Phạm Thiên Thư
KINH HIỀN
HỘI HOA ĐÀM
Thi Hóa Tư Tưởng Kinh Hiền Ngu
Cơ sở Văn Chương Sài Gòn xuất bản lần thứ nhất năm 1973
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM tái bản năm 2014
KINH HIỀN
HỘI HOA ĐÀM
Thi Hóa Tư Tưởng Kinh Hiền Ngu
Cơ sở Văn Chương Sài Gòn xuất bản lần thứ nhất năm 1973
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM tái bản năm 2014
21. Chính đạo
22. Phép mầu khai ngộ
23. Hạnh nguyện
24. Đức vua và con voi
25. Phép giới trai
26. Nàng Vân Anh
27. Tiền thân của vị vua trời
28. Chàng Kim Thiên
29. Dứt lụy trần
30. Chú Tâm Mai
21. Chính Đạo
Trong làn gió sớm vi vu,
Vườn kỳ trăm dặm sương mù còn vây.
Chim vừa thức động lá cây,
A-nan dâng nước hầu Thầy đã xong.
Ung dung đến dưới cội hồng,
Ngồi lên tảng đá, trải lòng từ bi.
Quán mười phương cõi lưu ly,
Nước mây tạo vật thu về một thân.
Dù là mảy gợn vi trần,
Dù là biển lớn xanh ngần sóng khơi.
Dù là sáu nẻo luân hồi,
Cõi tiên cho đến muôn loài chúng sinh
Cũng đồng một thể quang minh,
Cũng đều giả hợp muôn hình hoa không.
Khởi duyên mười cõi trùng trùng
Như trăng phản chiếu giữa rừng ma-ni.
Chẳng hay tiền kiếp nhân gì,
Nhóm Kiều-trần nọ tìm về trước tiên.
Tiếp thu ánh sáng đạo huyền,
Hẳn vô lượng kiếp phúc duyên tạo nhiều.
Nghiệp căn muốn rõ đôi điều,
Lụy phiền ai dễ sớm chiều đổi thay.
Liền tìm bờ suối qua ngay,
Bên kia thấp thoáng áo Thầy nắng pha.
Xuôi dòng man mác đào hoa
Hồng như chân Phật la đà dạo sương.
Thưa thầy: “đại mộng vô thường,
Nhân chi kiếp trước, Kiều-trần phát tâm
Một lòng theo đấng Pháp vương,
Hòa mình giữa biển tình thương mọi loài?”
Nhìn chùm lóng lánh sương mai
Rơi theo dòng nước như đài sao tan.
Ngài vời hiền giả A-nan
Ngồi lên cội đà dưới tàng sương bay.
Phật rằng “nhân trước duyên nay,
Quẩn quanh cùng một cõi này vào ra.
Cách đây vô lượng Hằng sa
Có vua một cõi tên là Đạo Duyên.
Đức ngài quỉ khiếp trời kiêng,
Nước non cường thịnh muôn miền yên vui.
Nhà vua mang đạo trị đời,
Giúp cho tâm trí người người mở khai.
Nghiệp chung thắm đất tươi cây,
Nương chính pháp tám mối dây giữ gìn.
Chánh kiến là pháp thông tin,
2.300. Lấy chân thực tạo muôn nghìn thiện duyên.
Nặng vì dân, nhẹ vì quyền,
Người tin người chẳng giữ niềm ngại nghi.
Giáo dục theo Chánh tư duy,
Dạy người khai mở trăm bề trí, tâm.
Hiển tài đức, bạt mê lầm,
Như mưa xuân đượm ươm mầm tiếp hoa.
Trí, bi tướng dụng điều hòa,
Khơi nên sức sống người ta dạt dào.
Chánh ngữ là pháp ngoại giao,
Người nào chẳng thuận, nước nào chẳng thân.
Khiến cho khắp cõi xa gần
Kết thành một khối nghĩa nhân cộng hòa.
Lại đem xã tắc sơn hà,
Chánh nghiệp là pháp quốc gia an bài.
Người muôn tánh, sự muôn loài,
Dung trong một đức, dung ngoài tùy phương.
Chọn giao đúng bực hiền lương,
Ác ngăn, khuyến thiện, trăm đường thuận duyên.
Chánh mạng là pháp kinh quyền,
Xây nền kinh tế dưới trên đồng đều.
Mỗi người mỗi việc chuyên theo,
Tạo nên cuộc sống muôn chiều văn minh.
Một là lợi lạc dân sinh,
Hai là cộng hưởng thái bình muôn phương.
Lại theo Chánh niệm y nương,
Đắp nền văn hóa trăm đường triển khai.
Phục khôi vương vị con người,
Thăng hoa đến cả trăm loài một tâm.
Hiển trí tuệ giữa mê lầm,
Gieo nhân huệ nghiệp nghìn năm dõi truyền.
Tinh tấn là pháp yên dân,
Nhà giam là chốn tu thân chuyển đời.
Nhân hiền hạnh sĩ nơi nơi,
Cùng về giáo hóa cảm người tham si.
Răn người cốt lấy từ bi,
Trị người cốt lấy vô vi làm đầu.
Nhân duyên gội sạch làu làu,
Yên dân cốt giải oán sầu trước tiên.
Chánh định phép dựng đạo duyên,
Là nền quốc giáo thiêng liêng hóa đời.
Tinh hoa kết tụ nên người,
Chân tâm vô trụ, nơi nơi diệu hành.
Một là mở đức hiếu sinh,
Hai là chuyển nghiệp vô minh sâu dày
Nghiệp riêng tùy chốn, tùy thời,
Nghiệp chung sáng mãi muôn đời còn lưu.
Vua truyền tu thiện mười điều:
Một cấm nghiệp sát lại điều quần sinh.
Khiến trừ phiền não vô minh,
2.350. Tâm không điên đảo thân mình sống lâu.
Dù là trú ngụ nơi đâu,
Hiền hòa giải oán vơi sầu vùng quanh.
Mệnh chung thần thức hóa sanh
Cõi trời an lạc, đẹp lành phúc thân.
Hai cấm trộm cắp bất nhân,
Lại đem bố thí muôn phần rộng xa.
Khiến đời phú quý vinh hoa,
Phước sinh tốt đẹp muôn nhà nể kiêng.
Sáng danh kẻ đức người hiền,
Trong ngoài hóa thuận dưới trên kính nhường.
Ba cấm bất chánh tà dâm,
Khuyên người ra sức lỗi lầm sửa sang.
Khiến nên yên nước yên làng,
Vợ chồng tiết nghĩa, đá vàng nên đôi.
Bốn cấm vọng ngữ dối lời,
Khuyên trọng chân thực cho đời cậy tin.
Khiến lời như ướp hương sen,
Để người phân biệt trắng đen rạch ròi.
Nêu cao gương sáng chói ngời,
Cõi thiên cung kính, người người mến yêu.
Năm cấm miệng lưỡi đôi chiều,
Để giữ hòa hợp thuận theo nghiệp lành.
Giúp nhau tuệ nghiệp viên thành,
Là khuôn thước để chúng sanh theo về.
Dù nơi binh lửa sơn khê,
Phước sinh quyến thuộc mọi bề yên vui.
Sáu lìa ác ý, hại lời,
Là nhân giải thoát khỏi nơi đọa đày.
Bảy cấm lời nói đặt bày,
Khiến bớt ảo ảnh trùng vây trần hồng.
Tám lìa tham dục, bợn lòng,
Khuyên người bố thí chẳng mong đắc cầu.
Nên chi ba nghiệp nhiệm mầu,
Tâm như viên ngọc minh châu dẫn đường.
Chín lìa sân hận vấn vương,
Mưu điều an lạc cúng dường chúng sinh.
Lòng như trời rộng mông mênh,
Trần gian như một gia đình tương thân.
Mười lìa tà kiến mê sân,
Trí như nhật nguyệt xa gần dõi soi.
Tâm tự tại giữa đổi dời,
Nghiệp lành sinh hóa cõi trời lưu ly.
Dân đem công đức hướng về,
Nguyện thành Phật quả, chuyển mê độ đời.
Chân tâm khai mở sáng ngời,
Một thân hóa độ nơi nơi an hòa.
Nghiệp lành trải khắp trùng hoa,
Trần gian dựng một pháp tòa kim cương.
Nước trời thịnh trị mười phương,
2.400. Buổi kia vua ngự thềm hương trăng ngà
Với đoàn cung nữ thướt tha,
Vũ nghiêng nền bích, nhạc sa dặm hồng.
Tay nào nhạn lượn hư không,
Tóc nào hương quyện mây bồng là đâu.
Bước trầm nhạc dịu mưa ngâu,
Áo bay như bướm muôn màu lả lơi.
Tiếng vàng mây cuốn tơ rơi,
Nao nao cánh gió, rã rời nước sông.
Một cung hờn tía sầu hồng,
Hai cung khánh đá chuông đồng vò tơ.
Nửa nghe mây trắng hững hờ,
Nửa nghe chim hót bên bờ khói lên.
Nhà vua đang ngự trên thềm,
Chừng như sênh phách cũng rên sụt sùi.
Chợt đâu hiện đến năm người
Bước chân lảo đảo như rời rã xương.
Nanh nhe, vuốt nhọn dị thường,
Khóc than cảm đến lòng thương vua hiền.
Dắt nhau quì mọp ngoài hiên:
“Bọn tôi Dịch quỉ ẩn miền ngục sâu.
Đi tìm máu mủ nuôi nhau,
Bắt người gieo oán gieo sầu, phanh thây.
Từ ngày vua trị cõi này,
Hoằng khai đạo lớn độ người trầm luân.
Khiến ai cũng hết tham sân,
Tiến tu thập thiện, muôn phần phúc oai.
Dù là ma, quỉ, thần, trời,
Cũng đều theo bảo hộ người thiện tâm.
Thân tôi nặng nghiệp mê lầm,
Trải bao đời kiếp trong hầm lửa thiêu.
Tìm ra bến sớm chợ chiều,
Chẳng còn kẻ ác, thêm tiều tụy thân.
Đâu đâu cũng gặp thiện thần
Hộ người giới đức vạn phần uy nghi.
Cúi xin mở lượng từ bi
Cứu cho, giờ biết lấy gì sống đây.
Chúng con vất vưởng bao ngày,
Cổ như lửa bỏng, thân gầy rạc xương.
Cũng liều ghé cửa minh vương,
Xin người cứu khỏi tai ương phận này.”
Lòng vua thương kẻ đọa đày
Kéo lê một kiếp dạn dày gió sương.
Bên mình đeo sẵn thanh gươm,
Rút đâm năm nhát mình rồng máu hoen.
Vua truyền: “dùng đỡ một phen.”
Quỉ kia xúm lại vui mừng xiết bao.
Nhe nanh ngồi hút máu đào,
No rồi, quì gối lạy chào xin đi.
Vua khuyên: “mau tỉnh sân si,
2.450. Làm thân quỉ đói cũng vì nhân xưa.
Tham lam, tranh chấp mê mờ,
Buôn xương bán thịt, nên giờ khổ thay.
Gắng tu thập thiện giới trai,
Quyết lìa quả báo đọa đày ngục sâu.
Ta thành Chánh giác mai sau,
Nguyện đem giới thuyết nhiệm mầu độ cho.
Dắt lũ ngươi thoát mê đồ,
Vượt sông tham giận, qua bờ an vui.”
Bây giờ vẫn nhóm năm người,
Là Kiều-trần đó, ở nơi nhân hoàn.
Ngày xưa sám hối ăn năn,
Tu mười nghiệp thiện, trồng căn nhiệm mầu.
Thoát kỉếp Dịch quỉ ngục sâu,
Đời này lại sạch tham sầu, qua sông.
Quẩn quanh sáu ngã trần hồng,
Tỉnh cơn trường mộng ngoài vòng khởi duyên.”
Phật xuống suối, khỏa chân lên,
Nghe chim ríu rít bên triền non mai.
Thầy trò theo rặng hoa bay
Trở về tinh xá, qua vài cụm sương.
22. Phép mầu khai ngộ
Nhớ thời Phật tại thành Vương,
Cùng chư đệ tử ngự vườn trúc xanh.
Vua Bình-xa phát nguyện lành
Quy y Tam bảo tu hành đã lâu.
Khuyến dân tinh tấn đạo mầu,
Trị đời lấy giải oán sầu làm phương.
Dưới trên nhuần một lòng thương,
Dân giàu nước mạnh biên cương vững bền.
Người người chung một niềm tin
Noi theo Phật đạo hiếu sinh, hiền hòa.
Biên cương có bọn Phú-na
Lấy điều tà hoặc để mà mị dân,
Khiến lòng thiên chấp chia phân,
Lập bè kết đảng muôn phần đảo điên.
Dẫn người vào nẻo cuồng xiên,
Dễ bề bóc lột, dưới trên đủ điều.
Em nhà vua cũng tin theo,
Tham, si, tà kiến, mạn kiêu dấy lòng.
Vua Bình-xa vẫn hằng mong
Đưa em về nẻo trắng trong đạo Từ.
Kẻo trăm năm uổng thân rùa
Dưới lòng ao biết đâu bờ biển Đông.
Một hôm vua dạo bên sông,
Chỉ em, ngài hỏi: “mấy dòng nước xuôi?”
Gã thưa: chảy một dòng thôi.
Vua khuyên: “nào khác cõi người thế gian.
Trên hòa, dưới thuận, bình an,
Nước ta nhuần thấm đạo vàng bấy nay.
Sáng soi như thể mặt trời
Khiến muôn cây cỏ nảy chồi đơm hoa.
Cớ chi em lại lỉa xa
Con đường trung đạo hiếu hòa, hiếu sinh.
Chấp theo tà kiến vô minh,
Lập bè kết đảng cố tình phân chia.
Sao chưa lìa bỏ, theo về
Quy nương chính đạo đôi bề vẹn đôi.
Một là trí huệ sáng ngời,
Hai nêu gương chánh, muôn người hướng theo.”
Gã rằng: “nước có một chiều,
Mà trăm sông lớn về theo biển trùng.
Người ta muôn ý muôn lòng,
Dù trăm ngả cũng trong vòng thấp cao.
Như tôi tôn quý đạo nào
Là tùy sở thích, ra vào mặc ai.
Ai mà chẳng nghĩ mình hay,
Ai mà chẳng chấp cho thầy mình hơn.
Bây giờ muốn rõ nguồn cơn,
Mời hai giáo chủ song phương luận tài.
Thầy anh nếu quả tuyệt vời,
Thì tôi nguyện sẽ trọn đời xin nương.
Ví bằng thầy của tôi hơn,
Thì xin ngài cũng lựa đường theo tôi.”
Vua cười: “em chớ quên lời,
Ngày mai ta sẽ thân mời đôi bên.
Khiến người khởi vững lòng tin,
Lìa nơi u tối về tìm đạo quang.”
Sáng mai kiệu tía lọng vàng,
Nhà vua thân đến đạo tràng trình thưa
Rằng “xin ngài chuyển Phật thừa,
Mở khai nhật nguyệt, mây mờ dẹp tan.
Cho người tránh khỏi nguy nàn,
Cho đời thoát khỏi nát tan hận thù.
Cầu xin dưới ánh đạo từ,
Dám xin thỉnh đấng Pháp sư muôn loài
Ra tay cứu vớt trần ai,
Xiển dương chính đạo thức người lầm mê.
Dắt dìu bọn ngoại đạo kia,
Bừng con mắt tối theo về nẻo chân.
Giúp cho muôn nước muôn dân,
Chẳng còn thù hận, chia phân mọi bề.”
Sáng ngày hoa kết tàn che,
Dựng đài chuyển pháp lập loè vàng châu.
Lại truyền làng trúc thôn dâu,
Cho dân về học đạo mầu Như Lai.
Hôm sau vừa lức ban mai,
Mây hồng man mác bên ngoài thành hoa.
Người như thác lũ đổ ra,
Ngồi trên nội cỏ quanh tòa khói hương.
Chập chờn giữa áng mây vương,
2.550. Người đem chim thả cúng dường Phật, Tăng.
Giữa tòa trần thiết nghiêm trang,
Ghế bành ngọc trải nhung vàng gấm xanh.
Lục sư sớm tụ trên đàn,
Nghênh ngang bước đến chiếm hàng đôn cao.
Dưới đài dân chúng xôn xao,
Vua Bình-xa đón Phật vào tòa hương.
Mưa hoa trải xuống cúng dường,
Tiếng chim rộn rã bên đường tung bay.
Vừa trông thấy Phật, lạ thay!
Lục sư vội bước xuống đài cung nghinh.
Lại mời Phật ngự tòa trên,
Bỗng dưng hàng ghế cao liền ngang nhau.
Ngoại đạo thân đứng quanh hầu,
Thỉnh Phật thuyết pháp nhiệm mầu lắng nghe.
Em nhà vua thực não nề!
Biết thầy mình chẳng có gì hơn ai.
Nhưng vì lòng chấp sâu dày,
Quyết tâm gã vội đi ngay viện cầu.
Khi Phật vừa giảng đạo mầu,
Người nghe chợt thấy oán sầu tiêu tan.
Như mưa trải khắp thế gian,
Tùy căn cơ đắc vô vàn huệ tâm.
Khởi giác tính, bạt mê lầm,
Nguyện về theo Phật như đầm trổ sen.
Mây xanh phủ xuống quanh miền,
Hoa dâng hương ngát, gió lên dịu dàng.
Phật rời tòa, đắp y vàng,
Cùng thánh đệ tử xuống đàn trầm hương.
Vua đem văn võ đôi đường,
Tiễn chân Phật tới bên vườn đào hoa.
Lại kể, em vua Bình-xa,
Sẵn xe ngựa tốt dời nhà đi ngay.
Đang như bị lửa nung thây,
Lại nghe tín hữu lìa thầy bỏ đi
Về nương cội đạo từ bi,
Lẽ đâu ta lép một bề như ai.
Thế rồi đôn đáo Đông Tây,
Họp chung Lục đạo tìm tay biện tài.
Lại đem lý thuyết suy bày,
Quyết tâm luận chiến phen này xem sao.
Vội vàng thầy tớ theo nhau
Kéo về kinh đọ pháp mầu cùng ai.
Tin vừa trình đến bên tai,
Nhà vua thở ngắn than dài, gọi em.
Rằng “ngươi lời hứa dễ quên,
Cố tình nhắm mắt trước đèn được sao?
Thần dân đã rõ thấp cao,
Lẽ nào em chẳng nương vào quy y?
Đày thân mãi chốn mê si,
Gây thêm lắm chuyện cũng vì đảo điên.”
Gã rằng “thử lại một phen
Để cho vàng đá trắng đen tỏ tường.
Vả chăng đạo chẳng một đường,
Mỗi người riêng một sở trường kém đâu.
Nếu như đạo Thích nhiệm mầu,
Vàng ròng nào sợ lửa đâu, mà chùn?”
Vua rằng “đành cũng chìu lòng,
Mong em tỉnh giấc trần hồng đảo điên.
Khiến thêm kiên cố lòng tin,
Rừng mê em nhớ nên tìm lối qua.”
Nói rồi ngự cỗ long xa
Đến vườn đào lý nơi nhà tịnh thanh.
Vua thưa “tùy thuận chúng sanh,
Lại xin Phật mở pháp lành một phen.
Cho người tắt lửa đua chen,
Cho người thoát lưới đảo điên u sầu.
Thỉnh Thầy hiển lộ đạo mầu,
Nhiếp thu ngoại đạo quay đầu về nương.”
Ngài dừng bên suối mây vương,
Nhìn hoa đào trổ bên đường đua tươi.
Vỗ vai vua, Phật mỉm cười,
Vua liền lễ tạ thân dời cầu mai.
Tàn trương, trống thúc, cờ bay,
Về thành truyền dựng pháp đài nguy nga.
Tin đưa thấu khắp gần xa,
Phật cùng lục đạo Phú-na luận bàn.
Xôn xao ải Bắc thành Nam,
Phố trong xe ngựa, bên thành lều căng.
Vui như mở hội hoa đăng,
Dưới đèn tỏa bạc, trên trăng giải đào.
Đến ngày luận đạo thấp cao,
Bỗng dưng dân chúng nôn nao phố phường.
Kể rằng từ sáng tinh sương,
Phật cùng đệ tử lên đường vân du.
Khiến phường ngoại đạo lục sư
Nghe tin, thích chí say sưa tự hào.
Người em bước thấp bước cao,
Dương dương mày mặt tìm vào gặp vua.
Rằng “trúc lâm vắng như tờ,
Hỏi ra mới biết cuốn cờ kéo đi.
Chạy qua nước Tỳ-xá-ly,
Tưởng rằng trốn lánh dễ thì thoát sao.
Ví dù lẩn dấu non cao
Hoặc nơi địa ngục, trời nào thứ tha.
Bây giờ khắp sáu đạo gia,
Quyết tìm vạch mặt Phật-đà làm gương.
Xem ai lạc nẻo sai đường,
Xem ai đày chốn mù sương mãi nào?”
Lòng vua trăm mối nao nao,
2.650. Hẳn đây có ẩn ý nào sâu xa!
Thiết triều ủy việc quốc gia,
Rồi vua theo Phật đến nhà Luật-xương.
Lục sư cũng lại hùa sang,
Vênh vênh phách lối, huênh hoang đủ điều
Rằng “tôi hẹn thi phép mầu,
Ai ngờ họ Thích kéo nhau ẩn mình.
Nếu xin thua, cũng vị tình,
Cớ chi mà phải ôm bình qua đây.
Nhờ ông nhắn sau bảy ngày,
Bọn tôi xin đợi chốn này cung nghinh!”
Luật-xương nghe nén bất bình,
Lại thương cho bọn vô minh bất tài.
Thấp cao ở đức hạnh người,
Phải đâu tranh cãi tìm lời hơn thua.
Ngã, nhân rũ sạch bao giờ,
Còn chi cao thấp, trong bờ vọng mê.
Ôi thôi, cái bọn ngu si,
Ếch nằm đáy giếng biết gì trời đâu.
Nghĩ rồi ông cũng gật đầu,
Hứa đem thỉnh Phật sở cầu bọn kia.
Lục sư đắc ý quay về,
Nghênh ngang dưới mắt bốn bề không ai.
Luật-xương thân đến hầu Ngài,
Chắp tay lễ Phật, tỏ ngay sự tình.
Phật cười đỡ dậy tiếp nghinh,
Non Tây ráng đỏ vươn mình trôi mau.
Luật-xương vái tạ cúi đầu,
Lên yên đủng đỉnh qua cầu gió trăng.
Về nhà sửa lễ cúng dàng,
Lại sai người lập pháp đàn trang nghiêm.
Cáo cho dân chúng quanh miền
Biết ngày Phật chuyển pháp hiền độ sinh.
Bảy ngày sau mới bình minh,
Lục sư tìm đến lễ đình theo nhau.
Đợi hoài chẳng thấy Phật đâu,
Mới hay Ngài đã sang Châu Diệm thành.
Vua Ưu-điền tự thân hành
Ra ải đón bực cha lành nhân thiên.
Lục sư vừa mới hay tin,
Cùng Luật-xương với vua Bình-xa theo.
Vội qua Châu Diệm hoàng trào,
Thừa cơ hội, họ lẻn vào khoe khoang
Rằng “thần thách thức Cồ-đàm
Trổ thi thần phép, tranh bàn đạo sâu.
Hai lần hứa chẳng thấy đâu,
Ai dè họ Thích kéo nhau lẩn hoài!
Bây giờ thần ngụ nhờ đây,
Xin vua truyền bắt tớ thầy họ kia.
Thấp cao cho rõ mọi bề,
Cho người còn đắm giấc mê giật mình.”
Vua Ưu-điền nén bất bình,
Cũng vì nghĩ nể chút tình lý lân.
Bằng không đã thét ba quân
Bêu đầu cả bọn chẳng cần đúng sai.
Làm thinh vua bỏ ra ngoài,
Ghé qua chầu Phật trình bày việc kia.
Mỉm cười Phật chẳng nói gì,
Nhà vua từ tạ lui về long xa.
Sáng sau truyền dựng pháp tòa,
Lại cho dân biết để mà ân chiêm.
Đến ngày thi triển pháp thiêng,
Đã nghe Phật sớm rời miền bỏ đi
Hóa duyên tới nước Việt-kỳ,
Vua Đà-la đón nghinh về thành Tây.
Vua Ưu-điền được tin này
Kíp cùng nhập bọn theo Thầy phò nghinh.
Lục sư cũng dõi lộ trình,
Lẩn vào triều kiến mặc tình khoe khoang.
Lại xin vua lập pháp đàn,
Quyết hơn thiệt với Cồ-đàm một phen.
Đạo mầu cho rõ dưới trên,
Để ai đánh lận con đen mãi nào.
Khắp thành đồn đãi xôn xao,
Nghe vua thiết lập đài cao mấy tầng.
Sáng sau Phật lại lên đàng
Trở qua Thi-lợi thành vàng hóa trai.
Vua Nhân-đà sửa vườn mai,
Lập nên tịnh xá, hầu Ngài sớm hôm.
Tin ba vua nước láng giềng
Theo phò chính pháp cũng liền tới nơi.
Lục sư cùng đến kịp thời
Phao truyền, kênh kiệu khiến người xôn xao.
Sân rồng xin được qua chầu,
Một đàn thi triển pháp mầu vua coi.
Cầu xin thách đấu với người,
Nhờ vua ngự giữa, trọng tài cuộc thi.
Sáng ngày Phật lại tìm đi
Sang Ba-la-nại kinh kỳ viếng thăm.
Vua Phạm-đạt ngự ngoài thành,
Thỉnh Phật cùng với chúng Tăng cúng dường.
Lại nghe tin nhạn biên cương,
Quốc vương bốn nước lên đường kéo sang
Theo phò ánh sáng từ quang,
Lục sư lại đến khoe khoang đủ điều.
Sáng sau Phật lại xuôi theo,
Băng sông mây nổi, vượt đèo hoa vương.
Qua Tỳ-la-vệ cố hương,
Vua cùng họ Thích ra đường cung nghinh.
Thỉnh Phật thuyết pháp độ sinh,
2.750. Truyền lưu mối đạo tôn vinh đời đời.
Lại nghe vua Phạm sang chơi,
Cùng vua bốn nước rợp trời tàn xe.
Lục sư cũng lại theo kề,
Lắm bề cao ngạo lắm bề vọng ngôn.
Thách Phật tỷ thí thần thông,
Dựng nhà thiệt chiến, rước công chúng vào.
Sáng sau Phật lại qua cầu,
Bước đi mỗi bước nhiệm mầu hóa khai.
Tìm sang Xá-vệ rừng mai,
Vua Ba-tư-nặc mời Ngài dừng chân.
Đón về cung dưỡng muôn phần,
Sớm chiều vua tới đôi lần vấn an.
Tin về rằng có vua quan
Cùng dân sáu nước theo sang thỉnh mời.
Lục sư cũng kịp tới nơi
Xin vào chầu mới hé lời nọ kia.
Vua truyền rằng “chớ ho he,
Phật đâu phải lứa cá mè với ngươi.
Như Lai trí tuệ tột vời,
Nhớ đêm thành đạo sáng soi Bồ-đề.
Ma Ba-tuần hiện thân về,
Binh hùng tướng mạnh bốn bề quần bôn.
Thế mà vỡ mật tan hồn,
Nép đầu dưới bóng Thế tôn đại từ.
Còn ngươi – lục súc lục sư,
Cái phường tôm tép thật chưa biết mình.
Lẽ nào ta thét vệ binh
Bắt bây bỏ ngục hành hình lột da.
Biết điều mau lánh cho xa,
Nếu không ắt hóa làm ma cụt đầu.
Còn như sám hối bảo nhau
Theo về dưới ánh đạo mầu Thế tôn,
Thì ta cũng sẽ ra ơn
Cầu cho Phật ngự pháp đàn độ nhân.”
Thế là líu ríu lui chân,
Chẳng còn hồn vía bần thần theo nhau.
Một đoàn cúi mặt lủi đầu,
Bên thành bước thấp bước cao trở về.
Thôi thì dạ ủ mặt ê,
Thôi thì tài phép hết bề khoe khoang.
Còn vua kiệu ngọc tàn vàng,
Tìm qua thăm Phật, đôi hàng ngựa voi.
Lưng đồi mai rụng trăng soi,
Nhà vua gặp Phật đang ngồi giữa sân.
Bông hoa mờ ảo dưới chân,
Như Thu vàng cúc, như Xuân hồng đào.
Vẳng nghe sáo nhạc nao nao
Bên ngoài, các nước tìm vào vấn an.
Khơi trầm thơm ngắm trăng vàng,
2.800. Ngồi quanh khắp mặt vua quan hầu Thầy.
Nỗi lòng ấm lạnh bấy nay,
Nghiêng bình trà nguyệt vơi đầy chén sao.
Phật ngồi dưới cội băng đào,
Hoa lay như cánh hạc vào thái hư.
Vua bảy nước thỉnh Phật thừa,
Khai chuông diệu pháp, trải mưa hòa bình.
Hiển bi trí, bạt vô minh,
Rộng phương tiện dắt chúng sinh qua bờ.
Ba lần tha thiết trình thưa,
Phật cười: “Thầy đã đến giờ độ tha.”
Sáng sau nghi thiết trầm hoa,
Một lò hương tỏa trên tòa vàng châu.
Tin về cuối biển non sâu,
Người hay Phật chuyển pháp mầu tìm nghe.
Bốn bề cờ dựng tàn che,
Lưng trời ai kết một bè mây xanh.
Lục sư cũng đến bên thành,
Trổ tài pháp thuật tranh giành được thua.
Vừa trông thấy dáng Đại từ,
Lòng kiêu mạn bỗng tan như khói chiều.
Một đoàn kẻ trước người sau,
Cúi đầu lễ Phật xin cầu pháp tu.
Ngài cầm mấy nhánh liễu tơ,
Lên đài giữa một rừng cờ đua reo.
Dáng như tơ ửng mây chiều,
Mắt như hai mảnh đìu hiu nguyệt tà.
Bàn tay ngọc chuốt vàng pha,
Cầm nhành liễu bỗng phất nhòa phương Đông.
Hiện ra rừng rậm mênh mông,
Cây cao trăm trượng chập chùng xuyên mây.
Trông như ngọc dát vàng xây,
Hoa năm sắc sáng, lá cây muôn màu.
Hương rừng thoảng đến nơi đâu,
Là người cởi oán tan sầu như chơi.
Gió rừng dâng nhạc chơi vơi,
Là chuông thức tỉnh cõi người ngân vang.
Hoa rừng tỏa chiếu hào quang,
Kết thành tám nẻo đường vàng như tơ.
Khu rừng là nhạc là thơ,
Khiến người mến đạo vượt bờ tử sinh.
Tâm bình thế giới cũng bình,
Mười phương vũ trụ mông mênh hiện bày.
Phật vừa biến hóa cõi này,
Đưa người thoát kiếp tù đày chiến tranh.
Sáng sau Ngài lại vân hành,
Bước chân gieo hạt giống lành đất kia.
Vua Ưu-điền thỉnh Phật về
Mở khai chính đạo chuyển mê bạt sầu.
Phật hóa hai núi nhiệm mầu,
San hô óng ánh, minh châu chói lòa.
Đỉnh non cây trải mưa hoa,
Phủ trên mái tháp mấy tòa ngọc xây.
Lại thêm cửa động nuốt mây,
Tuôn ra dòng suối dâng đầy hoa thơm.
Hắt hiu tiếng địch tiếng đờn,
Một đàn hạc trắng bay vờn hòa theo.
Vách non cỏ biếc màu chiều,
Cành lê chín thẫm cheo leo mấy tàng.
Chân non thảm lúa tươi vàng,
Gió đưa sóng nổi mênh mang dạt dào.
Người theo lạch suối hoa đào,
Hết ăn trái chín lại vào động hương.
Nao nao khói nổi mây vương,
Ai đan mây khói vô thường thành thơ.
Não phiền vừa thoảng cơn mơ,
Lòng như hoa nở đón chờ xuân sang.
Lại nghe lời Phật ngân vang,
Bừng khai trí tuệ nghiêm trang diệu kỳ.
Ba ngày sau Phật lại đi,
Thể theo dân nước Việt-kỳ mời qua.
Sáng ngày vua Chuân-đà-la
Dâng lên Ngài một tách trà khảm châu.
Uống rồi Phật hóa pháp mầu,
Đổ cấu xuống đất thành cầu hào quang
Bắc trên hồ nở sen vàng,
Chung quanh soi bóng mấy hàng liễu dương.
Bờ hồ lát những kim cương,
Chiếu lên ánh sáng dị thường nơi nơi.
Đáy hồ xanh biếc da trời,
Toàn bằng vụn ngọc sáng ngời làm men.
Gió về đưa đẩy nhành sen,
Xanh pha hồng tía lam chen đỏ vàng.
Muôn màu hoa tỏa muôn quang
Thành mây ngũ sắc trên hàng sóng xô.
Một vùng ngọc chiếu hoa phô,
Khiến người soi, thoát mê đồ bỗng dưng.
Đạo tràng tứ chúng vui mừng,
Nghìn trăm vạn kiếp ai từng rõ hay.
Phật tùy căn độ sâu dày,
Phương tiện thuyết pháp khai bày tâm vương.
Hôm sau Ngài lại lên đường,
Vua Nhân-đà thỉnh cúng dường phạn trai.
Lạ thay mắt Phật ánh ngời
Hóa thành dòng suối tuyệt vời xuôi nhanh.
Nước xô nhau kết nên thanh,
Tiếng êm như nhủ: ngũ căn diệu hòa.
Tiếng mau như giục người qua,
Thất giác, ngũ lực Phật-đà thần thông.
Tiếng dồn như gợi mênh mông,
Tam minh, tứ đẳng lục thông pháp mầu.
Tiếng nao như thức ai sầu,
Lục hòa là pháp nương cầu qua mau.
Tiếng ầm như réo gọi nhau,
Tám đường giải thoát ưu sầu vượt băng.
Tiếng nao như nhủ dưới trăng,
Đại từ bi mới là đàng chính chân.
Pháp mầu hiện độ chúng nhân,
Hai dòng suối chảy phù trần dạt trôi.
Khiến cho ai đã nghe rồi,
Gần nơi giải thoát, xa nơi lụy phiền.
Sáng ngày Phật lại hóa duyên,
Cỏ hoa mừng bước đại hiền Như Lai.
Vua Phạm-đạt thỉnh cúng trai,
Bên thành dựng một lễ đài nguy nga.
Hơi thở Phật nở liên hoa,
Hương theo gió đến cõi xa ngàn trùng.
Khiến người mơn mởn hình dung,
Bao nhiêu tham ý mê lòng lắng tan.
Cánh hoa lại nở hào quang,
Kết thành một chiếc tàn vàng quyện hương.
Hôm sau Phật lại du phương,
Theo đại thí chủ Luật-xương đón về.
Khắp thôn hoa kết tàn che,
Phật ngồi thuyết pháp trên hè trầm bay.
Ngài đưa lên một ngón tay,
Hóa ngàn bướm trắng phiêu bay dập dìu.
Tụ thành hoa nổi, tán treo,
Kết vành xe pháp xoay theo gió trời.
Hào quang chiếu tỏa muôn nơi,
Khiến trong pháp hội người người hiểu nhau.
Dù là tâm ý vương đâu,
Khác gì biển thẳm non sâu hiện bày.
Phật tùy căn đức sâu dày,
Pháp mầu diễn nói tỉnh người mê si.
Sáng sau Phật lại ra đi,
Bốn phương trải tấm hoàng y diệu vời,
Có dòng họ Thích đón mời
Qua Tỳ-la-vệ ngự nơi rừng đào.
Phật ngồi trên đỉnh đồi cao,
Phóng ra muôn ánh bạch hào mông mênh.
Khiến ai ai cũng thấy mình
Ngự trên ngai ngọc quang minh giữa trời.
Ngàn hoàng tử trấn các nơi,
Non sông lầu các sáng ngời hồng quang.
Triều thần muôn vạn võ văn,
Cung phi lá ngọc cành vàng thướt tha.
Khiến ai cũng thấy chính ta
Làm vua chuyển pháp ngự tòa kim cương.
Tỉnh ra xiết đỗi lạ thường,
Tự tâm là cõi thiên đường cao sâu.
Mới hay bản tánh nhiệm mầu,
Phát nguyền vô thượng quay đầu tầm tu.
Sáng ngày Phật lại vân du
Bỗng mây muôn sắc phủ từ hư không.
Hiện ra nước nhược non bồng,
Kìa lầu bích ngọc nọ đồng bạch hoa.
Một bầy tiên nữ múa ca,
Vóc hồng rủ liễu vai ngà buông tơ.
Tiếng ca quyện với sương mờ
Thành muôn hạt đọng trên bờ lách lau.
Non cao suối đổ dòng mau,
Giữa ngàn hoa trắng có cầu mây cong.
Cành sương đẫm tía pha hồng,
Dăm con hạc nổi bềnh bồng đậu theo.
Trong lầu đá cẩm cheo leo,
Bâng khuâng đàn địch dập dìu phách sênh.
Kéo ra voi ngựa quần thần,
Kiệu minh châu võng cẩm vân tuyệt vời.
Hỏi xem mới rõ cung trời,
Lệnh vua Đế-thích thỉnh mời Phật, Tăng.
Về cung Quỳnh Ngọc cúng dàng,
Tuyên dương chính pháp nghiêm trang Bồ-đề.
Hai vua Đế, Phạm hầu kề,
Dưới trên cẩm ngọc bốn bề hoàng vân.
Phật ngồi thuyết pháp biến thần,
Trên tòa sư tử trắng ngần lưu ly.
Pháp thân như núi Tu-di,
Vai đeo nhật nguyệt đôi vì hào quang.
Mỗi lời lại trổ sen vàng,
Tiếng nghe âm động muôn ngàn cõi tiên.
Chúng sinh vô lượng quanh miền,
Viên âm khiến nở nhân hiền nơi nơi.
Phật vừa im lặng mỉm cười,
Bỗng nhiên sấm động vang trời gần xa.
Dưới tòa năm vị nhảy ra,
Nào Đại thần quỉ như là sắt hun.
Nào thần Mật tích Kim cương,
Tay cầm chày ngọc, lửa vương mái đầu.
Đuổi lục sư xuống dòng sâu
Mang mang sóng nước âu sầu khói sương.
Thần lại kéo lên vệ đường,
Sáu người hổi tỉnh khác thường tính căn.
Lắng tan vọng tướng phù trần,
Như cành cây nọ thêm lần đơm hoa.
Chắp tay cầu thỉnh thiết tha,
Mang theo cả vạn cuồng đồ về nương.
Trở thành thanh tịnh sa-môn
Tiến tu thiện nghiệp trăm đường tốt tươi.
Thiện duyên khiến cả trời người
Tỉnh cơn huyễn mộng, xa rời tà nghiêng.
Hôm sau vua trời Phạm thiên
Cúng dường đức Phật bên triền non mai.
Tiệc đào hóa tự cõi trời,
Toàn bằng bảy báu sáng ngời diệu quang.
Vi vu mây tía mây vàng,
Khắp hư không kết thành tàn bảo châu.
Phật ngồi hiện hóa pháp mầu,
Hào quang biển thẳm non sâu chói lòa.
Lưng trời man mác ngàn hoa
Kết thành nhạc báu la đà gió hương.
Khiến thiên chúng khắp đạo trường
Thấm vi diệu nhạc tỏ tường nhân duyên.
Sáng sau vua trời Tứ thiên,
Cúng dường thết tiệc trên triền Nam san.
Giữa hư không dựng pháp đàn,
Sương xanh hòa với mây vàng ùn xây.
Phật đem diệu pháp khai bày,
Ứng thân hiện khắp cõi này mênh mang.
Đâu không chan chứa từ quang,
Hoa lay là ý, suối vang là từ.
Khiến người thanh thản trầm tư,
Như hương bay giữa Chân như đạo trường.
Tan mê ngộ đạo chân thường,
Diệu dụng vô ngại mười phương Phật hào.
Chim thần tung cánh bay cao,
Nguyện đem ánh sáng đạo vào trần ai.
Hôm sau Phật lại hóa trai,
Có nhà Phạm Nguyện mời Ngài lên non.
Trang hoa muôn dặm tía hồng,
Trên lưng núi phượng lượn vòng cánh xuân.
Có dòng suối lặn phù vân,
Qua đồi đá trắng vang rần chim ca.
Ngàn lau thấp thoáng đôi nhà,
Ngoài hiên cỏ thiết một tòa tịnh thanh.
Trên ghế trúc Phật biến hình,
Chỉ còn một ánh quang minh khắp trời.
Hóa thành cam lộ vàng rơi,
Khiến cho đại chúng tỉnh người mê sân.
Gió thơm thoảng sạch phù trần,
Người trong pháp hội thêm phần oai nghi.
Vượt qua huyễn vọng tham si,
Thoát vòng ảo hóa theo về tánh không.
Một qua ải mộng trần hồng,
Đạp phù vân, nối muôn dòng chim bay.
Phật nguyền chuyển đạo Như Lai,
Cứu nhất thiết khổ, dựng đài tâm hoa.
Hôm sau ông Hồ Đại La
Sửa sang thỉnh Phật về nhà cúng trai.
Trước mong quả phúc hậu lai,
3.050. Sau cầu pháp độ trần ai mê lầm.
Đỉnh ngọc đốt giải thoát trầm,
Giữa nền thủy tạ trên đầm mênh mông.
Phật nhập định phóng thần thông,
Mười phương vũ trụ hiện trong lòng từ.
Mây vàng tỏa khắp thái hư,
Dệt nên bài kệ chân như nhiệm mầu.
Khiến chúng sinh khắp năm châu
Trông mây lòng sạch tham cầu ai bi.
Pháp hiền trong suốt lưu ly,
Đưa về tánh Phật tư nghì được sao.
Ý thần vỗ cánh chim cao,
Gọi nhau tỉnh giấc mê đào trần sa.
Sáng sau vua Chuân-đà-la,
Trong vườn thượng uyển dựng tòa đàn hương.
Sửa tiệc thanh tịnh cúng dường,
Thỉnh Phật dừng nghỉ bước đường vân du.
Lại truyền ân xá giảm tù,
Phóng sinh, bố thí… đền bù đức cao.
Phật ngồi chiếu ánh bạch hào
Khiến người tỉnh giấc chiêm bao, thấp hèn.
Khói trầm kết thành hoa sen,
Đài phô hương nhụy, cánh chen sắc màu.
Hóa thân Phật tựa vàng châu,
Ngự đài hoa diễn pháp mầu thần oai.
Theo mây đi khắp trần ai,
Khắp trong thế giới muôn loài ngẩn ngơ.
Sạch lòng bọt nổi huyền mơ,
Cánh hồng tung gió qua bờ thiên tiên.
Gió vi diệu bạt ưu phiền,
Hoa vi diệu thoảng hương thiền từ bi.
Hôm sau võng lọng tinh kỳ,
Vua Ưu-điền thỉnh Phật về thiết trai.
Bên sông tùng liễu vươn dài,
Kết bè gỗ quý dựng đài tôn nghiêm.
Đèn treo hoa trải hai bên,
Xuôi dòng man mác buông thuyền nhã ca.
Đón Phật xuống ngự bè hoa,
Như viền băng nguyệt trên tòa bảo vân.
Vua cùng hoàng hậu phi tần
Ngồi quanh thính pháp muôn phần kính tôn.
Phật dùng ảo diệu thần thông
Biến hoa kia hóa xe rồng lên mây.
Toàn dùng bảy báu trưng bày,
Trên xe chở một kiệu đầy thi kinh.
Mỗi pho là một đẩu tinh,
Hào quang chư Phật hiện hình bến mê.
Theo đường mây nổi bay về
Đại phương thế giới mười bề sao sa.
Cúng dường muôn cõi Phật-đà,
3.100. Cầu thần oai chuyển ta-bà nghiệp chung.
Lại đem diệu pháp thần thông,
Khiến người tỉnh giấc trần hồng mê say.
Như chim vượt lưới trùng vây,
Như đêm viên nguyệt, như ngày thái dương.
Trí Phật như đấng dược vương,
Tùy căn bệnh khổ vô thường chúng sinh.
Thuốc thần chữa gốc vô minh,
Tỉnh ra ngã, pháp một hình bọt sôi.
Vọng tâm biến diệt nào thôi,
Mười hai xiềng khổ luân hồi mãi xoay.
Nền trời lấm tấm hoa bay,
Trên sông man mác vơi đầy dòng ca.
Sáng ngày sau, vua Bình-xa
Cùng hàng văn võ kéo ra thỉnh mời.
Khi đoàn rước Phật đến nơi,
Hoàng cung như thể cõi trời gấm nhung.
Lại thêm tòa giảng Đại hùng,
Nhân dân khắp chốn quanh vùng về nghe.
Bỗng dưng những áng mây che
Kết thành bàn ghế trên hè tỏa quang.
Mâm son, bát ngọc, đũa vàng,
Tiệc trai chuyển tự thiên đàng xuống mau.
Sương năm sắc hiện dải cầu
Từ thinh không bắc xuống lầu niệm hoa.
Lại nghe réo rắt đàn ca,
Với bao tàn lọng gần xa trập trùng.
Cõi phàm chợt hóa thiên cung,
Đèn treo, hoa kết quanh vùng hội xuân.
Chư tiên đãi tiệc hồng trần,
Thiện duyên khiến thấy một lần thiên thai.
Dự xong, đương lúc người vui,
Cảnh kia lại hóa mây trời bay đi.
Trên tòa hồng ngọc lưu ly,
Trầm thơm quyện tấm hoàng y ngạt ngào.
Phật chỉ tay, dưới đài cao
Hiện ra cõi ngục lúc nào chẳng hay.
Tội nhân muôn kiếp đọa đày,
Hết nung cột lửa, lại bày vạc sôi.
Hết cưa chân, lại nén người,
Hết nằm thú rỉa, lại ngồi bàn chông.
Trói vào một khối tiền đồng,
Nghìn trăm cân nặng lưng còng bê đi.
Khổ vì keo kiệt cuồng si,
Nên giờ tiền bạc buộc ghì đôi tay.
Lại thêm già trẻ gái trai,
Trói vào neo sắt co người khiêng theo.
Phật rằng tội phước cheo leo,
Gieo nhân hái quả là điều buộc thân.
Hoặc là tàn ác sát nhân,
3.150. Hoặc là bán nước buôn dân tội dày.
Hoặc là hại kẻ thơ ngây,
Hoặc là dâm đãng xúi bầy nát tan.
Hoặc là trộm cắp điêu gian,
Hoặc là lừa gạt muôn vàn đảo điên.
Khiến người nhục nhã oan khiên,
Khiến người thêm oán thêm phiền chấp nê.
Gây bao nhân khổ duyên mê,
Là bao tội trạng nặng nề chất lên.
Nghiệp thân, khẩu, ý vô biên,
Đắp thành ba ngục ưu phiền mông mênh.
Xem nghe ai chẳng rùng mình,
Suốt muôn ngàn cách cực hình khảo tra.
Ngẫm ngay giữa cõi người ta,
Lưỡi gian có khác chi là hầm chông.
Thân kia chẳng khác ngục đồng,
Ý kia chẳng khác lửa hồng bốc reo.
Vui buồn nào khác khiêng neo,
Biết mình giữa chốn hiểm nghèo, mấy ai!
Lạ thay, miệng đức Như Lai
Mở lời, địa ngục hóa đài hào quang.
Rằng “ba biển nghiệp mênh mang
Mà chiêu cảm đến hai đàng khác nhau.
Ác tâm đọa lạc ngục sâu,
Thiện tâm lên cõi nhiệm mầu nhân tiên.
Trùng trùng thập nhị nhân duyên,
Do ái, thủ, hữu hiện tiền bày ra.
Sáu đường trôi nổi phù sa,
Vô minh khởi hiện bạo hà tham sân.
Các người mau thoát mê tân,
Như trăng sáng giữa ảo vân ngợp trời.
Dù cho sóng động trùng khơi,
Con thuyền Lục độ đưa người tang thương.”
Nghe xong khắp cả đạo trường
Phát tâm bố thí tìm đường nhân thiên.
Lời hiền âm thoảng suối thiêng,
Chợt nghe ngạ quỉ cũng liền hóa sinh.
Vua Bình-xa đứng nghiêng mình
Chắp tay lễ Phật chân tình ngỏ thưa:
“Bao người mong ước từ xưa,
Xem các tướng tốt mà chưa toại lòng.
Vì bánh xe pháp đôi vòng,
Dưới bàn chân nọ chưa từng được hay.
Dám xin Ngài, tiện hôm nay,
Rộng thương đại chúng phô bày tướng kia.”
Theo lời thỉnh của nhà vua,
Phật đưa chân nọ qua bờ đài hương.
Khiến ai ai cũng hay tường,
Sắc tươi ngọc tỏ, màu hường ráng pha.
Hiện lên rờ rỡ luân xa,
3.200. Rõ ràng vòng bánh nan hoa diệu vời.
Khiến cho hoan hỉ lòng người,
Vua Bình-xa mới tiếp lời trình thưa:
“Nhân gì theo thuở xa xưa,
Nên chi phúc báo, thân giờ đẹp thay?”
Phật rằng “tiền kiếp ta đây
Giữ mười điều thiện khiến người tu theo.
Nên nay tốt đẹp trăm chiều,
Một đời phước tuệ cao siêu ai bì.”
Vua thưa “diệu pháp tu trì,
Cách đem hóa độ tham si thế nào?
Khiến đời muôn vạn trần lao,
Sáng tươi dưới ánh Phật hào mênh mông.
Xin Ngài độ kẻ qua sông,
Xin Ngài cho kẻ có lòng được hay.”
Phật rằng “vạn kiếp cách đây,
Có nhà vua hóa cõi này trang nghiêm.
Oai danh đồn đãi muôn miền,
Chăn dân, trị nước, chúa hiền gắng công.
Buồn riêng, chưa kẻ nối dòng,
Dẫu nơi cung cấm đào hồng thiếu chi.
Một hôm săn thú rừng kia,
Hai bên voi ngựa, bốn bề cung thương.
Gặp đàn thỏ dưới cội sương,
Mẹ dắt con nhỏ tìm đường ẩn thân.
Trông như cụm tuyết trắng ngần,
Một bầy ngơ ngác muôn phần sợ thay.
Thỏ con tha thẩn dưới cây,
Biết đâu nguy khốn kề ngay bên mình.
Thỏ mẹ nấp đứng quẩn quanh
Ngó con, đau xót chẳng đành bỏ đi.
Vua truyền bãi cuộc, lui về,
Thỏ còn tình nặng huống chi loài người.
Mà ta lấy máu làm vui,
Càng suy nghĩ lại càng bùi ngùi thương.
Long xa về đến triều đường,
Lòng vua còn mối vấn vương bời bời.
Nửa đêm chợt hiện một người,
Xưng là thần núi mắt ngời lưu ly.
Dáng cao lẫm liệt phương phi,
Nói rằng “tôi đã cảm vì lòng vua.
Rộng ban hành đức móc mưa,
Khiến muôn vật cũng được nhờ sinh sôi.
Chí ngài cảm đến lòng trời,
Sẽ sinh ấu chúa xứng ngôi rỡ ràng.”
Báo rồi vụt tỏa hào quang,
Nhà vua mới biết mộng vàng vừa đây.
Cứ như điềm báo trước này,
Hẳn có trai quý một ngày không xa.
Sáng mai chiếu chỉ ban ra
Cấm ngăn cờ bạc cùng là sát sinh.
Lại truyền bỏ hết cực hình,
Chẳng còn tổn hại sinh linh mọi bề.
Nguyện đem công đức hướng về,
Đổi thay cộng nghiệp tham mê hồng trần.
Chẳng bao lâu khắp thần dân,
Nghe hoàng hậu có tin xuân đầu mùa.
Phòng hương cầu nguyện thêu thùa,
Nụ hoa thoắt đã đến giờ mãn khai.
Tin truyền khắp cõi trong ngoài,
Thái tử là một cậu trai khác đời.
Thân như ngọc sáng mầm tươi,
Khôi ngô tuấn tú ra người trượng phu.
Chư hầu bao vị chúa vua
Chúc mừng vương quốc dựng mùa hội hoa.
Niềm vui tràn khắp muôn nhà,
Đón chào minh chúa vừa ra trị đời.
Vua cho sứ đến một người
Hiền nhân ẩn sĩ để mời vào cung.
Người khen: “tướng đẹp vô cùng,
Sẽ ghi tiếng đại anh hùng sử xanh.”
Vua rằng “đã có điềm lành,
Mang thai, hoàng hậu thông minh khác thường.
Tự nhiên kinh sách tỏ tường,
Lại hay làm phúc ban ơn mọi bề.”
Tâu thêm: “vóc thể phương phi,
Chân lông tỏa sáng ánh kỳ diệu thay!
Và theo điềm lúc mang thai,
Xin đặt thái tử tên này: Bửu Quang.”
Nói rồi từ tạ thánh hoàng,
Khoan thai trở gót về làng ẩn cư.
Lần lần sương sớm mây trưa,
Tàn xuân hoa nọ đã vừa trái xanh.
Trẻ hiền sớm phát tinh anh,
Trăm pho huyền nghĩa học hành thông mau.
Tiếng như nước suối qua cầu,
Môi như hồng nụ phô màu chớm xuân.
Mắt chàng như giếng thu ngần,
Tay như bút ngọc muôn phần đẹp tươi.
Hòa nhan ái ngữ nết người,
Lại bi trí dũng tính trời vốn mang.
Xuân vừa tới tuổi Bửu Quang,
Thì đau đớn nỗi phụ hoàng quy tiên!
Triều thần theo luật đương nhiên
Tấn phong thái tử ngự lên ngai vàng.
Tân vương sau lễ đăng quang,
Ban hành chiếu chỉ sửa sang mọi ngành.
Bỏ tà, giữ chánh phân minh,
Lại theo thập thiện điều hành quốc dân.
Dẫu là mệt trí, nhọc thân,
3.300. Đức vua cùng với quần thần quản chi.
Có hôm trong buổi triều nghi,
Ngài khuyên văn võ hướng về đạo chân.
Trị người cốt dẹp mê sân,
Tuyên dương chánh pháp, tự thân hành trì.
Diệt an mầm cội tham si,
Nước dù muôn cõi khác chi một nhà.
Ngoài hiên có vị chúa ma,
Nổi lòng đố kỵ nghĩ ra mẹo lừa.
Giả ban các chiếu chỉ vua,
Thu hồi luật thiện, bênh hùa ác tham.
Khiến dân sinh dạ oán than,
Ma xui thành cuộc tương tàn đó đây.
Đức vua nghe báo tin này,
Tiến binh muôn dặm, xem ngay sự tình.
Chẳng bao lâu, tỏ ngọn ngành,
Nơi nơi lại cảnh thái bình an dân.
Đường về qua bến phù vân,
Sóng gầm đáy nước, mây vần núi cao.
Vẳng nghe sầu oán âm hao,
Tiếng rên thảm thiết khác nào khảo tra.
Lệnh truyền quân mới tìm ra
Một người lửa phỏng khóc la rợn mình.
Đớn đau quằn quại thân hình,
Truyền đem cứu chữa, cạn tình hỏi ngay.
Vua rằng “vì cớ chi đây,
Ai thiêu ném dưới hàng cây bên đường?”
Ma rằng “quả báo tai ương,
Vì con tu thiện lại thường khuyến dân,
Khiến đời dẹp bỏ tham sân,
Tội người trút xuống một thân đền bồi.
Người thì phúc lạc cõi trời,
Còn tôi ngục lửa đời đời mang thân.
Đớn đau khổ cực muôn phần,
Bây giờ hối lại bao lần khóc than.”
Vua rằng “xin chớ bi quan,
Giúp người dứt sạch mê tham được rồi.
Tiếc chi thân xác bèo trôi,
Nổi nênh bể khổ luân hồi chơi vơi.
Một tay này cứu muôn người,
Ngục kia nào khác cõi trời Hóa thiên.
Ta đây sớm phát lời nguyền
Cứu muôn loài thoát ưu phiền khổ đau.
Giả thân này có thế nào,
Muôn đời ngục lửa xin vào một ta.”
Lời hiền tỉnh thức lòng ma,
Biến thân đi giữa giang hà sóng êm.
Ma vương cũng phát tâm nguyền,
Tạo muôn nghịch cảnh trợ duyên giúp đời.
Đường lên cho được tuyệt vời,
3.350. Lấy ác ngăn ác cho người tiến tu.
Thế rồi dân cõi Diêm-phù,
Đẹp thân, khẩu, ý đền bù thiện duyên.
Chính pháp lan đến muôn miền,
Nghiệp chung hóa hiện kim luân rõ ràng.
Xe pháp tỏa chiếu hào quang,
Đưa vua đi khắp trần hoàn trợ duyên.
Thi-di kiếp đó danh hiền,
Bây giờ là Tịnh-phạn vương tại trào.
Hoàng hậu thuở trước lạ đâu
Giờ là thân mẫu sớm mau về trời.
Bửu Quang chuyển pháp nơi nơi,
Khiến đời an lạc giúp người thiện tu.
Trải bao cõi mộng Diêm-phù,
Hóa khai chính đạo cho dù thiệt thân.
Tướng lành nổi ở bàn chân,
Hai vành xe chuyển pháp luân sáng ngời.
Là nhờ tích thiện muôn đời,
Thanh cao như ngọc, tuyệt vời như hoa.”
Bấy giờ hoàng đế Bình-xa
Thêm lòng thâm tín đứng ra tỏ bày:
“Nhân duyên giăng mắc cõi này,
Kiếp xưa ngoại đạo chẳng hay nghiệp gì?
Đắm chìm sân hận mê si,
Vu miệt chính pháp từ bi, lẽ nào?
Xin Ngài soi ánh bạch hào,
Cho người đắm giấc mơ đào rõ hay.”
Phật rằng “vô lượng kiếp đây,
Vua Lê Lợi trị cõi này trang nghiêm.
Vương phi bao vị như tiên,
Đều chưa thai nghén lo phiền như nhau.
Vua thường tạo phúc nghiệp sâu,
Mở kho bố thí, tìm cầu đạo chân.
Ngài luôn lấy đức trị dân,
Nước nhà cường thịnh muôn phần an vui.
Ngày kia có một vua trời,
Cùng vì cảm mến đức ngời nhân vương.
Hóa thân ra một người thường,
Lưng đeo bồ thuốc tìm đường vô kinh.
Quì trước điện ngọc tâu trình,
Xin chữa hoàng hậu hạ sinh con hiền.
Lão rằng “thuốc tự núi tiên,
Phải pha bằng máu một nghìn trẻ trai.
Nếu được chấp nhận, thưa ngài,
Truyền quân lùng bắt sáng mai mang về.”
Nghe qua nét mặt ủ ê,
Hại người để lợi một bề riêng sao!
Vua truyền “trẫm chẳng thể nào
Vì mình mà khiến máu đào nhuốm tay.
Thôi thì cảm tạ ơn thầy,
3.400. Chẳng tiếc công xuống chốn này giúp nhau.
Ta đành tuyệt tự mai sau,
Hơn để kẻ khác thảm sầu mất con.”
Ý vua đã vững như non,
Sóng thần chẳng chuyển, ai còn uổng công.
Bấy giờ một đám mây hồng
Bay vào tụ giữa thềm rồng lạ thay.
Kết thành một cỗ kiệu mây,
Sương đan rèm ngọc, khói xây mái đình.
Vị lang y hiện nguyên hình
Là vua Đế-thích hoan nghinh bực hiền.
Thưa rằng “tôi trị cõi tiên,
Đức ngài cảm đến muôn miền trời xa.
Mến tình mới hóa thân ra,
Xuống đây thử lửa xem là vàng thau.
Quả nhiên chói lọi bảo châu,
Hẳn ngài sẽ được con sau nối dòng.”
Trao bồ thuốc trước thềm rồng,
Trắng phau hoa tuyết, phớt hồng cỏ tiên.
Dặn rằng “lấy nước sắc liền,
Uống vào tất có người hiền nối ngôi.”
Chia tay giọng những bồi hồi,
Động hoa vàng tất có hồi tìm nhau.
Thiên vương vào kiệu trân châu,
Hóa ra một nội hoa mầu bay lên.
Vua truyền sắc cỏ hoa trên
Đưa các phi hậu uống liền xem sao.
Chính cung nghĩ chẳng tin nào
Nên không chịu uống, sầu bào lòng thôi.
Khi nghe đều đã thụ thai,
Vội truyền tìm bã thuốc hoài bỏ đi.
Uống vào như các thứ phi,
Lạ thay cũng kịp một thì khai hoa.
Nhưng khi hoàng hậu sinh ra,
Nhìn con, lòng tủi lệ sa giọt ngời.
Trẻ đâu có dáng lạ đời,
Xấu như quỉ sứ nhà trời gớm ghê.
Trong khi con các vương phi
Thu nghiêng mắt biếc, xuân kề môi tươi.
Tóc như mây hạ buông lơi,
Tiếng như suối ấm vừa rời nguồn sa.
Thái tử tên gọi Lê Ba,
Vua truyền giao trẻ riêng nhà dưỡng nuôi.
Tránh nhìn nửa quỉ nửa người,
Tránh cho thiên hạ bia cười dèm chê.
Dần dà năm đến năm đi,
Anh em thái tử đến kỳ lớn khôn.
Cầm quân trấn giữ biên cương,
Một triều thịnh trị bốn phương thái hòa.
Bỗng đâu có việc can qua,
3.450. Giao tranh cùng nước Tân-la láng giềng.
Khói bay lửa ngút ải biên,
Bao nhiên dũng tướng, con hiền chạy thua.
Giặc như nước lũ tràn bờ,
Đạp tan thành quách dựng cờ xâm lăng.
Tin như sét đánh vương thành,
Lê Ba thái tử một mình xin đi.
Tục truyền Thiên tự xưa kia,
Còn cây cung lớn lượng vừa muôn cân.
Từ thời vua Chuyển thánh luân,
Dùng bảo vật nọ trấn quân bạo tàn.
Trải bao mây nổi hợp tan,
Cây cung quốc bảo còn truyền tới nay.
Sức người nào thể chuyển lay,
Vào chùa, thái tử một tay xách kề.
Dương lên sấm động bốn bề,
Gió to sóng lớn dâng về trợ oai.
Giặc nghe phách lạc hồn bay,
Trăm thành thu lại không đầy tấc gang.
Vua Tân-la đến xin hàng,
Giữ tình giao hảo, lân bang vui vầy.
Thế là truyền khắp Đông Tây,
Tin thiên tướng xuống cõi này yên dân.
Vua cha bàn với triều thần,
Tính bề gia thất muôn phần khó khăn.
Người còn chẳng dám lại thăm,
Nói gì đến chuyện gối chăn sum vầy.
Đình thần có vị tâu bày,
Nghe có công chúa thơ ngây liễu đào.
Hoa còn vườn kín lầu cao,
Dưới trên hiếu thuận, ra vào đoan trang.
Nàng vừa tới tuổi tròn trăng,
Con vua Thế tổ láng giềng nước kia.
Cử nghinh hôn lễ đón về,
Rồi ra tráo rể đôi bề vẹn đôi.
Một mai ván đóng thuyền rồi,
Quen hơi bén tiếng cũng thôi ngại gì.
Vả danh tiếng ấy ai bì,
Yêu tài là nết nữ nhi nặng tình.
Cứ mang lễ đến tâu trình,
Mượn em đón chị, sẽ thành đẹp đôi.
Thuận cho, nào quảng xa xôi,
Chuyện mai mối để thần tôi liệu bài.
Vua truyền sửa lễ lựa ngày,
Hai xe gấm ngọc, cậy tay đại thần.
Bồi hồi ngó đợi tin xuân,
Chẳng bao lâu đã nghe quân báo về.
Thế là cờ dựng tàn che,
Lầu cung hoa kết ngựa xe nạm vàng.
Dẫu rằng phượng chửa biết loan,
Đã đinh ninh kết đá vàng duyên xa.
Kiệu rồng rước đến thềm hoa,
Cung phi ngọc nữ kéo ra lạy mừng.
Đêm vui đèn lửa tưng bừng,
Dập dìu nhạc cử vang lừng pháo vui.
Tiệc tan, trò chuyện đôi hồi,
Tân nương càng mến nết người tân lang.
Từ đây, chỉ những đêm trường
Cạnh nhau, sáng lại vắng chàng, thấy đâu!
Nàng than “đêm chóng ngày lâu,
Mặc ai mặt héo tâm sầu mặc ai.”
Chàng rằng “yên ngựa miệt mài,
Biên cương muôn dặm, một tay binh quyền.
Lòng thì canh cánh bên em,
Mà vì trăm họ, giữ yên nước trời.
Mộng xuân còn lắm tuyệt vời,
Rồi ra loan phượng trọn đời sánh đôi.
Thiếu chi trăng gió bồi hồi,
Khi thuyền soi nước khi đồi dạo mây.
Bấy giờ yên đó vẹn đây,
Nước non thịnh trị vui vầy muộn chi.”
Một đêm thiêm thiếp xuân thì,
Rèm tơ vẳng tiếng đàn tỳ nhẹ lay.
Nhớ quê biền biệt bấy ngày,
Giờ nghe sương động, vơi đầy giọt hoa.
Tưởng ngày dưới gối mẹ cha,
Tưởng khi đuổi bướm la đà vườn riêng.
Tưởng trang sách dưới tay mềm,
Tưởng hồ ẩn nguyệt dong thuyền gió thu.
Bây giờ còn áng mây đưa,
Còn trăng lữ thứ nhẹ đưa tiếng nào.
Nàng ngồi dậy, hé rèm đào,
Nghiêng song thu, nguyệt chiếu vào phòng hương.
Tựa nhìn man mác vườn sương,
Quê xưa kìa mảnh sao thường dõi theo.
Lòng đương trăm mối nghìn chiều,
Nhìn chàng nằm đó thiu thiu giấc hoè.
Nhạt mờ sau lá màn the,
Ánh trăng hờ hững soi kề gối bên.
Quay vào nhẹ vén màn lên,
Dung nhan sớm nọ đã in những ngày.
Dưới trăng giờ tỏ mặt này,
Bộng tan hồn quế rời tay liễu đào.
Người đâu vóc dáng lạ sao!
Gục bên song cửa nao nao điếng người.
Trước kia anh tuấn tuyệt vời,
Mà nay như quỉ nhà trời xuống đây!
Trước sao mày phượng tóc mây,
Giờ sao dị tướng thế này hỡi ơi!
Hẳn ai mưu kế thay người,
3.550. Hay chàng biến hóa, như lời đồn xưa.
Có tài hô gió gọi mưa,
Đánh xong trăm trận như vừa trở tay.
Gục đầu nàng thiếp hồn say,
Gà đua tiếng gáy chân trời mờ sương.
Sáng nghe sẻ hót đầu tường,
Tỉnh ra lệch đệm xô giường vắng ai.
Buồng gương tóc cuộn trâm cài,
Xin đi dâng lễ miếu ngoài đồi thông.
Thác rằng: chàng đã bằng lòng,
Nên chi tung cánh sổ lồng như chơi.
Xe bon vượt đỉnh xanh ngời,
Bâng khuâng mấy nụ hoa rời cánh hương.
Nhớ nhà ngựa thẳng dây cương,
Được tin thái tử dõi đường băng theo.
Chàng dừng ải cuối cheo leo,
Ngùi trông đôi áng mây chiều buông tơ.
Bông lau ven suối vật vờ,
Bên kia biên giới sương mờ hắt hiu.
Người sầu ngựa cũng buồn thiu,
Vó rơi chốn cũ hồn neo cuối trời.
Bao đêm nến cạn dầu vơi,
Tháng sau mới giả làm người bán cung.
Vì hoa ngựa vượt muôn trùng,
Sang sông nhớ khói, qua rừng nhớ sương.
Một chiều chàng đến thành vương,
Ghé vào quán trọ bên đường tà huy.
Chợt hay: vua nước biên thùy,
Kéo quân sang với sính nghi đón nàng.
Chàng nghe: sáu nước lân bang,
Cành hương đã nức giá vàng bấy nay.
Từ nghe ngọc quý ngoài tay,
Hết đêm tơ tưởng lại ngày thầm trông.
Giờ nghe nàng lánh nhà chồng,
Thế là sửa lễ, thiếp hồng bắn qua.
Tranh nhau chúc ngọc cầu hoa,
Thị uy lại kéo quân ra cõi ngoài.
Triều đình trăm nỗi bời bời,
Đây toan rẽ ngọc, đó lời thiệt hơn:
Làm sao giữ vững biên cương,
Một đường cho vẹn một đường mới hay.
Lão thần có vị tâu bày:
“Kế này hẳn giữ cõi này được yên.
Chi bằng yết bảng cầu hiền,
Cậy ai giữ vững thành liền, quốc gia.
Bấy giờ đáng mặt tài ba,
Bấy giờ sánh ngọc cầu hoa mới bằng.
Nước nào yếu hẳn lui binh,
Nước nào mạnh hẳn kết tình dài lâu.
Thế là châu vẫn hoàn châu,
3.600. Lại không kết oán gieo sầu với ai.”
Sáng sau bảng yết khắp nơi,
Đức vua tìm bực anh tài cứu nguy.
Nổi xung giặc đoạt thành trì,
Kinh đô ngơ ngác, biên thùy khói bay.
Địch nhắn tin: “nhận duyên này,
Rút quân và trả thành ngay, ham gì.”
Trước lời cường địch thị uy,
Có người giựt bảng nguyện đi chiến trường.
Một mình thẳng tới biên cương,
Sóng dâng lớp lớp, mây vương mịt mù.
Giặc trông chưa đánh đã thua,
Người e quỉ sứ, kẻ ngờ thần tiên.
Ra tay đoạt mấy thành liền,
Khiến vua sáu nước lòng phiền khiếp oai.
Cờ hàng ngơ ngác đua bay,
Quốc vương tự đến thành ngoài tiếp tân.
Người đâu mặt quỉ tài thần,
Nửa phần khiếp vía nửa phần kiêng uy.
Hỏi ra nào có lạ chi,
Lê Ba thái tử từng khi nhắc truyền.
Tên người vang khắp sơn xuyên,
Một tay bạt nước láng giềng Tân-la.
Lại là phò mã nước ta,
Trụ trời chống vững sơn hà từ nay.
Thế là ngọc lại hoàn tay,
Vợ chồng như thể mới ngày mật trăng.
Hoàng thành mở hội hoa đăng,
Nhạc ca vi vút, đèn chăng nhạt nhòa.
Sáng ngày vua bảy nước qua
Tôn phong hoàng đế Lê Ba rạng ngời.
Rằng “đây thiên tướng nhà trời,
Sức thần bạt quỉ, thương đời rộng tâm.
Cõi này dù vạn ngàn năm,
Nào ai sánh được sức thần như ai.
Quả trang hiền đức anh tài,
Chúng tôi kính ngưỡng danh ngài bấy nay.
Bây giờ góp sức chung tay,
Xin ngài thống nhứt cõi này cho yên.
Trước sau nguyện dưới điện tiền,
Lấy điều hòa thuận kết liên mọi nhà.
Bỏ vũ khí, dẹp can qua,
Hiếu sinh làm cội, hiếu hòa làm duyên.
Để cho thuận dưới hòa trên,
Để cho khắp chốn nể kiêng cõi bờ.”
Trình rồi bảy nước tung hô,
Liên bang bền vững cơ đồ từ đây.
Cờ tung lá gọi ngàn mây,
Trống khua đất chuyển tàn vây thành ngời.
Cùng nhau vạch đất nguyện trời,
Rượu thề cắt máu chung lời sắt son:
Nguyện dù biển cạn đá mòn,
Chung nhau giữ vững nước non phú cường.
Tháng sau đưa vợ hồi hương,
Tiễn đưa hoàng đế, bảy vương theo kề.
Một đoàn trống thúc tàn che,
Hàng hàng voi ngựa, xe xe ngọc vàng.
Cờ theo nhã nhạc tấu vang,
Voi anh dẫn trước, kiệu nàng áp sau.
Dập dìu sáng ngọc tươi châu,
Sông xưa giờ cũng tươi màu dương hoa.
Tin vui báo đến vua cha,
Khắp đường hoa kết mọi nhà đèn thêu.
Lại vua trong buổi thiết triều,
Truyền ngôi thái tử đôi điều vẹn đôi.
“Rằng ta tuổi hạc đã rồi,
Về non tu học trau dồi tuệ thân.
Quốc gia nhờ bực trung thần
Phù trì thái tử muôn phần mở mang.
Rộng tình hòa hảo lân bang,
Dân giàu nước mạnh đạo vàng triển khai.
Cùng nhau liên đức liên tài,
Bên trong thuận hợp giặc ngoài lo chi.”
Thái tử về đến kinh kỳ,
Vẻ vang rõ đức oai nghi rõ hiền.
Khi đi một ngựa một yên,
Khi về bảy nước theo liền rạng oai.
Một tay khuất phục trong ngoài,
Tôn phong hoàng đế lên đài vinh quang.
Vua cha thân mở thành vàng
Đón con, mắt nhỏ đôi hàng lệ châu.
Nước mừng thuở vững kim âu,
Thả tù, miễn thuế, tìm cầu đạo tiên.
Dập dìu ngọc nữ phi tần,
Khúc nghê thường áo xiêm vần vũ bay.
Lúc thì khói nổi hoa lay,
Dáng nghiêng là tuyết tóc bay là huyền.
Tiếng ca như yến như uyên,
Mừng đêm rồng phượng đoàn viên một nhà.
Lầu vàng sánh ngọc kề hoa,
Dìu nhau trong cánh tay ngà ngất ngây.
Rượu hồng ai chuốc chén mây,
Lênh đênh dòng ngọc, vơi đầy âm thanh.
Sớm nghe ríu rít trên cành,
Mây hồng thấp thoáng sau mành liễu tơ.
Nhìn nàng thiếp ngủ như thơ,
Mà ta thế đó, hững hờ bước chân.
Ra vườn soi đáy hồ xuân,
Nghĩ thân mà tủi cái thân dị thường.
Còn đang tha thẩn bên đường,
Bỗng đâu một áng mây vương trước lầu.
Kết thành cỗ kiệu trân châu,
Ngọc vàng lấp lánh muôn màu đưa tươi.
Hiện ra rờ rỡ một người,
Kiệu mây bước xuống mỉm cười trang nghiêm:
“Tôi là Đế-thích vua tiên,
Cùng người vương vấn chút duyên bấy ngày.
Cũng vì nhau hiện về đây,
Có viên bảo ngọc trao tay niệm tình.
Khi nào đem giắt bên mình,
Thì người đổi tướng biến hình như chơi.
Oai nghi tuấn tú khác đời,
Cõi trần chẳng thể có người nào hơn.
E gì liễu ngại hoa hờn,
Lòng kia dẹp hết nguồn cơn từ rày.”
Vừa cầm thần ngọc trên tay,
Đáy hồ chợt hiện một người khác sao.
Nhìn lên kiệu ngọc tàn đào,
Hóa ra mây tía biến vào thinh không.
Vội vàng chàng ghé lầu Đông,
Đưa tay mang thử cây cung nhiếp thần.
Hoàng nương vừa tỉnh giấc xuân,
Bỗng đâu thấy một văn nhân tuyệt vời.
Xăm xăm mở cửa tới nơi,
Vội vàng sửa áo trâm cài đoan trang.
Miệng hoa lanh lảnh tiếng vàng
Rằng “người kia ở đâu sang tự mình?
Lại cầm bảo vật oai linh,
Nói ngay, không chẳng vị tình dung tha!
Cung thần là của chồng ta,
Biết điều trả lại, mau mà lánh ngay!”
Người kia bỏ ngọc trên tay,
Lại là thái tử xưa nay hiện dần.
Nàng còn ngờ vực phân vân,
Lòng chàng giờ mới muôn phần đẹp vui.
Sự tình bày tỏ đôi lời:
“Anh vừa được thưởng ngọc trời quang minh.
Nên chi biến tướng đổi hình,
Từ nay ngọc giắt bên mình khôn xa.”
Vợ chồng sánh ngọc tươi hoa,
Vẹn duyên loan phượng mặn mà hơn xưa.
Đổi tên là Lê Đại Thừa,
Lên ngôi hoàng đế cõi bờ đảm đương.
Lại truyền tu chỉnh triều đường,
Bấy giờ có bốn Long vương hiện về.
Cúi xin lo liệu mọi bề,
3.750. Hóa ra bốn suối pha lê diệu vời.
Nước tràn muôn dặm ùn hơi,
Dựng lên thành quách sáng ngời bảo châu.
Nào là muôn dãy kim lâu,
Nào đường mã não, nào cầu san hô.
Nào rừng chim tụ líu lô,
Nào sông hoa trải, nào hồ sóng lơi.
Trang nghiêm chẳng khác cõi trời,
Nước non cường thịnh, nơi nơi thái hòa.
Phật rằng “duyên nghiệp đâu xa,
Lê Ba kiếp nọ là ta kiếp này.
Sáu vua nước cũ ngồi đây,
Lục sư ngoại đạo ngày rày quy nương.
Quẩn quanh ảo giác mê trường,
Cõi đời tan tụ vô thường vào ra.
Từ đây rũ áo trần sa,
Chim tiên vượt thoát ta-bà nghiệp duyên.”
Vua Bình-xa đứng bên thềm
Rằng “Lê Ba trước tu hiền cách sao?
Đức hiền, sức đọ trời cao,
Mà nghe dị tướng ai nào dám trông.
Chẳng hay duyên nghiệp đèo bòng,
Là chi trong cõi trần hồng trả vay?”
Phật rằng “chính ở cõi này,
Kể vô lượng kiếp cách nay đã nhiều.
Núi kia có vị Tỳ-khiêu
Phá tâm huyễn vọng, sớm chiều công phu.
Nên bệnh phong, mặt sưng mù,
Lê chân hóa độ cho dù đớn đau.
Có bà nọ cúng dường dầu,
Về non chữa bệnh, trước sau nhiều lần.
Chồng bà là kẻ vô ân,
Mỗi lần thấy đến tham sân dấy lòng.
Mắng rằng “ông lão bệnh phong,
Trông như quỉ sứ, chớ hòng tu chi.
Cầm chút cặn, bước mau đi,
Thân đầy ghẻ lở người gì mà ghê.”
Trước lời miệng thế khen chê,
Rộng tâm hỉ xả chẳng nề nọ kia.
Chợt đâu vợ gã quay về,
Lấy dầu tốt cúng một bề kính tôn.
Lại vào nhà nhẹ khuyên chồng:
“Anh xây mãi ngục lửa hồng mà chi!
Biết điều mau tỉnh sân si,
Thành tâm sám hối tội khi mạn ngài.”
Nghe vợ gã hối xin ngay:
“Tham, sân, ác khẩu từ nay chừa dần.
Xin thầy có nguyện chi cần,
Ghé qua, chẳng dám ngại ngần hiến dâng.”
Ngày ngày lão vẫn lâng lâng,
3.800. Qua nhà hóa độ như vầng trăng soi.
Một hôm chứng ngộ đạo rồi,
Sắp lìa giả tướng vào nơi Niết-bàn.
Nghĩ ơn tín chủ cúng dàng,
Hiện về hóa phép chuyển hàng chướng ma.
Thần thông biến hiện một tòa,
Kim thân ngự đỉnh liên hoa sáng ngời.
Hào quang chiếu khắp nơi nơi,
Hóa mưa cam lộ tuyệt vời nhân gian.
Bốn phương rợp tấm y vàng,
Hiện thành tám ngả huy hoàng trên không.
Người xem lắng ý sạch lòng,
Khởi tâm dũng mãnh thoát vòng trần mê.
Vợ chồng gã bán dầu kia,
Phát nguyền thanh tịnh xin về muôn sau,
Nguyện xây nước mạnh dân giàu,
Nguyện khai hóa đạo nhiệm mầu khắp nơi.
Truyền lưu trí tuệ đời đời,
Kết tình chồng vợ chẳng dời nghiệp duyên.
Nhờ trồng cội đức thiêng liêng,
Nên chi quả phúc nhiệm huyền lưu phương.
Trị vì làm Chuyển luân vương,
Nhân duyên báo ứng khôn lường vào ra.”
Nghe xong hoàng đế Bình-xa
Truyền đem bia khắc để mà tu thân.
Triều thần cho đến toàn dân
Lấy mười nghiệp thiện tinh cần tiến tu.
Trời chiều lãng đãng sương mù,
Sông xa khúc hát đò đưa vọng về.
Người lên võng, kẻ lên xe,
Mắt còn hướng lại phía hè trầm hương.
23. Hạnh nguyện
Nhớ xưa khi đấng Pháp vương
Ở Kỳ-xà-quật núi sương ngút trời.
Gặp phen thời tiết đổi dời,
Phật vừa thọ bịnh, cho mời vị lang.
Thầy ngụ trong Cúc Mai trang,
Bên dòng sông nhỏ buông hàng liễu dương.
Vợ chồng nổi tiếng y vương,
Cứu người tật bệnh tai ương khắp miền.
Thầy hòa bát thuốc gia truyền,
Ba mươi hai lượng dâng lên trước mùng.
Thưa rằng “nội lực vô cùng,
Nên con hòa quá lượng dùng cho mau.”
Thế tôn chú nguyện đôi câu,
Chúc cho thầy chứng đạo mầu tự tâm.
Vị lương y rời thiền lâm,
Tay nương gậy trúc qua vườn mai hoa.
Ngựa ông vừa ruổi tới nhà,
Thấy người của phái Bạt-đa chờ mời.
Lại đi coi mạch cho người,
3.850. Qua vùng miếu cũ đến nơi Đề-bà.
Thấy cùng chứng bệnh Phật-đà,
Thầy cân bốn lượng thuốc hòa đem dâng.
Thưa “nơi khói núi mù sương,
Hay sinh lắm bệnh khác thường xưa nay.
Cách chừng đôi buổi trước đây,
Thế tôn cũng mắc bệnh này như ông.
Ba mươi hai lượng thuốc dùng,
Hôm sau bình phục như thường có sao.”
Đề-bà Bạt-đa tự hào
(So hai sức khoẻ ta nào kém chi.
Mà cân lượng thuốc ít đi,
Hay là lão dụng mưu gì bất lương!)
Chờ thầy quất ngựa lên đường,
Cứ theo số lượng Phật dùng truyền pha.
Uống xong liền ngã lăn ra,
Miệng sùi bọt trắng, một nhà xôn xao.
Phật ngồi trên đỉnh non cao,
Quán từ bi biến thân vào mênh mang.
Biết Đề-bà sắp nguy nàn,
Thần thông hiện cánh tay sang xoa đầu.
Bỗng nhiên mây nổi muôn màu,
Hiện năm ngón Phật như cầu kim cương.
Đề-bà nằm thiếp trên giường,
Tự dưng ngồi dậy như thường, chẳng sao.
Vây quanh tử đệ xôn xao
Rằng “Phật vừa phóng bạch hào chở che.”
Đề-bà nghe nổi si mê,
Vu “Phật khiến bỏ độc kia thuốc người.
Nhưng sao qua khỏi mắt trời,
Nên thiên sứ xuống phù đời chính chân.”
Lừa người hòng tạo lòng sân,
Gây thù tạo hận muôn phần hiểm nham.
Tin đưa đến ngài A-nan,
Nhân khi hầu Phật dưới hàng thông reo.
Mới đem thuật rõ mọi điều,
Phật cười: “ân oán đã nhiều xưa nay.”
Ngừng lời, nghiêng xuống bàn tay,
Hứng con bướm trắng vờn bay, đậu vào.
Rung rung như cánh hoa đào,
Giữa lòng tay Phật hồng hào luyến thương.
Ngài tiếp: “trong cõi vô thường,
Từ bi hỉ xả là đường chính chân.
Quyết lòng vượt thoát ngã, nhân,
Chấp chi vọng tưởng phù trần đảo điên.
Cũng từ kiếp trước nhân duyên,
Hại ta đâu phải một lần này thôi.
Nhớ xua trong kiếp luân hồi,
Châu Diêm-phù có một đời vua kia.
Hung tàn hiếu sát kể chi,
3.900. Gian tham tích nghiệp, sân si ám lòng.
Bệnh trầm kha đã mấy đông,
Một đêm mơ thấy thú lông màu vàng.
Chung quanh tỏa chiếu hào quang,
Chữa cho vua khỏi nguy nan ngặt nghèo.
Tỉnh ra, bệnh cũng khỏi theo,
Nhớ lông thú lạ, trăm chiều ước ao.
Mấy ngày sau giữa đại trào,
Họp phường săn bắn cho vào dưới sân.
Truyền “về sắm sửa cung tên,
Săn cho con thú như trên tả bày.
Hẹn già trong một tháng trời,
Nếu không săn được, ba đời tru di.”
Trở về một bọn sầu bi,
Chỉ còn tháng nữa đến kỳ đầu rơi.
Thú đâu có thú lạ đời,
Người đâu lại có lòng người oái oăm.
Một đêm họp hết phường săn,
Tìm mưu tính kế cho bằng thoát thôi.
Bỗng nhiên xuất hiện một người,
Thưa rằng “các bạn tìm nơi ẩn mình.
Mang theo của cải gia đình,
Việc này xin để mặc tình tôi lo.”
Nói rồi chào biệt mọi nhà,
Đeo cung tên, gã bỏ ra ngoài rừng.
Kể chi ác thú độc trùng,
Vượt đèo băng suối vô cùng gian nan.
Tìm cho được thú lông vàng
Giống như trong giấc mơ màng nhà vua.
Tấm thân dãi nắng dầm mưa,
Tử sinh kẻ tóc đường tơ mấy lần.
Một hôm gã nọ dừng chân
Giữa vùng sa mạc châu thân rã rời.
Phần thì nắng bỏng da người,
Phần thêm đói khát khôn dời bước đi.
Than rằng “ta chẳng tiếc chi,
Chỉ phiền chết chẳng cứu gì được ai.
Uổng bao ngày tháng dạc dài,
Tấm lòng đem xuống tuyền đài sao tan.”
Thiếp vào lòng cát mê man,
Bâng khuâng hồn điệp mênh mang đất trời.
Vẳng đâu tiếng suối xa vời,
Dần nghe sức đã phục hồi như xưa.
Tỉnh trông một tín mười ngờ,
Biết đâu âm cõi huyễn mơ nào chừng.
Giữa hang nở trắng lan rừng,
Có hồ nước biếc mấy từng mây in.
Cửa ngoài tím ngắt hoa sim,
Vào ra ríu rít bầy chim tiểu hoàng.
Còn bâng khuâng nỗi lòng chàng,
3.950. Thì đâu con thú lông vàng hiện ra.
Rằng “tôi tên gọi Cử-đà,
Ứng thân đi khắp ta-bà nơi nơi.
Cũng vì biển lệ chưa vơi,
Nên chi nguyện ở cõi đời khổ đau.
Trưa qua cảm được lòng nhau,
Cũng là cạn khổ vơi sầu chúng sinh.
Đón về đây để biến mình,
Xả thân chuyển nghiệp vô minh sâu dày.”
Nói rồi tự đứng phanh thây,
Lột da trao đến trước người thợ săn.
Rằng “vô lượng kiếp hồng trần,
Tử sinh như áo bao lần đổi thay.
Quẩn quanh tháng tháng ngày ngày,
Dệt thêm hư vọng cho đầy tham si.
Trước sau cũng một lần đi,
Cái thân huyễn hợp giúp gì được ai.
Bây giờ mừng được gặp ngài,
Nhờ đem lông đến thức người si mê.
Tôi nguyện công đức hướng về
Chúng sinh đắc đạo Bồ-đề Như Lai.”
Cử-đà vừa nguyện dứt lời,
Sáu lần chuyển đất nghiêng trời mê tân.
Mới hay Bồ-tát thí thân,
Cây tươi dâng trái hoa ngần dâng hương.
Chư thiên hiện xuống cúng dường,
Hóa thành mây báu mười phương chiếu ngời.
Thợ săn xiết đỗi rụng rời,
Tỉnh ra đã thấy bên người cỗ da.
Đâu còn mây ủ non hoa,
Nhìn lên hiện rõ mấy tòa thành cung.
Gối quì vái vọng hư không,
Chúng sinh nguyện độ một lòng không hai.
Gã vào trước điện dâng ngay.
Nhìn da con thú bao ngày thầm mong,
Nhà vua hả dạ vui lòng,
Truyền đem vàng ngọc thưởng công tiễu trừ.
Gã thợ săn quyết chối từ,
Chỉ xin vui thuận cho như nguyện lòng.
Một là vỡ núi khai sông,
Hai là tháo cũi sổ lồng ân tha.
Ba là gác chuyện can qua,
Bốn là mở đạo hiếu hòa hiếu sinh.
Dựng xây nước mạnh dân bình,
Gia ân là đức, giảm hình là uy.
Dưới thềm từ tạ ra đi
Bỏ vào núi ẩn, tu trì sớm trưa.
Đó là duyên cớ xa xưa,
Nhà vua thuở nọ bây giờ về đây.
Là Đề-bà tội sâu dày,
4.000. Tu bao nhiêu kiếp còn đầy tham sân.
Nghiệp lực cứ mãi chuyển vần,
Sáu đường hư ngụy bao lần nổi trôi.
Một khi xả nghiệp xong rồi,
Niết-bàn cũng ở luân hồi đâu xa.
Ngộ mê cũng một lòng ta,
Vọng duyên hoa đốm vẫn là chân không.
Bè kia muốn vượt bến hồng,
Nương chèo bi, trí, giữ lòng chẳng hai.
Cử-đà kiếp trước tự tay
Lột da bố thí thức người tham mê.
Kiếp này chứng đạo Bồ-đề,
Mười phương thế giới đi về thênh thang."
Dạy xong Phật đắp y vàng,
Chim đâu cất cánh một hàng lên cao.
Chờn vờn đôi bướm bạch đào,
Đậu trên áo Phật khác nào hoa rơi.
Pháp thiêng khiến tỉnh lòng người,
Chừng như hòa vọng trong lời suối reo.
Dưới non có vị Tỳ-kheo
Du phương quảy gói ráng chiều trên vai.
24. Đức vua và con voi
Nhớ xưa, ngày đức Như Lai
Bước vân du tới vườn mai trổ hồng.
Có hồ sen nước búp trong,
Đáy in xanh thẳm hàng thông vươn mình.
Đôi gian nhà đất mái tranh,
Bên cầu tre uốn qua ghềnh suối thơ.
Tin lành mới được nghe qua,
Quốc vương Xá-vệ liền ra đạo trường.
Vừa khi đệ tử trong vùng
Rủ nhau lớp lớp tới mừng Như Lai.
Một vườn hoa trải trầm bay,
Đài sen tỏa biếc, tàn mây pha hồng.
Người người vui mối vui chung,
Chờ nghe chánh pháp, nguyện lòng tuyết băng.
A-nan khi đó bạch rằng:
“Chúng sinh mừng gặp đạo hằng mở khai.
Kính thành xin đức Như Lai
Dạy cho hay kiếp trước Ngài duyên chi
Phát nguyền độ kẻ tham si,
Phá vô minh tỏ Bồ-đề tự tâm.”
Trong vườn hoa cỏ lặng im,
Cành cao thoảng rụng tiếng chim cuối mùa.
Thế tôn dạy: “cõi Diêm-phù
Cách nay vô lượng xuân thu đã nhiều.
Có vua trí tuệ cao siêu,
Quang Minh đế hiệu bao nhiêu đức dày.
Bốn phương thịnh trị nhờ tay,
Lòng từ thấm khắp cỏ cây thú trùng.
Một hôm vua nước láng giềng,
4.050. Dâng con bạch tượng trắng ngần tuyết lê.
Vua truyền giao cho nhà kia,
Chuyên nghề quản tuợng đem về dạy nuôi.
Thu đông ngày đổi tháng dời,
Voi kia tròn một năm trời vườn riêng.
Đã quen theo đúng lệnh trên,
Quản tượng viết sớ dâng lên triều đường.
Voi thần đẹp ý quân vương,
Ngài truyền dẫn đến đấu trường diễn coi.
Sớm mai vừa dựng mặt trời,
Cửa đông xe ngựa nơi nơi bốn bề
Đến xem bạch tượng lạ kỳ,
Như điềm chính đạo hiện về nhân gian.
Kiệu son giữa bốn lọng vàng,
Trống thôi vó ngựa loa vang thét đường.
Oai nghi đủ vẻ triều cương,
Đức vua ngự tới đấu trường sáng nay.
Bành voi nhung gấm bọc dày,
Để ngài thử một buổi này dạo chơi.
Khi voi được dắt tới nơi,
Trước đài quì xuống như mời vua lên.
Tiếng hoan hô dội bốn bên,
Khen mừng bạch tượng oai nghiêm khác thường.
Chợt voi thấy cuối đấu trường
Có voi xám nọ, chạnh thương mẹ già.
Bao ngày cách biệt rừng xa,
Nghĩ rồi bạch tượng vượt ra ngoài vòng.
Quan quân vội rẽ đám đông,
Ngựa tung bụi đỏ hãi hùng rượt theo.
Nhà vua lâm thế hiểm nghèo,
Trên voi phách lạc hồn xiêu sững sờ.
Mà voi kia vẫn trơ trơ,
Một niềm dõi hướng rừng xưa băng mình.
Phía sau, quân tướng triều đình
Lo tìm cách giữ an lành quốc vương.
Làm sao cứu được vẹn toàn,
Khi voi vượt suối băng ngàn như bay.
Mặc cho quản tượng luôn tay
Nện búa xuống gáy đau trầy sứt da.
Đến khi một tướng tài ba,
Ngựa đeo bên tượng, kêu vua vững lòng.
Rồi dang tay đón mình rồng,
Vua lao thân xuống giữa lòng tôi trung.
Võ quan xiết nỗi vui mừng,
Cứu được minh chúa thoát vòng nguy nan.
Nhưng vua lòng giận muôn vàn,
Nhìn theo bạch tượng không buồn nói chi.
Quan quân tiếp tục tới kề,
Một đoàn hộ giá thẳng về hoàng cung.
Còn voi nọ thoát về rừng,
4.100. Đem theo quản tượng trên lưng phóng dài.
Ngang đường có một thân cây,
Quản tượng vội níu lên ngay thoát mình.
Vượt rừng trở lại đế kinh,
Hôm sau vừa kịp bình minh buổi chầu.
Một thân quì dưới sân đào,
Đình thần, nội thị ai nào đoái trông.
Chỉ mong trên chín bệ rồng,
Lượng cao trông xuống, mở lòng thứ tha.
Nhưng rồi sương sớm chiều tà,
Ba ngày không thấy vua ra thiết triều.
Nghĩ thân mình đã tội nhiều,
Thôi đành tự xử dám kêu xin nào.
Cắt tay để lấy máu đào,
Viết sớ tạ tội tìm trao cận thần.
Nhờ dâng lên đấng minh quân,
Rồi về, dải lụa hủy thân trong ngày.
Nghe tin, vua mới đưa tay
Cầm trang sớ nọ xem lời tấu van.
Rằng “thần tội lỗi vô vàn,
Hủy thân để tạ điện vàng mới xong.
Ân vua xin giữ trong lòng,
Dù bao nhiêu kiếp trần hồng đâu phai
Vì thần bạc đức non tài,
Khiến voi chỉ khuất bề ngoài mà thôi.
Nên thừa cơ lúc diễn coi,
Băng về rừng cũ tìm nơi ẩn mình.
Nhưng vua là đấng cao minh,
Hẳn sau voi sẽ về kinh hầu ngài.
Như xưa các bậc hiền tài
Được bao ác thú các loài quy theo.
Thân tâm thuần phục đôi chiều,
Thiện căn hóa độ là điều dài lâu.
Phận tôi dưới bệ khấu đầu,
Kiếp này gây tội, thân sau nguyện đền.
Trăm nghìn lạy trước điện tiền,
Trước giờ vĩnh biệt cầu trên thứ lòng.”
Máu đào một lá coi xong,
Nhà vua nghĩ lại vô cùng xót xa.
Chuyện buồn cũng bởi vì ta,
Quá theo lòng giận mà ra nỗi này.
Truyền đem mực thắm tờ mây,
Sắc ban truy thưởng nghĩa người tôi trung.
Ba ngày cửa đóng hoàng cung,
Hiền vương suy nghĩ mông lung nhiều bề.
Phật xưa khai ngộ chuyển mê,
Làm sao trùng thú tự về nương theo.
Còn ta đủ sự nuông chiều:
Cỏ tươi, nước mát, chuồng điều sướng thân,
Mà không khuất được voi rừng,
4.150. Đức người hồ dễ có chừng ấy thôi.
Lòng sầu, mãi nghĩ khôn nguôi,
Chợt đêm mộng thấy một người tới thăm.
Ung dung bước tỏa hào quang,
Đó đây man mác sen vàng gió hương.
Trao cho vua tập Kim Cương
Rằng “đây cửa đạo chân thường Như Lai.
Từ bi trí huệ cao dày,
Đó là Phật tánh xưa nay tỏ tường.
Thuyền lan sáu cánh qua sông,
Tịnh, ô thì cũng một vòng khởi duyên.”
Tỉnh ra vua sạch ưu phiền,
Phát tâm sám hối, khởi nguyền thanh cao.
Nguyện đem công đức hướng vào
Cõi trần mở oán giải sầu chúng sinh.
Đoạn trừ nguồn cội vô minh,
Mở khai chính đạo yên bình muôn phương.
Trần gian hóa hiện thiên đường,
Tràn đầy trí huệ tình thương diệu vời.
Đức hiền rờ rỡ mặt trời,
Khiến cho cây cỏ muôn loài nở vui.
Quốc vương thệ nguyện dứt lời,
Suối thần hòa điệu, hoa tươi nở đầy.
Nhạc vàng thoảng gió đâu đây,
Trên không chợt hiện vừng mây tuyệt vời.
Giữa mây chư vị thần trời
Khen vua nguyện lớn cứu người tham mê.
Mai sau ngộ nhập Bồ-đề,
Đạo trường thanh tịnh bốn bề hòa duyên.
Mở khai muôn tạng kinh hiền,
Kết thành hoa báu hương thiền diệu âm.
Quang Minh đúng bậc nhân vương,
Bấy giờ khắp nước dựng trường đạo khai.
Từ tâm thấm khắp muôn loài,
Nên ngày kia có một người thợ săn
Đến khi bệ kiến vua hiền
Tâu chuyện săn bắn nơi miền đất xa.
Hôm kia gã ở rừng già,
Gặp con voi trắng như là tuyết rơi.
Mang bành khảm ngọc sáng ngời,
Lên non hái trái lại rời khe mây.
Rình theo lâu mới được hay
Voi thường nuôi mẹ ngày ngày động hoang.
Cuối khe trên nắm cỏ vàng,
Voi già nằm đó thân tàn trơ xương.
Vội vàng gã đến trào cương
Trình lên thánh thượng tỏ tường việc kia.
Ví bằng cho bắt voi về,
Thì xin dẫn đến động khe cuối rừng.
Vua trầm ngâm giữa ngai rồng,
4.200. Truyền đem vàng bạc thưởng công chu toàn.
Phán rằng “tình mẹ nghĩa con,
Dù cho trăm biển nghìn non nào bằng.
Từ bi là tính thường hằng,
Xem trong muôn loại cũng chung đạo trời.
Dù cho vật đổi sao dời,
Từ tâm trí huệ đời đời truyền lưu.
Giá gương phủ lấy nhiễu điều,
Tình như biển rộng bao nhiêu nước vừa.
Để voi ở lại rừng xưa,
Sớm hôm nuôi mẹ cho vừa hiếu tâm.”
Thợ săn bái tạ hoàng ân,
Lĩnh vàng bạc thưởng lui chân quay về.”
Kể xong, Phật bảo “voi kia
Đã chăm nom mẹ sớm khuya một lòng.
Nên sau nhẹ nợ cõi hồng,
Lại nương chính pháp thoát vòng trần lao.
Như chim thần vút cánh cao,
Đại phương cõi Phật ra vào nghiêm trang.
Đó là hiền giả A-nan
Hiện thân giữa chốn đạo tràng tịnh tu.
Còn người quản tượng cho vua,
Mượn vòng lụa bạch kiếp xưa hủy mình.
Kiếp này cũng dứt vô minh,
Như đêm thu nguyệt hương quỳnh thoảng bay.
Là ông Xá-lợi-phất đây,
Kiếp xưa điều tượng, kiếp này điều tâm.
Khởi giác tính, bạt mê lầm,
Như sen thường trụ trong đầm tanh hôi.
Dù cho muôn kiếp luân hồi,
Cũng theo đại nguyện cứu người tham mê.
Trong sinh tử hiện Bồ-đề,
Trí bi tự tánh hiện về nơi nơi.
Còn vua, nguyện cảm đất trời,
Phát tâm độ khắp muôn loài khổ đau.
Kiếp trần trôi nổi đã lâu,
Ra vào nguyện giải oán sầu lầm than.
Ngục sâu chuyển hóa Niết-bàn,
Ra tay tế độ vô vàn chúng sinh.
Từ tâm vua Đại Quang Minh,
Kiếp xưa khai sáng đạo lành là đây.
Giờ thân hiện xuống cõi này,
Trần gian dẫn lối, chỉ bày Phật tâm.”
Đài cao tỏa ánh hương trầm,
Suối xa thoảng tiếng thủy cầm líu lô.
Người nghe thoát khỏi mê đồ,
Lâng lâng bước nhẹ dưới bờ liễu dương.
25. Phép giới trai
Ngày xưa trong rừng đàn hương
Có nhà mái lợp mây vương sớm chiều.
Đường lên khúc khuỷu cheo leo,
4.250. Lội qua con suối lưng đèo cỏ non.
Cửa rừng đôi nhịp cầu son,
Dưới tàng hoa trắng, hao mòn bóng in.
Thế tôn ở giữa đồi sim,
Mái leo hoa mướp, rào vin mây trời.
Tiếng thơm truyền khắp nơi nơi,
Ngày kia mới có một người phương xa.
Chẳng nề thân phận đàn bà,
Băng sông vượt suối tìm qua Kỳ-hoàn.
Trải bao trăng gió quan san,
Con đường muôn dặm nguy nan ngại nào.
Một lòng cầu đạo khát khao,
Như chim hạc nhớ mây cao cánh hường.
Bước chân vừa đến đạo trường,
Sầu tan theo hạt sương vương sớm ngày.
Rừng trầm phảng phất hương bay,
Quanh thềm đệ tử ngồi vây điệp trùng.
Tiếng nào như nắng tan sương,
Tiếng nào như áng văn chương nhiệm mầu.
Nghe xong cởi oán tan sầu,
Sông mê ai bắc nên cầu từ quang.
Phật tuyên giới ngọc đạo vàng,
Như hoa sen nở nghiêm trang trời người.
Luật như bảo ngọc khôn dời,
Giới như áo giáp hộ đời bình yên.
Là kiếm quý bạt ưu phiền,
Là mưa xuân đượm khắp miền an vui.
Truyền lưu tuệ mệnh đời đời,
Ao công đức thủy tẩy người trần sa.
Bấy giờ tín nữ Từ Hòa
Chắp tay đứng dậy thiết tha nguyện cầu:
“Nhân duyên chẳng biết bao lâu,
Các con nay được pháp mầu cứu ra.
Chúng sinh như số phù sa,
Biết đâu thánh giới để mà cầu nghe.
Cúi xin Đại đức chở che,
Rộng tuyên đạo lý kết bè qua sông.
Dù cho biển cả nên cồn,
Tấm lòng giới hạnh giữ tròn, dám phai.
Dù nơi góc biển chân trời,
Còn thân còn nguyện cứu đời oan khiên.”
Phật truyền “vì đại nhân duyên,
Phước căn muôn kiếp đã chuyên tích trồng.
Các con hãy nhớ ghi lòng,
Pháp đưa qua cõi lửa hồng tham sân.
Phá muôn giả tướng phù vân,
Người tu ác quỉ thiên thần cũng theo.
Tâm thân lợi lạc muôn điều,
Khiến cho muôn loại cũng chiêu cảm hiền.
Nhân lành nên khởi thiện duyên,
4.300. Nơi ngục lửa cũng như trên cõi trời.”
Bấy giờ đại chúng ghi lời,
Như đêm tối bỗng tỏa ngời ánh trăng.
Từ Hoà lại đứng thưa rằng
“Bạch Thầy: về chốn xa xăm ngại ngần.
Bây giờ con trở bước chân,
Đường đi muôn dặm phù vân dãi dầu.
Ngó vời xanh ngắt cồn dâu,
Hoàng hôn rồi lại nhuốm màu hoàng hôn.
Biết đâu bèo dạt sóng dồn,
Mốt mai đất viễn, gửi hồn cỏ cây.
Lấy chi đền đáp ơn dày,
Lấy chi soi tỏ đường ngay, nẻo tà?”
Trên thềm Phật ngự hiền hòa,
Phóng hào quang hiện đóa hoa nhiệm mầu.
Cánh sen ghi mấy dòng châu,
Là trang thơ chép nghìn câu pháp hiền.
Phật rằng “dù chốn ải biên,
Tụng dòng kinh nọ cũng yên đất trời.
Lời tan phiền não ba đời,
Như hương lan tỏa người người thơm lây.”
Cánh hoa chép pháp cầm tay,
Từ Hòa lễ tạ, ai hoài bước đi.
Theo buồm mây trắng vân vi,
Thỉnh kinh mầu nhiệm, tu trì khuôn thiêng.
Xuôi dòng chim liệng sao nghiêng,
Thuận buồm xuôi gió như trên đất bằng.
Đường sông qua hết mùa trăng,
Đã trông thấp thoáng vân đằng cô thôn.
Về làng hai buổi sớm hôm,
Gõ cây tụng niệm, giữ lòng giới trai.
Thuận trong cho đến hòa ngoài,
Cứu người thương vật một tay xá gì.
Coi đời như bóng mây đi,
Như không hoa hiện, như vì sao băng.
Thân tâm nghiệm đạo thường hằng,
Bồ-đề thắp ngọn tâm đăng chốn này.
Một đêm đang tụng tờ mây
Chợt nghe ai tán đức dày trên không:
“Chị như chim lạc chim hồng,
Chí tâm tụng niệm những dòng hương hoa.
Muốn dâng người một món quà
Để gieo quả phúc muôn tòa bảo kim.
Đó là ngài Mục-kiền-liên,
Cùng Xá-lợi-phất hóa duyên ta-bà.
Hiện đang trú ở rừng già,
Cách đây con suối tìm qua cũng gần.
Cúng dường là đại nhân duyên,
Là đường dẫn đến diệu huyền Như Lai.
Chị nhớ khi cúng lễ trai,
4.350. Nhắc cho hai vị gọi loài thần tôi
Sẽ đem hoa của đất trời
Kết thành hương khói tuyệt vời cúng dâng.”
Từ Hòa cất tiếng hỏi rằng:
“Ai trong đêm tối vân đằng qua thôn?”
“Em đây là Tỳ-sa-môn,
Đại vương trị một thiên đường xa xôi,
Đang khi theo áng mây trôi,
Dừng nghe chị tụng bồi hồi luyến thương.”
Từ Hòa đáp “quả lạ thường,
Người trời kẻ tục đôi đường khác xa.
Có đâu máu mủ một nhà,
Xưng hô em, chị nghe mà khó xuôi.”
Thần cười: “dù tục, dù trời
Cũng là con thảo dưới ngôi Phật hiền.
Người cha của khắp nhân thiên,
Gieo trồng nhân thiện các miền khác chi.
Chị là vị ưu-bà-di,
Tôi ưu-bà-tắc có gì xa đâu.
Cùng mang pháp chủng cao sâu,
Cùng nguyền đem đạo nhiệm mầu độ tha.”
Bấy giờ tín nữ Từ Hòa
Hiểu rằng chung một người nhà Thế tôn.
Hỏi thăm xiết đỗi mừng lòng,
Rằng “ngài gọi đến tên ông làm gì?”
“Chị ơi thần lực oai nghi,
Nghe tên tôi, quỉ ma về hầu nghe.
Lại nhờ đạo lực chở che,
Dần dần cảm hóa, tu trì theo gương.”
Nói rồi thần lại lên đường,
Giữa trời loé sáng dị thường vụt bay.
Từ Hòa thầm lặng ngất ngây,
Cảm vì oai đức cao dày đức Cha.
Lòng thương trải khắp trần sa,
Trí ngời khiến cả ta-bà kính thương.
Dù là ác quỉ thiên vương,
Cũng nhờ đuốc sáng soi đường tiến tu.
Mải ngồi dưới bóng trăng thu,
Song thưa bóng nhạt chó tru chuỗi dài.
Dưới lầu sớm vọng tiếng ai
Trình rằng bên suối rừng ngoài đầu thôn,
Con thấy hai vị sa-môn,
Là người bà vẫn kính tôn sớm chiều.
Vội vàng vén mở rèm thêu,
Tóc huyền tay chuốt, dép điều chân khoa.
Gọi người thu dọn cửa nhà,
Truyền người sắm sửa trái hoa cúng dường.
Còn thân tự đến rừng sương
Tìm ngay cội liễu bên đường thỉnh thưa:
“Lòng con như hạ chờ mưa,
4.400. Ngưỡng trông Tam bảo khắc giờ khôn nguôi.
Giờ con tha thiết đón mời,
Xuống nơi thôn dã cho đời ân chiêm.
Bấy giờ ngài Mục-kiền-liên
Cùng Xá-lợi-phất theo chân xuống làng.
Nắng mai rực rỡ sương vàng,
Ngón chân hồng nở, bên đàng hoàng rơi.
Trai đường vừa ghé tới nơi,
Trầm ùn hương tịnh sân ngời cánh hoa.
Uy nghi hai vị, hai tòa,
Theo sau thí chủ một nhà dâng hương.
Đầy thôi hoa trái cúng dường,
Hương pha chén ngọc, trầm vương đũa ngà.
Dưới thềm tín nữ Từ Hòa
Đứng hầu cung kính một nhà trang nghiêm.
Tiệc tàn hầu nữ hai bên,
Bưng hai chậu nước dâng lên người dùng.
Rửa tay xong, ngồi ung dung,
Mục-liên chú nguyện khắp vùng bình yên.
Từ Hòa cung kính thưa liền:
“Xin ngài gọi đến tên thần Tỳ-sa.”
Duyên do lại thực trình ra,
Gặp thần ghé lại đêm qua trước lầu.
Sư rằng “cội đức dày lâu
Nên chiêu cảm cõi nhiệm mầu thần tiên.”
Bạch thầy: “con có nhân duyên,
Thường khi thần hiện báo riêng đôi điều.
Hoặc là che chở muôn chiều,
Tình như cha mẹ từ bao nhiêu đời.
Hoặc khi cứu vật giúp người,
Quỉ thần tán thán những lời vàng son.
Hoặc khi cúng dường sa-môn,
Thần còn mách bảo đôi đường thiệt hơn:
Vị này chứng quả Đà-hoàn,
Hoặc là Bồ-tát, hoặc phàm phu Tăng.
Nhưng con vẫn dạ khăng khăng
Một lòng cung kính thường hằng xưa nay.”
Tôn giả tán thán “hay thay!
Vô phân biệt thí, hạnh này dễ đâu.
Cũng vì kiến chấp dày lâu,
Trí phân biệt nọ, tâm mầu dần che.
Một đường xả ngộ lìa mê,
Tự tâm bi trí hiện về tỏa soi.
Làm gương cho khắp trời người,
Truyền lưu nghiệp đức đời đời còn thơm.
Phật dạy sáu pháp cúng dường,
Đó là nguồn cội con đường nhân thiên.
Một là bố thí bịnh nhân,
Hai là cho khắp kẻ bần đói ăn.
Ba giúp cơ nhỡ muôn phần,
4.450. Bốn là dắt dẫn qua cơn hiểm nghèo.
Năm là cung dưỡng Tỳ-kheo,
Sáu là giáo hóa muôn điều an vui.
Rộng thương khắp vật khắp người,
Một tâm bình đằng khôn dời sớm hôm.
Chiều nay đón đức Thế tôn,
Cùng đại chúng ghé qua thôn cuối rừng.
Con mau tìm đến lễ mừng,
Phúc duyên này dễ đã từng mấy ai.”
Nói rồi tôn giả chắp tay,
Nghiêm trang y pháp về ngay đạo trường.
Từ Hòa sửa lễ cúng dường,
Sáng sau một kiệu hoa hương viếng Người.
Một vùng lau lách xanh tươi,
Trang trại mây trắng ẩn vời núi sâu.
Phật đang phơi áo bên cầu,
Trên bãi cỏ tím như màu chiều sa.
Búp tay ngón ngọc ngón ngà,
Mặt như trầm ngọc chan hòa từ nghiêm.
Nàng đem hoa trái dâng lên,
Phật cười, chỉ đến bên thềm đá cao.
Ngài ngồi trên võng tơ đào,
Hoa rơi y Phật khác nào tuyết bay.
Chim vàng lảnh lót đâu đây,
Trong êm như suối đầu ngày vừa sa.
Mừng thay, con mới gặp cha,
Tấc lòng tự sự biết là sao nguôi.
“Thầy ơi, từ thuở xa Người,
Thân con ải viễn chân trời khôn quên.
Dù cho núi não sông phiền,
Tiến tu giới huệ, nhiệm huyền biết bao.
Như người vượt biển theo sao,
Cánh thuyền nổi giữa ba đào như không.
Tháng ngày tha thiết ngưỡng trông,
Mở con mắt huệ dứt vòng trần lao.
Xóm con hằng vẫn khát khao
Được ngài giáo hóa, ra vào ân chiêm.”
Thưa rồi lễ tạ lui chân
Tìm đi khắp chốn xa gần hỏi thăm.
Liêu kia có một vị nằm
Trùm y thiếp ngủ mê man bệnh thời.
Vừa khi vị nọ trở người,
Từ Hòa mới đến ngõ lời hỏi thăm.
Người rằng “bệnh đã lâu năm,
Nhân khi thời tiết bất thường phát ra.”
Trông thầy tín nữ xót xa
Thưa rằng “ngài đã dùng qua thuốc gì?
Hoặc còn cần thiếu vị chi,
Cứ cho con biết kịp thì cúng dâng.”
Người rên: “thuốc đã đủ dùng,
4.500. Duy còn thịt để nấu chung là cần.”
“Chiều nay con sẽ dâng lên
Để người trị liệu cho liền bệnh thân.”
Cúi chào mau trở bước chân,
Về thôn kiếm khắp xa gần thịt tươi.
Dù tìm khắp chợ, khắp nơi,
Đến khi nắng xế mặt trời chênh non.
Dù là một miếng thịt con,
Cũng không chuốc được để còn kịp dâng.
Tưởng khi người bệnh thiếp nằm,
Đợi hoài ai vẫn biệt tăm cuối trời.
Vả chăng đã hứa một lời,
Thân ta quên được chứ lời chẳng sai.
Liền cho cửa đóng then cài,
Tự tay lóc thịt gửi ngay đến người.
Đầm đìa một vũng máu tươi,
Đau như xé ruột mỉm cười như nhiên.
Khiến cho kẻ dưới người trên,
Nào ai hay rõ chỉ riêng đứa hầu.
Cũng nhờ thuốc đắp cầm mau,
Nếu không máu đã tuôn trào như mưa.
Tớ hầu kịp đến rừng đưa,
Vị kia đem thịt đun vừa lượng ăn.
Cũng nhờ nguyện lực tinh thành,
Uống vào một bát bệnh lành như không.
Từ Hoà có một người chồng,
Gã là thương khách theo sông buôn đò.
Mỗi năm mùa nước lên to,
Chở hàng xuôi ngược giang hồ bán buôn.
Ham tiền nhẹ nghĩa vợ chồng,
Để ai buồn lắng ngùi trông phương trời.
Nửa năm một chuyến đò xuôi,
Ghé về chốc lát lại dời bước chân.
Mặc người vò võ thu xuân,
Lầu trơ hiên nguyệt, cửa ngần khóa sương.
Lò trầm ai biếng thêm hương,
Gối thêu bụi tỏa, đài gương gió mờ.
Nửa năm lửa đợi, hương chờ,
Một ngày vừa sáng tinh mơ rộn lời.
Ầm ầm đập cửa trăng rơi,
Vừa về đã rộn những lời nọ kia.
Thôi thì tiếng bấc tiếng chì,
Thôi thì hoạnh họe, thôi thì chê bai.
Thấy vợ nằm bệnh than dài,
Gọi gia nhân gặng tra hoài căn duyên.
Con hầu như sự trình lên,
Rằng “bà lóc thịt cúng dường sa-môn.”
Vừa nghe trợn mắt phùng mồm
Ra đường la lối rằng phường nọ kia.
Lời thêm tiếng bớt thiếu gì,
4.550. Thỏa tình bêu riếu khinh khi đủ đường.
Tin kia đưa đến đạo trường,
Có người Phạm chí khinh thường Như Lai.
Duyên do cứ thực tỏ bày,
Phật truyền cho gọi đến thầy sa-môn.
Rằng “nhận y, thực cúng dường,
Phải tìm hiểu rõ tận tường nguyên căn.”
Thầy trình: “trong lúc bệnh hành,
Vội đem điều trị cho lành, ngờ đâu!”
Thưa rồi, mặt héo rầu rầu,
Phát lòng sám hối cúi đầu quì hương.
Phật dạy ba pháp y nương:
Là bất tịnh nhục chẳng thường được ăn.
Thấy người giết vật, chấp tranh,
Hoặc nghe tiếng vật lòng đành làm ngơ.
Hoặc còn một tín mười ngờ,
Đều là bất tịnh mê mờ bất nhân.
Phải thường thâu nhiếp tâm thân,
Chẳng cho vọng niệm tham sân dấy lòng.”
Nói rồi Phập phóng thần thông
Hóa thân trên đỉnh mây hồng vút bay.
Gã kia đang lúc rượu say,
Hết hành hạ vợ, lại dày vò con.
Từ Hòa nằm thiếp trên giường,
Người trong xóm tụ bên đường lao xao.
Bỗng dưng một ánh bạch hào
Thành mây năm sắc bay vào chơi vơi.
Hóa thân Phật ngự lưng trời,
Trên tòa sen quý sáng ngời oai nghi.
Như tinh tú hiện muôn vì,
Như ngàn ngọn núi lưu ly rỡ ràng.
Giữa mây lác đác sen vàng,
Hương đâu thoảng ngát thôn làng đẹp tươi.
Gió thơm lay tỉnh lòng người,
Bừng cơn ác mộng, diệu vời chân tâm.
Từ Hòa chợt bỏ chỗ nằm,
Vết thương chân đã nguyên lành như xưa.
Chồng nàng cũng tỉnh mê mờ,
Gặp nhau yêu kính như vừa thành hôn.
Hào quang Phật chiếu qua thôn
Hóa thành mưa nhẹ tươi cồn lá hoa.
Bấy giờ khắp xóm khắp nhà,
Niềm vui tràn ngập thuận hòa yêu thương.
Buồn phiền như thoảng tơ sương,
Ngưỡng trông oai đức Pháp vương diệu vời.
Mừng thay ánh sáng ra đời,
An lành chung cả đất trời cỏ cây.
Rủ nhau tìm đến trang mây,
Suối xa âm vọng vơi đầy tiếng chim.
Cửa rừng qua nhịp cầu sim,
4.600. Mây bay lên đỉnh, hoa in đáy giòng.
Vi vu tiếng hát rừng tùng,
Tiếng chuông trầm xuống vô cùng thiên nhiên.
26. Nàng Vân Anh
Xưa, miền núi đó đẹp vui
Bên sông uốn khúc in trời như tranh.
Có người trưởng lão hiền lành
Dựng nhà bãi núi, vườn xanh bốn mùa.
Ngày vui xới đất trồng hoa,
Vuốt râu cười giữa Ta-bà khói sương.
Khi trà dưới rặng liễu dương,
Khi rong thuyền rượu dõi đường đào nguyên.
Và khi theo Phật hóa duyên,
Bước chân mầu nhiệm khắp miền thanh sơn.
Lại cùng Tăng chúng ngắm sương,
Câu thơ xướng họa trong vườn hồng mai.
Hiếm hoi cầu tự khắp nơi,
Mới được một gái tuyệt vời sắc hương.
Sinh ra mang dấu lạ thường,
Cổ ngà có sợi tơ vàng quấn quanh.
Sợi vàng tỏa sáng long lanh
Ba ngày, tự lúc Vân Anh chào đời.
Mẹ cha quý trọng tơ trời
Như sợi chỉ mảnh mà dai vô cùng.
Dẫu khi tắm rửa, bế bồng,
Dẫu khi nghịch dứt đều không hề gì.
Tháng ngày thơ ấu trôi đi,
Đường hoa nâng gót xuân thì dậy hương.
Tuổi vui đuổi bướm trong vườn,
Gió say vuốt cặp má thơm ửng hồng.
Đào thơ môi hé cánh nhung,
Mắt huyền thu cả dòng sông khuynh thành.
Đất hiền chung đúc tinh anh,
Vườn cao rực rỡ một cành kiêu sa.
Rào xuân ong bướm khó qua,
Đã nhiều anh tuấn phương xa, chốn gần
Cậy người mai mối cầu thân,
Mà khuê trang vẫn chưa lần thuận nghe.
Lòng băng còn mãi hướng về
Nẻo đường tế độ, xa lìa trần lao.
Những đêm lặng ngắm trăng sao,
Những ngày thoáng cánh chim cao vượt ngàn,
Là tâm lại thấy mang mang,
Nỗi thương xót chốn đoạn tràng những ai.
Một hôm nàng mới thưa lời,
Xin cha mẹ dẫn đến nơi đạo trường.
Song thân nghe biết ý nàng,
Mừng khen con trẻ chọn đường lợi tha,
Nên cùng lựa trái, đơm hoa,
Thắng xe bốn ngựa hồng ra lễ đài.
Núi xanh thả gió theo người,
5.450. Triền xanh lau lách bồi hồi tiễn đưa.
Tùng lâm mây biếc thướt tha,
Hoa leo vàng nở đơn sơ mái hiền.
Dưới cây từng bệ đá thiền,
Hàng hàng Tăng lữ trên thềm tọa không.
Dáng như đá động trầm truông,
Dưới hoa thoảng mấy lò hương ngạt ngào.
Gặp Phật gieo hạt bên cầu,
Y tơ thấp thoáng như màu triêu dương.
Vân Anh quì xuống bên đường,
Nắng soi hạt biếc lá vương diệu vời.
Thưa: “con như hạt mưa rơi,
Phúc duyên đậu chốn tỏ ngời đài hoa.
Như mây tha thướt nắng tà,
Giờ xin quyết chí xuất gia tu hành.
Để sao nghiệm được chân tâm,
Nguyện về chuyển nghiệp mê lầm trần gian.
Cứu người trong kiếp nguy nan,
Tùy phương diệu dụng Niết-bàn mở khai.”
Miệng xinh vừa ngỏ hết lời,
Vòng tơ xưa bỗng lại ngời hào quang.
Long lanh bao tỏa thân nàng
Rồi tơ lại hóa lụa vàng pháp y.
Trước bao mắt thấy lạ kỳ,
Phật truyền cho một lão ni dẫn về.
A-nan dưới cội hoa lê
Thấy người khai ngộ chuyển mê lạ lùng.
Uy nghi như cánh chim hồng
Đạp mây vỗ cánh vượt vòng trần lao.
Bèn thưa: “nghiệp mệnh ra sao,
Sợi tơ bỗng hóa pháp bào lạ thay?”
Thế tôn kể chuyện: “Trước đây
Tỳ-bà Phật xuống cõi này mở khai.
Nơi thôn kia có hai người
Vợ chồng nghèo khó sống đời xác xơ.
Chỉ còn một bộ vải thô
Thay nhau mặc lúc cần đồ che thân.
Chồng đi cày mướn kiếm ăn
Thì vợ đóng cửa ở trần, biết sao!
Đến ngày, bên triền núi cao
Có Phật về độ, tin vào thôn kia.
Chồng mượn quần áo đem về,
Hai người mới rủ nhau đi đón mừng.
Non mai lác đác chim rừng,
Vùng quanh kéo đến tưng bừng hội vui.
Trên tòa đá dựng chơi vơi,
Đức Từ bi ngự, ban lời độ tha.
Ngài khuyên: “cứu giúp người ta,
Với lòng thương xót, chính là thiện căn.
Thương người như thể thương thân,
5.500. Chẳng còn bờ vực ngã nhân chia lìa.
Giúp người tỉnh thức huyễn mê,
Giúp người hết sợ, mọi bề bình an.
Giúp người đói khát miếng ăn,
Giúp người hiểu biết nghĩa nhân với người.
Chia tiền, sẻ của mà vui,
Giàu nhiều, nghèo ít, tùy nơi sức mình.
Nay hằng gây các nhân lành,
Mai sau cõi thế quyền danh, ngọc ngà…”
Vợ chồng như nở lòng hoa,
Về thôn gặp một cụ già ăn xin.
Gầy khô, rách rưới thảm phiền,
Tựa ngoài vách đất, lặng yên cúi đầu.
Xót xa, người vợ hỏi chào,
Rồi vào gài cửa, cởi trao áo quần.
Rằng “tôi thấy lão một thân,
Thành tâm nhường giúp manh quần áo đây.
Xin người nhận tấm lòng này,
Đó là pháp Phật hiện bày chính chân.”
Cụ già đứng nghĩ phân vân:
”Vợ chồng này cũng manh quần mặc chung.
Cho ta biết lấy gì dùng,
Lấy gì che nắng che sương lần hồi.
Cửa kia đã đóng chặt rồi,
Mà lòng bố thí cõi trời mang mang.
Người vì trí Phật, pháp vàng,
Thì ta đem vải cúng dàng lên Tăng.
Lòng kia rực rỡ sao trăng,
Khiến mình vượt thoát nghèo nàn tiến tu.”
Thế rồi tâm niệm nam mô,
Đường xa, tìm đến bên hồ nguyệt soi.
Phật cùng tứ chúng người người,
Đuốc hồng như thể chân trời sao sa.
Cụ kia chẳng quản thân già,
Bên thềm dâng bộ vải thô ra trình:
”Nhờ ơn Tam bảo chứng minh,
Dẫu nghèo cực vẫn giàu tình nghĩa thay!”
Phật rằng “sau kiếp vị lai,
Phúc nhân bể rộng sông dài nào hơn.”
Nghe qua pháp hội vui mừng
Tâm kia như thể hương rừng chi lan.
Trong thành, trưởng giả, vua, quan
Đều thương quý tấm lòng vàng biết bao.
Cùng nhau tiền của góp vào,
Tìm đôi nghèo nọ để trao, gọi là…
Lại cho thóc giống gieo mùa,
Từ tâm khiến cả gió mưa thuận hòa.
Lộc vua ban khắp nhà nhà,
Núi non thôn xóm ngợi ca đức hiền.
Cũng nhờ gặp đại nhân duyên,
5.550. Hạnh lòng bố thí, dâng lên cúng dàng.
Dù muôn ức kiếp bụi vàng,
Vào ra tơ báu thường mang bên mình.
Kiếp này như cánh phượng linh,
Tâm mầu hé mở bình minh cõi người.
Như hoa linh thoại trong đời,
Thiên thu nguyên khối vàng ngời ngọc hoa.
Như trầm xông cõi Ta-bà,
Mười phương pháp giới cũng là trang nghiêm.”
Trong rừng thoảng tiếng chim khuyên,
Nghe xong bể não non phiền sạch không.
Trông ra mấy cội đào hồng,
Ngàn cây đơm ngọc, mấy đồng tuyết hương.
27. Tiền thân của vị vua trời
Thôn xưa, hoa nở rực đường,
Sớm mai trời biếc sương vương dặm dài.
Lá xanh như vạn mây đài,
Đựng muôn hồng ngọc tỏa soi diệu kỳ.
Chân trời mây lẫn cò đi,
Cánh như lụa uốn xanh rì thảm tơ.
Sóng xa vọng tiếng đò đưa,
Gió thơm từ núi mai mơ thoảng về.
Bước chân mở đạo Bồ-đề,
Bình mình trên tấm hoàng y tỏa ngời.
Đức Ca-chiên-diên là ngài,
Gót như hạc nổi, mây trời lâng lâng.
Ngài đi về phía trời hồng,
Nương khoai xanh ngắt, bềnh bồng chim ca.
Chợt trông thấy một lão bà
Ôm thân rách rưới lệ sa sụt sùi.
Tôn sư nghe, dạ bùi ngùi,
Dừng chân mới hỏi thăm người nọ kia.
Bà rằng “thầy hỏi làm chi,
Thân già nghèo khổ ra gì cái thân.
Một đời cơ cực gian truân,
Bây giờ tuổi lão ai cần mướn tôi.
Làm gì được, lúc mòn hơi,
Tìm đâu được một chút vui, đời tàn…!”
Nghe rồi, ngài Ca-chiên-diên
Dùng thần lực trút ưu phiền bà kia:
“Thân già nào đáng sợ chi,
Cái vui, đâu phải tuổi gì mới vui.
Có con đường lớn sáng ngời,
Gắng đi, tất sẽ đến nơi ước cầu.
Ngồi đây trách oán thảm sầu,
Vùi mình trong khổ, ai đâu cứu mình.”
Bà nghe chợt nảy lòng thành,
Xin thầy chỉ dẫn đường lành cho ra.
Sư rằng “bà xuống bến kia
Ngâm mình dưới nước tắm cho sạch người.
Rồi lên trút giọt mưa ngời,
5.600. Đọng trên lá đó, xong rồi lại đây.”
Vâng lời, bà lão đi ngay,
Cố công theo đúng lời thầy bảo cho.
Khi bình trút đầy nước mưa,
Dâng lên tôn giả, nương nhờ thiền oai.
Thầy truyền thập giới, trường trai,
Cùng pháp quán niệm đêm ngày tam quy.
Xong rồi tôn giả lại đi,
Đường xa in bóng hoàng y chập chờn.
Lão bà chống gậy lui chân,
Cây khô lại nở mạch xuân rì rào.
Ôm bình về tới thôn đào,
Tìm riêng xó chợ ai nào thèm qua.
Gặp người lắm chuyện rầy la,
Cũng im: vọng đức Phật-đà tín tu.
Chợ tan, giúp việc dọn thu,
Lòng vui, mật niệm nam-mô không ngừng.
Lại đem gạo vãi cơm vương,
Phát cho tổ kiến bên đường vào ra.
Một đêm dưới ánh trăng tà,
Bà ngồi quán tưởng Phật-đà lâng lâng.
Bỗng nghe sáo nhạc từng không,
Chư tiên ngự hạc cưỡi rồng xuống chơi.
Hương thơm thoảng ngát từng trời,
Tàn vàng kiệu ngọc tỏa ngời bảo châu.
Hoa muôn sắc, quả muôn màu,
Mời bà lên chốn ngọc lâu non Bồng.
Sáng ra, kẻ dưới trần hồng
Nhìn thấy bà lão bên trong vườn đào.
Lại xem thì chết từ lâu,
Nhưng xác ngồi tựa vách lầu ngắm hoa.
Mặt tươi như sạch trần sa,
Chủ vườn vội kéo xác ra ngoài rừng.
Trong khi trên đỉnh thiên cung,
Thức linh đã hiện tại rừng đào khai.
Bà nhờ công đức giới trai,
Làm vua Đao-lợi cõi trời vàng châu.
Chốn tiên nào biết ưu sầu,
Thung dung ngày tháng nhiệm mầu thần thông.
Lại đêm trăng chiếu cội hồng,
Ngài Xá-lợi-phất khởi lòng vân du.
Ngài vào khép cửa phòng tu,
Thần thông đi khắp Diêm-phù tiêu dao.
Lại vòng lên mấy vì sao,
Đâu đâu ngài cũng ghé vào thăm chơi.
Chợt qua Đao-lợi cung trời,
Thấy thiên vương nọ tỏa ngời hào quang.
Ung dung ngài tới điện vàng,
Vua kia vội tới cúng dàng thánh Tăng.
Đang khi vui chuyện thiên đường,
5.650. Ngài liền hỏi thử nguyên căn vị này.
Vua trời rằng “phải nhờ thầy,
Căn ta còn mỏng, chưa dày huệ tâm.
Làm sao rõ được tiền thân,
Xin thầy vẹt bóng mây vần cho coi.”
Ngài dùng tuệ nhãn chiếu soi
Tiền thân của vị vua trời hiện đây.
Bên rừng giữa mấy lùm cây,
Tuyết còn ủ một xác gầy trơ xương.
Trí vua liền sạch mây vương,
Bấy giờ mới được tỏ tường tiền thân.
Cũng nhờ thiền lực oai thần,
Bỏ thân nghèo khổ tìm thân cõi trời.
Lòng vua thương cảm bồi hồi,
Chư tiên bay lại dâng lời hỏi han.
Mây năm sắc kết xe loan,
Vua cùng ngọc nữ, các quan thiên đình
Xuống trần đúng chốn rừng xanh,
Nửa đêm tỏa sáng long lanh diệu vời.
Chiên đàn gỗ chất chơi vơi,
Xác kia lại đặt trên nơi lửa bừng.
Khói thơm đưa khắp miệt rừng,
Hoa tiên trải cúng mấy từng mây vương.
Các nhà đây đó trong thôn
Nhận ra ánh sáng, hương thơm huy hoàng.
Hoa trời theo gió chiên đàn,
Trông như thấp thoáng tơ vàng từng mây.
Lại nghe nhã nhạc đó đây,
Thiên tiên rực rỡ trùng vây ánh hồng.
Vội tin khắp Bắc, tây, đông,
Người người ra chật ruộng đồng ngắm coi.
Bảo nhau “vạn kiếp muôn đời
Dễ gì gặp được người trời xuống đây!”
Bấy giờ từ chỗ xe mây,
Vua trời Đao-lợi giãi bày trước sau:
“Tiền thân cuốc bẫm cày sâu,
Duyên may gặp pháp nhiệm mầu Phật Tăng.
Trường trai mười giới thường hằng,
Tiến tu qua mấy mùa trăng đã thành.
Được lên ở chốn thiên đình,
Là nhờ kiếp trước đinh ninh nguyện cầu.
Nhân nào quả đó theo nhau,
Tu thân nào kể bạc đầu, tuổi xanh.
Giờ đây gọi chút duyên lành,
Thiên tiên gặp khách phàm trần phút giây.
Đền ơn Phật pháp sâu dày,
Gọi là câu chuyện thức người tham mê.
Ai không sợ lúc hồn lìa,
Luân hồi sáu ngả vẹn bề nhân duyên.
Hãy lo cội phúc hiện tiền,
5.700. Đừng lo quả phúc nhân thiên sau này.
Gieo nhân hẳn sẽ có cây,
Khổ vui cũng một thân này buộc thân.
Nay đông mai hẳn sang xuân,
Có trời thì hẳn mười phần có ta.
Khi mê phúc tội Hằng sa,
Tỉnh mê tội phúc như hoa bóng trời.
Dù thân dưới ngục ba đời,
Cũng là thanh tịnh cõi trời Hóa thiên.
Trùng trùng duyên khởi nhân duyên,
An vui cũng đó, ưu phiền cũng đây.
Tỉnh lòng chẳng một phút giây,
Thiện tâm bừng khởi cũng đầy tam thiên.”
Nghe xong gió não sóng phiền,
Tan khi vừng nguyệt hiện lên chiếu ngời.
Chim bay man mác lưng trời,
Nhân thiên như bóng mây rời rừng kia.
Như nghìn suối cuộn pha lê,
Như sông giục nước tìm về vườn sương.
Xa trông ánh sáng dị thường,
Hào quang của đấng Pháp vương trời người
Như đêm biến hiện mặt trời,
Như ba cõi nở nụ cười trí bi.
28. Chàng Kim Thiên
Ngày xưa, nơi biệt thất kia,
Gần non sim tím, bốn bề cúc lan.
Chim ca trong nội cỏ vàng,
Nghe văng vẳng thấy âm đàn suối tơ.
Phu nhân sinh trẻ khôi ngô,
Cành cao, lộc quý trổ vừa tiết Đông.
Bé trai bụ bẫm trắng hồng,
Hơi thơm như thể cánh bông nhung hường.
Khi sanh, điềm báo dị thường,
Một hồ sen bỗng bên đường hiện ra.
Đáy hồ men bóng vàng pha,
Bên hồ liễu biếc la đà tóc lơi.
Nước thơm man mác say người,
Sen vươn mặt nước xanh tươi bao ngành.
Người nghe tin lạ, điềm lành
Về xem như hội, từ thành thị xa.
Ngợi khen phúc báo danh gia,
Tu nhân tích đức nếp nhà quý thay.
Từ non xa, có một thầy,
Mày râu tuyết điểm, nương cây trụ thiền.
Tới xem tướng tốt trẻ hiền,
Cho tên hai chữ Kim Thiên rỡ ràng.
Bảo “mai mốt giúp nhân gian,
Con đàng hóa độ là đàng con đi.”
Nói xong thầy trở gót về
Non cao động biếc bốn bề khói mây.
Thu xuân đưa chuyển tháng ngày,
5.750. Thời gian xoảy vó, ngựa say dặm vàng.
Kim Thiên danh tiếng đã vang,
Ai ai cũng kính yêu chàng đức cao.
Dáng oai đường bệ anh hào,
Vẻ hiền trầm mặc trăng sao đêm hồng.
Điển kinh ý tự uyên thông,
Trí như nhật nguyệt rộng lòng biển khơi.
Nguyện như núi vững khôn dời,
Thiếu niên đã hiện vẻ người trượng phu.
Khi vào đá động trầm tư,
Khi đêm tàn nguyệt thi thư nức phòng.
Khi vui cuộc rượu trăng trong,
Khi đàn thu dạ đầu sông bóng thuyền.
Mẹ cha bàn định nhân duyên,
Chọn nàng dòng dõi trong miền không xa.
Sắc tươi là vẻ chúa hoa,
Nết hiền là những dòng thơ khói trầm.
Khi sinh nàng cũng lạ lùng,
Một ao bèo cũ hóa vùng hồ sen.
Rồi ngày chàng đến cầu duyên,
Song thân đẹp ý, đôi bên gặp chào.
Trông nhau cũng thấy lạ sao,
Vẻ quen như đã thuở nào tiên tri.
Ngỡ ngàng đâu dám hỏi chi,
Bâng khuâng đôi dạ suốt kỳ hứa hôn.
Tới ngày ngựa đón kiệu son,
Gối thơm chung mộng, trăng tròn sánh vai.
Cùng nhau tâm sự đủ lời,
Vẫn không nhớ đã gặp hồi nào xưa.
Đành cười coi gặp trong mơ,
Hai phương đồng điệu chuốt tơ hữu tình.
Một đêm chợt vọng âm thanh,
Chuông chùa tự đỉnh non xanh thức lòng.
Như vừa tỉnh giấc trần hồng,
Nhìn ra vằng vặc hoa đồng nguyệt pha.
Hồ như vọng tiếng thiết tha,
Từ thiên thu gọi người về siêu nhiên.
Lâng lâng sạch não tan phiền,
Dường trong suối mạch thu xuân reo hò.
Tiền thân thoảng hiện giấc hồ,
Lênh đênh khổ hải lô xô cánh buồm.
Đêm vàng thoảng sợi tơ chuông,
Nghe như thoảng ngát mùi hương tịnh trầm.
Kiếp nào làm cội hoàng tâm,
Đôi chim hát núi nghỉn năm vụt về.
Kiếp nào làm cội Bồ-đề,
Cho mây giải thoát ôm kề sớm hôm.
Kiếp nào làm chớp làm sương,
Kiếp nào lau lách bên đường cái quan.
Và từ kiếp nọ nghèo nàn,
5.800. Vợ chồng cuốc núi, ươm lang bên rừng.
Một chiều nắng dãi mù sương,
Hai người riêng tạo thiên đường bướm hoa.
Dưới non, đường khách lại qua,
Vợ chồng mới dựng túp nhà cỏ thơm.
Ngày ngày lên ngọn suối tuôn,
Hứng bình nước mát cúng dường chúng sanh.
Sớm hôm bao kẻ bộ hành,
Dừng chân uống nước, nghe mình thảnh thơi.
Thương thân như thể thương người,
Chẳng cầu lợi lộc tham lời ngợi ca.
Một hôm gặp Phật đi qua,
Hóa duyên từ một miền xa ghé vào.
Lều tranh bên cội hoa đào,
Uống thêm bát nước mát sao lạ thường.
Cúng dường mà chẳng cúng dường,
Chỉ còn một tấm lòng thương mới là.
Phật nguyện cho bậc tín gia,
Mười phương thế giới cũng là một thân.
Chín muơi mốt kiếp phù trần,
Tâm kia như khối ngọc thần tỏa soi.
Vợ chồng khăng khít lứa đôi,
Vào ra sáu nẻo luân hồi như không.
Bây giờ nghe tiếng chuông hồng,
Tiếng “om” thiền lực thoảng đồng trăng sao.
Xô tan vách mộng thành sầu,
Đất phiền nảy hạt nhiệm mầu cỏ hoa.
Như đêm tối nguyệt hiện ra,
Như chim linh thoại tiếng hòa vô thanh.
Nghìn năm là giấc mộng xanh,
Sớm ra hóa hiện trên cành nguyệt mai.
Trần gian là chặng đường dài,
Còn ai thiên cổ dấu ai đi về.
Bâng khuâng bến thực thuyền mê,
Tay không lần chuỗi Bồ-đề cũng không.
Dường trong một thoáng chuông đồng,
Chín mươi mốt kiếp trần hồng nổi nênh.
Mà trong một hạt bụi trần,
Chín mươi mốt kiếp xuân thu tiêu điều.
Gặp trong đáy mắt yêu kiều,
Tạng kinh vô tự cao siêu nhiệm huyền.
Bãi ngô thoảng tiếng chim khuyên,
Đầu non đã hiện một viền thái dương.
29. Dứt Lụy Trần
Một thời đức Phật du phương,
Ngự trong vườn trúc mây vương biếc chiều.
Bên dòng suối cát trong veo,
Gian nhà cỏ dựng mây neo hững hờ.
Trên thảm cỏ nhung ven bờ,
Dưới cội hoa trắng vật vờ hoàng hôn.
Người ngồi quanh Phật Thế tôn,
Trước Ngài đặt một lò hương biếc trầm.
Tiếng vang như suối, vọng âm
Khiến chim hòa điệu, khiến đầm hoa lay:
“Trong hàng đệ tử các ngài
Dù đem châu ngọc cho ngoài tam thiên,
Chẳng bằng dứt lụy trần duyên,
Qua sông mê vọng nương thuyền trí bi.
Hoặc trong họ có người đi,
Hay mình tự giác viễn ly vọng trần.
Phúc này lợi lạc muôn phần,
Làm nên mạch sống tinh cần thế gian.
Ngục sâu kia hóa Niết-bàn,
Lòng thương trải khắp trần hoàn an vui.
Dù xây tháp ngọc lưng trời,
Dù hùng lực cứu muôn người hàm oan,
Vẫn là phúc báo thế gian,
Tham mê dẫn lối đưa đàng vào ra.
Chẳng bằng theo bước Phật-đà,
Chuyển thân, khẩu, ý: ba nhà lửa hun.
Thành bi, trí, dũng vô cùng,
Mở khai nghiệp cội, trùng trùng hóa duyên.
Mắt huệ trông suốt dưới trên,
Chí kim cang phá não phiền vọng mê.
Gieo muôn hạt chắc Bồ-đề,
Rợp che bóng mát bốn bề nhân gian.
Như tìm trong đất ngọc vàng,
Chuốt nên ánh sáng rỡ ràng thiên thâu.
Chiếu tan thành quách ưu sầu,
Khiến ma vương phải quay đầu quy y.
Đức cao chẳng phải tư nghì,
Mênh mang biển thẳm xanh rì hư không.
Nếu ai buộc cánh chim hồng,
Ngăn che chí cả trong vòng trần lao,
Thì nghiệp báo phải sa vào
Ngục sâu lửa đỏ khác nào sắt nung.
Tội kia vạn suối nghìn sông,
Tạo nên biển khổ mênh mông sóng vời.
Xuất gia như cánh chim trời,
Mười phương là tổ, người người là thân.
Trí bi nguồn cội đức nhân,
4.650. Thấm nhuần muôn loại xa gần nhớ ơn.
Như hồ nở đóa sen thơm,
Giới hương đưa khắp mười phương tỉnh lòng.
Đưa nhau vượt thoát trần hồng,
Niết-bàn tự tại nơi lòng đại bi.
Thân như khuôn ngọc lưu ly,
Gương cho ba cõi hướng về tín tu.
Là xe pháp hóa Diêm-phù,
Nối đèn tiếp lửa cho dù biển dâu.
Là tinh tú giữa đêm thâu,
Là chùm Bắc đẩu, là cầu từ quang
Diễn bày ý ngọc lời vàng,
Bước chân tỉnh giác trên đường chính chân.
Như trời hiện đám từ vân,
Chuyển cơn mưa pháp muôn phần đẹp tươi.
Nở hoa giữa ngục ba đời,
Trong hư vọng mỉm môi cười như nhiên.
Mười phương chống một gậy thiền,
Giọt sương cam lộ in viền chân như.
Dòng dòng triệu quyển nghìn thư,
Khế phương diệu dụng chuyển đưa độ đời.
Ngục sâu hết chúng sinh rồi,
Niết-bàn cũng tự lòng người hiện ra.”
Bấy giờ chủ một trang hoa,
Là bực trưởng giả hiệu là Phúc Tăng.
Tiền kho bạc đụn ai bằng,
Ngựa đeo bành ngọc, xe chăng gấm vàng.
Trước sau vườn thúy thềm lam,
Sớm trà luận đạo, khuya đàn hòa mây.
Tuổi cao đức rộng phúc dày,
Thi thư nối nghiệp có bầy con ngoan.
Từ nghe pháp dưới chiều vàng,
Trở về lòng những mơ màng xuất gia.
Một đêm nghĩ lại chuyện qua,
Những là dục lạc, những là quyền danh.
Tuổi xuân thoảng giấc mơ xanh,
Tỉnh ra đã thấy đầy cành đông mai.
Dẫu là trăm vẻ trang đài,
Dẫu là mở cõi Bồng lai dưới trần,
Dẫu là vàng đúc ngọc cân,
Dẫu là cứu giúp xa gần nơi nơi,
Dẫu là danh tiếng tột vời,
Chẳng sao chuộc được tuổi đời qua mau.
Xá chi quyền quý sang giàu,
Xá chi ngày tháng dài lâu hồng trần.
Một trò chơi suốt bao xuân,
Quẩn quanh ảo giác não cân rã rời.
Bây giờ tung cánh chim trời,
Thiên thu ai biết ai người qua đây.
Lênh đênh sớm Bắc chiều Tây,
4.700. Như chim cất cánh hợp bầy hồ giang.
Ông lẻn đi khỏi hoa trang,
Một thân tìm đến đạo tràng vườn kia.
Như chim nhớ núi tìm về,
Khi trông hoa lả mây kề ngõ mai.
Như nước nguồn nhớ sông dài,
Khi tim rộn rã máu ngày thanh xuân.
Vội vàng nhẹ lướt đôi chân,
Hồ như kẻ trốn nợ nần bấy nay.
Vừa vào ngõ trúc hoa bay,
Gặp thiền sư tọa dưới cây trầm hùng.
Lòng ông đang khấp khởi mừng,
Thân dường tan biến giữa rừng cỏ hoa.
Gặp ngày Phật hóa duyên xa,
Tìm thầy Xá-lợi nơi nhà quản Tăng.
Ông quỳ cung kính thưa rằng:
“Thân con tục lụy thế gian đã từng.
Bây giờ muốn phát đại tâm,
Chuyển lòng cởi nghiệp y nương bấy ngày.
Nhờ ơn tiếp dẫn nơi thầy,
Chở che bóng mát nương cây Bồ-đề.”
Biết rằng người phát tâm kia,
Hẳn căn cơ đã đến kỳ mở khai.
Thử lòng cho chắc một hai,
Sư rằng “tuổi cụ đã ngoài chín mươi.
Sức đâu tụ tập với người,
Để truyền năm giới về nơi thôn nhà.
Thứ nhất hạnh tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Vả chăng ốm yếu già nua,
Con đường tầm đạo gió mưa nào chừng.”
Nói xong ông bỏ vào trong,
Phúc Tăng nghe dậy nỗi lòng ủ ê.
Chân dời đến gốc hoa kia,
Nghĩ thân nặng nghiệp đầm đìa lệ rơi.
Tuổi xuân xưa đã bay rồi,
Tiếc hơn vàng ngọc gieo nơi biển trùng.
Bây giờ lòng có nhớ thương,
Cũng đành trông bóng mây vương cuối ngày.
Bụi trần chẳng muốn thêm dây,
Tính đem thân gửi hồ này một phen.
Hồn ta hiện với cánh sen,
Theo hơi hương ngát dâng lên cúng dường.
Bỗng đâu hiện đến đầu đường,
Như cơn mây đỏ vương vương ráng chiều.
Phật cùng đại chúng Tỳ-khiêu
Ôm bình về tới, y điều nghiêm trang.
Gót chân trầm mặc sen vàng,
Bước đi thanh thoát dưới hàng liễu mai.
Phúc Tăng vội đến bên Ngài,
4.750. Ôm chầm tay đức Như Lai rạt rào.
Thốt thưa lời mãi nghẹn ngào,
Hai dòng lệ nóng thấm vào áo hương.
Phật đưa năm ngón tay hường
Vuốt đầu trưởng giả như tuồng cha con:
“Lòng ông so với ngàn non,
Non tuy mòn lở chẳng mòn tâm ta.
Tuổi ông dù đã nua già,
Chí còn nguyện dứt ta-bà vô minh.
Vị chí mà lại trầm mình,
Nghìn năm khó gặp thân hình giả đây.
Tiến tu nào kể một ngày,
Hoát nhiên khai ngộ khắc giây cũng là.
Bây giờ đã biết nương ta,
Nghiêm trang giới pháp gắng mà vượt mê.”
Phúc Tăng chống gậy theo về,
Cây cao trầm lặng bốn bề ra hoa.
Lựa ngày làm lễ xuất gia,
Mục-liên được chọn theo mà sửa sang.
Giới nghi pháp phục đường hoàng,
Rõ ra Tăng tướng nghiêm trang khác người.
Sớm trưa thấm thoát đến ngày
Lập đàn truyền giới họp bầy cao Tăng.
Kiếp xưa nhờ lắm thiện căn,
Nên chi vào đạo học hành thông mau.
Nhưng vì tập nhiễm dày lâu,
Cậy vào tuổi tác nên dầu với ai.
Kiêu căng tỏ ý, hiện lời,
Thiền nghi thiếu hẳn vẻ người khiêm cung.
Khiến cho đại chúng buồn lòng,
Có người răn bảo thuận trong đạo tình.
Phúc Tăng nghe đó làm thinh
Bỏ đi ra vẻ bất bình lắm thay.
Nghĩ rằng ta tuổi chừng này,
Khiêm cung chỉ với một Thầy mà thôi.
Các ông bằng tuổi con tôi,
Giở chi cái vẻ ăn ngồi bực trên.
Càng suy càng lắm buồn phiền,
Định vào rừng chết cho yên thân rồi.
Mục-liên thiền lự trên đồi,
Dùng thiên nhãn chiếu sáng ngời gần xa.
Bên khe thấy đệ tử già,
Dưới dòng nước bạc vừa sa thân gầy.
Ngài dùng thần lực vớt ngay,
Thần thông đạp nắm mây bay xuống bờ.
Thấy thầy lòng những ngẩn ngơ,
Phúc Tăng còn tưởng giấc mơ tỉnh dần.
Rằng “con xả phú cầu bần,
Tìm nơi giải thoát nương thân cuối chiều.
Vì còn thói xấu tật kiêu,
4.800. Lòng toan tự sát cho tiêu nghiệp trần.
Trần gian sớm dứt nợ nần,
Đem bùn tanh xuống rửa chân giữa dòng.”
Mục-liên thầm nghĩ trong lòng,
Chẳng trồng nhân thiện lại mong quả lành.
Dễ chi vào cửa phù trần,
Trăm nghìn vạn kiếp một lần khó thay.
Non vàng khó sánh thân này,
Xô tan mê vọng tự tay mới là.
Phải dùng thần phép hóa ra,
Làm phương cứu chữa lòng già đảo điên.
Bèn truyền “nắm áo bay lên
Giữa hư không chớ có quên điều này.
Cấm lòng loạn tuởng đó đây,
Nhiếp tâm chính niệm theo thầy vân bôn.”
Phúc Tăng vừa nắm áo xong,
Bỗng như một sợi tơ hồng vút cao.
Bên tai mây cuộn ào ào,
Như bông hoa nhỏ rơi vào từng không.
Chẳng bao lâu hạ bên cồn,
Ầm ầm biển réo ghê hồn dưới chân.
Còn đang đứng lặng phân vân,
Thầy trò đã gặp một thân đàn bà.
Xương lòi, thịt thối rã ra,
Một con bọ lớn như là ngón tay
Quẩn quanh bò khắp đó đây,
Hết luồn hố mắt, lại vầy vành môi.
Hai người ngó xác sình ôi,
Quán thân bất tịnh, lát rồi lại đi.
Giữa đường gặp một nữ nhi,
Vai đeo chảo lớn đi về biển reo.
Thầy trò dừng bước ngó theo,
Cô kia múc nước, ôm trèo bãi cao.
Đun sôi rồi tự nhảy vào,
Rã tan xương thịt bọt trào gớm ghê.
Lửa tàn vạc cũng khô đi,
Gió đâu thổi bốc bụi gì tanh hôi.
Tự nhiên lại hiện thân người,
Lại ôm vạc xuống rú cười giờ lâu.
Phúc Tăng nhắm mắt quay đầu,
Tính xin thầy chỉ trước sau ngọn ngành.
Thấy ngài trầm mặc trang nghiêm,
Lại thôi chẳng dám nhìn lên ngỏ lời.
Thầy trò lại tiếp đi ngay,
Vừa qua một quãng đường dài đã nghe
Tiếng rên non nỉ tỉ tê,
Từ thân cây nọ bốn bề sâu ăn.
Phúc Tăng nhác thấy rợn mình,
Vội vàng xoải bước thu hình lướt qua.
Thầy trò thêm một quãng xa,
4.850. Thấy non kiếm dựng sáng ngời hôi tanh.
Bỗng từ đỉnh núi một anh,
Lăn mình trên kiếm thân phanh nát nhừ.
Ròng ròng máu đỏ như mưa,
Phúc Tăng hồn phách bấy giờ tiêu tan.
Vội vàng lướt xoải bước chân,
Cuối đường hun hút phù vân dật dờ.
Thầy trò lại gặp bên bờ
Một bầy quỉ dữ hét hò rượt theo
Một người mình rắn đầu beo,
Trên đường lẩn trốn hiểm nghèo gớm ghê.
Cung tên giáo mác bốn bề,
Hàng ngàn mũi nhọn lao về liên miên.
Vừa trông thấy Mục-kiền-liên,
Một bầy quỉ dữ phục bên đường dài.
Phúc Tăng sợ chẳng ra hơi,
Một lòng tưởng Phật chẳng rời niệm thiêng.
Lại theo cất bước trèo lên,
Núi xương ai chết ngay bên vệ đường.
Thầy trò lên đỉnh núi xương,
Nhìn ra muôn sóng trùng dương dựng thành.
Phúc Tăng khiếp đảm nhìn quanh:
“Xin thầy chỉ dạy ngọn ngành trước sau.
Vì đâu người nấu vạc dầu,
Vì đâu cây nọ rầu rầu đứng kêu.
Vì đâu núi kiếm thân bêu,
Vì đâu trăm nỗi nghìn chiều thảm thương.”
Thầy truyền: “ác báo tai ương,
Vô thường tìm chốn vô thường vào ra.
Tự ta lại buộc thân ta,
Non cao dễ vượt ái hà khó vơi,
Bãi kia một xác sình ôi,
Đó là vợ đẹp của người khách thương.
Theo chồng, đang vượt trùng dương,
Vào ra nhồi phấn soi gương bấy ngày.
Một đêm gió dập mưa vầy.
Lao đao thuyền nọ chìm ngay giữa dòng.
Còn đâu má phấn môi hồng,
Hồn nương ngọn sóng, thân bồng bềnh trôi.
Biển nào giữ xác sình ôi,
Dạ-xoa, La-sát trả hồi đất kia.
Nàng vì tham sắc chưa lìa,
Đọa thân trùng nọ đi về coi trông.
Chấp mê giả tướng bụi hồng,
Quẩn quanh ái ngã trong vòng trần lao.
Nên làm kiếp bọ ra vào,
Hố tai hố mắt khác nào động hang.
Theo tâm vọng huyễn tham lam,
Chấp đâu lại lựa con đàng về đâu.
Kẻ nào cậy thế sang giàu,
4.900. Tranh cơm kẻ khó, đạp đầu dân đen.
Đầy lòng xiểm nịnh ghét ghen,
Đoạt tiền, cuớp vợ, bán quyền, tranh công.
Trước là mắc bịnh hàn phong.
Lạnh như vùi tuyết nên lòng ước ao
Lửa hơi, thân chết đọa vào,
Hỏa thiêu địa ngục khác nào nấu nung.
Hoặc người mưu đoạt ruộng nương,
Phá chùa thờ Phật, giảng đường chư Tăng.
Giữ giam người chốn giá băng,
Ăn gian, ăn bớt áo quần phát ban.
Trước là bệnh nhiệt khô ran,
Chết đi hồn đọa ngục hàn cứng thân.
Đớn đau nhức nhối trăm phần,
Xương khô thịt nát như dần xác xơ.
Hoặc người tích trữ đầu cơ,
Khiến dân đói khát, vật vờ nơi nơi.
Trước là mắc bịnh đầy hơi,
Chê cơm sợ nước, đọa loài quỉ kia.
Đói như lửa đốt bốn bề,
Mỗi năm tháng bảy kéo về giựt ăn.
Hoặc người ngu muội mê sân,
Khinh chê chính đạo nhân luân bỏ ngoài.
Đốt kinh xé sách Như Lai,
Đọa vào kiếp thú đời đời ngu si.
Nếu người trí dũng từ bi,
Giữ gìn năm giới quy y thánh hiền.
Một lòng thương dưới kính trên,
Chẳng làm phiền não láng giềng ai ai.
Một khi trút bỏ hình hài,
Thân không bịnh khổ tâm ngoài an nhiên.
Nghe kinh, ngắm tượng ân chiêm,
Khởi tâm bố thí phát nguyền thanh cao.
Lìa thân, thần thức sinh vào,
Cung trời Đâu-suất ăn đào trường sinh.
Hoặc trần gian chốn hiển vinh,
Hiền ngoan rất mực thông minh khác người.
Đều do niệm sắp lìa đời,
Dẫn vào địa ngục, lên trời cũng đây.
Tu nhân: niệm thiện khai bày,
Chính tâm tưởng Phật đài mây đón về.
Tịnh độ là cõi lưu ly,
Thần thông trí tuệ từ bi một lòng.
Hoặc sinh nơi cõi trần hồng,
Muôn tai nghìn nạn cũng đồng tránh qua.
Ác nhân: niệm khởi xấu xa,
Lại tìm ngục khổ ái hà báo thân.
Đều do tâm lúc lìa trần,
Dù vinh hay khổ muôn phần cũng đây.
Tiến tu cởi nghiệp sâu dày,
4.950. Linh quang hóa hiện phương Tây cõi thường.
Thị kia chết đuối trùng dương,
Vì tham luyến chút phấn hương tẩm người.
Thức linh đọa xuống thân giòi,
Vào ra quanh quẩn trông coi giả hình.
Còn người đun nước trầm mình,
Tiền thân bóc lột sinh linh đủ điều.
Lại còn thề thốt gian điêu,
Bây giờ họa báo trăm chiều gớm ghê.
Sau đây hỏa ngục lại về,
Mới là quả báo bốn bề chém đâm.
Còn cây than khóc bên đường,
Khắp mình sâu đục như dường đớn đau.
Tiền thân là vị Tỳ-khiêu
Lấy của thường trụ dùng nhiều việc riêng.
Họ hàng kẻ dưới người trên,
Lại nhờ của đó bon chen làm giàu.
Bây giờ thân hóa làm sâu,
Rúc quanh cây nọ đớn đau muôn chiều.
Còn người mình mọc trăm đầu
Bị bầy ác quỉ theo sau rượt hoài,
Trước hay săn bắn muôn loài,
Bây giờ đày đọa bi ai nào chừng.
Còn người lăn đỉnh rừng gươm,
Thây băm máu đổ như tuồng nát tan.
Kiếp xưa là vị tướng quân
Xông pha xâm lược dấu chân máu đầy.
Bây giờ gươm giáo phanh thây,
Ngục sâu thăm thẳm dạn dày một thân.
Còn đây xương chất trắng ngần,
Là ông ngày trước tiền thân một thời.”
Phúc Tăng nghe nói điếng người,
Nhìn xem một đống xương phơi rõ ràng.
Thầy rằng “tương báo oan oan,
Cũng do nhân quả con đàng vào ra.
Thuở xưa có vị vua cha
Trị vì rất mực nhân hòa không hai.
Dưới trên cho đến trong ngoài,
Nhân dân hòa thuận nơi nơi nể vì.
Dân giàu nước mạnh kể chi,
Vua cha lấy đạo từ bi hóa người.
Có một thái tử ham chơi,
Ưa môn cung kiếm chê lời hiền lương.
Nhà vua vì nặng lòng thương,
Ngờ đâu mở cửa cho phường tặc nhân.
Khi vua trăm tuổi an phần,
Bốn phương khói lửa dấu chân bạo tàn.
Xông pha trúc chẻ ngói tan,
Dưới chân thái tử ngàn ngàn thây phơi.
Sinh người chẳng dạy thành người,
5.000. Thà đem vương quốc trao mời hiền nhân.
Tội con cha gánh muôn phần,
Nên vua hiện xuống làm thân cá tràng.
Biển đông một cõi nghêng ngang,
Dưới lòng sóng động chiêu hàng cá tôm.
Loại này sợ ánh thái dương,
Chỉ chờ đêm tối mới trường mình lên.
Một ngày trời nổi mây đen,
Sóng gầm biển động tưởng đêm nào ngờ.
Cá liền len đến ven bờ,
Phơi thây nằm ngủ vật vờ sóng trôi.
Nào ngờ mây kéo cơn rồi,
Nắng hồng ló dạng lưng trời chói chang.
Thảm thương thay kiếp cá tràng,
Bốn bề chỉ thấy hào quang chói lòa.
Mắt mờ đâu lối vào ra,
Đành nằm bờ cát chờ mà siêu sanh.
Đầu thai vào giữa vương thành,
Cũng nhờ kiếp trước tu hành dày lâu.
Sinh ra gặp chỗ sang giàu,
Tiền kho bạc đụn vàng châu kể gì.
Nhân xưa nở hạt từ bi,
Cứu người thương vật quản chi của trời.
Còn đây kiếp trước xương phơi,
Mây che đỉnh ngọn, sóng dời dưới chân.”
Phúc Tăng nhập hóa siêu thần,
Nghe như thoát khỏi nghìn cân đá cùm.
Nghĩ tâm muôn ngọn sóng trùng,
Nổi nênh sinh tử vô cùng réo trôi.
Hốt nhiên tâm vọng bao đời
Tan như sương khói lưng trời thoảng bay.
Thầy trò lại biến lên mây,
Dưới chân thăm thẳm sóng đầy trùng dương.
Thầy như hoa đốm hư không,
Trò như một cánh chim hồng theo sau.
Mây bay nườm nượp ngang đầu,
Hạ chân đã thấy cây cầu suối ngang.
Thầy trò về tới đạo tràng,
Hòa nhan ái ngữ giữa hàng chúng Tăng.
Thân hồng như tỏa hào quang,
Miệng từ như đóa sen vàng đơm hương.
Sớm nghe chim hót bên giường,
Chiều trông khói thoảng vây vương trước lầu.
Một đêm gặp Phật trên cầu,
Chỉ viền trăng dưới dòng sâu tỏa vàng.
30. Chú Tâm Mai
Một thời sau Phật Niết-bàn,
Bốn phương rực ánh huy hoàng trí bi.
Khói hương tự viện xanh rì,
Nơi nào nơi chẳng triển thi đạo vàng.
Khiến cho các nước lân bang,
5050. Bỏ theo tà đạo quay sang lẽ thường.
Theo nhau thiết dựng đạo trường,
Như sen thắm nở ngát hương Ta-bà.
Khắp nước gác chuyện can qua,
Tín tâm trai giới nhà nhà an vui.
Đạo như mưa tỉnh lòng người,
Như trăm hoa nở dưới trời chiêu dương.
Đất kia có đồi lan hương,
Mùi thơm quyện áng sương vương sớm chiều.
Bên khe suối bạc tịch liêu,
Nhã-lan của vị Tỳ-khiêu trụ trì.
Ngày ngày cùng một Sa-di,
Trồng khoai cấy sắn sá gì nắng mưa.
Như đồi lan nở bốn mùa,
Xuân thu ngó nắm hoa đưa suối nào.
Vàng son mặc cuộc chiêm bao,
Bưng tai chuyện thế rì rào gió thu.
Bao năm ngồi lắng tâm tu,
Soi trăng viết sách đền bù Đàn-na.
Hoặc khi niệm Phật dưới hoa,
Hoặc chiều quán tưởng mây sa cuối ngày.
Hoặc khi cuốc núi trồng cây,
Đói no một chén vơi đầy cũng xong.
Thênh thang ngoài cửa bụi hồng,
Đầy lòng thiền vị vơi lòng ngô khoai.
Thôn bên có một nhà người,
Ruộng cò thẳng cánh, lưng trời lầu cao.
Vườn thu vừa chớm nụ đào;
Tên nàng Ánh Ngọc, ra vào cợt hoa.
Hoặc khi chuốt tiếng tỳ bà,
Sau mành thả tóc la đà trầm bay.
Hoặc khi tựa cội liễu gầy,
Hồ in bóng khiến vơi đầy sóng xanh.
Trong vùng đã rộn yến oanh,
Lầu còn toả kín một cành quỳnh thu.
Nhân ngày vào Hạ tháng Tư,
Chị em sắm sửa lên chùa dâng hoa.
Đu đưa võng tía quạt ngà,
Lưng non ẩn hiện mái nhà khói hương.
Cheo leo vượt mấy ngã đường,
Gió thoang thoảng ngát suối vương vương lòng.
Qua cầu tay vén rèm hồng,
Nhìn ra gặp tiểu nhác trông khác người.
Mặt như nửa trái đào tươi,
Mắt thăm thẳm phượng, môi ngời ngời son.
Đơn sơ dưới bộ nâu sòng,
Dường như chú lội xuống dòng tìm chi.
Vừa trông, ửng má xuân thì
Như cây rạo rực tới kỳ đơm hoa.
Cầu tre nàng đã đi qua,
5100. Chừng còn tiếng suối la đà lòng xuân.
Ngờ đâu lưng núi mây vần,
Mái tranh ẩn giấu văn nhân tuyệt vời.
Đã nghe chú mấy tháng trời,
Tâm Mai đây, hẳn tên người học Tăng.
Chị em vào tiến hương đăng,
Nhà đôi mái cỏ, hoa giăng ngoài rào.
Trước sau bờ trúc thềm đào,
Hồng chuông vẳng giữa non cao lặng thầm.
Lò đồng toả khói đưa hương,
Trên đài sen tượng Pháp vương hiền từ.
Ánh Ngọc nghe tiếng nam-mô,
Nhác trông còn tưởng giấc hồ liêu trai.
Đón vào nghỉ giữa nhà trai,
Người đâu mũi trúc, mày ngài nghiêm trang.
Thết trà ướp cúc hoa vàng,
Tiểu Mai nâng chén đưa sang mời chào.
Bàng hoàng Ánh Ngọc nghiêng chao,
Tách trà thơm đổ hoen vào áo tơ.
Tâm Mai thay chén trà đưa,
Khiến ai đôi má ửng vừa trái hương.
Chị em bày lễ cúng dường,
Hỏi ra hoà thượng du phương chưa về.
Giúp nhau sửa lại dung huê,
Rồi lên chính điện chỉnh tề lễ dâng.
Nhìn tay ai nhịp hồi chuông,
Khiến nàng quỳ dưới lòng thầm nao nao.
Suối xa vẳng tiếng thì thào,
Lễ xong, ngỏ ý xin vào vườn mai.
Bước son tha thướt trang đài,
Dưới hoa, khép nép một vài nữ lưu.
Tiểu Mai dẫn trước đăm chiêu,
Bước qua rừng liễu muôn chiều nghiêm trang.
Đàng sau thỏ thẻ oanh vàng,
Tiếng cười tiếng nói dưới hàng đào khai.
Ánh Ngọc xin nhánh hoa cài,
Lại nhờ chú tiểu Tâm Mai bẻ giùm.
Người thì ưng ửng hoa dung,
Người thì muôn vẻ ngượng ngùng trao hoa.
Đã trông chênh chếch bóng tà,
Nàng còn bịn rịn, cáng hoa giục về.
Qua dòng suối nhỏ pha lê,
Soi nghiêng liễu ủ hoa ê mấy bờ.
Cửa tùng đôi cánh trơ trơ,
Người ơi biết đến bao giờ gặp nhau.
Một đoàn kẻ trước người sau,
Hoàng hôn vội giục bước mau đường vàng.
Thôn xa ùn ngọn khói lam,
Bâng khuâng cánh nhạn sang Nam xạc xào.
Nhạn vui rừng lý khe đào,
5150. Mặc hoa vườn kín lầu cao một mình.
Nàng về ngưỡng cửa gia đình,
Mà lòng trăm mối tơ tình vấn vương.
Thế rồi, tóc biếng ươm hương,
Song khuya tựa cửa đêm trường nép hoa.
Chiều chiều thơ thẩn vào ra,
Tình vương cửa Phật mới là trớ trêu.
Ngày qua ngày lại tiêu điều,
Mẹ cha lo lắng đã nhiều hỏi han.
Cho dù săn sóc thuốc thang,
Ủ ê hồn quế mơ màng vóc mai.
Khi mê sảng, lúc nói cười,
Tưởng rằng quỷ bệnh, cho mời thiền sư.
Thầy trò xuống núi vân du,
Về thôn tụng niệm đền bù tín gia.
Vừa nghe nàng tỉnh mặt hoa,
Đòi đi lễ Phật, cả nhà mừng vui.
Vừa thấy mặt, đã ngậm ngùi,
Cầm lòng chẳng được, sụt sùi lệ vương.
Bấy giờ cha mẹ tỏ tường,
Bể tình ai dễ đo lường nông sâu.
Ông bà to nhỏ phòng sau,
Trăm phương ngàn kế cùng nhau luận bàn.
Ông đòi rẽ phượng lìa loan,
Bà xin lo lắng vẹn đường cho xong.
Vả chăng tánh trẻ đương nồng,
Phu thê là nợ đèo bồng trái oan.
Bây giờ rẽ phượng riêng loan,
Biết đâu ngọc nát, vàng tan cũng là.
Tính vào hơn hẳn bàn ra,
Lệnh ông nào đọ cồng bà xưa nay.
Ông trầm ngâm hiến mưu hay,
Mời tiểu ở lại đôi ngày tụng kinh.
Để dò cho rõ ngọn ngành,
Phải duyên thì cũng tác thành có sao.
Rồi ông lựa dịp thưa vào,
Xin Tâm Mai ở thôn đào đôi hôm.
Đưa thầy trở bước chùa hương,
Theo chân suốt mấy dặm trường chưa chia.
Sư dặn: "thôi để thầy về,
Nghiêm trì lịnh giới chốn quê là nhà.
Vả chăng yếu lý Phật-đà
Như sen nở giữa ái hà bùn hôi.
Dù trong sinh tử ba đời,
Trí bi thì cũng là nơi Niết-bàn.
Giờ thầy về chốn non lan,
Cửa thiền ai để lửa tàn nến trơ."
Bóng thầy sương toả đường mờ,
Tiểu Mai còn đứng thẩn thờ ngó theo.
Non xa vương áng mây chiều,
5200. Ven đường lau lách tiêu điều ùn sương.
Gia nhân đến giục lên đường,
Kịp về kinh sách lửa hương đến giờ.
Đường quê trở bước thẩn thờ,
Nhớ non nhớ suối phút giờ chẳng nguôi.
Giữa nơi lạ cảnh lạ người,
Lao xao là thói chợ đời ganh đua.
Quanh chàng kẻ dạ người thưa,
Tưởng lầm ai chẳng mến ưa chốn này.
Thôi thì nệm phủ màn vây,
Đứng ngồi chàng vẫn chưa khuây khoả lòng.
Vẳng đưa sau bức rèm hồng,
Phóng trên ai chuốt tơ đồng nao nao.
Lúc dường sóng thấp sóng cao,
Lúc dường suối lạnh thì thào đâu đây.
Khói trầm thoảng với cung dây,
Mùi hương giục nhớ thương thầy ngẩn ngơ.
Cửa ngoài có tiếng người thưa:
"Mời chú lên gặp ông chờ phòng riêng."
Con hầu khép nép đưa lên,
Tiểu Mai đã thấy thềm trên hai người.
Đón vào dung mạo tươi cười,
Khách phòng trang trí vàng ngời gấm nhung.
Bà rằng: "thấy chú mà thương,
Chẳng hay lệnh mẫu nghiêm đường giờ đâu?
Tuổi xuân như ngọc như châu,
Sớm tìm chi đạo cao sâu Phật-đà.
Chẳng bằng giúp nước giúp nhà,
Am tranh vùi uổng tài hoa của trời."
Tiểu thưa: "oan khổ đời đời,
Cũng vì tham luyến khôn rời sắc thân.
Tốt tươi cũng nắm phù trần,
Đất, nước, gió, lửa xoay vần có, không.
Chi bằng ngoài cửa trần hồng,
Muối dưa ngày tháng vơi lòng tiêu dao."
Ông rằng: "đâu chẳng chiêm bao,
Rồi ai chẳng một hố đào nông sâu.
Xem ra quyền quý sang giàu,
Còn hơn ngô sắn muối rau hợm mình."
Tâm Mai ngồi đó làm thinh,
Nghe lời, lòng những bất bình sâu cay.
Giờ lâu đứng dậy kiếu ngay,
Về phòng cửa đóng then cài nghiêm trang.
Ngoài song lại lảnh tiếng vàng,
Trông ra đã thấy một nàng hầu trao:
"Cô tôi trộm ước thầm ao,
Mượn tôi gửi chiếc quỳnh dao trâm này.
Trăm nghìn xin cậy nhờ tay."
Đưa gói lụa ả kiếu ngay lên lầu.
Hồn chàng vơ vẩn đâu đâu,
5250. Mở trong vuông lụa là màu giấy xanh.
Kèm theo một chiếc trâm quỳnh,
Vừa xem thư ngỏ ý tình lẳng lơ:
"Rằng từ dạo bước vườn mơ,
Phòng thêu ai để hững hờ gió thu.
Hẳn thầy hiểu lẽ đừng tu,
Chữ sinh là trọng, chữ từ là hơn.
Vì ai liễu rũ hoa hờn,
Tử sinh tơ tóc đòi cơn vì người.
Hai ta hẳn nặng thề bồi,
Giờ xin sống thác một đời vẹn trao.
Thân em như dải lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Bây giờ mình gặp nhau đây,
Phận hồng xin cậy lòng thầy từ bi.
Bằng không đành gửi xuân thì,
Lòng này đã chết tiếc chi nữa là.
Nghìn tờ khó giải sầu hoa,
Nến khêu phòng vắng, giọt sa lệ dài.
Xin ai hiểu thấu lòng ai,
Tiện đây gửi chiếc trâm cài làm tin."
Xem xong khép lá thư tình,
Nỗi người vương vấn, nỗi mình hoang mang.
Nghĩ thân muôn trái nghìn oan,
Xuống sông ta rũ bụi vàng cho xong.
Luỵ nhau giả tướng trần hồng,
Quẩn quanh theo mãi một vòng vào ra.
Bước chân quyết vượt ái hà,
Lời thầy thường nhủ biết là sao nguôi.
Vì sao dòng lệ đầy vơi,
Uổng thân trai giới, quên lời nguyện riêng.
Thì trần duyên trả nhân duyên,
Đành đem cái chết chuyển vần nghiệp ai.
Hồn ta nguyện với hồn mai,
Thu, Đông trắng điểm một vài tuyết hoa.
Đôi dòng gửi lại trần sa,
Vòng oan mượn tấm rèm là làm phương.
Năm sau trên đồi lan hương,
Hoa rơi rơi với hồi chuông mơ hồ.
Khi chiều nắng nhạt lưa thưa,
Có người gặp tiểu ni cô hiền hoà.
Nghiêng nghiêng quét gốc mai già,
Rồi đem hoa rụng đổ ra suối dài.
Nước thành một dải tơ mai,
Thầm trông như tưởng bóng ai giữa dòng.
22. Phép mầu khai ngộ
23. Hạnh nguyện
24. Đức vua và con voi
25. Phép giới trai
26. Nàng Vân Anh
27. Tiền thân của vị vua trời
28. Chàng Kim Thiên
29. Dứt lụy trần
30. Chú Tâm Mai
21. Chính Đạo
Trong làn gió sớm vi vu,
Vườn kỳ trăm dặm sương mù còn vây.
Chim vừa thức động lá cây,
A-nan dâng nước hầu Thầy đã xong.
Ung dung đến dưới cội hồng,
Ngồi lên tảng đá, trải lòng từ bi.
Quán mười phương cõi lưu ly,
Nước mây tạo vật thu về một thân.
Dù là mảy gợn vi trần,
Dù là biển lớn xanh ngần sóng khơi.
Dù là sáu nẻo luân hồi,
Cõi tiên cho đến muôn loài chúng sinh
Cũng đồng một thể quang minh,
Cũng đều giả hợp muôn hình hoa không.
Khởi duyên mười cõi trùng trùng
Như trăng phản chiếu giữa rừng ma-ni.
Chẳng hay tiền kiếp nhân gì,
Nhóm Kiều-trần nọ tìm về trước tiên.
Tiếp thu ánh sáng đạo huyền,
Hẳn vô lượng kiếp phúc duyên tạo nhiều.
Nghiệp căn muốn rõ đôi điều,
Lụy phiền ai dễ sớm chiều đổi thay.
Liền tìm bờ suối qua ngay,
Bên kia thấp thoáng áo Thầy nắng pha.
Xuôi dòng man mác đào hoa
Hồng như chân Phật la đà dạo sương.
Thưa thầy: “đại mộng vô thường,
Nhân chi kiếp trước, Kiều-trần phát tâm
Một lòng theo đấng Pháp vương,
Hòa mình giữa biển tình thương mọi loài?”
Nhìn chùm lóng lánh sương mai
Rơi theo dòng nước như đài sao tan.
Ngài vời hiền giả A-nan
Ngồi lên cội đà dưới tàng sương bay.
Phật rằng “nhân trước duyên nay,
Quẩn quanh cùng một cõi này vào ra.
Cách đây vô lượng Hằng sa
Có vua một cõi tên là Đạo Duyên.
Đức ngài quỉ khiếp trời kiêng,
Nước non cường thịnh muôn miền yên vui.
Nhà vua mang đạo trị đời,
Giúp cho tâm trí người người mở khai.
Nghiệp chung thắm đất tươi cây,
Nương chính pháp tám mối dây giữ gìn.
Chánh kiến là pháp thông tin,
2.300. Lấy chân thực tạo muôn nghìn thiện duyên.
Nặng vì dân, nhẹ vì quyền,
Người tin người chẳng giữ niềm ngại nghi.
Giáo dục theo Chánh tư duy,
Dạy người khai mở trăm bề trí, tâm.
Hiển tài đức, bạt mê lầm,
Như mưa xuân đượm ươm mầm tiếp hoa.
Trí, bi tướng dụng điều hòa,
Khơi nên sức sống người ta dạt dào.
Chánh ngữ là pháp ngoại giao,
Người nào chẳng thuận, nước nào chẳng thân.
Khiến cho khắp cõi xa gần
Kết thành một khối nghĩa nhân cộng hòa.
Lại đem xã tắc sơn hà,
Chánh nghiệp là pháp quốc gia an bài.
Người muôn tánh, sự muôn loài,
Dung trong một đức, dung ngoài tùy phương.
Chọn giao đúng bực hiền lương,
Ác ngăn, khuyến thiện, trăm đường thuận duyên.
Chánh mạng là pháp kinh quyền,
Xây nền kinh tế dưới trên đồng đều.
Mỗi người mỗi việc chuyên theo,
Tạo nên cuộc sống muôn chiều văn minh.
Một là lợi lạc dân sinh,
Hai là cộng hưởng thái bình muôn phương.
Lại theo Chánh niệm y nương,
Đắp nền văn hóa trăm đường triển khai.
Phục khôi vương vị con người,
Thăng hoa đến cả trăm loài một tâm.
Hiển trí tuệ giữa mê lầm,
Gieo nhân huệ nghiệp nghìn năm dõi truyền.
Tinh tấn là pháp yên dân,
Nhà giam là chốn tu thân chuyển đời.
Nhân hiền hạnh sĩ nơi nơi,
Cùng về giáo hóa cảm người tham si.
Răn người cốt lấy từ bi,
Trị người cốt lấy vô vi làm đầu.
Nhân duyên gội sạch làu làu,
Yên dân cốt giải oán sầu trước tiên.
Chánh định phép dựng đạo duyên,
Là nền quốc giáo thiêng liêng hóa đời.
Tinh hoa kết tụ nên người,
Chân tâm vô trụ, nơi nơi diệu hành.
Một là mở đức hiếu sinh,
Hai là chuyển nghiệp vô minh sâu dày
Nghiệp riêng tùy chốn, tùy thời,
Nghiệp chung sáng mãi muôn đời còn lưu.
Vua truyền tu thiện mười điều:
Một cấm nghiệp sát lại điều quần sinh.
Khiến trừ phiền não vô minh,
2.350. Tâm không điên đảo thân mình sống lâu.
Dù là trú ngụ nơi đâu,
Hiền hòa giải oán vơi sầu vùng quanh.
Mệnh chung thần thức hóa sanh
Cõi trời an lạc, đẹp lành phúc thân.
Hai cấm trộm cắp bất nhân,
Lại đem bố thí muôn phần rộng xa.
Khiến đời phú quý vinh hoa,
Phước sinh tốt đẹp muôn nhà nể kiêng.
Sáng danh kẻ đức người hiền,
Trong ngoài hóa thuận dưới trên kính nhường.
Ba cấm bất chánh tà dâm,
Khuyên người ra sức lỗi lầm sửa sang.
Khiến nên yên nước yên làng,
Vợ chồng tiết nghĩa, đá vàng nên đôi.
Bốn cấm vọng ngữ dối lời,
Khuyên trọng chân thực cho đời cậy tin.
Khiến lời như ướp hương sen,
Để người phân biệt trắng đen rạch ròi.
Nêu cao gương sáng chói ngời,
Cõi thiên cung kính, người người mến yêu.
Năm cấm miệng lưỡi đôi chiều,
Để giữ hòa hợp thuận theo nghiệp lành.
Giúp nhau tuệ nghiệp viên thành,
Là khuôn thước để chúng sanh theo về.
Dù nơi binh lửa sơn khê,
Phước sinh quyến thuộc mọi bề yên vui.
Sáu lìa ác ý, hại lời,
Là nhân giải thoát khỏi nơi đọa đày.
Bảy cấm lời nói đặt bày,
Khiến bớt ảo ảnh trùng vây trần hồng.
Tám lìa tham dục, bợn lòng,
Khuyên người bố thí chẳng mong đắc cầu.
Nên chi ba nghiệp nhiệm mầu,
Tâm như viên ngọc minh châu dẫn đường.
Chín lìa sân hận vấn vương,
Mưu điều an lạc cúng dường chúng sinh.
Lòng như trời rộng mông mênh,
Trần gian như một gia đình tương thân.
Mười lìa tà kiến mê sân,
Trí như nhật nguyệt xa gần dõi soi.
Tâm tự tại giữa đổi dời,
Nghiệp lành sinh hóa cõi trời lưu ly.
Dân đem công đức hướng về,
Nguyện thành Phật quả, chuyển mê độ đời.
Chân tâm khai mở sáng ngời,
Một thân hóa độ nơi nơi an hòa.
Nghiệp lành trải khắp trùng hoa,
Trần gian dựng một pháp tòa kim cương.
Nước trời thịnh trị mười phương,
2.400. Buổi kia vua ngự thềm hương trăng ngà
Với đoàn cung nữ thướt tha,
Vũ nghiêng nền bích, nhạc sa dặm hồng.
Tay nào nhạn lượn hư không,
Tóc nào hương quyện mây bồng là đâu.
Bước trầm nhạc dịu mưa ngâu,
Áo bay như bướm muôn màu lả lơi.
Tiếng vàng mây cuốn tơ rơi,
Nao nao cánh gió, rã rời nước sông.
Một cung hờn tía sầu hồng,
Hai cung khánh đá chuông đồng vò tơ.
Nửa nghe mây trắng hững hờ,
Nửa nghe chim hót bên bờ khói lên.
Nhà vua đang ngự trên thềm,
Chừng như sênh phách cũng rên sụt sùi.
Chợt đâu hiện đến năm người
Bước chân lảo đảo như rời rã xương.
Nanh nhe, vuốt nhọn dị thường,
Khóc than cảm đến lòng thương vua hiền.
Dắt nhau quì mọp ngoài hiên:
“Bọn tôi Dịch quỉ ẩn miền ngục sâu.
Đi tìm máu mủ nuôi nhau,
Bắt người gieo oán gieo sầu, phanh thây.
Từ ngày vua trị cõi này,
Hoằng khai đạo lớn độ người trầm luân.
Khiến ai cũng hết tham sân,
Tiến tu thập thiện, muôn phần phúc oai.
Dù là ma, quỉ, thần, trời,
Cũng đều theo bảo hộ người thiện tâm.
Thân tôi nặng nghiệp mê lầm,
Trải bao đời kiếp trong hầm lửa thiêu.
Tìm ra bến sớm chợ chiều,
Chẳng còn kẻ ác, thêm tiều tụy thân.
Đâu đâu cũng gặp thiện thần
Hộ người giới đức vạn phần uy nghi.
Cúi xin mở lượng từ bi
Cứu cho, giờ biết lấy gì sống đây.
Chúng con vất vưởng bao ngày,
Cổ như lửa bỏng, thân gầy rạc xương.
Cũng liều ghé cửa minh vương,
Xin người cứu khỏi tai ương phận này.”
Lòng vua thương kẻ đọa đày
Kéo lê một kiếp dạn dày gió sương.
Bên mình đeo sẵn thanh gươm,
Rút đâm năm nhát mình rồng máu hoen.
Vua truyền: “dùng đỡ một phen.”
Quỉ kia xúm lại vui mừng xiết bao.
Nhe nanh ngồi hút máu đào,
No rồi, quì gối lạy chào xin đi.
Vua khuyên: “mau tỉnh sân si,
2.450. Làm thân quỉ đói cũng vì nhân xưa.
Tham lam, tranh chấp mê mờ,
Buôn xương bán thịt, nên giờ khổ thay.
Gắng tu thập thiện giới trai,
Quyết lìa quả báo đọa đày ngục sâu.
Ta thành Chánh giác mai sau,
Nguyện đem giới thuyết nhiệm mầu độ cho.
Dắt lũ ngươi thoát mê đồ,
Vượt sông tham giận, qua bờ an vui.”
Bây giờ vẫn nhóm năm người,
Là Kiều-trần đó, ở nơi nhân hoàn.
Ngày xưa sám hối ăn năn,
Tu mười nghiệp thiện, trồng căn nhiệm mầu.
Thoát kỉếp Dịch quỉ ngục sâu,
Đời này lại sạch tham sầu, qua sông.
Quẩn quanh sáu ngã trần hồng,
Tỉnh cơn trường mộng ngoài vòng khởi duyên.”
Phật xuống suối, khỏa chân lên,
Nghe chim ríu rít bên triền non mai.
Thầy trò theo rặng hoa bay
Trở về tinh xá, qua vài cụm sương.
22. Phép mầu khai ngộ
Nhớ thời Phật tại thành Vương,
Cùng chư đệ tử ngự vườn trúc xanh.
Vua Bình-xa phát nguyện lành
Quy y Tam bảo tu hành đã lâu.
Khuyến dân tinh tấn đạo mầu,
Trị đời lấy giải oán sầu làm phương.
Dưới trên nhuần một lòng thương,
Dân giàu nước mạnh biên cương vững bền.
Người người chung một niềm tin
Noi theo Phật đạo hiếu sinh, hiền hòa.
Biên cương có bọn Phú-na
Lấy điều tà hoặc để mà mị dân,
Khiến lòng thiên chấp chia phân,
Lập bè kết đảng muôn phần đảo điên.
Dẫn người vào nẻo cuồng xiên,
Dễ bề bóc lột, dưới trên đủ điều.
Em nhà vua cũng tin theo,
Tham, si, tà kiến, mạn kiêu dấy lòng.
Vua Bình-xa vẫn hằng mong
Đưa em về nẻo trắng trong đạo Từ.
Kẻo trăm năm uổng thân rùa
Dưới lòng ao biết đâu bờ biển Đông.
Một hôm vua dạo bên sông,
Chỉ em, ngài hỏi: “mấy dòng nước xuôi?”
Gã thưa: chảy một dòng thôi.
Vua khuyên: “nào khác cõi người thế gian.
Trên hòa, dưới thuận, bình an,
Nước ta nhuần thấm đạo vàng bấy nay.
Sáng soi như thể mặt trời
Khiến muôn cây cỏ nảy chồi đơm hoa.
Cớ chi em lại lỉa xa
Con đường trung đạo hiếu hòa, hiếu sinh.
Chấp theo tà kiến vô minh,
Lập bè kết đảng cố tình phân chia.
Sao chưa lìa bỏ, theo về
Quy nương chính đạo đôi bề vẹn đôi.
Một là trí huệ sáng ngời,
Hai nêu gương chánh, muôn người hướng theo.”
Gã rằng: “nước có một chiều,
Mà trăm sông lớn về theo biển trùng.
Người ta muôn ý muôn lòng,
Dù trăm ngả cũng trong vòng thấp cao.
Như tôi tôn quý đạo nào
Là tùy sở thích, ra vào mặc ai.
Ai mà chẳng nghĩ mình hay,
Ai mà chẳng chấp cho thầy mình hơn.
Bây giờ muốn rõ nguồn cơn,
Mời hai giáo chủ song phương luận tài.
Thầy anh nếu quả tuyệt vời,
Thì tôi nguyện sẽ trọn đời xin nương.
Ví bằng thầy của tôi hơn,
Thì xin ngài cũng lựa đường theo tôi.”
Vua cười: “em chớ quên lời,
Ngày mai ta sẽ thân mời đôi bên.
Khiến người khởi vững lòng tin,
Lìa nơi u tối về tìm đạo quang.”
Sáng mai kiệu tía lọng vàng,
Nhà vua thân đến đạo tràng trình thưa
Rằng “xin ngài chuyển Phật thừa,
Mở khai nhật nguyệt, mây mờ dẹp tan.
Cho người tránh khỏi nguy nàn,
Cho đời thoát khỏi nát tan hận thù.
Cầu xin dưới ánh đạo từ,
Dám xin thỉnh đấng Pháp sư muôn loài
Ra tay cứu vớt trần ai,
Xiển dương chính đạo thức người lầm mê.
Dắt dìu bọn ngoại đạo kia,
Bừng con mắt tối theo về nẻo chân.
Giúp cho muôn nước muôn dân,
Chẳng còn thù hận, chia phân mọi bề.”
Sáng ngày hoa kết tàn che,
Dựng đài chuyển pháp lập loè vàng châu.
Lại truyền làng trúc thôn dâu,
Cho dân về học đạo mầu Như Lai.
Hôm sau vừa lức ban mai,
Mây hồng man mác bên ngoài thành hoa.
Người như thác lũ đổ ra,
Ngồi trên nội cỏ quanh tòa khói hương.
Chập chờn giữa áng mây vương,
2.550. Người đem chim thả cúng dường Phật, Tăng.
Giữa tòa trần thiết nghiêm trang,
Ghế bành ngọc trải nhung vàng gấm xanh.
Lục sư sớm tụ trên đàn,
Nghênh ngang bước đến chiếm hàng đôn cao.
Dưới đài dân chúng xôn xao,
Vua Bình-xa đón Phật vào tòa hương.
Mưa hoa trải xuống cúng dường,
Tiếng chim rộn rã bên đường tung bay.
Vừa trông thấy Phật, lạ thay!
Lục sư vội bước xuống đài cung nghinh.
Lại mời Phật ngự tòa trên,
Bỗng dưng hàng ghế cao liền ngang nhau.
Ngoại đạo thân đứng quanh hầu,
Thỉnh Phật thuyết pháp nhiệm mầu lắng nghe.
Em nhà vua thực não nề!
Biết thầy mình chẳng có gì hơn ai.
Nhưng vì lòng chấp sâu dày,
Quyết tâm gã vội đi ngay viện cầu.
Khi Phật vừa giảng đạo mầu,
Người nghe chợt thấy oán sầu tiêu tan.
Như mưa trải khắp thế gian,
Tùy căn cơ đắc vô vàn huệ tâm.
Khởi giác tính, bạt mê lầm,
Nguyện về theo Phật như đầm trổ sen.
Mây xanh phủ xuống quanh miền,
Hoa dâng hương ngát, gió lên dịu dàng.
Phật rời tòa, đắp y vàng,
Cùng thánh đệ tử xuống đàn trầm hương.
Vua đem văn võ đôi đường,
Tiễn chân Phật tới bên vườn đào hoa.
Lại kể, em vua Bình-xa,
Sẵn xe ngựa tốt dời nhà đi ngay.
Đang như bị lửa nung thây,
Lại nghe tín hữu lìa thầy bỏ đi
Về nương cội đạo từ bi,
Lẽ đâu ta lép một bề như ai.
Thế rồi đôn đáo Đông Tây,
Họp chung Lục đạo tìm tay biện tài.
Lại đem lý thuyết suy bày,
Quyết tâm luận chiến phen này xem sao.
Vội vàng thầy tớ theo nhau
Kéo về kinh đọ pháp mầu cùng ai.
Tin vừa trình đến bên tai,
Nhà vua thở ngắn than dài, gọi em.
Rằng “ngươi lời hứa dễ quên,
Cố tình nhắm mắt trước đèn được sao?
Thần dân đã rõ thấp cao,
Lẽ nào em chẳng nương vào quy y?
Đày thân mãi chốn mê si,
Gây thêm lắm chuyện cũng vì đảo điên.”
Gã rằng “thử lại một phen
Để cho vàng đá trắng đen tỏ tường.
Vả chăng đạo chẳng một đường,
Mỗi người riêng một sở trường kém đâu.
Nếu như đạo Thích nhiệm mầu,
Vàng ròng nào sợ lửa đâu, mà chùn?”
Vua rằng “đành cũng chìu lòng,
Mong em tỉnh giấc trần hồng đảo điên.
Khiến thêm kiên cố lòng tin,
Rừng mê em nhớ nên tìm lối qua.”
Nói rồi ngự cỗ long xa
Đến vườn đào lý nơi nhà tịnh thanh.
Vua thưa “tùy thuận chúng sanh,
Lại xin Phật mở pháp lành một phen.
Cho người tắt lửa đua chen,
Cho người thoát lưới đảo điên u sầu.
Thỉnh Thầy hiển lộ đạo mầu,
Nhiếp thu ngoại đạo quay đầu về nương.”
Ngài dừng bên suối mây vương,
Nhìn hoa đào trổ bên đường đua tươi.
Vỗ vai vua, Phật mỉm cười,
Vua liền lễ tạ thân dời cầu mai.
Tàn trương, trống thúc, cờ bay,
Về thành truyền dựng pháp đài nguy nga.
Tin đưa thấu khắp gần xa,
Phật cùng lục đạo Phú-na luận bàn.
Xôn xao ải Bắc thành Nam,
Phố trong xe ngựa, bên thành lều căng.
Vui như mở hội hoa đăng,
Dưới đèn tỏa bạc, trên trăng giải đào.
Đến ngày luận đạo thấp cao,
Bỗng dưng dân chúng nôn nao phố phường.
Kể rằng từ sáng tinh sương,
Phật cùng đệ tử lên đường vân du.
Khiến phường ngoại đạo lục sư
Nghe tin, thích chí say sưa tự hào.
Người em bước thấp bước cao,
Dương dương mày mặt tìm vào gặp vua.
Rằng “trúc lâm vắng như tờ,
Hỏi ra mới biết cuốn cờ kéo đi.
Chạy qua nước Tỳ-xá-ly,
Tưởng rằng trốn lánh dễ thì thoát sao.
Ví dù lẩn dấu non cao
Hoặc nơi địa ngục, trời nào thứ tha.
Bây giờ khắp sáu đạo gia,
Quyết tìm vạch mặt Phật-đà làm gương.
Xem ai lạc nẻo sai đường,
Xem ai đày chốn mù sương mãi nào?”
Lòng vua trăm mối nao nao,
2.650. Hẳn đây có ẩn ý nào sâu xa!
Thiết triều ủy việc quốc gia,
Rồi vua theo Phật đến nhà Luật-xương.
Lục sư cũng lại hùa sang,
Vênh vênh phách lối, huênh hoang đủ điều
Rằng “tôi hẹn thi phép mầu,
Ai ngờ họ Thích kéo nhau ẩn mình.
Nếu xin thua, cũng vị tình,
Cớ chi mà phải ôm bình qua đây.
Nhờ ông nhắn sau bảy ngày,
Bọn tôi xin đợi chốn này cung nghinh!”
Luật-xương nghe nén bất bình,
Lại thương cho bọn vô minh bất tài.
Thấp cao ở đức hạnh người,
Phải đâu tranh cãi tìm lời hơn thua.
Ngã, nhân rũ sạch bao giờ,
Còn chi cao thấp, trong bờ vọng mê.
Ôi thôi, cái bọn ngu si,
Ếch nằm đáy giếng biết gì trời đâu.
Nghĩ rồi ông cũng gật đầu,
Hứa đem thỉnh Phật sở cầu bọn kia.
Lục sư đắc ý quay về,
Nghênh ngang dưới mắt bốn bề không ai.
Luật-xương thân đến hầu Ngài,
Chắp tay lễ Phật, tỏ ngay sự tình.
Phật cười đỡ dậy tiếp nghinh,
Non Tây ráng đỏ vươn mình trôi mau.
Luật-xương vái tạ cúi đầu,
Lên yên đủng đỉnh qua cầu gió trăng.
Về nhà sửa lễ cúng dàng,
Lại sai người lập pháp đàn trang nghiêm.
Cáo cho dân chúng quanh miền
Biết ngày Phật chuyển pháp hiền độ sinh.
Bảy ngày sau mới bình minh,
Lục sư tìm đến lễ đình theo nhau.
Đợi hoài chẳng thấy Phật đâu,
Mới hay Ngài đã sang Châu Diệm thành.
Vua Ưu-điền tự thân hành
Ra ải đón bực cha lành nhân thiên.
Lục sư vừa mới hay tin,
Cùng Luật-xương với vua Bình-xa theo.
Vội qua Châu Diệm hoàng trào,
Thừa cơ hội, họ lẻn vào khoe khoang
Rằng “thần thách thức Cồ-đàm
Trổ thi thần phép, tranh bàn đạo sâu.
Hai lần hứa chẳng thấy đâu,
Ai dè họ Thích kéo nhau lẩn hoài!
Bây giờ thần ngụ nhờ đây,
Xin vua truyền bắt tớ thầy họ kia.
Thấp cao cho rõ mọi bề,
Cho người còn đắm giấc mê giật mình.”
Vua Ưu-điền nén bất bình,
Cũng vì nghĩ nể chút tình lý lân.
Bằng không đã thét ba quân
Bêu đầu cả bọn chẳng cần đúng sai.
Làm thinh vua bỏ ra ngoài,
Ghé qua chầu Phật trình bày việc kia.
Mỉm cười Phật chẳng nói gì,
Nhà vua từ tạ lui về long xa.
Sáng sau truyền dựng pháp tòa,
Lại cho dân biết để mà ân chiêm.
Đến ngày thi triển pháp thiêng,
Đã nghe Phật sớm rời miền bỏ đi
Hóa duyên tới nước Việt-kỳ,
Vua Đà-la đón nghinh về thành Tây.
Vua Ưu-điền được tin này
Kíp cùng nhập bọn theo Thầy phò nghinh.
Lục sư cũng dõi lộ trình,
Lẩn vào triều kiến mặc tình khoe khoang.
Lại xin vua lập pháp đàn,
Quyết hơn thiệt với Cồ-đàm một phen.
Đạo mầu cho rõ dưới trên,
Để ai đánh lận con đen mãi nào.
Khắp thành đồn đãi xôn xao,
Nghe vua thiết lập đài cao mấy tầng.
Sáng sau Phật lại lên đàng
Trở qua Thi-lợi thành vàng hóa trai.
Vua Nhân-đà sửa vườn mai,
Lập nên tịnh xá, hầu Ngài sớm hôm.
Tin ba vua nước láng giềng
Theo phò chính pháp cũng liền tới nơi.
Lục sư cùng đến kịp thời
Phao truyền, kênh kiệu khiến người xôn xao.
Sân rồng xin được qua chầu,
Một đàn thi triển pháp mầu vua coi.
Cầu xin thách đấu với người,
Nhờ vua ngự giữa, trọng tài cuộc thi.
Sáng ngày Phật lại tìm đi
Sang Ba-la-nại kinh kỳ viếng thăm.
Vua Phạm-đạt ngự ngoài thành,
Thỉnh Phật cùng với chúng Tăng cúng dường.
Lại nghe tin nhạn biên cương,
Quốc vương bốn nước lên đường kéo sang
Theo phò ánh sáng từ quang,
Lục sư lại đến khoe khoang đủ điều.
Sáng sau Phật lại xuôi theo,
Băng sông mây nổi, vượt đèo hoa vương.
Qua Tỳ-la-vệ cố hương,
Vua cùng họ Thích ra đường cung nghinh.
Thỉnh Phật thuyết pháp độ sinh,
2.750. Truyền lưu mối đạo tôn vinh đời đời.
Lại nghe vua Phạm sang chơi,
Cùng vua bốn nước rợp trời tàn xe.
Lục sư cũng lại theo kề,
Lắm bề cao ngạo lắm bề vọng ngôn.
Thách Phật tỷ thí thần thông,
Dựng nhà thiệt chiến, rước công chúng vào.
Sáng sau Phật lại qua cầu,
Bước đi mỗi bước nhiệm mầu hóa khai.
Tìm sang Xá-vệ rừng mai,
Vua Ba-tư-nặc mời Ngài dừng chân.
Đón về cung dưỡng muôn phần,
Sớm chiều vua tới đôi lần vấn an.
Tin về rằng có vua quan
Cùng dân sáu nước theo sang thỉnh mời.
Lục sư cũng kịp tới nơi
Xin vào chầu mới hé lời nọ kia.
Vua truyền rằng “chớ ho he,
Phật đâu phải lứa cá mè với ngươi.
Như Lai trí tuệ tột vời,
Nhớ đêm thành đạo sáng soi Bồ-đề.
Ma Ba-tuần hiện thân về,
Binh hùng tướng mạnh bốn bề quần bôn.
Thế mà vỡ mật tan hồn,
Nép đầu dưới bóng Thế tôn đại từ.
Còn ngươi – lục súc lục sư,
Cái phường tôm tép thật chưa biết mình.
Lẽ nào ta thét vệ binh
Bắt bây bỏ ngục hành hình lột da.
Biết điều mau lánh cho xa,
Nếu không ắt hóa làm ma cụt đầu.
Còn như sám hối bảo nhau
Theo về dưới ánh đạo mầu Thế tôn,
Thì ta cũng sẽ ra ơn
Cầu cho Phật ngự pháp đàn độ nhân.”
Thế là líu ríu lui chân,
Chẳng còn hồn vía bần thần theo nhau.
Một đoàn cúi mặt lủi đầu,
Bên thành bước thấp bước cao trở về.
Thôi thì dạ ủ mặt ê,
Thôi thì tài phép hết bề khoe khoang.
Còn vua kiệu ngọc tàn vàng,
Tìm qua thăm Phật, đôi hàng ngựa voi.
Lưng đồi mai rụng trăng soi,
Nhà vua gặp Phật đang ngồi giữa sân.
Bông hoa mờ ảo dưới chân,
Như Thu vàng cúc, như Xuân hồng đào.
Vẳng nghe sáo nhạc nao nao
Bên ngoài, các nước tìm vào vấn an.
Khơi trầm thơm ngắm trăng vàng,
2.800. Ngồi quanh khắp mặt vua quan hầu Thầy.
Nỗi lòng ấm lạnh bấy nay,
Nghiêng bình trà nguyệt vơi đầy chén sao.
Phật ngồi dưới cội băng đào,
Hoa lay như cánh hạc vào thái hư.
Vua bảy nước thỉnh Phật thừa,
Khai chuông diệu pháp, trải mưa hòa bình.
Hiển bi trí, bạt vô minh,
Rộng phương tiện dắt chúng sinh qua bờ.
Ba lần tha thiết trình thưa,
Phật cười: “Thầy đã đến giờ độ tha.”
Sáng sau nghi thiết trầm hoa,
Một lò hương tỏa trên tòa vàng châu.
Tin về cuối biển non sâu,
Người hay Phật chuyển pháp mầu tìm nghe.
Bốn bề cờ dựng tàn che,
Lưng trời ai kết một bè mây xanh.
Lục sư cũng đến bên thành,
Trổ tài pháp thuật tranh giành được thua.
Vừa trông thấy dáng Đại từ,
Lòng kiêu mạn bỗng tan như khói chiều.
Một đoàn kẻ trước người sau,
Cúi đầu lễ Phật xin cầu pháp tu.
Ngài cầm mấy nhánh liễu tơ,
Lên đài giữa một rừng cờ đua reo.
Dáng như tơ ửng mây chiều,
Mắt như hai mảnh đìu hiu nguyệt tà.
Bàn tay ngọc chuốt vàng pha,
Cầm nhành liễu bỗng phất nhòa phương Đông.
Hiện ra rừng rậm mênh mông,
Cây cao trăm trượng chập chùng xuyên mây.
Trông như ngọc dát vàng xây,
Hoa năm sắc sáng, lá cây muôn màu.
Hương rừng thoảng đến nơi đâu,
Là người cởi oán tan sầu như chơi.
Gió rừng dâng nhạc chơi vơi,
Là chuông thức tỉnh cõi người ngân vang.
Hoa rừng tỏa chiếu hào quang,
Kết thành tám nẻo đường vàng như tơ.
Khu rừng là nhạc là thơ,
Khiến người mến đạo vượt bờ tử sinh.
Tâm bình thế giới cũng bình,
Mười phương vũ trụ mông mênh hiện bày.
Phật vừa biến hóa cõi này,
Đưa người thoát kiếp tù đày chiến tranh.
Sáng sau Ngài lại vân hành,
Bước chân gieo hạt giống lành đất kia.
Vua Ưu-điền thỉnh Phật về
Mở khai chính đạo chuyển mê bạt sầu.
Phật hóa hai núi nhiệm mầu,
San hô óng ánh, minh châu chói lòa.
Đỉnh non cây trải mưa hoa,
Phủ trên mái tháp mấy tòa ngọc xây.
Lại thêm cửa động nuốt mây,
Tuôn ra dòng suối dâng đầy hoa thơm.
Hắt hiu tiếng địch tiếng đờn,
Một đàn hạc trắng bay vờn hòa theo.
Vách non cỏ biếc màu chiều,
Cành lê chín thẫm cheo leo mấy tàng.
Chân non thảm lúa tươi vàng,
Gió đưa sóng nổi mênh mang dạt dào.
Người theo lạch suối hoa đào,
Hết ăn trái chín lại vào động hương.
Nao nao khói nổi mây vương,
Ai đan mây khói vô thường thành thơ.
Não phiền vừa thoảng cơn mơ,
Lòng như hoa nở đón chờ xuân sang.
Lại nghe lời Phật ngân vang,
Bừng khai trí tuệ nghiêm trang diệu kỳ.
Ba ngày sau Phật lại đi,
Thể theo dân nước Việt-kỳ mời qua.
Sáng ngày vua Chuân-đà-la
Dâng lên Ngài một tách trà khảm châu.
Uống rồi Phật hóa pháp mầu,
Đổ cấu xuống đất thành cầu hào quang
Bắc trên hồ nở sen vàng,
Chung quanh soi bóng mấy hàng liễu dương.
Bờ hồ lát những kim cương,
Chiếu lên ánh sáng dị thường nơi nơi.
Đáy hồ xanh biếc da trời,
Toàn bằng vụn ngọc sáng ngời làm men.
Gió về đưa đẩy nhành sen,
Xanh pha hồng tía lam chen đỏ vàng.
Muôn màu hoa tỏa muôn quang
Thành mây ngũ sắc trên hàng sóng xô.
Một vùng ngọc chiếu hoa phô,
Khiến người soi, thoát mê đồ bỗng dưng.
Đạo tràng tứ chúng vui mừng,
Nghìn trăm vạn kiếp ai từng rõ hay.
Phật tùy căn độ sâu dày,
Phương tiện thuyết pháp khai bày tâm vương.
Hôm sau Ngài lại lên đường,
Vua Nhân-đà thỉnh cúng dường phạn trai.
Lạ thay mắt Phật ánh ngời
Hóa thành dòng suối tuyệt vời xuôi nhanh.
Nước xô nhau kết nên thanh,
Tiếng êm như nhủ: ngũ căn diệu hòa.
Tiếng mau như giục người qua,
Thất giác, ngũ lực Phật-đà thần thông.
Tiếng dồn như gợi mênh mông,
Tam minh, tứ đẳng lục thông pháp mầu.
Tiếng nao như thức ai sầu,
Lục hòa là pháp nương cầu qua mau.
Tiếng ầm như réo gọi nhau,
Tám đường giải thoát ưu sầu vượt băng.
Tiếng nao như nhủ dưới trăng,
Đại từ bi mới là đàng chính chân.
Pháp mầu hiện độ chúng nhân,
Hai dòng suối chảy phù trần dạt trôi.
Khiến cho ai đã nghe rồi,
Gần nơi giải thoát, xa nơi lụy phiền.
Sáng ngày Phật lại hóa duyên,
Cỏ hoa mừng bước đại hiền Như Lai.
Vua Phạm-đạt thỉnh cúng trai,
Bên thành dựng một lễ đài nguy nga.
Hơi thở Phật nở liên hoa,
Hương theo gió đến cõi xa ngàn trùng.
Khiến người mơn mởn hình dung,
Bao nhiêu tham ý mê lòng lắng tan.
Cánh hoa lại nở hào quang,
Kết thành một chiếc tàn vàng quyện hương.
Hôm sau Phật lại du phương,
Theo đại thí chủ Luật-xương đón về.
Khắp thôn hoa kết tàn che,
Phật ngồi thuyết pháp trên hè trầm bay.
Ngài đưa lên một ngón tay,
Hóa ngàn bướm trắng phiêu bay dập dìu.
Tụ thành hoa nổi, tán treo,
Kết vành xe pháp xoay theo gió trời.
Hào quang chiếu tỏa muôn nơi,
Khiến trong pháp hội người người hiểu nhau.
Dù là tâm ý vương đâu,
Khác gì biển thẳm non sâu hiện bày.
Phật tùy căn đức sâu dày,
Pháp mầu diễn nói tỉnh người mê si.
Sáng sau Phật lại ra đi,
Bốn phương trải tấm hoàng y diệu vời,
Có dòng họ Thích đón mời
Qua Tỳ-la-vệ ngự nơi rừng đào.
Phật ngồi trên đỉnh đồi cao,
Phóng ra muôn ánh bạch hào mông mênh.
Khiến ai ai cũng thấy mình
Ngự trên ngai ngọc quang minh giữa trời.
Ngàn hoàng tử trấn các nơi,
Non sông lầu các sáng ngời hồng quang.
Triều thần muôn vạn võ văn,
Cung phi lá ngọc cành vàng thướt tha.
Khiến ai cũng thấy chính ta
Làm vua chuyển pháp ngự tòa kim cương.
Tỉnh ra xiết đỗi lạ thường,
Tự tâm là cõi thiên đường cao sâu.
Mới hay bản tánh nhiệm mầu,
Phát nguyền vô thượng quay đầu tầm tu.
Sáng ngày Phật lại vân du
Bỗng mây muôn sắc phủ từ hư không.
Hiện ra nước nhược non bồng,
Kìa lầu bích ngọc nọ đồng bạch hoa.
Một bầy tiên nữ múa ca,
Vóc hồng rủ liễu vai ngà buông tơ.
Tiếng ca quyện với sương mờ
Thành muôn hạt đọng trên bờ lách lau.
Non cao suối đổ dòng mau,
Giữa ngàn hoa trắng có cầu mây cong.
Cành sương đẫm tía pha hồng,
Dăm con hạc nổi bềnh bồng đậu theo.
Trong lầu đá cẩm cheo leo,
Bâng khuâng đàn địch dập dìu phách sênh.
Kéo ra voi ngựa quần thần,
Kiệu minh châu võng cẩm vân tuyệt vời.
Hỏi xem mới rõ cung trời,
Lệnh vua Đế-thích thỉnh mời Phật, Tăng.
Về cung Quỳnh Ngọc cúng dàng,
Tuyên dương chính pháp nghiêm trang Bồ-đề.
Hai vua Đế, Phạm hầu kề,
Dưới trên cẩm ngọc bốn bề hoàng vân.
Phật ngồi thuyết pháp biến thần,
Trên tòa sư tử trắng ngần lưu ly.
Pháp thân như núi Tu-di,
Vai đeo nhật nguyệt đôi vì hào quang.
Mỗi lời lại trổ sen vàng,
Tiếng nghe âm động muôn ngàn cõi tiên.
Chúng sinh vô lượng quanh miền,
Viên âm khiến nở nhân hiền nơi nơi.
Phật vừa im lặng mỉm cười,
Bỗng nhiên sấm động vang trời gần xa.
Dưới tòa năm vị nhảy ra,
Nào Đại thần quỉ như là sắt hun.
Nào thần Mật tích Kim cương,
Tay cầm chày ngọc, lửa vương mái đầu.
Đuổi lục sư xuống dòng sâu
Mang mang sóng nước âu sầu khói sương.
Thần lại kéo lên vệ đường,
Sáu người hổi tỉnh khác thường tính căn.
Lắng tan vọng tướng phù trần,
Như cành cây nọ thêm lần đơm hoa.
Chắp tay cầu thỉnh thiết tha,
Mang theo cả vạn cuồng đồ về nương.
Trở thành thanh tịnh sa-môn
Tiến tu thiện nghiệp trăm đường tốt tươi.
Thiện duyên khiến cả trời người
Tỉnh cơn huyễn mộng, xa rời tà nghiêng.
Hôm sau vua trời Phạm thiên
Cúng dường đức Phật bên triền non mai.
Tiệc đào hóa tự cõi trời,
Toàn bằng bảy báu sáng ngời diệu quang.
Vi vu mây tía mây vàng,
Khắp hư không kết thành tàn bảo châu.
Phật ngồi hiện hóa pháp mầu,
Hào quang biển thẳm non sâu chói lòa.
Lưng trời man mác ngàn hoa
Kết thành nhạc báu la đà gió hương.
Khiến thiên chúng khắp đạo trường
Thấm vi diệu nhạc tỏ tường nhân duyên.
Sáng sau vua trời Tứ thiên,
Cúng dường thết tiệc trên triền Nam san.
Giữa hư không dựng pháp đàn,
Sương xanh hòa với mây vàng ùn xây.
Phật đem diệu pháp khai bày,
Ứng thân hiện khắp cõi này mênh mang.
Đâu không chan chứa từ quang,
Hoa lay là ý, suối vang là từ.
Khiến người thanh thản trầm tư,
Như hương bay giữa Chân như đạo trường.
Tan mê ngộ đạo chân thường,
Diệu dụng vô ngại mười phương Phật hào.
Chim thần tung cánh bay cao,
Nguyện đem ánh sáng đạo vào trần ai.
Hôm sau Phật lại hóa trai,
Có nhà Phạm Nguyện mời Ngài lên non.
Trang hoa muôn dặm tía hồng,
Trên lưng núi phượng lượn vòng cánh xuân.
Có dòng suối lặn phù vân,
Qua đồi đá trắng vang rần chim ca.
Ngàn lau thấp thoáng đôi nhà,
Ngoài hiên cỏ thiết một tòa tịnh thanh.
Trên ghế trúc Phật biến hình,
Chỉ còn một ánh quang minh khắp trời.
Hóa thành cam lộ vàng rơi,
Khiến cho đại chúng tỉnh người mê sân.
Gió thơm thoảng sạch phù trần,
Người trong pháp hội thêm phần oai nghi.
Vượt qua huyễn vọng tham si,
Thoát vòng ảo hóa theo về tánh không.
Một qua ải mộng trần hồng,
Đạp phù vân, nối muôn dòng chim bay.
Phật nguyền chuyển đạo Như Lai,
Cứu nhất thiết khổ, dựng đài tâm hoa.
Hôm sau ông Hồ Đại La
Sửa sang thỉnh Phật về nhà cúng trai.
Trước mong quả phúc hậu lai,
3.050. Sau cầu pháp độ trần ai mê lầm.
Đỉnh ngọc đốt giải thoát trầm,
Giữa nền thủy tạ trên đầm mênh mông.
Phật nhập định phóng thần thông,
Mười phương vũ trụ hiện trong lòng từ.
Mây vàng tỏa khắp thái hư,
Dệt nên bài kệ chân như nhiệm mầu.
Khiến chúng sinh khắp năm châu
Trông mây lòng sạch tham cầu ai bi.
Pháp hiền trong suốt lưu ly,
Đưa về tánh Phật tư nghì được sao.
Ý thần vỗ cánh chim cao,
Gọi nhau tỉnh giấc mê đào trần sa.
Sáng sau vua Chuân-đà-la,
Trong vườn thượng uyển dựng tòa đàn hương.
Sửa tiệc thanh tịnh cúng dường,
Thỉnh Phật dừng nghỉ bước đường vân du.
Lại truyền ân xá giảm tù,
Phóng sinh, bố thí… đền bù đức cao.
Phật ngồi chiếu ánh bạch hào
Khiến người tỉnh giấc chiêm bao, thấp hèn.
Khói trầm kết thành hoa sen,
Đài phô hương nhụy, cánh chen sắc màu.
Hóa thân Phật tựa vàng châu,
Ngự đài hoa diễn pháp mầu thần oai.
Theo mây đi khắp trần ai,
Khắp trong thế giới muôn loài ngẩn ngơ.
Sạch lòng bọt nổi huyền mơ,
Cánh hồng tung gió qua bờ thiên tiên.
Gió vi diệu bạt ưu phiền,
Hoa vi diệu thoảng hương thiền từ bi.
Hôm sau võng lọng tinh kỳ,
Vua Ưu-điền thỉnh Phật về thiết trai.
Bên sông tùng liễu vươn dài,
Kết bè gỗ quý dựng đài tôn nghiêm.
Đèn treo hoa trải hai bên,
Xuôi dòng man mác buông thuyền nhã ca.
Đón Phật xuống ngự bè hoa,
Như viền băng nguyệt trên tòa bảo vân.
Vua cùng hoàng hậu phi tần
Ngồi quanh thính pháp muôn phần kính tôn.
Phật dùng ảo diệu thần thông
Biến hoa kia hóa xe rồng lên mây.
Toàn dùng bảy báu trưng bày,
Trên xe chở một kiệu đầy thi kinh.
Mỗi pho là một đẩu tinh,
Hào quang chư Phật hiện hình bến mê.
Theo đường mây nổi bay về
Đại phương thế giới mười bề sao sa.
Cúng dường muôn cõi Phật-đà,
3.100. Cầu thần oai chuyển ta-bà nghiệp chung.
Lại đem diệu pháp thần thông,
Khiến người tỉnh giấc trần hồng mê say.
Như chim vượt lưới trùng vây,
Như đêm viên nguyệt, như ngày thái dương.
Trí Phật như đấng dược vương,
Tùy căn bệnh khổ vô thường chúng sinh.
Thuốc thần chữa gốc vô minh,
Tỉnh ra ngã, pháp một hình bọt sôi.
Vọng tâm biến diệt nào thôi,
Mười hai xiềng khổ luân hồi mãi xoay.
Nền trời lấm tấm hoa bay,
Trên sông man mác vơi đầy dòng ca.
Sáng ngày sau, vua Bình-xa
Cùng hàng văn võ kéo ra thỉnh mời.
Khi đoàn rước Phật đến nơi,
Hoàng cung như thể cõi trời gấm nhung.
Lại thêm tòa giảng Đại hùng,
Nhân dân khắp chốn quanh vùng về nghe.
Bỗng dưng những áng mây che
Kết thành bàn ghế trên hè tỏa quang.
Mâm son, bát ngọc, đũa vàng,
Tiệc trai chuyển tự thiên đàng xuống mau.
Sương năm sắc hiện dải cầu
Từ thinh không bắc xuống lầu niệm hoa.
Lại nghe réo rắt đàn ca,
Với bao tàn lọng gần xa trập trùng.
Cõi phàm chợt hóa thiên cung,
Đèn treo, hoa kết quanh vùng hội xuân.
Chư tiên đãi tiệc hồng trần,
Thiện duyên khiến thấy một lần thiên thai.
Dự xong, đương lúc người vui,
Cảnh kia lại hóa mây trời bay đi.
Trên tòa hồng ngọc lưu ly,
Trầm thơm quyện tấm hoàng y ngạt ngào.
Phật chỉ tay, dưới đài cao
Hiện ra cõi ngục lúc nào chẳng hay.
Tội nhân muôn kiếp đọa đày,
Hết nung cột lửa, lại bày vạc sôi.
Hết cưa chân, lại nén người,
Hết nằm thú rỉa, lại ngồi bàn chông.
Trói vào một khối tiền đồng,
Nghìn trăm cân nặng lưng còng bê đi.
Khổ vì keo kiệt cuồng si,
Nên giờ tiền bạc buộc ghì đôi tay.
Lại thêm già trẻ gái trai,
Trói vào neo sắt co người khiêng theo.
Phật rằng tội phước cheo leo,
Gieo nhân hái quả là điều buộc thân.
Hoặc là tàn ác sát nhân,
3.150. Hoặc là bán nước buôn dân tội dày.
Hoặc là hại kẻ thơ ngây,
Hoặc là dâm đãng xúi bầy nát tan.
Hoặc là trộm cắp điêu gian,
Hoặc là lừa gạt muôn vàn đảo điên.
Khiến người nhục nhã oan khiên,
Khiến người thêm oán thêm phiền chấp nê.
Gây bao nhân khổ duyên mê,
Là bao tội trạng nặng nề chất lên.
Nghiệp thân, khẩu, ý vô biên,
Đắp thành ba ngục ưu phiền mông mênh.
Xem nghe ai chẳng rùng mình,
Suốt muôn ngàn cách cực hình khảo tra.
Ngẫm ngay giữa cõi người ta,
Lưỡi gian có khác chi là hầm chông.
Thân kia chẳng khác ngục đồng,
Ý kia chẳng khác lửa hồng bốc reo.
Vui buồn nào khác khiêng neo,
Biết mình giữa chốn hiểm nghèo, mấy ai!
Lạ thay, miệng đức Như Lai
Mở lời, địa ngục hóa đài hào quang.
Rằng “ba biển nghiệp mênh mang
Mà chiêu cảm đến hai đàng khác nhau.
Ác tâm đọa lạc ngục sâu,
Thiện tâm lên cõi nhiệm mầu nhân tiên.
Trùng trùng thập nhị nhân duyên,
Do ái, thủ, hữu hiện tiền bày ra.
Sáu đường trôi nổi phù sa,
Vô minh khởi hiện bạo hà tham sân.
Các người mau thoát mê tân,
Như trăng sáng giữa ảo vân ngợp trời.
Dù cho sóng động trùng khơi,
Con thuyền Lục độ đưa người tang thương.”
Nghe xong khắp cả đạo trường
Phát tâm bố thí tìm đường nhân thiên.
Lời hiền âm thoảng suối thiêng,
Chợt nghe ngạ quỉ cũng liền hóa sinh.
Vua Bình-xa đứng nghiêng mình
Chắp tay lễ Phật chân tình ngỏ thưa:
“Bao người mong ước từ xưa,
Xem các tướng tốt mà chưa toại lòng.
Vì bánh xe pháp đôi vòng,
Dưới bàn chân nọ chưa từng được hay.
Dám xin Ngài, tiện hôm nay,
Rộng thương đại chúng phô bày tướng kia.”
Theo lời thỉnh của nhà vua,
Phật đưa chân nọ qua bờ đài hương.
Khiến ai ai cũng hay tường,
Sắc tươi ngọc tỏ, màu hường ráng pha.
Hiện lên rờ rỡ luân xa,
3.200. Rõ ràng vòng bánh nan hoa diệu vời.
Khiến cho hoan hỉ lòng người,
Vua Bình-xa mới tiếp lời trình thưa:
“Nhân gì theo thuở xa xưa,
Nên chi phúc báo, thân giờ đẹp thay?”
Phật rằng “tiền kiếp ta đây
Giữ mười điều thiện khiến người tu theo.
Nên nay tốt đẹp trăm chiều,
Một đời phước tuệ cao siêu ai bì.”
Vua thưa “diệu pháp tu trì,
Cách đem hóa độ tham si thế nào?
Khiến đời muôn vạn trần lao,
Sáng tươi dưới ánh Phật hào mênh mông.
Xin Ngài độ kẻ qua sông,
Xin Ngài cho kẻ có lòng được hay.”
Phật rằng “vạn kiếp cách đây,
Có nhà vua hóa cõi này trang nghiêm.
Oai danh đồn đãi muôn miền,
Chăn dân, trị nước, chúa hiền gắng công.
Buồn riêng, chưa kẻ nối dòng,
Dẫu nơi cung cấm đào hồng thiếu chi.
Một hôm săn thú rừng kia,
Hai bên voi ngựa, bốn bề cung thương.
Gặp đàn thỏ dưới cội sương,
Mẹ dắt con nhỏ tìm đường ẩn thân.
Trông như cụm tuyết trắng ngần,
Một bầy ngơ ngác muôn phần sợ thay.
Thỏ con tha thẩn dưới cây,
Biết đâu nguy khốn kề ngay bên mình.
Thỏ mẹ nấp đứng quẩn quanh
Ngó con, đau xót chẳng đành bỏ đi.
Vua truyền bãi cuộc, lui về,
Thỏ còn tình nặng huống chi loài người.
Mà ta lấy máu làm vui,
Càng suy nghĩ lại càng bùi ngùi thương.
Long xa về đến triều đường,
Lòng vua còn mối vấn vương bời bời.
Nửa đêm chợt hiện một người,
Xưng là thần núi mắt ngời lưu ly.
Dáng cao lẫm liệt phương phi,
Nói rằng “tôi đã cảm vì lòng vua.
Rộng ban hành đức móc mưa,
Khiến muôn vật cũng được nhờ sinh sôi.
Chí ngài cảm đến lòng trời,
Sẽ sinh ấu chúa xứng ngôi rỡ ràng.”
Báo rồi vụt tỏa hào quang,
Nhà vua mới biết mộng vàng vừa đây.
Cứ như điềm báo trước này,
Hẳn có trai quý một ngày không xa.
Sáng mai chiếu chỉ ban ra
Cấm ngăn cờ bạc cùng là sát sinh.
Lại truyền bỏ hết cực hình,
Chẳng còn tổn hại sinh linh mọi bề.
Nguyện đem công đức hướng về,
Đổi thay cộng nghiệp tham mê hồng trần.
Chẳng bao lâu khắp thần dân,
Nghe hoàng hậu có tin xuân đầu mùa.
Phòng hương cầu nguyện thêu thùa,
Nụ hoa thoắt đã đến giờ mãn khai.
Tin truyền khắp cõi trong ngoài,
Thái tử là một cậu trai khác đời.
Thân như ngọc sáng mầm tươi,
Khôi ngô tuấn tú ra người trượng phu.
Chư hầu bao vị chúa vua
Chúc mừng vương quốc dựng mùa hội hoa.
Niềm vui tràn khắp muôn nhà,
Đón chào minh chúa vừa ra trị đời.
Vua cho sứ đến một người
Hiền nhân ẩn sĩ để mời vào cung.
Người khen: “tướng đẹp vô cùng,
Sẽ ghi tiếng đại anh hùng sử xanh.”
Vua rằng “đã có điềm lành,
Mang thai, hoàng hậu thông minh khác thường.
Tự nhiên kinh sách tỏ tường,
Lại hay làm phúc ban ơn mọi bề.”
Tâu thêm: “vóc thể phương phi,
Chân lông tỏa sáng ánh kỳ diệu thay!
Và theo điềm lúc mang thai,
Xin đặt thái tử tên này: Bửu Quang.”
Nói rồi từ tạ thánh hoàng,
Khoan thai trở gót về làng ẩn cư.
Lần lần sương sớm mây trưa,
Tàn xuân hoa nọ đã vừa trái xanh.
Trẻ hiền sớm phát tinh anh,
Trăm pho huyền nghĩa học hành thông mau.
Tiếng như nước suối qua cầu,
Môi như hồng nụ phô màu chớm xuân.
Mắt chàng như giếng thu ngần,
Tay như bút ngọc muôn phần đẹp tươi.
Hòa nhan ái ngữ nết người,
Lại bi trí dũng tính trời vốn mang.
Xuân vừa tới tuổi Bửu Quang,
Thì đau đớn nỗi phụ hoàng quy tiên!
Triều thần theo luật đương nhiên
Tấn phong thái tử ngự lên ngai vàng.
Tân vương sau lễ đăng quang,
Ban hành chiếu chỉ sửa sang mọi ngành.
Bỏ tà, giữ chánh phân minh,
Lại theo thập thiện điều hành quốc dân.
Dẫu là mệt trí, nhọc thân,
3.300. Đức vua cùng với quần thần quản chi.
Có hôm trong buổi triều nghi,
Ngài khuyên văn võ hướng về đạo chân.
Trị người cốt dẹp mê sân,
Tuyên dương chánh pháp, tự thân hành trì.
Diệt an mầm cội tham si,
Nước dù muôn cõi khác chi một nhà.
Ngoài hiên có vị chúa ma,
Nổi lòng đố kỵ nghĩ ra mẹo lừa.
Giả ban các chiếu chỉ vua,
Thu hồi luật thiện, bênh hùa ác tham.
Khiến dân sinh dạ oán than,
Ma xui thành cuộc tương tàn đó đây.
Đức vua nghe báo tin này,
Tiến binh muôn dặm, xem ngay sự tình.
Chẳng bao lâu, tỏ ngọn ngành,
Nơi nơi lại cảnh thái bình an dân.
Đường về qua bến phù vân,
Sóng gầm đáy nước, mây vần núi cao.
Vẳng nghe sầu oán âm hao,
Tiếng rên thảm thiết khác nào khảo tra.
Lệnh truyền quân mới tìm ra
Một người lửa phỏng khóc la rợn mình.
Đớn đau quằn quại thân hình,
Truyền đem cứu chữa, cạn tình hỏi ngay.
Vua rằng “vì cớ chi đây,
Ai thiêu ném dưới hàng cây bên đường?”
Ma rằng “quả báo tai ương,
Vì con tu thiện lại thường khuyến dân,
Khiến đời dẹp bỏ tham sân,
Tội người trút xuống một thân đền bồi.
Người thì phúc lạc cõi trời,
Còn tôi ngục lửa đời đời mang thân.
Đớn đau khổ cực muôn phần,
Bây giờ hối lại bao lần khóc than.”
Vua rằng “xin chớ bi quan,
Giúp người dứt sạch mê tham được rồi.
Tiếc chi thân xác bèo trôi,
Nổi nênh bể khổ luân hồi chơi vơi.
Một tay này cứu muôn người,
Ngục kia nào khác cõi trời Hóa thiên.
Ta đây sớm phát lời nguyền
Cứu muôn loài thoát ưu phiền khổ đau.
Giả thân này có thế nào,
Muôn đời ngục lửa xin vào một ta.”
Lời hiền tỉnh thức lòng ma,
Biến thân đi giữa giang hà sóng êm.
Ma vương cũng phát tâm nguyền,
Tạo muôn nghịch cảnh trợ duyên giúp đời.
Đường lên cho được tuyệt vời,
3.350. Lấy ác ngăn ác cho người tiến tu.
Thế rồi dân cõi Diêm-phù,
Đẹp thân, khẩu, ý đền bù thiện duyên.
Chính pháp lan đến muôn miền,
Nghiệp chung hóa hiện kim luân rõ ràng.
Xe pháp tỏa chiếu hào quang,
Đưa vua đi khắp trần hoàn trợ duyên.
Thi-di kiếp đó danh hiền,
Bây giờ là Tịnh-phạn vương tại trào.
Hoàng hậu thuở trước lạ đâu
Giờ là thân mẫu sớm mau về trời.
Bửu Quang chuyển pháp nơi nơi,
Khiến đời an lạc giúp người thiện tu.
Trải bao cõi mộng Diêm-phù,
Hóa khai chính đạo cho dù thiệt thân.
Tướng lành nổi ở bàn chân,
Hai vành xe chuyển pháp luân sáng ngời.
Là nhờ tích thiện muôn đời,
Thanh cao như ngọc, tuyệt vời như hoa.”
Bấy giờ hoàng đế Bình-xa
Thêm lòng thâm tín đứng ra tỏ bày:
“Nhân duyên giăng mắc cõi này,
Kiếp xưa ngoại đạo chẳng hay nghiệp gì?
Đắm chìm sân hận mê si,
Vu miệt chính pháp từ bi, lẽ nào?
Xin Ngài soi ánh bạch hào,
Cho người đắm giấc mơ đào rõ hay.”
Phật rằng “vô lượng kiếp đây,
Vua Lê Lợi trị cõi này trang nghiêm.
Vương phi bao vị như tiên,
Đều chưa thai nghén lo phiền như nhau.
Vua thường tạo phúc nghiệp sâu,
Mở kho bố thí, tìm cầu đạo chân.
Ngài luôn lấy đức trị dân,
Nước nhà cường thịnh muôn phần an vui.
Ngày kia có một vua trời,
Cùng vì cảm mến đức ngời nhân vương.
Hóa thân ra một người thường,
Lưng đeo bồ thuốc tìm đường vô kinh.
Quì trước điện ngọc tâu trình,
Xin chữa hoàng hậu hạ sinh con hiền.
Lão rằng “thuốc tự núi tiên,
Phải pha bằng máu một nghìn trẻ trai.
Nếu được chấp nhận, thưa ngài,
Truyền quân lùng bắt sáng mai mang về.”
Nghe qua nét mặt ủ ê,
Hại người để lợi một bề riêng sao!
Vua truyền “trẫm chẳng thể nào
Vì mình mà khiến máu đào nhuốm tay.
Thôi thì cảm tạ ơn thầy,
3.400. Chẳng tiếc công xuống chốn này giúp nhau.
Ta đành tuyệt tự mai sau,
Hơn để kẻ khác thảm sầu mất con.”
Ý vua đã vững như non,
Sóng thần chẳng chuyển, ai còn uổng công.
Bấy giờ một đám mây hồng
Bay vào tụ giữa thềm rồng lạ thay.
Kết thành một cỗ kiệu mây,
Sương đan rèm ngọc, khói xây mái đình.
Vị lang y hiện nguyên hình
Là vua Đế-thích hoan nghinh bực hiền.
Thưa rằng “tôi trị cõi tiên,
Đức ngài cảm đến muôn miền trời xa.
Mến tình mới hóa thân ra,
Xuống đây thử lửa xem là vàng thau.
Quả nhiên chói lọi bảo châu,
Hẳn ngài sẽ được con sau nối dòng.”
Trao bồ thuốc trước thềm rồng,
Trắng phau hoa tuyết, phớt hồng cỏ tiên.
Dặn rằng “lấy nước sắc liền,
Uống vào tất có người hiền nối ngôi.”
Chia tay giọng những bồi hồi,
Động hoa vàng tất có hồi tìm nhau.
Thiên vương vào kiệu trân châu,
Hóa ra một nội hoa mầu bay lên.
Vua truyền sắc cỏ hoa trên
Đưa các phi hậu uống liền xem sao.
Chính cung nghĩ chẳng tin nào
Nên không chịu uống, sầu bào lòng thôi.
Khi nghe đều đã thụ thai,
Vội truyền tìm bã thuốc hoài bỏ đi.
Uống vào như các thứ phi,
Lạ thay cũng kịp một thì khai hoa.
Nhưng khi hoàng hậu sinh ra,
Nhìn con, lòng tủi lệ sa giọt ngời.
Trẻ đâu có dáng lạ đời,
Xấu như quỉ sứ nhà trời gớm ghê.
Trong khi con các vương phi
Thu nghiêng mắt biếc, xuân kề môi tươi.
Tóc như mây hạ buông lơi,
Tiếng như suối ấm vừa rời nguồn sa.
Thái tử tên gọi Lê Ba,
Vua truyền giao trẻ riêng nhà dưỡng nuôi.
Tránh nhìn nửa quỉ nửa người,
Tránh cho thiên hạ bia cười dèm chê.
Dần dà năm đến năm đi,
Anh em thái tử đến kỳ lớn khôn.
Cầm quân trấn giữ biên cương,
Một triều thịnh trị bốn phương thái hòa.
Bỗng đâu có việc can qua,
3.450. Giao tranh cùng nước Tân-la láng giềng.
Khói bay lửa ngút ải biên,
Bao nhiên dũng tướng, con hiền chạy thua.
Giặc như nước lũ tràn bờ,
Đạp tan thành quách dựng cờ xâm lăng.
Tin như sét đánh vương thành,
Lê Ba thái tử một mình xin đi.
Tục truyền Thiên tự xưa kia,
Còn cây cung lớn lượng vừa muôn cân.
Từ thời vua Chuyển thánh luân,
Dùng bảo vật nọ trấn quân bạo tàn.
Trải bao mây nổi hợp tan,
Cây cung quốc bảo còn truyền tới nay.
Sức người nào thể chuyển lay,
Vào chùa, thái tử một tay xách kề.
Dương lên sấm động bốn bề,
Gió to sóng lớn dâng về trợ oai.
Giặc nghe phách lạc hồn bay,
Trăm thành thu lại không đầy tấc gang.
Vua Tân-la đến xin hàng,
Giữ tình giao hảo, lân bang vui vầy.
Thế là truyền khắp Đông Tây,
Tin thiên tướng xuống cõi này yên dân.
Vua cha bàn với triều thần,
Tính bề gia thất muôn phần khó khăn.
Người còn chẳng dám lại thăm,
Nói gì đến chuyện gối chăn sum vầy.
Đình thần có vị tâu bày,
Nghe có công chúa thơ ngây liễu đào.
Hoa còn vườn kín lầu cao,
Dưới trên hiếu thuận, ra vào đoan trang.
Nàng vừa tới tuổi tròn trăng,
Con vua Thế tổ láng giềng nước kia.
Cử nghinh hôn lễ đón về,
Rồi ra tráo rể đôi bề vẹn đôi.
Một mai ván đóng thuyền rồi,
Quen hơi bén tiếng cũng thôi ngại gì.
Vả danh tiếng ấy ai bì,
Yêu tài là nết nữ nhi nặng tình.
Cứ mang lễ đến tâu trình,
Mượn em đón chị, sẽ thành đẹp đôi.
Thuận cho, nào quảng xa xôi,
Chuyện mai mối để thần tôi liệu bài.
Vua truyền sửa lễ lựa ngày,
Hai xe gấm ngọc, cậy tay đại thần.
Bồi hồi ngó đợi tin xuân,
Chẳng bao lâu đã nghe quân báo về.
Thế là cờ dựng tàn che,
Lầu cung hoa kết ngựa xe nạm vàng.
Dẫu rằng phượng chửa biết loan,
Đã đinh ninh kết đá vàng duyên xa.
Kiệu rồng rước đến thềm hoa,
Cung phi ngọc nữ kéo ra lạy mừng.
Đêm vui đèn lửa tưng bừng,
Dập dìu nhạc cử vang lừng pháo vui.
Tiệc tan, trò chuyện đôi hồi,
Tân nương càng mến nết người tân lang.
Từ đây, chỉ những đêm trường
Cạnh nhau, sáng lại vắng chàng, thấy đâu!
Nàng than “đêm chóng ngày lâu,
Mặc ai mặt héo tâm sầu mặc ai.”
Chàng rằng “yên ngựa miệt mài,
Biên cương muôn dặm, một tay binh quyền.
Lòng thì canh cánh bên em,
Mà vì trăm họ, giữ yên nước trời.
Mộng xuân còn lắm tuyệt vời,
Rồi ra loan phượng trọn đời sánh đôi.
Thiếu chi trăng gió bồi hồi,
Khi thuyền soi nước khi đồi dạo mây.
Bấy giờ yên đó vẹn đây,
Nước non thịnh trị vui vầy muộn chi.”
Một đêm thiêm thiếp xuân thì,
Rèm tơ vẳng tiếng đàn tỳ nhẹ lay.
Nhớ quê biền biệt bấy ngày,
Giờ nghe sương động, vơi đầy giọt hoa.
Tưởng ngày dưới gối mẹ cha,
Tưởng khi đuổi bướm la đà vườn riêng.
Tưởng trang sách dưới tay mềm,
Tưởng hồ ẩn nguyệt dong thuyền gió thu.
Bây giờ còn áng mây đưa,
Còn trăng lữ thứ nhẹ đưa tiếng nào.
Nàng ngồi dậy, hé rèm đào,
Nghiêng song thu, nguyệt chiếu vào phòng hương.
Tựa nhìn man mác vườn sương,
Quê xưa kìa mảnh sao thường dõi theo.
Lòng đương trăm mối nghìn chiều,
Nhìn chàng nằm đó thiu thiu giấc hoè.
Nhạt mờ sau lá màn the,
Ánh trăng hờ hững soi kề gối bên.
Quay vào nhẹ vén màn lên,
Dung nhan sớm nọ đã in những ngày.
Dưới trăng giờ tỏ mặt này,
Bộng tan hồn quế rời tay liễu đào.
Người đâu vóc dáng lạ sao!
Gục bên song cửa nao nao điếng người.
Trước kia anh tuấn tuyệt vời,
Mà nay như quỉ nhà trời xuống đây!
Trước sao mày phượng tóc mây,
Giờ sao dị tướng thế này hỡi ơi!
Hẳn ai mưu kế thay người,
3.550. Hay chàng biến hóa, như lời đồn xưa.
Có tài hô gió gọi mưa,
Đánh xong trăm trận như vừa trở tay.
Gục đầu nàng thiếp hồn say,
Gà đua tiếng gáy chân trời mờ sương.
Sáng nghe sẻ hót đầu tường,
Tỉnh ra lệch đệm xô giường vắng ai.
Buồng gương tóc cuộn trâm cài,
Xin đi dâng lễ miếu ngoài đồi thông.
Thác rằng: chàng đã bằng lòng,
Nên chi tung cánh sổ lồng như chơi.
Xe bon vượt đỉnh xanh ngời,
Bâng khuâng mấy nụ hoa rời cánh hương.
Nhớ nhà ngựa thẳng dây cương,
Được tin thái tử dõi đường băng theo.
Chàng dừng ải cuối cheo leo,
Ngùi trông đôi áng mây chiều buông tơ.
Bông lau ven suối vật vờ,
Bên kia biên giới sương mờ hắt hiu.
Người sầu ngựa cũng buồn thiu,
Vó rơi chốn cũ hồn neo cuối trời.
Bao đêm nến cạn dầu vơi,
Tháng sau mới giả làm người bán cung.
Vì hoa ngựa vượt muôn trùng,
Sang sông nhớ khói, qua rừng nhớ sương.
Một chiều chàng đến thành vương,
Ghé vào quán trọ bên đường tà huy.
Chợt hay: vua nước biên thùy,
Kéo quân sang với sính nghi đón nàng.
Chàng nghe: sáu nước lân bang,
Cành hương đã nức giá vàng bấy nay.
Từ nghe ngọc quý ngoài tay,
Hết đêm tơ tưởng lại ngày thầm trông.
Giờ nghe nàng lánh nhà chồng,
Thế là sửa lễ, thiếp hồng bắn qua.
Tranh nhau chúc ngọc cầu hoa,
Thị uy lại kéo quân ra cõi ngoài.
Triều đình trăm nỗi bời bời,
Đây toan rẽ ngọc, đó lời thiệt hơn:
Làm sao giữ vững biên cương,
Một đường cho vẹn một đường mới hay.
Lão thần có vị tâu bày:
“Kế này hẳn giữ cõi này được yên.
Chi bằng yết bảng cầu hiền,
Cậy ai giữ vững thành liền, quốc gia.
Bấy giờ đáng mặt tài ba,
Bấy giờ sánh ngọc cầu hoa mới bằng.
Nước nào yếu hẳn lui binh,
Nước nào mạnh hẳn kết tình dài lâu.
Thế là châu vẫn hoàn châu,
3.600. Lại không kết oán gieo sầu với ai.”
Sáng sau bảng yết khắp nơi,
Đức vua tìm bực anh tài cứu nguy.
Nổi xung giặc đoạt thành trì,
Kinh đô ngơ ngác, biên thùy khói bay.
Địch nhắn tin: “nhận duyên này,
Rút quân và trả thành ngay, ham gì.”
Trước lời cường địch thị uy,
Có người giựt bảng nguyện đi chiến trường.
Một mình thẳng tới biên cương,
Sóng dâng lớp lớp, mây vương mịt mù.
Giặc trông chưa đánh đã thua,
Người e quỉ sứ, kẻ ngờ thần tiên.
Ra tay đoạt mấy thành liền,
Khiến vua sáu nước lòng phiền khiếp oai.
Cờ hàng ngơ ngác đua bay,
Quốc vương tự đến thành ngoài tiếp tân.
Người đâu mặt quỉ tài thần,
Nửa phần khiếp vía nửa phần kiêng uy.
Hỏi ra nào có lạ chi,
Lê Ba thái tử từng khi nhắc truyền.
Tên người vang khắp sơn xuyên,
Một tay bạt nước láng giềng Tân-la.
Lại là phò mã nước ta,
Trụ trời chống vững sơn hà từ nay.
Thế là ngọc lại hoàn tay,
Vợ chồng như thể mới ngày mật trăng.
Hoàng thành mở hội hoa đăng,
Nhạc ca vi vút, đèn chăng nhạt nhòa.
Sáng ngày vua bảy nước qua
Tôn phong hoàng đế Lê Ba rạng ngời.
Rằng “đây thiên tướng nhà trời,
Sức thần bạt quỉ, thương đời rộng tâm.
Cõi này dù vạn ngàn năm,
Nào ai sánh được sức thần như ai.
Quả trang hiền đức anh tài,
Chúng tôi kính ngưỡng danh ngài bấy nay.
Bây giờ góp sức chung tay,
Xin ngài thống nhứt cõi này cho yên.
Trước sau nguyện dưới điện tiền,
Lấy điều hòa thuận kết liên mọi nhà.
Bỏ vũ khí, dẹp can qua,
Hiếu sinh làm cội, hiếu hòa làm duyên.
Để cho thuận dưới hòa trên,
Để cho khắp chốn nể kiêng cõi bờ.”
Trình rồi bảy nước tung hô,
Liên bang bền vững cơ đồ từ đây.
Cờ tung lá gọi ngàn mây,
Trống khua đất chuyển tàn vây thành ngời.
Cùng nhau vạch đất nguyện trời,
Rượu thề cắt máu chung lời sắt son:
Nguyện dù biển cạn đá mòn,
Chung nhau giữ vững nước non phú cường.
Tháng sau đưa vợ hồi hương,
Tiễn đưa hoàng đế, bảy vương theo kề.
Một đoàn trống thúc tàn che,
Hàng hàng voi ngựa, xe xe ngọc vàng.
Cờ theo nhã nhạc tấu vang,
Voi anh dẫn trước, kiệu nàng áp sau.
Dập dìu sáng ngọc tươi châu,
Sông xưa giờ cũng tươi màu dương hoa.
Tin vui báo đến vua cha,
Khắp đường hoa kết mọi nhà đèn thêu.
Lại vua trong buổi thiết triều,
Truyền ngôi thái tử đôi điều vẹn đôi.
“Rằng ta tuổi hạc đã rồi,
Về non tu học trau dồi tuệ thân.
Quốc gia nhờ bực trung thần
Phù trì thái tử muôn phần mở mang.
Rộng tình hòa hảo lân bang,
Dân giàu nước mạnh đạo vàng triển khai.
Cùng nhau liên đức liên tài,
Bên trong thuận hợp giặc ngoài lo chi.”
Thái tử về đến kinh kỳ,
Vẻ vang rõ đức oai nghi rõ hiền.
Khi đi một ngựa một yên,
Khi về bảy nước theo liền rạng oai.
Một tay khuất phục trong ngoài,
Tôn phong hoàng đế lên đài vinh quang.
Vua cha thân mở thành vàng
Đón con, mắt nhỏ đôi hàng lệ châu.
Nước mừng thuở vững kim âu,
Thả tù, miễn thuế, tìm cầu đạo tiên.
Dập dìu ngọc nữ phi tần,
Khúc nghê thường áo xiêm vần vũ bay.
Lúc thì khói nổi hoa lay,
Dáng nghiêng là tuyết tóc bay là huyền.
Tiếng ca như yến như uyên,
Mừng đêm rồng phượng đoàn viên một nhà.
Lầu vàng sánh ngọc kề hoa,
Dìu nhau trong cánh tay ngà ngất ngây.
Rượu hồng ai chuốc chén mây,
Lênh đênh dòng ngọc, vơi đầy âm thanh.
Sớm nghe ríu rít trên cành,
Mây hồng thấp thoáng sau mành liễu tơ.
Nhìn nàng thiếp ngủ như thơ,
Mà ta thế đó, hững hờ bước chân.
Ra vườn soi đáy hồ xuân,
Nghĩ thân mà tủi cái thân dị thường.
Còn đang tha thẩn bên đường,
Bỗng đâu một áng mây vương trước lầu.
Kết thành cỗ kiệu trân châu,
Ngọc vàng lấp lánh muôn màu đưa tươi.
Hiện ra rờ rỡ một người,
Kiệu mây bước xuống mỉm cười trang nghiêm:
“Tôi là Đế-thích vua tiên,
Cùng người vương vấn chút duyên bấy ngày.
Cũng vì nhau hiện về đây,
Có viên bảo ngọc trao tay niệm tình.
Khi nào đem giắt bên mình,
Thì người đổi tướng biến hình như chơi.
Oai nghi tuấn tú khác đời,
Cõi trần chẳng thể có người nào hơn.
E gì liễu ngại hoa hờn,
Lòng kia dẹp hết nguồn cơn từ rày.”
Vừa cầm thần ngọc trên tay,
Đáy hồ chợt hiện một người khác sao.
Nhìn lên kiệu ngọc tàn đào,
Hóa ra mây tía biến vào thinh không.
Vội vàng chàng ghé lầu Đông,
Đưa tay mang thử cây cung nhiếp thần.
Hoàng nương vừa tỉnh giấc xuân,
Bỗng đâu thấy một văn nhân tuyệt vời.
Xăm xăm mở cửa tới nơi,
Vội vàng sửa áo trâm cài đoan trang.
Miệng hoa lanh lảnh tiếng vàng
Rằng “người kia ở đâu sang tự mình?
Lại cầm bảo vật oai linh,
Nói ngay, không chẳng vị tình dung tha!
Cung thần là của chồng ta,
Biết điều trả lại, mau mà lánh ngay!”
Người kia bỏ ngọc trên tay,
Lại là thái tử xưa nay hiện dần.
Nàng còn ngờ vực phân vân,
Lòng chàng giờ mới muôn phần đẹp vui.
Sự tình bày tỏ đôi lời:
“Anh vừa được thưởng ngọc trời quang minh.
Nên chi biến tướng đổi hình,
Từ nay ngọc giắt bên mình khôn xa.”
Vợ chồng sánh ngọc tươi hoa,
Vẹn duyên loan phượng mặn mà hơn xưa.
Đổi tên là Lê Đại Thừa,
Lên ngôi hoàng đế cõi bờ đảm đương.
Lại truyền tu chỉnh triều đường,
Bấy giờ có bốn Long vương hiện về.
Cúi xin lo liệu mọi bề,
3.750. Hóa ra bốn suối pha lê diệu vời.
Nước tràn muôn dặm ùn hơi,
Dựng lên thành quách sáng ngời bảo châu.
Nào là muôn dãy kim lâu,
Nào đường mã não, nào cầu san hô.
Nào rừng chim tụ líu lô,
Nào sông hoa trải, nào hồ sóng lơi.
Trang nghiêm chẳng khác cõi trời,
Nước non cường thịnh, nơi nơi thái hòa.
Phật rằng “duyên nghiệp đâu xa,
Lê Ba kiếp nọ là ta kiếp này.
Sáu vua nước cũ ngồi đây,
Lục sư ngoại đạo ngày rày quy nương.
Quẩn quanh ảo giác mê trường,
Cõi đời tan tụ vô thường vào ra.
Từ đây rũ áo trần sa,
Chim tiên vượt thoát ta-bà nghiệp duyên.”
Vua Bình-xa đứng bên thềm
Rằng “Lê Ba trước tu hiền cách sao?
Đức hiền, sức đọ trời cao,
Mà nghe dị tướng ai nào dám trông.
Chẳng hay duyên nghiệp đèo bòng,
Là chi trong cõi trần hồng trả vay?”
Phật rằng “chính ở cõi này,
Kể vô lượng kiếp cách nay đã nhiều.
Núi kia có vị Tỳ-khiêu
Phá tâm huyễn vọng, sớm chiều công phu.
Nên bệnh phong, mặt sưng mù,
Lê chân hóa độ cho dù đớn đau.
Có bà nọ cúng dường dầu,
Về non chữa bệnh, trước sau nhiều lần.
Chồng bà là kẻ vô ân,
Mỗi lần thấy đến tham sân dấy lòng.
Mắng rằng “ông lão bệnh phong,
Trông như quỉ sứ, chớ hòng tu chi.
Cầm chút cặn, bước mau đi,
Thân đầy ghẻ lở người gì mà ghê.”
Trước lời miệng thế khen chê,
Rộng tâm hỉ xả chẳng nề nọ kia.
Chợt đâu vợ gã quay về,
Lấy dầu tốt cúng một bề kính tôn.
Lại vào nhà nhẹ khuyên chồng:
“Anh xây mãi ngục lửa hồng mà chi!
Biết điều mau tỉnh sân si,
Thành tâm sám hối tội khi mạn ngài.”
Nghe vợ gã hối xin ngay:
“Tham, sân, ác khẩu từ nay chừa dần.
Xin thầy có nguyện chi cần,
Ghé qua, chẳng dám ngại ngần hiến dâng.”
Ngày ngày lão vẫn lâng lâng,
3.800. Qua nhà hóa độ như vầng trăng soi.
Một hôm chứng ngộ đạo rồi,
Sắp lìa giả tướng vào nơi Niết-bàn.
Nghĩ ơn tín chủ cúng dàng,
Hiện về hóa phép chuyển hàng chướng ma.
Thần thông biến hiện một tòa,
Kim thân ngự đỉnh liên hoa sáng ngời.
Hào quang chiếu khắp nơi nơi,
Hóa mưa cam lộ tuyệt vời nhân gian.
Bốn phương rợp tấm y vàng,
Hiện thành tám ngả huy hoàng trên không.
Người xem lắng ý sạch lòng,
Khởi tâm dũng mãnh thoát vòng trần mê.
Vợ chồng gã bán dầu kia,
Phát nguyền thanh tịnh xin về muôn sau,
Nguyện xây nước mạnh dân giàu,
Nguyện khai hóa đạo nhiệm mầu khắp nơi.
Truyền lưu trí tuệ đời đời,
Kết tình chồng vợ chẳng dời nghiệp duyên.
Nhờ trồng cội đức thiêng liêng,
Nên chi quả phúc nhiệm huyền lưu phương.
Trị vì làm Chuyển luân vương,
Nhân duyên báo ứng khôn lường vào ra.”
Nghe xong hoàng đế Bình-xa
Truyền đem bia khắc để mà tu thân.
Triều thần cho đến toàn dân
Lấy mười nghiệp thiện tinh cần tiến tu.
Trời chiều lãng đãng sương mù,
Sông xa khúc hát đò đưa vọng về.
Người lên võng, kẻ lên xe,
Mắt còn hướng lại phía hè trầm hương.
23. Hạnh nguyện
Nhớ xưa khi đấng Pháp vương
Ở Kỳ-xà-quật núi sương ngút trời.
Gặp phen thời tiết đổi dời,
Phật vừa thọ bịnh, cho mời vị lang.
Thầy ngụ trong Cúc Mai trang,
Bên dòng sông nhỏ buông hàng liễu dương.
Vợ chồng nổi tiếng y vương,
Cứu người tật bệnh tai ương khắp miền.
Thầy hòa bát thuốc gia truyền,
Ba mươi hai lượng dâng lên trước mùng.
Thưa rằng “nội lực vô cùng,
Nên con hòa quá lượng dùng cho mau.”
Thế tôn chú nguyện đôi câu,
Chúc cho thầy chứng đạo mầu tự tâm.
Vị lương y rời thiền lâm,
Tay nương gậy trúc qua vườn mai hoa.
Ngựa ông vừa ruổi tới nhà,
Thấy người của phái Bạt-đa chờ mời.
Lại đi coi mạch cho người,
3.850. Qua vùng miếu cũ đến nơi Đề-bà.
Thấy cùng chứng bệnh Phật-đà,
Thầy cân bốn lượng thuốc hòa đem dâng.
Thưa “nơi khói núi mù sương,
Hay sinh lắm bệnh khác thường xưa nay.
Cách chừng đôi buổi trước đây,
Thế tôn cũng mắc bệnh này như ông.
Ba mươi hai lượng thuốc dùng,
Hôm sau bình phục như thường có sao.”
Đề-bà Bạt-đa tự hào
(So hai sức khoẻ ta nào kém chi.
Mà cân lượng thuốc ít đi,
Hay là lão dụng mưu gì bất lương!)
Chờ thầy quất ngựa lên đường,
Cứ theo số lượng Phật dùng truyền pha.
Uống xong liền ngã lăn ra,
Miệng sùi bọt trắng, một nhà xôn xao.
Phật ngồi trên đỉnh non cao,
Quán từ bi biến thân vào mênh mang.
Biết Đề-bà sắp nguy nàn,
Thần thông hiện cánh tay sang xoa đầu.
Bỗng nhiên mây nổi muôn màu,
Hiện năm ngón Phật như cầu kim cương.
Đề-bà nằm thiếp trên giường,
Tự dưng ngồi dậy như thường, chẳng sao.
Vây quanh tử đệ xôn xao
Rằng “Phật vừa phóng bạch hào chở che.”
Đề-bà nghe nổi si mê,
Vu “Phật khiến bỏ độc kia thuốc người.
Nhưng sao qua khỏi mắt trời,
Nên thiên sứ xuống phù đời chính chân.”
Lừa người hòng tạo lòng sân,
Gây thù tạo hận muôn phần hiểm nham.
Tin đưa đến ngài A-nan,
Nhân khi hầu Phật dưới hàng thông reo.
Mới đem thuật rõ mọi điều,
Phật cười: “ân oán đã nhiều xưa nay.”
Ngừng lời, nghiêng xuống bàn tay,
Hứng con bướm trắng vờn bay, đậu vào.
Rung rung như cánh hoa đào,
Giữa lòng tay Phật hồng hào luyến thương.
Ngài tiếp: “trong cõi vô thường,
Từ bi hỉ xả là đường chính chân.
Quyết lòng vượt thoát ngã, nhân,
Chấp chi vọng tưởng phù trần đảo điên.
Cũng từ kiếp trước nhân duyên,
Hại ta đâu phải một lần này thôi.
Nhớ xua trong kiếp luân hồi,
Châu Diêm-phù có một đời vua kia.
Hung tàn hiếu sát kể chi,
3.900. Gian tham tích nghiệp, sân si ám lòng.
Bệnh trầm kha đã mấy đông,
Một đêm mơ thấy thú lông màu vàng.
Chung quanh tỏa chiếu hào quang,
Chữa cho vua khỏi nguy nan ngặt nghèo.
Tỉnh ra, bệnh cũng khỏi theo,
Nhớ lông thú lạ, trăm chiều ước ao.
Mấy ngày sau giữa đại trào,
Họp phường săn bắn cho vào dưới sân.
Truyền “về sắm sửa cung tên,
Săn cho con thú như trên tả bày.
Hẹn già trong một tháng trời,
Nếu không săn được, ba đời tru di.”
Trở về một bọn sầu bi,
Chỉ còn tháng nữa đến kỳ đầu rơi.
Thú đâu có thú lạ đời,
Người đâu lại có lòng người oái oăm.
Một đêm họp hết phường săn,
Tìm mưu tính kế cho bằng thoát thôi.
Bỗng nhiên xuất hiện một người,
Thưa rằng “các bạn tìm nơi ẩn mình.
Mang theo của cải gia đình,
Việc này xin để mặc tình tôi lo.”
Nói rồi chào biệt mọi nhà,
Đeo cung tên, gã bỏ ra ngoài rừng.
Kể chi ác thú độc trùng,
Vượt đèo băng suối vô cùng gian nan.
Tìm cho được thú lông vàng
Giống như trong giấc mơ màng nhà vua.
Tấm thân dãi nắng dầm mưa,
Tử sinh kẻ tóc đường tơ mấy lần.
Một hôm gã nọ dừng chân
Giữa vùng sa mạc châu thân rã rời.
Phần thì nắng bỏng da người,
Phần thêm đói khát khôn dời bước đi.
Than rằng “ta chẳng tiếc chi,
Chỉ phiền chết chẳng cứu gì được ai.
Uổng bao ngày tháng dạc dài,
Tấm lòng đem xuống tuyền đài sao tan.”
Thiếp vào lòng cát mê man,
Bâng khuâng hồn điệp mênh mang đất trời.
Vẳng đâu tiếng suối xa vời,
Dần nghe sức đã phục hồi như xưa.
Tỉnh trông một tín mười ngờ,
Biết đâu âm cõi huyễn mơ nào chừng.
Giữa hang nở trắng lan rừng,
Có hồ nước biếc mấy từng mây in.
Cửa ngoài tím ngắt hoa sim,
Vào ra ríu rít bầy chim tiểu hoàng.
Còn bâng khuâng nỗi lòng chàng,
3.950. Thì đâu con thú lông vàng hiện ra.
Rằng “tôi tên gọi Cử-đà,
Ứng thân đi khắp ta-bà nơi nơi.
Cũng vì biển lệ chưa vơi,
Nên chi nguyện ở cõi đời khổ đau.
Trưa qua cảm được lòng nhau,
Cũng là cạn khổ vơi sầu chúng sinh.
Đón về đây để biến mình,
Xả thân chuyển nghiệp vô minh sâu dày.”
Nói rồi tự đứng phanh thây,
Lột da trao đến trước người thợ săn.
Rằng “vô lượng kiếp hồng trần,
Tử sinh như áo bao lần đổi thay.
Quẩn quanh tháng tháng ngày ngày,
Dệt thêm hư vọng cho đầy tham si.
Trước sau cũng một lần đi,
Cái thân huyễn hợp giúp gì được ai.
Bây giờ mừng được gặp ngài,
Nhờ đem lông đến thức người si mê.
Tôi nguyện công đức hướng về
Chúng sinh đắc đạo Bồ-đề Như Lai.”
Cử-đà vừa nguyện dứt lời,
Sáu lần chuyển đất nghiêng trời mê tân.
Mới hay Bồ-tát thí thân,
Cây tươi dâng trái hoa ngần dâng hương.
Chư thiên hiện xuống cúng dường,
Hóa thành mây báu mười phương chiếu ngời.
Thợ săn xiết đỗi rụng rời,
Tỉnh ra đã thấy bên người cỗ da.
Đâu còn mây ủ non hoa,
Nhìn lên hiện rõ mấy tòa thành cung.
Gối quì vái vọng hư không,
Chúng sinh nguyện độ một lòng không hai.
Gã vào trước điện dâng ngay.
Nhìn da con thú bao ngày thầm mong,
Nhà vua hả dạ vui lòng,
Truyền đem vàng ngọc thưởng công tiễu trừ.
Gã thợ săn quyết chối từ,
Chỉ xin vui thuận cho như nguyện lòng.
Một là vỡ núi khai sông,
Hai là tháo cũi sổ lồng ân tha.
Ba là gác chuyện can qua,
Bốn là mở đạo hiếu hòa hiếu sinh.
Dựng xây nước mạnh dân bình,
Gia ân là đức, giảm hình là uy.
Dưới thềm từ tạ ra đi
Bỏ vào núi ẩn, tu trì sớm trưa.
Đó là duyên cớ xa xưa,
Nhà vua thuở nọ bây giờ về đây.
Là Đề-bà tội sâu dày,
4.000. Tu bao nhiêu kiếp còn đầy tham sân.
Nghiệp lực cứ mãi chuyển vần,
Sáu đường hư ngụy bao lần nổi trôi.
Một khi xả nghiệp xong rồi,
Niết-bàn cũng ở luân hồi đâu xa.
Ngộ mê cũng một lòng ta,
Vọng duyên hoa đốm vẫn là chân không.
Bè kia muốn vượt bến hồng,
Nương chèo bi, trí, giữ lòng chẳng hai.
Cử-đà kiếp trước tự tay
Lột da bố thí thức người tham mê.
Kiếp này chứng đạo Bồ-đề,
Mười phương thế giới đi về thênh thang."
Dạy xong Phật đắp y vàng,
Chim đâu cất cánh một hàng lên cao.
Chờn vờn đôi bướm bạch đào,
Đậu trên áo Phật khác nào hoa rơi.
Pháp thiêng khiến tỉnh lòng người,
Chừng như hòa vọng trong lời suối reo.
Dưới non có vị Tỳ-kheo
Du phương quảy gói ráng chiều trên vai.
24. Đức vua và con voi
Nhớ xưa, ngày đức Như Lai
Bước vân du tới vườn mai trổ hồng.
Có hồ sen nước búp trong,
Đáy in xanh thẳm hàng thông vươn mình.
Đôi gian nhà đất mái tranh,
Bên cầu tre uốn qua ghềnh suối thơ.
Tin lành mới được nghe qua,
Quốc vương Xá-vệ liền ra đạo trường.
Vừa khi đệ tử trong vùng
Rủ nhau lớp lớp tới mừng Như Lai.
Một vườn hoa trải trầm bay,
Đài sen tỏa biếc, tàn mây pha hồng.
Người người vui mối vui chung,
Chờ nghe chánh pháp, nguyện lòng tuyết băng.
A-nan khi đó bạch rằng:
“Chúng sinh mừng gặp đạo hằng mở khai.
Kính thành xin đức Như Lai
Dạy cho hay kiếp trước Ngài duyên chi
Phát nguyền độ kẻ tham si,
Phá vô minh tỏ Bồ-đề tự tâm.”
Trong vườn hoa cỏ lặng im,
Cành cao thoảng rụng tiếng chim cuối mùa.
Thế tôn dạy: “cõi Diêm-phù
Cách nay vô lượng xuân thu đã nhiều.
Có vua trí tuệ cao siêu,
Quang Minh đế hiệu bao nhiêu đức dày.
Bốn phương thịnh trị nhờ tay,
Lòng từ thấm khắp cỏ cây thú trùng.
Một hôm vua nước láng giềng,
4.050. Dâng con bạch tượng trắng ngần tuyết lê.
Vua truyền giao cho nhà kia,
Chuyên nghề quản tuợng đem về dạy nuôi.
Thu đông ngày đổi tháng dời,
Voi kia tròn một năm trời vườn riêng.
Đã quen theo đúng lệnh trên,
Quản tượng viết sớ dâng lên triều đường.
Voi thần đẹp ý quân vương,
Ngài truyền dẫn đến đấu trường diễn coi.
Sớm mai vừa dựng mặt trời,
Cửa đông xe ngựa nơi nơi bốn bề
Đến xem bạch tượng lạ kỳ,
Như điềm chính đạo hiện về nhân gian.
Kiệu son giữa bốn lọng vàng,
Trống thôi vó ngựa loa vang thét đường.
Oai nghi đủ vẻ triều cương,
Đức vua ngự tới đấu trường sáng nay.
Bành voi nhung gấm bọc dày,
Để ngài thử một buổi này dạo chơi.
Khi voi được dắt tới nơi,
Trước đài quì xuống như mời vua lên.
Tiếng hoan hô dội bốn bên,
Khen mừng bạch tượng oai nghiêm khác thường.
Chợt voi thấy cuối đấu trường
Có voi xám nọ, chạnh thương mẹ già.
Bao ngày cách biệt rừng xa,
Nghĩ rồi bạch tượng vượt ra ngoài vòng.
Quan quân vội rẽ đám đông,
Ngựa tung bụi đỏ hãi hùng rượt theo.
Nhà vua lâm thế hiểm nghèo,
Trên voi phách lạc hồn xiêu sững sờ.
Mà voi kia vẫn trơ trơ,
Một niềm dõi hướng rừng xưa băng mình.
Phía sau, quân tướng triều đình
Lo tìm cách giữ an lành quốc vương.
Làm sao cứu được vẹn toàn,
Khi voi vượt suối băng ngàn như bay.
Mặc cho quản tượng luôn tay
Nện búa xuống gáy đau trầy sứt da.
Đến khi một tướng tài ba,
Ngựa đeo bên tượng, kêu vua vững lòng.
Rồi dang tay đón mình rồng,
Vua lao thân xuống giữa lòng tôi trung.
Võ quan xiết nỗi vui mừng,
Cứu được minh chúa thoát vòng nguy nan.
Nhưng vua lòng giận muôn vàn,
Nhìn theo bạch tượng không buồn nói chi.
Quan quân tiếp tục tới kề,
Một đoàn hộ giá thẳng về hoàng cung.
Còn voi nọ thoát về rừng,
4.100. Đem theo quản tượng trên lưng phóng dài.
Ngang đường có một thân cây,
Quản tượng vội níu lên ngay thoát mình.
Vượt rừng trở lại đế kinh,
Hôm sau vừa kịp bình minh buổi chầu.
Một thân quì dưới sân đào,
Đình thần, nội thị ai nào đoái trông.
Chỉ mong trên chín bệ rồng,
Lượng cao trông xuống, mở lòng thứ tha.
Nhưng rồi sương sớm chiều tà,
Ba ngày không thấy vua ra thiết triều.
Nghĩ thân mình đã tội nhiều,
Thôi đành tự xử dám kêu xin nào.
Cắt tay để lấy máu đào,
Viết sớ tạ tội tìm trao cận thần.
Nhờ dâng lên đấng minh quân,
Rồi về, dải lụa hủy thân trong ngày.
Nghe tin, vua mới đưa tay
Cầm trang sớ nọ xem lời tấu van.
Rằng “thần tội lỗi vô vàn,
Hủy thân để tạ điện vàng mới xong.
Ân vua xin giữ trong lòng,
Dù bao nhiêu kiếp trần hồng đâu phai
Vì thần bạc đức non tài,
Khiến voi chỉ khuất bề ngoài mà thôi.
Nên thừa cơ lúc diễn coi,
Băng về rừng cũ tìm nơi ẩn mình.
Nhưng vua là đấng cao minh,
Hẳn sau voi sẽ về kinh hầu ngài.
Như xưa các bậc hiền tài
Được bao ác thú các loài quy theo.
Thân tâm thuần phục đôi chiều,
Thiện căn hóa độ là điều dài lâu.
Phận tôi dưới bệ khấu đầu,
Kiếp này gây tội, thân sau nguyện đền.
Trăm nghìn lạy trước điện tiền,
Trước giờ vĩnh biệt cầu trên thứ lòng.”
Máu đào một lá coi xong,
Nhà vua nghĩ lại vô cùng xót xa.
Chuyện buồn cũng bởi vì ta,
Quá theo lòng giận mà ra nỗi này.
Truyền đem mực thắm tờ mây,
Sắc ban truy thưởng nghĩa người tôi trung.
Ba ngày cửa đóng hoàng cung,
Hiền vương suy nghĩ mông lung nhiều bề.
Phật xưa khai ngộ chuyển mê,
Làm sao trùng thú tự về nương theo.
Còn ta đủ sự nuông chiều:
Cỏ tươi, nước mát, chuồng điều sướng thân,
Mà không khuất được voi rừng,
4.150. Đức người hồ dễ có chừng ấy thôi.
Lòng sầu, mãi nghĩ khôn nguôi,
Chợt đêm mộng thấy một người tới thăm.
Ung dung bước tỏa hào quang,
Đó đây man mác sen vàng gió hương.
Trao cho vua tập Kim Cương
Rằng “đây cửa đạo chân thường Như Lai.
Từ bi trí huệ cao dày,
Đó là Phật tánh xưa nay tỏ tường.
Thuyền lan sáu cánh qua sông,
Tịnh, ô thì cũng một vòng khởi duyên.”
Tỉnh ra vua sạch ưu phiền,
Phát tâm sám hối, khởi nguyền thanh cao.
Nguyện đem công đức hướng vào
Cõi trần mở oán giải sầu chúng sinh.
Đoạn trừ nguồn cội vô minh,
Mở khai chính đạo yên bình muôn phương.
Trần gian hóa hiện thiên đường,
Tràn đầy trí huệ tình thương diệu vời.
Đức hiền rờ rỡ mặt trời,
Khiến cho cây cỏ muôn loài nở vui.
Quốc vương thệ nguyện dứt lời,
Suối thần hòa điệu, hoa tươi nở đầy.
Nhạc vàng thoảng gió đâu đây,
Trên không chợt hiện vừng mây tuyệt vời.
Giữa mây chư vị thần trời
Khen vua nguyện lớn cứu người tham mê.
Mai sau ngộ nhập Bồ-đề,
Đạo trường thanh tịnh bốn bề hòa duyên.
Mở khai muôn tạng kinh hiền,
Kết thành hoa báu hương thiền diệu âm.
Quang Minh đúng bậc nhân vương,
Bấy giờ khắp nước dựng trường đạo khai.
Từ tâm thấm khắp muôn loài,
Nên ngày kia có một người thợ săn
Đến khi bệ kiến vua hiền
Tâu chuyện săn bắn nơi miền đất xa.
Hôm kia gã ở rừng già,
Gặp con voi trắng như là tuyết rơi.
Mang bành khảm ngọc sáng ngời,
Lên non hái trái lại rời khe mây.
Rình theo lâu mới được hay
Voi thường nuôi mẹ ngày ngày động hoang.
Cuối khe trên nắm cỏ vàng,
Voi già nằm đó thân tàn trơ xương.
Vội vàng gã đến trào cương
Trình lên thánh thượng tỏ tường việc kia.
Ví bằng cho bắt voi về,
Thì xin dẫn đến động khe cuối rừng.
Vua trầm ngâm giữa ngai rồng,
4.200. Truyền đem vàng bạc thưởng công chu toàn.
Phán rằng “tình mẹ nghĩa con,
Dù cho trăm biển nghìn non nào bằng.
Từ bi là tính thường hằng,
Xem trong muôn loại cũng chung đạo trời.
Dù cho vật đổi sao dời,
Từ tâm trí huệ đời đời truyền lưu.
Giá gương phủ lấy nhiễu điều,
Tình như biển rộng bao nhiêu nước vừa.
Để voi ở lại rừng xưa,
Sớm hôm nuôi mẹ cho vừa hiếu tâm.”
Thợ săn bái tạ hoàng ân,
Lĩnh vàng bạc thưởng lui chân quay về.”
Kể xong, Phật bảo “voi kia
Đã chăm nom mẹ sớm khuya một lòng.
Nên sau nhẹ nợ cõi hồng,
Lại nương chính pháp thoát vòng trần lao.
Như chim thần vút cánh cao,
Đại phương cõi Phật ra vào nghiêm trang.
Đó là hiền giả A-nan
Hiện thân giữa chốn đạo tràng tịnh tu.
Còn người quản tượng cho vua,
Mượn vòng lụa bạch kiếp xưa hủy mình.
Kiếp này cũng dứt vô minh,
Như đêm thu nguyệt hương quỳnh thoảng bay.
Là ông Xá-lợi-phất đây,
Kiếp xưa điều tượng, kiếp này điều tâm.
Khởi giác tính, bạt mê lầm,
Như sen thường trụ trong đầm tanh hôi.
Dù cho muôn kiếp luân hồi,
Cũng theo đại nguyện cứu người tham mê.
Trong sinh tử hiện Bồ-đề,
Trí bi tự tánh hiện về nơi nơi.
Còn vua, nguyện cảm đất trời,
Phát tâm độ khắp muôn loài khổ đau.
Kiếp trần trôi nổi đã lâu,
Ra vào nguyện giải oán sầu lầm than.
Ngục sâu chuyển hóa Niết-bàn,
Ra tay tế độ vô vàn chúng sinh.
Từ tâm vua Đại Quang Minh,
Kiếp xưa khai sáng đạo lành là đây.
Giờ thân hiện xuống cõi này,
Trần gian dẫn lối, chỉ bày Phật tâm.”
Đài cao tỏa ánh hương trầm,
Suối xa thoảng tiếng thủy cầm líu lô.
Người nghe thoát khỏi mê đồ,
Lâng lâng bước nhẹ dưới bờ liễu dương.
25. Phép giới trai
Ngày xưa trong rừng đàn hương
Có nhà mái lợp mây vương sớm chiều.
Đường lên khúc khuỷu cheo leo,
4.250. Lội qua con suối lưng đèo cỏ non.
Cửa rừng đôi nhịp cầu son,
Dưới tàng hoa trắng, hao mòn bóng in.
Thế tôn ở giữa đồi sim,
Mái leo hoa mướp, rào vin mây trời.
Tiếng thơm truyền khắp nơi nơi,
Ngày kia mới có một người phương xa.
Chẳng nề thân phận đàn bà,
Băng sông vượt suối tìm qua Kỳ-hoàn.
Trải bao trăng gió quan san,
Con đường muôn dặm nguy nan ngại nào.
Một lòng cầu đạo khát khao,
Như chim hạc nhớ mây cao cánh hường.
Bước chân vừa đến đạo trường,
Sầu tan theo hạt sương vương sớm ngày.
Rừng trầm phảng phất hương bay,
Quanh thềm đệ tử ngồi vây điệp trùng.
Tiếng nào như nắng tan sương,
Tiếng nào như áng văn chương nhiệm mầu.
Nghe xong cởi oán tan sầu,
Sông mê ai bắc nên cầu từ quang.
Phật tuyên giới ngọc đạo vàng,
Như hoa sen nở nghiêm trang trời người.
Luật như bảo ngọc khôn dời,
Giới như áo giáp hộ đời bình yên.
Là kiếm quý bạt ưu phiền,
Là mưa xuân đượm khắp miền an vui.
Truyền lưu tuệ mệnh đời đời,
Ao công đức thủy tẩy người trần sa.
Bấy giờ tín nữ Từ Hòa
Chắp tay đứng dậy thiết tha nguyện cầu:
“Nhân duyên chẳng biết bao lâu,
Các con nay được pháp mầu cứu ra.
Chúng sinh như số phù sa,
Biết đâu thánh giới để mà cầu nghe.
Cúi xin Đại đức chở che,
Rộng tuyên đạo lý kết bè qua sông.
Dù cho biển cả nên cồn,
Tấm lòng giới hạnh giữ tròn, dám phai.
Dù nơi góc biển chân trời,
Còn thân còn nguyện cứu đời oan khiên.”
Phật truyền “vì đại nhân duyên,
Phước căn muôn kiếp đã chuyên tích trồng.
Các con hãy nhớ ghi lòng,
Pháp đưa qua cõi lửa hồng tham sân.
Phá muôn giả tướng phù vân,
Người tu ác quỉ thiên thần cũng theo.
Tâm thân lợi lạc muôn điều,
Khiến cho muôn loại cũng chiêu cảm hiền.
Nhân lành nên khởi thiện duyên,
4.300. Nơi ngục lửa cũng như trên cõi trời.”
Bấy giờ đại chúng ghi lời,
Như đêm tối bỗng tỏa ngời ánh trăng.
Từ Hoà lại đứng thưa rằng
“Bạch Thầy: về chốn xa xăm ngại ngần.
Bây giờ con trở bước chân,
Đường đi muôn dặm phù vân dãi dầu.
Ngó vời xanh ngắt cồn dâu,
Hoàng hôn rồi lại nhuốm màu hoàng hôn.
Biết đâu bèo dạt sóng dồn,
Mốt mai đất viễn, gửi hồn cỏ cây.
Lấy chi đền đáp ơn dày,
Lấy chi soi tỏ đường ngay, nẻo tà?”
Trên thềm Phật ngự hiền hòa,
Phóng hào quang hiện đóa hoa nhiệm mầu.
Cánh sen ghi mấy dòng châu,
Là trang thơ chép nghìn câu pháp hiền.
Phật rằng “dù chốn ải biên,
Tụng dòng kinh nọ cũng yên đất trời.
Lời tan phiền não ba đời,
Như hương lan tỏa người người thơm lây.”
Cánh hoa chép pháp cầm tay,
Từ Hòa lễ tạ, ai hoài bước đi.
Theo buồm mây trắng vân vi,
Thỉnh kinh mầu nhiệm, tu trì khuôn thiêng.
Xuôi dòng chim liệng sao nghiêng,
Thuận buồm xuôi gió như trên đất bằng.
Đường sông qua hết mùa trăng,
Đã trông thấp thoáng vân đằng cô thôn.
Về làng hai buổi sớm hôm,
Gõ cây tụng niệm, giữ lòng giới trai.
Thuận trong cho đến hòa ngoài,
Cứu người thương vật một tay xá gì.
Coi đời như bóng mây đi,
Như không hoa hiện, như vì sao băng.
Thân tâm nghiệm đạo thường hằng,
Bồ-đề thắp ngọn tâm đăng chốn này.
Một đêm đang tụng tờ mây
Chợt nghe ai tán đức dày trên không:
“Chị như chim lạc chim hồng,
Chí tâm tụng niệm những dòng hương hoa.
Muốn dâng người một món quà
Để gieo quả phúc muôn tòa bảo kim.
Đó là ngài Mục-kiền-liên,
Cùng Xá-lợi-phất hóa duyên ta-bà.
Hiện đang trú ở rừng già,
Cách đây con suối tìm qua cũng gần.
Cúng dường là đại nhân duyên,
Là đường dẫn đến diệu huyền Như Lai.
Chị nhớ khi cúng lễ trai,
4.350. Nhắc cho hai vị gọi loài thần tôi
Sẽ đem hoa của đất trời
Kết thành hương khói tuyệt vời cúng dâng.”
Từ Hòa cất tiếng hỏi rằng:
“Ai trong đêm tối vân đằng qua thôn?”
“Em đây là Tỳ-sa-môn,
Đại vương trị một thiên đường xa xôi,
Đang khi theo áng mây trôi,
Dừng nghe chị tụng bồi hồi luyến thương.”
Từ Hòa đáp “quả lạ thường,
Người trời kẻ tục đôi đường khác xa.
Có đâu máu mủ một nhà,
Xưng hô em, chị nghe mà khó xuôi.”
Thần cười: “dù tục, dù trời
Cũng là con thảo dưới ngôi Phật hiền.
Người cha của khắp nhân thiên,
Gieo trồng nhân thiện các miền khác chi.
Chị là vị ưu-bà-di,
Tôi ưu-bà-tắc có gì xa đâu.
Cùng mang pháp chủng cao sâu,
Cùng nguyền đem đạo nhiệm mầu độ tha.”
Bấy giờ tín nữ Từ Hòa
Hiểu rằng chung một người nhà Thế tôn.
Hỏi thăm xiết đỗi mừng lòng,
Rằng “ngài gọi đến tên ông làm gì?”
“Chị ơi thần lực oai nghi,
Nghe tên tôi, quỉ ma về hầu nghe.
Lại nhờ đạo lực chở che,
Dần dần cảm hóa, tu trì theo gương.”
Nói rồi thần lại lên đường,
Giữa trời loé sáng dị thường vụt bay.
Từ Hòa thầm lặng ngất ngây,
Cảm vì oai đức cao dày đức Cha.
Lòng thương trải khắp trần sa,
Trí ngời khiến cả ta-bà kính thương.
Dù là ác quỉ thiên vương,
Cũng nhờ đuốc sáng soi đường tiến tu.
Mải ngồi dưới bóng trăng thu,
Song thưa bóng nhạt chó tru chuỗi dài.
Dưới lầu sớm vọng tiếng ai
Trình rằng bên suối rừng ngoài đầu thôn,
Con thấy hai vị sa-môn,
Là người bà vẫn kính tôn sớm chiều.
Vội vàng vén mở rèm thêu,
Tóc huyền tay chuốt, dép điều chân khoa.
Gọi người thu dọn cửa nhà,
Truyền người sắm sửa trái hoa cúng dường.
Còn thân tự đến rừng sương
Tìm ngay cội liễu bên đường thỉnh thưa:
“Lòng con như hạ chờ mưa,
4.400. Ngưỡng trông Tam bảo khắc giờ khôn nguôi.
Giờ con tha thiết đón mời,
Xuống nơi thôn dã cho đời ân chiêm.
Bấy giờ ngài Mục-kiền-liên
Cùng Xá-lợi-phất theo chân xuống làng.
Nắng mai rực rỡ sương vàng,
Ngón chân hồng nở, bên đàng hoàng rơi.
Trai đường vừa ghé tới nơi,
Trầm ùn hương tịnh sân ngời cánh hoa.
Uy nghi hai vị, hai tòa,
Theo sau thí chủ một nhà dâng hương.
Đầy thôi hoa trái cúng dường,
Hương pha chén ngọc, trầm vương đũa ngà.
Dưới thềm tín nữ Từ Hòa
Đứng hầu cung kính một nhà trang nghiêm.
Tiệc tàn hầu nữ hai bên,
Bưng hai chậu nước dâng lên người dùng.
Rửa tay xong, ngồi ung dung,
Mục-liên chú nguyện khắp vùng bình yên.
Từ Hòa cung kính thưa liền:
“Xin ngài gọi đến tên thần Tỳ-sa.”
Duyên do lại thực trình ra,
Gặp thần ghé lại đêm qua trước lầu.
Sư rằng “cội đức dày lâu
Nên chiêu cảm cõi nhiệm mầu thần tiên.”
Bạch thầy: “con có nhân duyên,
Thường khi thần hiện báo riêng đôi điều.
Hoặc là che chở muôn chiều,
Tình như cha mẹ từ bao nhiêu đời.
Hoặc khi cứu vật giúp người,
Quỉ thần tán thán những lời vàng son.
Hoặc khi cúng dường sa-môn,
Thần còn mách bảo đôi đường thiệt hơn:
Vị này chứng quả Đà-hoàn,
Hoặc là Bồ-tát, hoặc phàm phu Tăng.
Nhưng con vẫn dạ khăng khăng
Một lòng cung kính thường hằng xưa nay.”
Tôn giả tán thán “hay thay!
Vô phân biệt thí, hạnh này dễ đâu.
Cũng vì kiến chấp dày lâu,
Trí phân biệt nọ, tâm mầu dần che.
Một đường xả ngộ lìa mê,
Tự tâm bi trí hiện về tỏa soi.
Làm gương cho khắp trời người,
Truyền lưu nghiệp đức đời đời còn thơm.
Phật dạy sáu pháp cúng dường,
Đó là nguồn cội con đường nhân thiên.
Một là bố thí bịnh nhân,
Hai là cho khắp kẻ bần đói ăn.
Ba giúp cơ nhỡ muôn phần,
4.450. Bốn là dắt dẫn qua cơn hiểm nghèo.
Năm là cung dưỡng Tỳ-kheo,
Sáu là giáo hóa muôn điều an vui.
Rộng thương khắp vật khắp người,
Một tâm bình đằng khôn dời sớm hôm.
Chiều nay đón đức Thế tôn,
Cùng đại chúng ghé qua thôn cuối rừng.
Con mau tìm đến lễ mừng,
Phúc duyên này dễ đã từng mấy ai.”
Nói rồi tôn giả chắp tay,
Nghiêm trang y pháp về ngay đạo trường.
Từ Hòa sửa lễ cúng dường,
Sáng sau một kiệu hoa hương viếng Người.
Một vùng lau lách xanh tươi,
Trang trại mây trắng ẩn vời núi sâu.
Phật đang phơi áo bên cầu,
Trên bãi cỏ tím như màu chiều sa.
Búp tay ngón ngọc ngón ngà,
Mặt như trầm ngọc chan hòa từ nghiêm.
Nàng đem hoa trái dâng lên,
Phật cười, chỉ đến bên thềm đá cao.
Ngài ngồi trên võng tơ đào,
Hoa rơi y Phật khác nào tuyết bay.
Chim vàng lảnh lót đâu đây,
Trong êm như suối đầu ngày vừa sa.
Mừng thay, con mới gặp cha,
Tấc lòng tự sự biết là sao nguôi.
“Thầy ơi, từ thuở xa Người,
Thân con ải viễn chân trời khôn quên.
Dù cho núi não sông phiền,
Tiến tu giới huệ, nhiệm huyền biết bao.
Như người vượt biển theo sao,
Cánh thuyền nổi giữa ba đào như không.
Tháng ngày tha thiết ngưỡng trông,
Mở con mắt huệ dứt vòng trần lao.
Xóm con hằng vẫn khát khao
Được ngài giáo hóa, ra vào ân chiêm.”
Thưa rồi lễ tạ lui chân
Tìm đi khắp chốn xa gần hỏi thăm.
Liêu kia có một vị nằm
Trùm y thiếp ngủ mê man bệnh thời.
Vừa khi vị nọ trở người,
Từ Hòa mới đến ngõ lời hỏi thăm.
Người rằng “bệnh đã lâu năm,
Nhân khi thời tiết bất thường phát ra.”
Trông thầy tín nữ xót xa
Thưa rằng “ngài đã dùng qua thuốc gì?
Hoặc còn cần thiếu vị chi,
Cứ cho con biết kịp thì cúng dâng.”
Người rên: “thuốc đã đủ dùng,
4.500. Duy còn thịt để nấu chung là cần.”
“Chiều nay con sẽ dâng lên
Để người trị liệu cho liền bệnh thân.”
Cúi chào mau trở bước chân,
Về thôn kiếm khắp xa gần thịt tươi.
Dù tìm khắp chợ, khắp nơi,
Đến khi nắng xế mặt trời chênh non.
Dù là một miếng thịt con,
Cũng không chuốc được để còn kịp dâng.
Tưởng khi người bệnh thiếp nằm,
Đợi hoài ai vẫn biệt tăm cuối trời.
Vả chăng đã hứa một lời,
Thân ta quên được chứ lời chẳng sai.
Liền cho cửa đóng then cài,
Tự tay lóc thịt gửi ngay đến người.
Đầm đìa một vũng máu tươi,
Đau như xé ruột mỉm cười như nhiên.
Khiến cho kẻ dưới người trên,
Nào ai hay rõ chỉ riêng đứa hầu.
Cũng nhờ thuốc đắp cầm mau,
Nếu không máu đã tuôn trào như mưa.
Tớ hầu kịp đến rừng đưa,
Vị kia đem thịt đun vừa lượng ăn.
Cũng nhờ nguyện lực tinh thành,
Uống vào một bát bệnh lành như không.
Từ Hoà có một người chồng,
Gã là thương khách theo sông buôn đò.
Mỗi năm mùa nước lên to,
Chở hàng xuôi ngược giang hồ bán buôn.
Ham tiền nhẹ nghĩa vợ chồng,
Để ai buồn lắng ngùi trông phương trời.
Nửa năm một chuyến đò xuôi,
Ghé về chốc lát lại dời bước chân.
Mặc người vò võ thu xuân,
Lầu trơ hiên nguyệt, cửa ngần khóa sương.
Lò trầm ai biếng thêm hương,
Gối thêu bụi tỏa, đài gương gió mờ.
Nửa năm lửa đợi, hương chờ,
Một ngày vừa sáng tinh mơ rộn lời.
Ầm ầm đập cửa trăng rơi,
Vừa về đã rộn những lời nọ kia.
Thôi thì tiếng bấc tiếng chì,
Thôi thì hoạnh họe, thôi thì chê bai.
Thấy vợ nằm bệnh than dài,
Gọi gia nhân gặng tra hoài căn duyên.
Con hầu như sự trình lên,
Rằng “bà lóc thịt cúng dường sa-môn.”
Vừa nghe trợn mắt phùng mồm
Ra đường la lối rằng phường nọ kia.
Lời thêm tiếng bớt thiếu gì,
4.550. Thỏa tình bêu riếu khinh khi đủ đường.
Tin kia đưa đến đạo trường,
Có người Phạm chí khinh thường Như Lai.
Duyên do cứ thực tỏ bày,
Phật truyền cho gọi đến thầy sa-môn.
Rằng “nhận y, thực cúng dường,
Phải tìm hiểu rõ tận tường nguyên căn.”
Thầy trình: “trong lúc bệnh hành,
Vội đem điều trị cho lành, ngờ đâu!”
Thưa rồi, mặt héo rầu rầu,
Phát lòng sám hối cúi đầu quì hương.
Phật dạy ba pháp y nương:
Là bất tịnh nhục chẳng thường được ăn.
Thấy người giết vật, chấp tranh,
Hoặc nghe tiếng vật lòng đành làm ngơ.
Hoặc còn một tín mười ngờ,
Đều là bất tịnh mê mờ bất nhân.
Phải thường thâu nhiếp tâm thân,
Chẳng cho vọng niệm tham sân dấy lòng.”
Nói rồi Phập phóng thần thông
Hóa thân trên đỉnh mây hồng vút bay.
Gã kia đang lúc rượu say,
Hết hành hạ vợ, lại dày vò con.
Từ Hòa nằm thiếp trên giường,
Người trong xóm tụ bên đường lao xao.
Bỗng dưng một ánh bạch hào
Thành mây năm sắc bay vào chơi vơi.
Hóa thân Phật ngự lưng trời,
Trên tòa sen quý sáng ngời oai nghi.
Như tinh tú hiện muôn vì,
Như ngàn ngọn núi lưu ly rỡ ràng.
Giữa mây lác đác sen vàng,
Hương đâu thoảng ngát thôn làng đẹp tươi.
Gió thơm lay tỉnh lòng người,
Bừng cơn ác mộng, diệu vời chân tâm.
Từ Hòa chợt bỏ chỗ nằm,
Vết thương chân đã nguyên lành như xưa.
Chồng nàng cũng tỉnh mê mờ,
Gặp nhau yêu kính như vừa thành hôn.
Hào quang Phật chiếu qua thôn
Hóa thành mưa nhẹ tươi cồn lá hoa.
Bấy giờ khắp xóm khắp nhà,
Niềm vui tràn ngập thuận hòa yêu thương.
Buồn phiền như thoảng tơ sương,
Ngưỡng trông oai đức Pháp vương diệu vời.
Mừng thay ánh sáng ra đời,
An lành chung cả đất trời cỏ cây.
Rủ nhau tìm đến trang mây,
Suối xa âm vọng vơi đầy tiếng chim.
Cửa rừng qua nhịp cầu sim,
4.600. Mây bay lên đỉnh, hoa in đáy giòng.
Vi vu tiếng hát rừng tùng,
Tiếng chuông trầm xuống vô cùng thiên nhiên.
26. Nàng Vân Anh
Xưa, miền núi đó đẹp vui
Bên sông uốn khúc in trời như tranh.
Có người trưởng lão hiền lành
Dựng nhà bãi núi, vườn xanh bốn mùa.
Ngày vui xới đất trồng hoa,
Vuốt râu cười giữa Ta-bà khói sương.
Khi trà dưới rặng liễu dương,
Khi rong thuyền rượu dõi đường đào nguyên.
Và khi theo Phật hóa duyên,
Bước chân mầu nhiệm khắp miền thanh sơn.
Lại cùng Tăng chúng ngắm sương,
Câu thơ xướng họa trong vườn hồng mai.
Hiếm hoi cầu tự khắp nơi,
Mới được một gái tuyệt vời sắc hương.
Sinh ra mang dấu lạ thường,
Cổ ngà có sợi tơ vàng quấn quanh.
Sợi vàng tỏa sáng long lanh
Ba ngày, tự lúc Vân Anh chào đời.
Mẹ cha quý trọng tơ trời
Như sợi chỉ mảnh mà dai vô cùng.
Dẫu khi tắm rửa, bế bồng,
Dẫu khi nghịch dứt đều không hề gì.
Tháng ngày thơ ấu trôi đi,
Đường hoa nâng gót xuân thì dậy hương.
Tuổi vui đuổi bướm trong vườn,
Gió say vuốt cặp má thơm ửng hồng.
Đào thơ môi hé cánh nhung,
Mắt huyền thu cả dòng sông khuynh thành.
Đất hiền chung đúc tinh anh,
Vườn cao rực rỡ một cành kiêu sa.
Rào xuân ong bướm khó qua,
Đã nhiều anh tuấn phương xa, chốn gần
Cậy người mai mối cầu thân,
Mà khuê trang vẫn chưa lần thuận nghe.
Lòng băng còn mãi hướng về
Nẻo đường tế độ, xa lìa trần lao.
Những đêm lặng ngắm trăng sao,
Những ngày thoáng cánh chim cao vượt ngàn,
Là tâm lại thấy mang mang,
Nỗi thương xót chốn đoạn tràng những ai.
Một hôm nàng mới thưa lời,
Xin cha mẹ dẫn đến nơi đạo trường.
Song thân nghe biết ý nàng,
Mừng khen con trẻ chọn đường lợi tha,
Nên cùng lựa trái, đơm hoa,
Thắng xe bốn ngựa hồng ra lễ đài.
Núi xanh thả gió theo người,
5.450. Triền xanh lau lách bồi hồi tiễn đưa.
Tùng lâm mây biếc thướt tha,
Hoa leo vàng nở đơn sơ mái hiền.
Dưới cây từng bệ đá thiền,
Hàng hàng Tăng lữ trên thềm tọa không.
Dáng như đá động trầm truông,
Dưới hoa thoảng mấy lò hương ngạt ngào.
Gặp Phật gieo hạt bên cầu,
Y tơ thấp thoáng như màu triêu dương.
Vân Anh quì xuống bên đường,
Nắng soi hạt biếc lá vương diệu vời.
Thưa: “con như hạt mưa rơi,
Phúc duyên đậu chốn tỏ ngời đài hoa.
Như mây tha thướt nắng tà,
Giờ xin quyết chí xuất gia tu hành.
Để sao nghiệm được chân tâm,
Nguyện về chuyển nghiệp mê lầm trần gian.
Cứu người trong kiếp nguy nan,
Tùy phương diệu dụng Niết-bàn mở khai.”
Miệng xinh vừa ngỏ hết lời,
Vòng tơ xưa bỗng lại ngời hào quang.
Long lanh bao tỏa thân nàng
Rồi tơ lại hóa lụa vàng pháp y.
Trước bao mắt thấy lạ kỳ,
Phật truyền cho một lão ni dẫn về.
A-nan dưới cội hoa lê
Thấy người khai ngộ chuyển mê lạ lùng.
Uy nghi như cánh chim hồng
Đạp mây vỗ cánh vượt vòng trần lao.
Bèn thưa: “nghiệp mệnh ra sao,
Sợi tơ bỗng hóa pháp bào lạ thay?”
Thế tôn kể chuyện: “Trước đây
Tỳ-bà Phật xuống cõi này mở khai.
Nơi thôn kia có hai người
Vợ chồng nghèo khó sống đời xác xơ.
Chỉ còn một bộ vải thô
Thay nhau mặc lúc cần đồ che thân.
Chồng đi cày mướn kiếm ăn
Thì vợ đóng cửa ở trần, biết sao!
Đến ngày, bên triền núi cao
Có Phật về độ, tin vào thôn kia.
Chồng mượn quần áo đem về,
Hai người mới rủ nhau đi đón mừng.
Non mai lác đác chim rừng,
Vùng quanh kéo đến tưng bừng hội vui.
Trên tòa đá dựng chơi vơi,
Đức Từ bi ngự, ban lời độ tha.
Ngài khuyên: “cứu giúp người ta,
Với lòng thương xót, chính là thiện căn.
Thương người như thể thương thân,
5.500. Chẳng còn bờ vực ngã nhân chia lìa.
Giúp người tỉnh thức huyễn mê,
Giúp người hết sợ, mọi bề bình an.
Giúp người đói khát miếng ăn,
Giúp người hiểu biết nghĩa nhân với người.
Chia tiền, sẻ của mà vui,
Giàu nhiều, nghèo ít, tùy nơi sức mình.
Nay hằng gây các nhân lành,
Mai sau cõi thế quyền danh, ngọc ngà…”
Vợ chồng như nở lòng hoa,
Về thôn gặp một cụ già ăn xin.
Gầy khô, rách rưới thảm phiền,
Tựa ngoài vách đất, lặng yên cúi đầu.
Xót xa, người vợ hỏi chào,
Rồi vào gài cửa, cởi trao áo quần.
Rằng “tôi thấy lão một thân,
Thành tâm nhường giúp manh quần áo đây.
Xin người nhận tấm lòng này,
Đó là pháp Phật hiện bày chính chân.”
Cụ già đứng nghĩ phân vân:
”Vợ chồng này cũng manh quần mặc chung.
Cho ta biết lấy gì dùng,
Lấy gì che nắng che sương lần hồi.
Cửa kia đã đóng chặt rồi,
Mà lòng bố thí cõi trời mang mang.
Người vì trí Phật, pháp vàng,
Thì ta đem vải cúng dàng lên Tăng.
Lòng kia rực rỡ sao trăng,
Khiến mình vượt thoát nghèo nàn tiến tu.”
Thế rồi tâm niệm nam mô,
Đường xa, tìm đến bên hồ nguyệt soi.
Phật cùng tứ chúng người người,
Đuốc hồng như thể chân trời sao sa.
Cụ kia chẳng quản thân già,
Bên thềm dâng bộ vải thô ra trình:
”Nhờ ơn Tam bảo chứng minh,
Dẫu nghèo cực vẫn giàu tình nghĩa thay!”
Phật rằng “sau kiếp vị lai,
Phúc nhân bể rộng sông dài nào hơn.”
Nghe qua pháp hội vui mừng
Tâm kia như thể hương rừng chi lan.
Trong thành, trưởng giả, vua, quan
Đều thương quý tấm lòng vàng biết bao.
Cùng nhau tiền của góp vào,
Tìm đôi nghèo nọ để trao, gọi là…
Lại cho thóc giống gieo mùa,
Từ tâm khiến cả gió mưa thuận hòa.
Lộc vua ban khắp nhà nhà,
Núi non thôn xóm ngợi ca đức hiền.
Cũng nhờ gặp đại nhân duyên,
5.550. Hạnh lòng bố thí, dâng lên cúng dàng.
Dù muôn ức kiếp bụi vàng,
Vào ra tơ báu thường mang bên mình.
Kiếp này như cánh phượng linh,
Tâm mầu hé mở bình minh cõi người.
Như hoa linh thoại trong đời,
Thiên thu nguyên khối vàng ngời ngọc hoa.
Như trầm xông cõi Ta-bà,
Mười phương pháp giới cũng là trang nghiêm.”
Trong rừng thoảng tiếng chim khuyên,
Nghe xong bể não non phiền sạch không.
Trông ra mấy cội đào hồng,
Ngàn cây đơm ngọc, mấy đồng tuyết hương.
27. Tiền thân của vị vua trời
Thôn xưa, hoa nở rực đường,
Sớm mai trời biếc sương vương dặm dài.
Lá xanh như vạn mây đài,
Đựng muôn hồng ngọc tỏa soi diệu kỳ.
Chân trời mây lẫn cò đi,
Cánh như lụa uốn xanh rì thảm tơ.
Sóng xa vọng tiếng đò đưa,
Gió thơm từ núi mai mơ thoảng về.
Bước chân mở đạo Bồ-đề,
Bình mình trên tấm hoàng y tỏa ngời.
Đức Ca-chiên-diên là ngài,
Gót như hạc nổi, mây trời lâng lâng.
Ngài đi về phía trời hồng,
Nương khoai xanh ngắt, bềnh bồng chim ca.
Chợt trông thấy một lão bà
Ôm thân rách rưới lệ sa sụt sùi.
Tôn sư nghe, dạ bùi ngùi,
Dừng chân mới hỏi thăm người nọ kia.
Bà rằng “thầy hỏi làm chi,
Thân già nghèo khổ ra gì cái thân.
Một đời cơ cực gian truân,
Bây giờ tuổi lão ai cần mướn tôi.
Làm gì được, lúc mòn hơi,
Tìm đâu được một chút vui, đời tàn…!”
Nghe rồi, ngài Ca-chiên-diên
Dùng thần lực trút ưu phiền bà kia:
“Thân già nào đáng sợ chi,
Cái vui, đâu phải tuổi gì mới vui.
Có con đường lớn sáng ngời,
Gắng đi, tất sẽ đến nơi ước cầu.
Ngồi đây trách oán thảm sầu,
Vùi mình trong khổ, ai đâu cứu mình.”
Bà nghe chợt nảy lòng thành,
Xin thầy chỉ dẫn đường lành cho ra.
Sư rằng “bà xuống bến kia
Ngâm mình dưới nước tắm cho sạch người.
Rồi lên trút giọt mưa ngời,
5.600. Đọng trên lá đó, xong rồi lại đây.”
Vâng lời, bà lão đi ngay,
Cố công theo đúng lời thầy bảo cho.
Khi bình trút đầy nước mưa,
Dâng lên tôn giả, nương nhờ thiền oai.
Thầy truyền thập giới, trường trai,
Cùng pháp quán niệm đêm ngày tam quy.
Xong rồi tôn giả lại đi,
Đường xa in bóng hoàng y chập chờn.
Lão bà chống gậy lui chân,
Cây khô lại nở mạch xuân rì rào.
Ôm bình về tới thôn đào,
Tìm riêng xó chợ ai nào thèm qua.
Gặp người lắm chuyện rầy la,
Cũng im: vọng đức Phật-đà tín tu.
Chợ tan, giúp việc dọn thu,
Lòng vui, mật niệm nam-mô không ngừng.
Lại đem gạo vãi cơm vương,
Phát cho tổ kiến bên đường vào ra.
Một đêm dưới ánh trăng tà,
Bà ngồi quán tưởng Phật-đà lâng lâng.
Bỗng nghe sáo nhạc từng không,
Chư tiên ngự hạc cưỡi rồng xuống chơi.
Hương thơm thoảng ngát từng trời,
Tàn vàng kiệu ngọc tỏa ngời bảo châu.
Hoa muôn sắc, quả muôn màu,
Mời bà lên chốn ngọc lâu non Bồng.
Sáng ra, kẻ dưới trần hồng
Nhìn thấy bà lão bên trong vườn đào.
Lại xem thì chết từ lâu,
Nhưng xác ngồi tựa vách lầu ngắm hoa.
Mặt tươi như sạch trần sa,
Chủ vườn vội kéo xác ra ngoài rừng.
Trong khi trên đỉnh thiên cung,
Thức linh đã hiện tại rừng đào khai.
Bà nhờ công đức giới trai,
Làm vua Đao-lợi cõi trời vàng châu.
Chốn tiên nào biết ưu sầu,
Thung dung ngày tháng nhiệm mầu thần thông.
Lại đêm trăng chiếu cội hồng,
Ngài Xá-lợi-phất khởi lòng vân du.
Ngài vào khép cửa phòng tu,
Thần thông đi khắp Diêm-phù tiêu dao.
Lại vòng lên mấy vì sao,
Đâu đâu ngài cũng ghé vào thăm chơi.
Chợt qua Đao-lợi cung trời,
Thấy thiên vương nọ tỏa ngời hào quang.
Ung dung ngài tới điện vàng,
Vua kia vội tới cúng dàng thánh Tăng.
Đang khi vui chuyện thiên đường,
5.650. Ngài liền hỏi thử nguyên căn vị này.
Vua trời rằng “phải nhờ thầy,
Căn ta còn mỏng, chưa dày huệ tâm.
Làm sao rõ được tiền thân,
Xin thầy vẹt bóng mây vần cho coi.”
Ngài dùng tuệ nhãn chiếu soi
Tiền thân của vị vua trời hiện đây.
Bên rừng giữa mấy lùm cây,
Tuyết còn ủ một xác gầy trơ xương.
Trí vua liền sạch mây vương,
Bấy giờ mới được tỏ tường tiền thân.
Cũng nhờ thiền lực oai thần,
Bỏ thân nghèo khổ tìm thân cõi trời.
Lòng vua thương cảm bồi hồi,
Chư tiên bay lại dâng lời hỏi han.
Mây năm sắc kết xe loan,
Vua cùng ngọc nữ, các quan thiên đình
Xuống trần đúng chốn rừng xanh,
Nửa đêm tỏa sáng long lanh diệu vời.
Chiên đàn gỗ chất chơi vơi,
Xác kia lại đặt trên nơi lửa bừng.
Khói thơm đưa khắp miệt rừng,
Hoa tiên trải cúng mấy từng mây vương.
Các nhà đây đó trong thôn
Nhận ra ánh sáng, hương thơm huy hoàng.
Hoa trời theo gió chiên đàn,
Trông như thấp thoáng tơ vàng từng mây.
Lại nghe nhã nhạc đó đây,
Thiên tiên rực rỡ trùng vây ánh hồng.
Vội tin khắp Bắc, tây, đông,
Người người ra chật ruộng đồng ngắm coi.
Bảo nhau “vạn kiếp muôn đời
Dễ gì gặp được người trời xuống đây!”
Bấy giờ từ chỗ xe mây,
Vua trời Đao-lợi giãi bày trước sau:
“Tiền thân cuốc bẫm cày sâu,
Duyên may gặp pháp nhiệm mầu Phật Tăng.
Trường trai mười giới thường hằng,
Tiến tu qua mấy mùa trăng đã thành.
Được lên ở chốn thiên đình,
Là nhờ kiếp trước đinh ninh nguyện cầu.
Nhân nào quả đó theo nhau,
Tu thân nào kể bạc đầu, tuổi xanh.
Giờ đây gọi chút duyên lành,
Thiên tiên gặp khách phàm trần phút giây.
Đền ơn Phật pháp sâu dày,
Gọi là câu chuyện thức người tham mê.
Ai không sợ lúc hồn lìa,
Luân hồi sáu ngả vẹn bề nhân duyên.
Hãy lo cội phúc hiện tiền,
5.700. Đừng lo quả phúc nhân thiên sau này.
Gieo nhân hẳn sẽ có cây,
Khổ vui cũng một thân này buộc thân.
Nay đông mai hẳn sang xuân,
Có trời thì hẳn mười phần có ta.
Khi mê phúc tội Hằng sa,
Tỉnh mê tội phúc như hoa bóng trời.
Dù thân dưới ngục ba đời,
Cũng là thanh tịnh cõi trời Hóa thiên.
Trùng trùng duyên khởi nhân duyên,
An vui cũng đó, ưu phiền cũng đây.
Tỉnh lòng chẳng một phút giây,
Thiện tâm bừng khởi cũng đầy tam thiên.”
Nghe xong gió não sóng phiền,
Tan khi vừng nguyệt hiện lên chiếu ngời.
Chim bay man mác lưng trời,
Nhân thiên như bóng mây rời rừng kia.
Như nghìn suối cuộn pha lê,
Như sông giục nước tìm về vườn sương.
Xa trông ánh sáng dị thường,
Hào quang của đấng Pháp vương trời người
Như đêm biến hiện mặt trời,
Như ba cõi nở nụ cười trí bi.
28. Chàng Kim Thiên
Ngày xưa, nơi biệt thất kia,
Gần non sim tím, bốn bề cúc lan.
Chim ca trong nội cỏ vàng,
Nghe văng vẳng thấy âm đàn suối tơ.
Phu nhân sinh trẻ khôi ngô,
Cành cao, lộc quý trổ vừa tiết Đông.
Bé trai bụ bẫm trắng hồng,
Hơi thơm như thể cánh bông nhung hường.
Khi sanh, điềm báo dị thường,
Một hồ sen bỗng bên đường hiện ra.
Đáy hồ men bóng vàng pha,
Bên hồ liễu biếc la đà tóc lơi.
Nước thơm man mác say người,
Sen vươn mặt nước xanh tươi bao ngành.
Người nghe tin lạ, điềm lành
Về xem như hội, từ thành thị xa.
Ngợi khen phúc báo danh gia,
Tu nhân tích đức nếp nhà quý thay.
Từ non xa, có một thầy,
Mày râu tuyết điểm, nương cây trụ thiền.
Tới xem tướng tốt trẻ hiền,
Cho tên hai chữ Kim Thiên rỡ ràng.
Bảo “mai mốt giúp nhân gian,
Con đàng hóa độ là đàng con đi.”
Nói xong thầy trở gót về
Non cao động biếc bốn bề khói mây.
Thu xuân đưa chuyển tháng ngày,
5.750. Thời gian xoảy vó, ngựa say dặm vàng.
Kim Thiên danh tiếng đã vang,
Ai ai cũng kính yêu chàng đức cao.
Dáng oai đường bệ anh hào,
Vẻ hiền trầm mặc trăng sao đêm hồng.
Điển kinh ý tự uyên thông,
Trí như nhật nguyệt rộng lòng biển khơi.
Nguyện như núi vững khôn dời,
Thiếu niên đã hiện vẻ người trượng phu.
Khi vào đá động trầm tư,
Khi đêm tàn nguyệt thi thư nức phòng.
Khi vui cuộc rượu trăng trong,
Khi đàn thu dạ đầu sông bóng thuyền.
Mẹ cha bàn định nhân duyên,
Chọn nàng dòng dõi trong miền không xa.
Sắc tươi là vẻ chúa hoa,
Nết hiền là những dòng thơ khói trầm.
Khi sinh nàng cũng lạ lùng,
Một ao bèo cũ hóa vùng hồ sen.
Rồi ngày chàng đến cầu duyên,
Song thân đẹp ý, đôi bên gặp chào.
Trông nhau cũng thấy lạ sao,
Vẻ quen như đã thuở nào tiên tri.
Ngỡ ngàng đâu dám hỏi chi,
Bâng khuâng đôi dạ suốt kỳ hứa hôn.
Tới ngày ngựa đón kiệu son,
Gối thơm chung mộng, trăng tròn sánh vai.
Cùng nhau tâm sự đủ lời,
Vẫn không nhớ đã gặp hồi nào xưa.
Đành cười coi gặp trong mơ,
Hai phương đồng điệu chuốt tơ hữu tình.
Một đêm chợt vọng âm thanh,
Chuông chùa tự đỉnh non xanh thức lòng.
Như vừa tỉnh giấc trần hồng,
Nhìn ra vằng vặc hoa đồng nguyệt pha.
Hồ như vọng tiếng thiết tha,
Từ thiên thu gọi người về siêu nhiên.
Lâng lâng sạch não tan phiền,
Dường trong suối mạch thu xuân reo hò.
Tiền thân thoảng hiện giấc hồ,
Lênh đênh khổ hải lô xô cánh buồm.
Đêm vàng thoảng sợi tơ chuông,
Nghe như thoảng ngát mùi hương tịnh trầm.
Kiếp nào làm cội hoàng tâm,
Đôi chim hát núi nghỉn năm vụt về.
Kiếp nào làm cội Bồ-đề,
Cho mây giải thoát ôm kề sớm hôm.
Kiếp nào làm chớp làm sương,
Kiếp nào lau lách bên đường cái quan.
Và từ kiếp nọ nghèo nàn,
5.800. Vợ chồng cuốc núi, ươm lang bên rừng.
Một chiều nắng dãi mù sương,
Hai người riêng tạo thiên đường bướm hoa.
Dưới non, đường khách lại qua,
Vợ chồng mới dựng túp nhà cỏ thơm.
Ngày ngày lên ngọn suối tuôn,
Hứng bình nước mát cúng dường chúng sanh.
Sớm hôm bao kẻ bộ hành,
Dừng chân uống nước, nghe mình thảnh thơi.
Thương thân như thể thương người,
Chẳng cầu lợi lộc tham lời ngợi ca.
Một hôm gặp Phật đi qua,
Hóa duyên từ một miền xa ghé vào.
Lều tranh bên cội hoa đào,
Uống thêm bát nước mát sao lạ thường.
Cúng dường mà chẳng cúng dường,
Chỉ còn một tấm lòng thương mới là.
Phật nguyện cho bậc tín gia,
Mười phương thế giới cũng là một thân.
Chín muơi mốt kiếp phù trần,
Tâm kia như khối ngọc thần tỏa soi.
Vợ chồng khăng khít lứa đôi,
Vào ra sáu nẻo luân hồi như không.
Bây giờ nghe tiếng chuông hồng,
Tiếng “om” thiền lực thoảng đồng trăng sao.
Xô tan vách mộng thành sầu,
Đất phiền nảy hạt nhiệm mầu cỏ hoa.
Như đêm tối nguyệt hiện ra,
Như chim linh thoại tiếng hòa vô thanh.
Nghìn năm là giấc mộng xanh,
Sớm ra hóa hiện trên cành nguyệt mai.
Trần gian là chặng đường dài,
Còn ai thiên cổ dấu ai đi về.
Bâng khuâng bến thực thuyền mê,
Tay không lần chuỗi Bồ-đề cũng không.
Dường trong một thoáng chuông đồng,
Chín mươi mốt kiếp trần hồng nổi nênh.
Mà trong một hạt bụi trần,
Chín mươi mốt kiếp xuân thu tiêu điều.
Gặp trong đáy mắt yêu kiều,
Tạng kinh vô tự cao siêu nhiệm huyền.
Bãi ngô thoảng tiếng chim khuyên,
Đầu non đã hiện một viền thái dương.
29. Dứt Lụy Trần
Một thời đức Phật du phương,
Ngự trong vườn trúc mây vương biếc chiều.
Bên dòng suối cát trong veo,
Gian nhà cỏ dựng mây neo hững hờ.
Trên thảm cỏ nhung ven bờ,
Dưới cội hoa trắng vật vờ hoàng hôn.
Người ngồi quanh Phật Thế tôn,
Trước Ngài đặt một lò hương biếc trầm.
Tiếng vang như suối, vọng âm
Khiến chim hòa điệu, khiến đầm hoa lay:
“Trong hàng đệ tử các ngài
Dù đem châu ngọc cho ngoài tam thiên,
Chẳng bằng dứt lụy trần duyên,
Qua sông mê vọng nương thuyền trí bi.
Hoặc trong họ có người đi,
Hay mình tự giác viễn ly vọng trần.
Phúc này lợi lạc muôn phần,
Làm nên mạch sống tinh cần thế gian.
Ngục sâu kia hóa Niết-bàn,
Lòng thương trải khắp trần hoàn an vui.
Dù xây tháp ngọc lưng trời,
Dù hùng lực cứu muôn người hàm oan,
Vẫn là phúc báo thế gian,
Tham mê dẫn lối đưa đàng vào ra.
Chẳng bằng theo bước Phật-đà,
Chuyển thân, khẩu, ý: ba nhà lửa hun.
Thành bi, trí, dũng vô cùng,
Mở khai nghiệp cội, trùng trùng hóa duyên.
Mắt huệ trông suốt dưới trên,
Chí kim cang phá não phiền vọng mê.
Gieo muôn hạt chắc Bồ-đề,
Rợp che bóng mát bốn bề nhân gian.
Như tìm trong đất ngọc vàng,
Chuốt nên ánh sáng rỡ ràng thiên thâu.
Chiếu tan thành quách ưu sầu,
Khiến ma vương phải quay đầu quy y.
Đức cao chẳng phải tư nghì,
Mênh mang biển thẳm xanh rì hư không.
Nếu ai buộc cánh chim hồng,
Ngăn che chí cả trong vòng trần lao,
Thì nghiệp báo phải sa vào
Ngục sâu lửa đỏ khác nào sắt nung.
Tội kia vạn suối nghìn sông,
Tạo nên biển khổ mênh mông sóng vời.
Xuất gia như cánh chim trời,
Mười phương là tổ, người người là thân.
Trí bi nguồn cội đức nhân,
4.650. Thấm nhuần muôn loại xa gần nhớ ơn.
Như hồ nở đóa sen thơm,
Giới hương đưa khắp mười phương tỉnh lòng.
Đưa nhau vượt thoát trần hồng,
Niết-bàn tự tại nơi lòng đại bi.
Thân như khuôn ngọc lưu ly,
Gương cho ba cõi hướng về tín tu.
Là xe pháp hóa Diêm-phù,
Nối đèn tiếp lửa cho dù biển dâu.
Là tinh tú giữa đêm thâu,
Là chùm Bắc đẩu, là cầu từ quang
Diễn bày ý ngọc lời vàng,
Bước chân tỉnh giác trên đường chính chân.
Như trời hiện đám từ vân,
Chuyển cơn mưa pháp muôn phần đẹp tươi.
Nở hoa giữa ngục ba đời,
Trong hư vọng mỉm môi cười như nhiên.
Mười phương chống một gậy thiền,
Giọt sương cam lộ in viền chân như.
Dòng dòng triệu quyển nghìn thư,
Khế phương diệu dụng chuyển đưa độ đời.
Ngục sâu hết chúng sinh rồi,
Niết-bàn cũng tự lòng người hiện ra.”
Bấy giờ chủ một trang hoa,
Là bực trưởng giả hiệu là Phúc Tăng.
Tiền kho bạc đụn ai bằng,
Ngựa đeo bành ngọc, xe chăng gấm vàng.
Trước sau vườn thúy thềm lam,
Sớm trà luận đạo, khuya đàn hòa mây.
Tuổi cao đức rộng phúc dày,
Thi thư nối nghiệp có bầy con ngoan.
Từ nghe pháp dưới chiều vàng,
Trở về lòng những mơ màng xuất gia.
Một đêm nghĩ lại chuyện qua,
Những là dục lạc, những là quyền danh.
Tuổi xuân thoảng giấc mơ xanh,
Tỉnh ra đã thấy đầy cành đông mai.
Dẫu là trăm vẻ trang đài,
Dẫu là mở cõi Bồng lai dưới trần,
Dẫu là vàng đúc ngọc cân,
Dẫu là cứu giúp xa gần nơi nơi,
Dẫu là danh tiếng tột vời,
Chẳng sao chuộc được tuổi đời qua mau.
Xá chi quyền quý sang giàu,
Xá chi ngày tháng dài lâu hồng trần.
Một trò chơi suốt bao xuân,
Quẩn quanh ảo giác não cân rã rời.
Bây giờ tung cánh chim trời,
Thiên thu ai biết ai người qua đây.
Lênh đênh sớm Bắc chiều Tây,
4.700. Như chim cất cánh hợp bầy hồ giang.
Ông lẻn đi khỏi hoa trang,
Một thân tìm đến đạo tràng vườn kia.
Như chim nhớ núi tìm về,
Khi trông hoa lả mây kề ngõ mai.
Như nước nguồn nhớ sông dài,
Khi tim rộn rã máu ngày thanh xuân.
Vội vàng nhẹ lướt đôi chân,
Hồ như kẻ trốn nợ nần bấy nay.
Vừa vào ngõ trúc hoa bay,
Gặp thiền sư tọa dưới cây trầm hùng.
Lòng ông đang khấp khởi mừng,
Thân dường tan biến giữa rừng cỏ hoa.
Gặp ngày Phật hóa duyên xa,
Tìm thầy Xá-lợi nơi nhà quản Tăng.
Ông quỳ cung kính thưa rằng:
“Thân con tục lụy thế gian đã từng.
Bây giờ muốn phát đại tâm,
Chuyển lòng cởi nghiệp y nương bấy ngày.
Nhờ ơn tiếp dẫn nơi thầy,
Chở che bóng mát nương cây Bồ-đề.”
Biết rằng người phát tâm kia,
Hẳn căn cơ đã đến kỳ mở khai.
Thử lòng cho chắc một hai,
Sư rằng “tuổi cụ đã ngoài chín mươi.
Sức đâu tụ tập với người,
Để truyền năm giới về nơi thôn nhà.
Thứ nhất hạnh tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Vả chăng ốm yếu già nua,
Con đường tầm đạo gió mưa nào chừng.”
Nói xong ông bỏ vào trong,
Phúc Tăng nghe dậy nỗi lòng ủ ê.
Chân dời đến gốc hoa kia,
Nghĩ thân nặng nghiệp đầm đìa lệ rơi.
Tuổi xuân xưa đã bay rồi,
Tiếc hơn vàng ngọc gieo nơi biển trùng.
Bây giờ lòng có nhớ thương,
Cũng đành trông bóng mây vương cuối ngày.
Bụi trần chẳng muốn thêm dây,
Tính đem thân gửi hồ này một phen.
Hồn ta hiện với cánh sen,
Theo hơi hương ngát dâng lên cúng dường.
Bỗng đâu hiện đến đầu đường,
Như cơn mây đỏ vương vương ráng chiều.
Phật cùng đại chúng Tỳ-khiêu
Ôm bình về tới, y điều nghiêm trang.
Gót chân trầm mặc sen vàng,
Bước đi thanh thoát dưới hàng liễu mai.
Phúc Tăng vội đến bên Ngài,
4.750. Ôm chầm tay đức Như Lai rạt rào.
Thốt thưa lời mãi nghẹn ngào,
Hai dòng lệ nóng thấm vào áo hương.
Phật đưa năm ngón tay hường
Vuốt đầu trưởng giả như tuồng cha con:
“Lòng ông so với ngàn non,
Non tuy mòn lở chẳng mòn tâm ta.
Tuổi ông dù đã nua già,
Chí còn nguyện dứt ta-bà vô minh.
Vị chí mà lại trầm mình,
Nghìn năm khó gặp thân hình giả đây.
Tiến tu nào kể một ngày,
Hoát nhiên khai ngộ khắc giây cũng là.
Bây giờ đã biết nương ta,
Nghiêm trang giới pháp gắng mà vượt mê.”
Phúc Tăng chống gậy theo về,
Cây cao trầm lặng bốn bề ra hoa.
Lựa ngày làm lễ xuất gia,
Mục-liên được chọn theo mà sửa sang.
Giới nghi pháp phục đường hoàng,
Rõ ra Tăng tướng nghiêm trang khác người.
Sớm trưa thấm thoát đến ngày
Lập đàn truyền giới họp bầy cao Tăng.
Kiếp xưa nhờ lắm thiện căn,
Nên chi vào đạo học hành thông mau.
Nhưng vì tập nhiễm dày lâu,
Cậy vào tuổi tác nên dầu với ai.
Kiêu căng tỏ ý, hiện lời,
Thiền nghi thiếu hẳn vẻ người khiêm cung.
Khiến cho đại chúng buồn lòng,
Có người răn bảo thuận trong đạo tình.
Phúc Tăng nghe đó làm thinh
Bỏ đi ra vẻ bất bình lắm thay.
Nghĩ rằng ta tuổi chừng này,
Khiêm cung chỉ với một Thầy mà thôi.
Các ông bằng tuổi con tôi,
Giở chi cái vẻ ăn ngồi bực trên.
Càng suy càng lắm buồn phiền,
Định vào rừng chết cho yên thân rồi.
Mục-liên thiền lự trên đồi,
Dùng thiên nhãn chiếu sáng ngời gần xa.
Bên khe thấy đệ tử già,
Dưới dòng nước bạc vừa sa thân gầy.
Ngài dùng thần lực vớt ngay,
Thần thông đạp nắm mây bay xuống bờ.
Thấy thầy lòng những ngẩn ngơ,
Phúc Tăng còn tưởng giấc mơ tỉnh dần.
Rằng “con xả phú cầu bần,
Tìm nơi giải thoát nương thân cuối chiều.
Vì còn thói xấu tật kiêu,
4.800. Lòng toan tự sát cho tiêu nghiệp trần.
Trần gian sớm dứt nợ nần,
Đem bùn tanh xuống rửa chân giữa dòng.”
Mục-liên thầm nghĩ trong lòng,
Chẳng trồng nhân thiện lại mong quả lành.
Dễ chi vào cửa phù trần,
Trăm nghìn vạn kiếp một lần khó thay.
Non vàng khó sánh thân này,
Xô tan mê vọng tự tay mới là.
Phải dùng thần phép hóa ra,
Làm phương cứu chữa lòng già đảo điên.
Bèn truyền “nắm áo bay lên
Giữa hư không chớ có quên điều này.
Cấm lòng loạn tuởng đó đây,
Nhiếp tâm chính niệm theo thầy vân bôn.”
Phúc Tăng vừa nắm áo xong,
Bỗng như một sợi tơ hồng vút cao.
Bên tai mây cuộn ào ào,
Như bông hoa nhỏ rơi vào từng không.
Chẳng bao lâu hạ bên cồn,
Ầm ầm biển réo ghê hồn dưới chân.
Còn đang đứng lặng phân vân,
Thầy trò đã gặp một thân đàn bà.
Xương lòi, thịt thối rã ra,
Một con bọ lớn như là ngón tay
Quẩn quanh bò khắp đó đây,
Hết luồn hố mắt, lại vầy vành môi.
Hai người ngó xác sình ôi,
Quán thân bất tịnh, lát rồi lại đi.
Giữa đường gặp một nữ nhi,
Vai đeo chảo lớn đi về biển reo.
Thầy trò dừng bước ngó theo,
Cô kia múc nước, ôm trèo bãi cao.
Đun sôi rồi tự nhảy vào,
Rã tan xương thịt bọt trào gớm ghê.
Lửa tàn vạc cũng khô đi,
Gió đâu thổi bốc bụi gì tanh hôi.
Tự nhiên lại hiện thân người,
Lại ôm vạc xuống rú cười giờ lâu.
Phúc Tăng nhắm mắt quay đầu,
Tính xin thầy chỉ trước sau ngọn ngành.
Thấy ngài trầm mặc trang nghiêm,
Lại thôi chẳng dám nhìn lên ngỏ lời.
Thầy trò lại tiếp đi ngay,
Vừa qua một quãng đường dài đã nghe
Tiếng rên non nỉ tỉ tê,
Từ thân cây nọ bốn bề sâu ăn.
Phúc Tăng nhác thấy rợn mình,
Vội vàng xoải bước thu hình lướt qua.
Thầy trò thêm một quãng xa,
4.850. Thấy non kiếm dựng sáng ngời hôi tanh.
Bỗng từ đỉnh núi một anh,
Lăn mình trên kiếm thân phanh nát nhừ.
Ròng ròng máu đỏ như mưa,
Phúc Tăng hồn phách bấy giờ tiêu tan.
Vội vàng lướt xoải bước chân,
Cuối đường hun hút phù vân dật dờ.
Thầy trò lại gặp bên bờ
Một bầy quỉ dữ hét hò rượt theo
Một người mình rắn đầu beo,
Trên đường lẩn trốn hiểm nghèo gớm ghê.
Cung tên giáo mác bốn bề,
Hàng ngàn mũi nhọn lao về liên miên.
Vừa trông thấy Mục-kiền-liên,
Một bầy quỉ dữ phục bên đường dài.
Phúc Tăng sợ chẳng ra hơi,
Một lòng tưởng Phật chẳng rời niệm thiêng.
Lại theo cất bước trèo lên,
Núi xương ai chết ngay bên vệ đường.
Thầy trò lên đỉnh núi xương,
Nhìn ra muôn sóng trùng dương dựng thành.
Phúc Tăng khiếp đảm nhìn quanh:
“Xin thầy chỉ dạy ngọn ngành trước sau.
Vì đâu người nấu vạc dầu,
Vì đâu cây nọ rầu rầu đứng kêu.
Vì đâu núi kiếm thân bêu,
Vì đâu trăm nỗi nghìn chiều thảm thương.”
Thầy truyền: “ác báo tai ương,
Vô thường tìm chốn vô thường vào ra.
Tự ta lại buộc thân ta,
Non cao dễ vượt ái hà khó vơi,
Bãi kia một xác sình ôi,
Đó là vợ đẹp của người khách thương.
Theo chồng, đang vượt trùng dương,
Vào ra nhồi phấn soi gương bấy ngày.
Một đêm gió dập mưa vầy.
Lao đao thuyền nọ chìm ngay giữa dòng.
Còn đâu má phấn môi hồng,
Hồn nương ngọn sóng, thân bồng bềnh trôi.
Biển nào giữ xác sình ôi,
Dạ-xoa, La-sát trả hồi đất kia.
Nàng vì tham sắc chưa lìa,
Đọa thân trùng nọ đi về coi trông.
Chấp mê giả tướng bụi hồng,
Quẩn quanh ái ngã trong vòng trần lao.
Nên làm kiếp bọ ra vào,
Hố tai hố mắt khác nào động hang.
Theo tâm vọng huyễn tham lam,
Chấp đâu lại lựa con đàng về đâu.
Kẻ nào cậy thế sang giàu,
4.900. Tranh cơm kẻ khó, đạp đầu dân đen.
Đầy lòng xiểm nịnh ghét ghen,
Đoạt tiền, cuớp vợ, bán quyền, tranh công.
Trước là mắc bịnh hàn phong.
Lạnh như vùi tuyết nên lòng ước ao
Lửa hơi, thân chết đọa vào,
Hỏa thiêu địa ngục khác nào nấu nung.
Hoặc người mưu đoạt ruộng nương,
Phá chùa thờ Phật, giảng đường chư Tăng.
Giữ giam người chốn giá băng,
Ăn gian, ăn bớt áo quần phát ban.
Trước là bệnh nhiệt khô ran,
Chết đi hồn đọa ngục hàn cứng thân.
Đớn đau nhức nhối trăm phần,
Xương khô thịt nát như dần xác xơ.
Hoặc người tích trữ đầu cơ,
Khiến dân đói khát, vật vờ nơi nơi.
Trước là mắc bịnh đầy hơi,
Chê cơm sợ nước, đọa loài quỉ kia.
Đói như lửa đốt bốn bề,
Mỗi năm tháng bảy kéo về giựt ăn.
Hoặc người ngu muội mê sân,
Khinh chê chính đạo nhân luân bỏ ngoài.
Đốt kinh xé sách Như Lai,
Đọa vào kiếp thú đời đời ngu si.
Nếu người trí dũng từ bi,
Giữ gìn năm giới quy y thánh hiền.
Một lòng thương dưới kính trên,
Chẳng làm phiền não láng giềng ai ai.
Một khi trút bỏ hình hài,
Thân không bịnh khổ tâm ngoài an nhiên.
Nghe kinh, ngắm tượng ân chiêm,
Khởi tâm bố thí phát nguyền thanh cao.
Lìa thân, thần thức sinh vào,
Cung trời Đâu-suất ăn đào trường sinh.
Hoặc trần gian chốn hiển vinh,
Hiền ngoan rất mực thông minh khác người.
Đều do niệm sắp lìa đời,
Dẫn vào địa ngục, lên trời cũng đây.
Tu nhân: niệm thiện khai bày,
Chính tâm tưởng Phật đài mây đón về.
Tịnh độ là cõi lưu ly,
Thần thông trí tuệ từ bi một lòng.
Hoặc sinh nơi cõi trần hồng,
Muôn tai nghìn nạn cũng đồng tránh qua.
Ác nhân: niệm khởi xấu xa,
Lại tìm ngục khổ ái hà báo thân.
Đều do tâm lúc lìa trần,
Dù vinh hay khổ muôn phần cũng đây.
Tiến tu cởi nghiệp sâu dày,
4.950. Linh quang hóa hiện phương Tây cõi thường.
Thị kia chết đuối trùng dương,
Vì tham luyến chút phấn hương tẩm người.
Thức linh đọa xuống thân giòi,
Vào ra quanh quẩn trông coi giả hình.
Còn người đun nước trầm mình,
Tiền thân bóc lột sinh linh đủ điều.
Lại còn thề thốt gian điêu,
Bây giờ họa báo trăm chiều gớm ghê.
Sau đây hỏa ngục lại về,
Mới là quả báo bốn bề chém đâm.
Còn cây than khóc bên đường,
Khắp mình sâu đục như dường đớn đau.
Tiền thân là vị Tỳ-khiêu
Lấy của thường trụ dùng nhiều việc riêng.
Họ hàng kẻ dưới người trên,
Lại nhờ của đó bon chen làm giàu.
Bây giờ thân hóa làm sâu,
Rúc quanh cây nọ đớn đau muôn chiều.
Còn người mình mọc trăm đầu
Bị bầy ác quỉ theo sau rượt hoài,
Trước hay săn bắn muôn loài,
Bây giờ đày đọa bi ai nào chừng.
Còn người lăn đỉnh rừng gươm,
Thây băm máu đổ như tuồng nát tan.
Kiếp xưa là vị tướng quân
Xông pha xâm lược dấu chân máu đầy.
Bây giờ gươm giáo phanh thây,
Ngục sâu thăm thẳm dạn dày một thân.
Còn đây xương chất trắng ngần,
Là ông ngày trước tiền thân một thời.”
Phúc Tăng nghe nói điếng người,
Nhìn xem một đống xương phơi rõ ràng.
Thầy rằng “tương báo oan oan,
Cũng do nhân quả con đàng vào ra.
Thuở xưa có vị vua cha
Trị vì rất mực nhân hòa không hai.
Dưới trên cho đến trong ngoài,
Nhân dân hòa thuận nơi nơi nể vì.
Dân giàu nước mạnh kể chi,
Vua cha lấy đạo từ bi hóa người.
Có một thái tử ham chơi,
Ưa môn cung kiếm chê lời hiền lương.
Nhà vua vì nặng lòng thương,
Ngờ đâu mở cửa cho phường tặc nhân.
Khi vua trăm tuổi an phần,
Bốn phương khói lửa dấu chân bạo tàn.
Xông pha trúc chẻ ngói tan,
Dưới chân thái tử ngàn ngàn thây phơi.
Sinh người chẳng dạy thành người,
5.000. Thà đem vương quốc trao mời hiền nhân.
Tội con cha gánh muôn phần,
Nên vua hiện xuống làm thân cá tràng.
Biển đông một cõi nghêng ngang,
Dưới lòng sóng động chiêu hàng cá tôm.
Loại này sợ ánh thái dương,
Chỉ chờ đêm tối mới trường mình lên.
Một ngày trời nổi mây đen,
Sóng gầm biển động tưởng đêm nào ngờ.
Cá liền len đến ven bờ,
Phơi thây nằm ngủ vật vờ sóng trôi.
Nào ngờ mây kéo cơn rồi,
Nắng hồng ló dạng lưng trời chói chang.
Thảm thương thay kiếp cá tràng,
Bốn bề chỉ thấy hào quang chói lòa.
Mắt mờ đâu lối vào ra,
Đành nằm bờ cát chờ mà siêu sanh.
Đầu thai vào giữa vương thành,
Cũng nhờ kiếp trước tu hành dày lâu.
Sinh ra gặp chỗ sang giàu,
Tiền kho bạc đụn vàng châu kể gì.
Nhân xưa nở hạt từ bi,
Cứu người thương vật quản chi của trời.
Còn đây kiếp trước xương phơi,
Mây che đỉnh ngọn, sóng dời dưới chân.”
Phúc Tăng nhập hóa siêu thần,
Nghe như thoát khỏi nghìn cân đá cùm.
Nghĩ tâm muôn ngọn sóng trùng,
Nổi nênh sinh tử vô cùng réo trôi.
Hốt nhiên tâm vọng bao đời
Tan như sương khói lưng trời thoảng bay.
Thầy trò lại biến lên mây,
Dưới chân thăm thẳm sóng đầy trùng dương.
Thầy như hoa đốm hư không,
Trò như một cánh chim hồng theo sau.
Mây bay nườm nượp ngang đầu,
Hạ chân đã thấy cây cầu suối ngang.
Thầy trò về tới đạo tràng,
Hòa nhan ái ngữ giữa hàng chúng Tăng.
Thân hồng như tỏa hào quang,
Miệng từ như đóa sen vàng đơm hương.
Sớm nghe chim hót bên giường,
Chiều trông khói thoảng vây vương trước lầu.
Một đêm gặp Phật trên cầu,
Chỉ viền trăng dưới dòng sâu tỏa vàng.
30. Chú Tâm Mai
Một thời sau Phật Niết-bàn,
Bốn phương rực ánh huy hoàng trí bi.
Khói hương tự viện xanh rì,
Nơi nào nơi chẳng triển thi đạo vàng.
Khiến cho các nước lân bang,
5050. Bỏ theo tà đạo quay sang lẽ thường.
Theo nhau thiết dựng đạo trường,
Như sen thắm nở ngát hương Ta-bà.
Khắp nước gác chuyện can qua,
Tín tâm trai giới nhà nhà an vui.
Đạo như mưa tỉnh lòng người,
Như trăm hoa nở dưới trời chiêu dương.
Đất kia có đồi lan hương,
Mùi thơm quyện áng sương vương sớm chiều.
Bên khe suối bạc tịch liêu,
Nhã-lan của vị Tỳ-khiêu trụ trì.
Ngày ngày cùng một Sa-di,
Trồng khoai cấy sắn sá gì nắng mưa.
Như đồi lan nở bốn mùa,
Xuân thu ngó nắm hoa đưa suối nào.
Vàng son mặc cuộc chiêm bao,
Bưng tai chuyện thế rì rào gió thu.
Bao năm ngồi lắng tâm tu,
Soi trăng viết sách đền bù Đàn-na.
Hoặc khi niệm Phật dưới hoa,
Hoặc chiều quán tưởng mây sa cuối ngày.
Hoặc khi cuốc núi trồng cây,
Đói no một chén vơi đầy cũng xong.
Thênh thang ngoài cửa bụi hồng,
Đầy lòng thiền vị vơi lòng ngô khoai.
Thôn bên có một nhà người,
Ruộng cò thẳng cánh, lưng trời lầu cao.
Vườn thu vừa chớm nụ đào;
Tên nàng Ánh Ngọc, ra vào cợt hoa.
Hoặc khi chuốt tiếng tỳ bà,
Sau mành thả tóc la đà trầm bay.
Hoặc khi tựa cội liễu gầy,
Hồ in bóng khiến vơi đầy sóng xanh.
Trong vùng đã rộn yến oanh,
Lầu còn toả kín một cành quỳnh thu.
Nhân ngày vào Hạ tháng Tư,
Chị em sắm sửa lên chùa dâng hoa.
Đu đưa võng tía quạt ngà,
Lưng non ẩn hiện mái nhà khói hương.
Cheo leo vượt mấy ngã đường,
Gió thoang thoảng ngát suối vương vương lòng.
Qua cầu tay vén rèm hồng,
Nhìn ra gặp tiểu nhác trông khác người.
Mặt như nửa trái đào tươi,
Mắt thăm thẳm phượng, môi ngời ngời son.
Đơn sơ dưới bộ nâu sòng,
Dường như chú lội xuống dòng tìm chi.
Vừa trông, ửng má xuân thì
Như cây rạo rực tới kỳ đơm hoa.
Cầu tre nàng đã đi qua,
5100. Chừng còn tiếng suối la đà lòng xuân.
Ngờ đâu lưng núi mây vần,
Mái tranh ẩn giấu văn nhân tuyệt vời.
Đã nghe chú mấy tháng trời,
Tâm Mai đây, hẳn tên người học Tăng.
Chị em vào tiến hương đăng,
Nhà đôi mái cỏ, hoa giăng ngoài rào.
Trước sau bờ trúc thềm đào,
Hồng chuông vẳng giữa non cao lặng thầm.
Lò đồng toả khói đưa hương,
Trên đài sen tượng Pháp vương hiền từ.
Ánh Ngọc nghe tiếng nam-mô,
Nhác trông còn tưởng giấc hồ liêu trai.
Đón vào nghỉ giữa nhà trai,
Người đâu mũi trúc, mày ngài nghiêm trang.
Thết trà ướp cúc hoa vàng,
Tiểu Mai nâng chén đưa sang mời chào.
Bàng hoàng Ánh Ngọc nghiêng chao,
Tách trà thơm đổ hoen vào áo tơ.
Tâm Mai thay chén trà đưa,
Khiến ai đôi má ửng vừa trái hương.
Chị em bày lễ cúng dường,
Hỏi ra hoà thượng du phương chưa về.
Giúp nhau sửa lại dung huê,
Rồi lên chính điện chỉnh tề lễ dâng.
Nhìn tay ai nhịp hồi chuông,
Khiến nàng quỳ dưới lòng thầm nao nao.
Suối xa vẳng tiếng thì thào,
Lễ xong, ngỏ ý xin vào vườn mai.
Bước son tha thướt trang đài,
Dưới hoa, khép nép một vài nữ lưu.
Tiểu Mai dẫn trước đăm chiêu,
Bước qua rừng liễu muôn chiều nghiêm trang.
Đàng sau thỏ thẻ oanh vàng,
Tiếng cười tiếng nói dưới hàng đào khai.
Ánh Ngọc xin nhánh hoa cài,
Lại nhờ chú tiểu Tâm Mai bẻ giùm.
Người thì ưng ửng hoa dung,
Người thì muôn vẻ ngượng ngùng trao hoa.
Đã trông chênh chếch bóng tà,
Nàng còn bịn rịn, cáng hoa giục về.
Qua dòng suối nhỏ pha lê,
Soi nghiêng liễu ủ hoa ê mấy bờ.
Cửa tùng đôi cánh trơ trơ,
Người ơi biết đến bao giờ gặp nhau.
Một đoàn kẻ trước người sau,
Hoàng hôn vội giục bước mau đường vàng.
Thôn xa ùn ngọn khói lam,
Bâng khuâng cánh nhạn sang Nam xạc xào.
Nhạn vui rừng lý khe đào,
5150. Mặc hoa vườn kín lầu cao một mình.
Nàng về ngưỡng cửa gia đình,
Mà lòng trăm mối tơ tình vấn vương.
Thế rồi, tóc biếng ươm hương,
Song khuya tựa cửa đêm trường nép hoa.
Chiều chiều thơ thẩn vào ra,
Tình vương cửa Phật mới là trớ trêu.
Ngày qua ngày lại tiêu điều,
Mẹ cha lo lắng đã nhiều hỏi han.
Cho dù săn sóc thuốc thang,
Ủ ê hồn quế mơ màng vóc mai.
Khi mê sảng, lúc nói cười,
Tưởng rằng quỷ bệnh, cho mời thiền sư.
Thầy trò xuống núi vân du,
Về thôn tụng niệm đền bù tín gia.
Vừa nghe nàng tỉnh mặt hoa,
Đòi đi lễ Phật, cả nhà mừng vui.
Vừa thấy mặt, đã ngậm ngùi,
Cầm lòng chẳng được, sụt sùi lệ vương.
Bấy giờ cha mẹ tỏ tường,
Bể tình ai dễ đo lường nông sâu.
Ông bà to nhỏ phòng sau,
Trăm phương ngàn kế cùng nhau luận bàn.
Ông đòi rẽ phượng lìa loan,
Bà xin lo lắng vẹn đường cho xong.
Vả chăng tánh trẻ đương nồng,
Phu thê là nợ đèo bồng trái oan.
Bây giờ rẽ phượng riêng loan,
Biết đâu ngọc nát, vàng tan cũng là.
Tính vào hơn hẳn bàn ra,
Lệnh ông nào đọ cồng bà xưa nay.
Ông trầm ngâm hiến mưu hay,
Mời tiểu ở lại đôi ngày tụng kinh.
Để dò cho rõ ngọn ngành,
Phải duyên thì cũng tác thành có sao.
Rồi ông lựa dịp thưa vào,
Xin Tâm Mai ở thôn đào đôi hôm.
Đưa thầy trở bước chùa hương,
Theo chân suốt mấy dặm trường chưa chia.
Sư dặn: "thôi để thầy về,
Nghiêm trì lịnh giới chốn quê là nhà.
Vả chăng yếu lý Phật-đà
Như sen nở giữa ái hà bùn hôi.
Dù trong sinh tử ba đời,
Trí bi thì cũng là nơi Niết-bàn.
Giờ thầy về chốn non lan,
Cửa thiền ai để lửa tàn nến trơ."
Bóng thầy sương toả đường mờ,
Tiểu Mai còn đứng thẩn thờ ngó theo.
Non xa vương áng mây chiều,
5200. Ven đường lau lách tiêu điều ùn sương.
Gia nhân đến giục lên đường,
Kịp về kinh sách lửa hương đến giờ.
Đường quê trở bước thẩn thờ,
Nhớ non nhớ suối phút giờ chẳng nguôi.
Giữa nơi lạ cảnh lạ người,
Lao xao là thói chợ đời ganh đua.
Quanh chàng kẻ dạ người thưa,
Tưởng lầm ai chẳng mến ưa chốn này.
Thôi thì nệm phủ màn vây,
Đứng ngồi chàng vẫn chưa khuây khoả lòng.
Vẳng đưa sau bức rèm hồng,
Phóng trên ai chuốt tơ đồng nao nao.
Lúc dường sóng thấp sóng cao,
Lúc dường suối lạnh thì thào đâu đây.
Khói trầm thoảng với cung dây,
Mùi hương giục nhớ thương thầy ngẩn ngơ.
Cửa ngoài có tiếng người thưa:
"Mời chú lên gặp ông chờ phòng riêng."
Con hầu khép nép đưa lên,
Tiểu Mai đã thấy thềm trên hai người.
Đón vào dung mạo tươi cười,
Khách phòng trang trí vàng ngời gấm nhung.
Bà rằng: "thấy chú mà thương,
Chẳng hay lệnh mẫu nghiêm đường giờ đâu?
Tuổi xuân như ngọc như châu,
Sớm tìm chi đạo cao sâu Phật-đà.
Chẳng bằng giúp nước giúp nhà,
Am tranh vùi uổng tài hoa của trời."
Tiểu thưa: "oan khổ đời đời,
Cũng vì tham luyến khôn rời sắc thân.
Tốt tươi cũng nắm phù trần,
Đất, nước, gió, lửa xoay vần có, không.
Chi bằng ngoài cửa trần hồng,
Muối dưa ngày tháng vơi lòng tiêu dao."
Ông rằng: "đâu chẳng chiêm bao,
Rồi ai chẳng một hố đào nông sâu.
Xem ra quyền quý sang giàu,
Còn hơn ngô sắn muối rau hợm mình."
Tâm Mai ngồi đó làm thinh,
Nghe lời, lòng những bất bình sâu cay.
Giờ lâu đứng dậy kiếu ngay,
Về phòng cửa đóng then cài nghiêm trang.
Ngoài song lại lảnh tiếng vàng,
Trông ra đã thấy một nàng hầu trao:
"Cô tôi trộm ước thầm ao,
Mượn tôi gửi chiếc quỳnh dao trâm này.
Trăm nghìn xin cậy nhờ tay."
Đưa gói lụa ả kiếu ngay lên lầu.
Hồn chàng vơ vẩn đâu đâu,
5250. Mở trong vuông lụa là màu giấy xanh.
Kèm theo một chiếc trâm quỳnh,
Vừa xem thư ngỏ ý tình lẳng lơ:
"Rằng từ dạo bước vườn mơ,
Phòng thêu ai để hững hờ gió thu.
Hẳn thầy hiểu lẽ đừng tu,
Chữ sinh là trọng, chữ từ là hơn.
Vì ai liễu rũ hoa hờn,
Tử sinh tơ tóc đòi cơn vì người.
Hai ta hẳn nặng thề bồi,
Giờ xin sống thác một đời vẹn trao.
Thân em như dải lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Bây giờ mình gặp nhau đây,
Phận hồng xin cậy lòng thầy từ bi.
Bằng không đành gửi xuân thì,
Lòng này đã chết tiếc chi nữa là.
Nghìn tờ khó giải sầu hoa,
Nến khêu phòng vắng, giọt sa lệ dài.
Xin ai hiểu thấu lòng ai,
Tiện đây gửi chiếc trâm cài làm tin."
Xem xong khép lá thư tình,
Nỗi người vương vấn, nỗi mình hoang mang.
Nghĩ thân muôn trái nghìn oan,
Xuống sông ta rũ bụi vàng cho xong.
Luỵ nhau giả tướng trần hồng,
Quẩn quanh theo mãi một vòng vào ra.
Bước chân quyết vượt ái hà,
Lời thầy thường nhủ biết là sao nguôi.
Vì sao dòng lệ đầy vơi,
Uổng thân trai giới, quên lời nguyện riêng.
Thì trần duyên trả nhân duyên,
Đành đem cái chết chuyển vần nghiệp ai.
Hồn ta nguyện với hồn mai,
Thu, Đông trắng điểm một vài tuyết hoa.
Đôi dòng gửi lại trần sa,
Vòng oan mượn tấm rèm là làm phương.
Năm sau trên đồi lan hương,
Hoa rơi rơi với hồi chuông mơ hồ.
Khi chiều nắng nhạt lưa thưa,
Có người gặp tiểu ni cô hiền hoà.
Nghiêng nghiêng quét gốc mai già,
Rồi đem hoa rụng đổ ra suối dài.
Nước thành một dải tơ mai,
Thầm trông như tưởng bóng ai giữa dòng.
Gửi ý kiến của bạn