Kinh Kim Cang Và Phẩm Phổ Môn

22 Tháng Giêng 201300:00(Xem: 37276)

KINH KIM CANG và PHẨM PHỔ MÔN
Tỳ Kheo Thích Giác Quả
Nhà xuất bản Thuận Hóa

kinhkimcang-thichgiacqua-bia-med

GIỚI THIỆU

Trong tập này gồm kinh Kim Cang và phẩm Phổ Môn, cả hai nội dung này đều chuyển tải tư tưởng kinh điển thuộc hệ Bắc tông.

- Nội dung kinh Kim Cang là đại ý tiêu biểu của tư tưởng hệ Bát-nhã, nhằm xiển dương tinh thần Vô trụ bất cứ đối tượng nào (sáu trần) để đoạn tận chấp thủ ngã (và pháp), thành tựu Chánh tri kiến Vô lậu, Vô ngã, tức viên mãn Trí tuệ Bát-nhã, hội nhập quả vị Phật-đà. Đấy là con đường thực hiện hạnh nguyện Bồ-tát qua nội dung Lục độ với tiêu chí Vô trụ để chuyển hóa Lục độ thành Lục độ Ba-la-mật, viên mãn tự độ, độ tha, tức viên thành Đại Từ bi, Đại Trí tuệ, đạt quả vị giải thoát cuối cùng - Phật-đà.

- Nội dung phẩm Phổ Môn thuộc tư tưởng kinh Pháp Hoa. Pháp Hoa được mệnh danh là Kinh Vua -Kinh đứng đầu và dung nhiếp hết thảy các kinh. Được quy ước như thế, bởi lẽ tư tưởng Pháp Hoa 4 khẳng định: Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật (Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh); đồng thời, độc tôn ở địa vị Phật thừa (Nhất thừa) - thừa sau cùng để Ngộ-Nhập quả Phật, qua bảo chứng của thuật ngữ Hội tam quy nhất (Hành giả của ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát đều phải tu Phật thừa này để viên mãn quả Phật).

Xét phẩm Phổ Môn, nằm trong 14 phẩm sau của kinh Pháp Hoa, thuộc phần Bản môn1, phần giới thiệu những pháp hành Ngộ-Nhập Tri kiến Phật (Ngộ-Nhập quả vị Phật-đà). Phổ Môn là một pháp hành để Ngộ-Nhập Tri kiến Phật ấy. Theo Phổ Môn, hành giả muốn Ngộ-Nhập phải thực hiện Lục Độ - thực hiện với tiêu chí Vô ngã (Biểu tưởng là Bồ-tát Quán Thế Âm) để chuyển hóa Lục độ thành Lục độ Ba-la-mật, nhằm tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Khi viên mãn hai đức tánh tự giác, giác tha chính là thời điểm hành giả đã Ngộ-Nhập Tri kiến Phật vậy.

Tư tưởng Kim Cang Phổ Môn xem ra có sự tương đồng nhiều hơn dị biệt. Đấy là đều cùng thực hiện pháp hành Lục độ với tinh thần Tam luân không tịch2 (thành tựu Lục độ Ba-la-mật) hay tinh thần Vô trụ, Vô ngã để hoàn thiện hai đức tánh Từ bi, Trí tuệ; tự giác, giác tha, thành tựu Trí tuệ Bát-nhã Ngộ-Nhập Tri kiến Phật (Ngộ-Nhập quả vị Phật-đà).

Do ý nghĩa vừa trình bày, bút giả mạo muội in hai Kinh này vào chung một tập, tạo thuận duyên để quý độc giả đối chiếu khi nghiên cứu hay tu tập.

Thật ra, hai Kinh này đã được dịch-giải khá lâu, giờ đây hội đủ nhân duyên bút giả bổ cứu để xuất bản. Dù rằng đối tượng nghe pháp và ứng dụng pháp hành của hai Kinh, chủ yếu là hàng Bồ-tát đích thực và hàng Thanh Văn có căn khí Bồ-tát. Tuy nhiên, pháp Phật được giảng tựa như một cơn mưa lớn, mọi loài thảo mộc đều được lợi ích. Cũng vậy, dù đang là phàm phu lại ra đời trong thời mạt pháp, nhưng bất cứ ai chân thành thật học, thật tu một trong hai Kinh này vẫn đón nhận được kết quả thiết thực trong việc chế ngự vọng tâm, tà tâm của mình, nhằm phát triển chân tâm, chánh tâm, là nhân tố căn bản để giữ trọn lý tưởng theo giáo nghĩa Tam quy hầu đi đúng theo dấu chân chư Tổ, chư Phật năm xưa.

Trân trọng kính giới thiệu đến quý độc giả, quý Thiện hữu tri thức đồng học, đồng tu.

Kính

Chùa Hồng Đức, Mùa Phật Đản PL.2556

TK. Thích Giác Quả


1- Theo tông Thiên Thai phân chia, 14 phẩm đầu Kinh Pháp Hoa thuộc phần Tích môn, 14 phẩm sau là phần Bản môn 

2- Tam luân không tịch: Đấy là năng thí, sở thí, vật thí đều thanh tịnh. Còn gọi là Tam luân thanh tịnh. 



MỤC LỤC
GIỚI THIỆU ..............................................................
MỤC LỤC ...................................................................
CHƯƠNG I: NHẬN THỨC KHÁI QUÁT...............
I. Lịch sử thành lập.......................................................
II. Lý do thành lập........................................................
III. Tên Kinh và Ý nghĩa..............................................
IV. Nội dung căn bản kinh Kim Cang...........................
CHƯƠNG II: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG...................
Đoạn thứ 1: Pháp hội nhân do: Nguyên nhân pháp hội.................................................................................
Đoạn thứ 2: Thiện Hiện khải thỉnh: Thiện Hiện thưa hỏi.................................................................................
Đoạn thứ 3: Đại thừa chánh tông: Chánh tông Đại thừa...............................................................................
Đoạn thứ 4: Diệu hạnh Vô trụ: Hạnh vi diệu: Vô trụ....
Đoạn thứ 5: Như lý thật kiến: Thấy đúng như lý (Thật tại).................................................................................
Đoạn thứ 6: Chánh tín hy hữu: Hiếm có đức tin chân chánh.............................................................................
Đoạn thứ 7: Vô đắc vô thuyết: Không có Pháp chứng đắc, không có Pháp tuyên thuyết..................................
Đoạn thứ 8: Y Pháp xuất sanh: Sanh khởi từ Pháp.......
Đoạn thứ 9: Nhất tướng: Vô tướng: Một tướng: Vô tướng.............................................................................
Đoạn thứ 10: Trang nghiêm Tịnh độ: Trang nghiêm Tịnh độ (cõi Phật).........................................................
Đoạn thứ 11: Vô vi thắng Phước: Vô vi là Phước đức tối thắng .......................................................................
Đoạn thứ 12: Tôn trọng chánh giáo: Tôn trọng giáo điển chân chánh (Kim Cang) ........................................
Đoạn thứ 13: Như Pháp thọ trì: Thọ trì đúng Pháp .....
Đoạn thứ 14: Ly tướng tịch diệt: Ly tướng là tịch diệt..
Đoạn thứ 15: Trì Kinh công đức: Công đức trì Kinh (Kim Cang)...................................................................
Đoạn thứ 16: Năng tịnh Nghiệp chướng: Làm sạch Nghiệp chướng .............................................................
Đoạn thứ 17: Cứu cánh Vô ngã: Vô ngã là cứu cánh (Niết-bàn)......................................................................
Đoạn thứ 18: Nhất thể đồng quán: Cái nhìn nhất thể (thật thể)........................................................................
Đoạn thứ 19: Pháp giới thông hóa: Pháp giới thông suốt................................................................................
Đoạn thứ 20: Ly sắc, ly tướng: Lìa sắc, lìa tướng ........
Đoạn thứ 21: Phi thuyết, sở thuyết: Không năng thuyết, sở thuyết........................................................................
Đoạn thứ 22: Vô Pháp khả đắc: Không có Pháp để chứng đắc .....................................................................
Đoạn thứ 23: Tịnh tâm hành thiện: Hành thiện bằng tâm thanh tịnh ..............................................................
Đoạn thứ 24: Phước-Trí vô tỷ: Phước-Trí vô song ......
Đoạn thứ 25: Hóa vô sở hóa: Hóa độ không đối tượng .
Đoạn thứ 26: Pháp thân phi tướng: Pháp thân chẳng có hình tướng ....................................................................
Đoạn thứ 27: Vô đoạn, vô diệt: Không có đoạn diệt ....
Đoạn thứ 28: Bất thọ, bất tham: Không thọ nhận, không tham trước ....................................................................
Đoạn thứ 29: Uy nghi tịch tĩnh: Oai nghi tịch tịnh ......
Đoạn thứ 30: Nhất hiệp lý tướng: Lý của tướng hợp nhất (thế giới) ...............................................................
Đoạn thứ 31: Tri kiến bất sanh: Tà tri kiến không sanh khởi (Tứ kiến)...............................................................
Đoạn thứ 32: Ứng hóa phi chân: Ứng hóa không phải chân thật .......................................................................


XEM CHI TIẾT NỘI DUNG PHIÊN BẢN PDF: KINH KIM CANG Thích Giác Quả


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14832)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11925)
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
10 Tháng Mười 2014(Xem: 12436)
Viên giác là nói về tuệ giác viên mãn của Phật. Nên kinh này rõ ràng duyệt xét khá kỹ về trí thức con người. Điều kỳ dị trong việc này là đối với trí thức ấy không công nhận mà có vẻ công nhận. Thí dụ chương Tịnh chư nghiệp chướng nói về sự tự ý thức tự ngã: tự biết mới hiện ra tự ngã, vậy là không công nhận, nhưng tự hiểu như vậy nên cũng hiểu tự ngã ấy không đáng nhận, vậy là có vẻ công nhận.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 12152)
Kinh Hiền Ngu thuộc bộ phận “Thí dụ” hoặc “Nhân duyên”, là một trong mười hai phần giáo của Kinh điển. Nội dung kinh này gồm những mẩu chuyện ghi chếp về tiền thân của đức Phật ở đời quá khứ có liên hệ với hiện tại, hoặc ở đời hiện tại có liên hệ với quá khứ, cũng là những chuyện được Phật hóa độ, Phật thụ ký, và những chuyện khuyến thiện trừng ác… Về kỹ thuật thuyết minh, chuyện dựa trên căn bản nhân duyên hoặc thí dụ, thiện nghiệp và ác nghiệp. Căn cứ vào những phần tướng của thiện và ác nên mới có hiền và ngu. Vì vậy nên tên kinh gọi là Hiền Ngu, nay gọi tắt là “Kinh Hiền”
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12131)
(Bản dịch Tâm Kinh mới của Sư Ông Làng Mai)....Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. ...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7997)
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 8556)
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9168)
12 Tháng Sáu 2014(Xem: 10191)
Dhammapada là giáo nghĩa thiết yếu của các kinh. Dhamma là pháp, Pada là câu, là cú, là kệ. Pháp Cú có nhiều bộ khác nhau: có bộ có 900 câu kệ, có bộ 700 câu, và có bộ 500 câu. Kệ là những lời ngắn gọn, như bài thơ, bài tụng. Những câu ấy do Bụt nói ra, không phải một lần tất cả các câu, mà chỉ khi nào xúc sự thì mới nói lên một câu. Tất cả các câu ấy đều có gốc gác rải rác trong các kinh.