từ lúc bắt đầu chúng tôi đã có một mối dây liên hệ thật thân thiết. Ông là một vị lạt-ma tuyệt vời, và tôi mang ơn ông sâu nặng, không thể diễn tả bằng lời với ông như thế nào.
Ông đã dạy cho tôi thật nhiều bằng chính sự có mặt của mình, hơn là lời nói. Ông thường gợi ý tôi nên thực hành theo phương pháp nào và ban cho tôi khả năng thực hiện chúng. Sau đó tôi mới thực sự được các thiền sinh khác trong tu viện chỉ dạy. Vị lạt-ma ở đó chỉ để có mặt, để hướng dẫn và hộ trì. Chỉ được ở cạnh bên Thầy Rinpoche, tôi đã học được rất nhiều. Sự có mặt của một vị thầy chân chính không thể diển tả thành lời, một điều khó tin nổi - một hiện thân sống động của những gì ta mong đạt được. Bạn biết điều đó có thể thực hiện được vì Thầy có mặt để chỉ cho bạn phương cách.
Bất cứ điều gì tôi muốn thực hiện trong việc tu tập của mình, tôi có thể hỏi ý kiến Thầy và Thầy có thể cho tôi biết điều đó không cần thiết hay nên làm. Điều đó động viên tôi mạnh mẽ. Nếu vị lạt-ma nói: "Tốt lắm, hãy làm đi". Tôi có thể bắt đầu ngay, và đặt hết mọi nghị lực của mình vào đó mà không chút gì lo lắng.
Trong những lúc khó khăn, thí dụ như khi tôi phải tu tập một mình, tôi vẫn có thể cầu nguyện đến với lạt-ma. Nếu tôi có vấn đề gì, tôi chỉ cần chú tâm, cầu nguyện đến thầy Rinpoche xin một lời giải đáp. Dĩ nhiên đối với tôi, thì không thể thiếu Thầy. Lạt-ma luôn ở trong trái tim tôi.
Giờ thì chính sự hành thiền mang đến cho tôi sự cảm hứng. Ở thời điểm nầy, dù tôi có muốn bỏ hết tu tập, tôi cũng không làm được, nó đã trở thành một phần của tôi. Càng tu tập, tôi càng cảm nhận Phật pháp thật độc đáo, tuyệt vời làm sao. Tôi cảm tạ ơn sâu của Đức Phật đã truyền dạy lại cho chúng ta những điều này.