Phẩm 6 Hộ Trì Chánh Pháp

30 Tháng Sáu 201710:15(Xem: 4834)
KINH ĐẠI BI
Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung quốcvào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, 
tại Canada, năm 2016.

Phẩm 6

HỘ TRÌ CHÁNH PHÁP

 

Lúc bấy giờ đức Phật lại bảo tôn giả A Nan:

“Thầy đừng đau buồn nữa! Chánh pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi để làm lợi ích cho các chúng trời, người. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, ở núi Ưu-lâu-mạn-trà, thuộc thành Ma-du-la,(51) có ngôi già-lam tên Na-trì-ca. Nơi đó sẽ có thầy tì-kheo tên Tì Đề Xa, có thần thônguy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; đối với những người tu hành phạm hạnh thì chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; nói pháp không biết mệt mỏi. Thầy tì-kheo kia sẽ lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai để đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, cũng ở ngôi già-lam Na-trì-ca trong núi Ưu-lâu-mạn-trà, sẽ có thầy tì-kheo tên là Đề Tri Ca, có thần thônguy lực lớn, đối với những người tu hành phạm hạnh thì siêng năng nói pháp; sẽ khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, bên cạnh núi Ưu-lâu-mạn-trà còn có ngọn núi tên Ưu-thi-la, ở đó có bốn muôn vị tì-kheo vân tập. Quí vị ấy có thần thônguy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, đầy đủ khả năng, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; vị nào cũng vậy, đối với những người tu hành phạm hạnh thì chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; nói pháp không biết mệt mỏi. Các thầy tì-kheo kia đều tu hành phạm hạnh, đầy đủ thần thông biến hóa, sẽ lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai để đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, bên cạnh núi Ưu-lâu-mạn-trà sẽ có một thầy tì-kheo tên Ưu Ba Cúc Đa, cũng đầy đủ khả nănguy lực lớn như vậy; cũng tu hành phạm hạnh, lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai, làm lợi ích cho các hàng trời, người. Nơi ấy cũng sẽ có một ngàn vị A-la-hán, cùng với tám muôn tám ngàn vị tì-kheo tụ hội, cùng bố-tát với nhau một chỗ, cùng làm một pháp yết-ma.(52) Họ đối với nhau bằng tâm chân thành, và cùng ghi nhận những thành tựu của nhau. Họ đều tu hành phạm hạnh, đầy đủ thần thông biến hóa, lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai, làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Thầy tì-kheo Ưu Ba Cúc Đa ấy, cùng với các đệ tử, đều có khả năng nói pháp, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong khắp các hàng trời, người. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở thành Ba-li-phất(53) có ngôi già-lam tên Bạt-đa-ni, nơi đó có thầy tì-kheo tên A Du Bà Cúc Đa, tu hành phạm hạnh, đầy đủ ba minh,(54) sáu thần thông,(55) tám bước giải thoát,(56) thiền địnhtrí tuệ; có uy lực lớn, làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, cũng ở thành Ba-li-phất, có ngôi già-lam tên Cưu-cưu-tra, nơi đó có thầy tì-kheo tên Uất Đa La, tu hành phạm hạnh, có thần thônguy lực lớn, cũng có đầy đủ khả năng làm cho chánh pháp của Như Lai lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Chánh pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, ở nước Ương-già(57) sẽ có các thầy tì-kheo thiết lập đại hội Vô-già,(58) có vị thượng tọa tên Thiết Đà Sa Trà và hơn một vạn ba ngàn vị A-la-hán tụ hội. Các vị này tu hành phạm hạnh, đều có thần thônguy lực lớn, đầy đủ khả năng, nói pháp không biết mệt mỏi, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở thành Kim-bát-tất-đà sẽ có hai thầy tì-kheo, vốn thuộc dòng Bà-la-môn đi xuất gia; một thầy tên Tì Đầu La, một thầy tên San Xà Da, đều tu hành phạm hạnh, có thần thônguy lực lớn, đầy đủ khả năng, nói pháp không biết mệt mỏi, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở thành Bà-kê-đa sẽ có thầy tì-kheo tên Đại Tinh Tấn, tu hành phạm hạnh, có thần thônguy lực lớn, đầy đủ khả năng, nói pháp không biết mệt mỏi, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, sẽ có thầy tì-kheo tên Mạt Điền Đề, đầy đủ ba minh, sáu thần thông, tám bước giải thoát, thiền địnhtrí tuệ, có uy lực lớn, đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không biết mệt mỏi. Bấy giờ ở trong sông Kế-tân của miền Bắc-Thiên-trúc có vô số các loài có sức mạnh như rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, vân vân, cư trú. Tì-kheo Mạt Điền Đề bèn đến con sông ấy, dùng thần thông biến hóa hàng phục các loài ấy, khiến cho tất cả đều sinh lòng kính tin chánh pháp. Sau đó, tì-kheo Mạt Điền Đề bèn khuyến hóa dân chúng sống trong vùng sông Kế-tân cùng nhau kiến lập một ngôi già-lam, có nhiều ngàn chư vị Thanh-văn qui tụ về cư trú tu tập. Thầy tì-kheo Mạt Điền Đề này, trong mọi thời khắc, đều làm cho ngôi già-lam ấy thành một đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh; khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Công đức của thầy tì-kheo Mạt Điền Đề, Như Lai không thể dùng lời gì để tán dương cho cùng tận. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở nước Càn-đà-la(59) thuộc miền Bắc-Thiên-trúc, sẽ có thầy tì-kheo tên là Ca Diếp, có thần thônguy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả; có đầy đủ khả năng, làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, tại thành Đắc-xoa-thi-la ở miền Bắc-Thiên-trúc, sẽ có một vị trưởng giả tên Xà Tri Ca, tướng tốt và đoan chánh không ai bằng, giàu có tột bực, rất nhiều của cải châu báu, lại có đầy đủ phước đứctrí tuệ, danh tiếng vang động bốn phương. Ông trưởng giả ấy có lòng tin sâu xa đối với Như Lai và chư vị Thanh-văn, cung kính cúng dườngtôn trọng, xưng tán; siêng năng tích tập thiện căn giác ngộ, có đầy đủ khả năng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Trong đời vị lai, khi mãn một ngàn kiếp, ông sẽ thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, danh hiệu của Phật là Phổ Quang, thế giới của Phật tên là Cụ-đại-trang-nghiêm, kiếp đó tên là Tạo-hiền. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở miền Bắc-Thiên-trúc có kinh thành tên Phú-ca-la-bạt-đế, nhân dân giàu có, an ổn. Nơi đó có nhiều vị Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ thọ trì kinh điển, có lòng tin sâu xa đối với Như Lai và chư vị Thanh-văn, cung kính cúng dườngtôn trọng, xưng tán. Chư vị Thanh-văn ở nơi đó có vô số đệ tử, đều có thần thônguy lực lớn. Nơi đó cũng có nhiều vị trưởng giả, cư sĩ, nghe nhiều học rộng, có đức vô úy, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả. Này A Nan! Cũng ở tại kinh thành Phú-ca-la-bạt-đế kia, những người cư sĩ tại gia, sau khi mạng chung thì sinh lên cõi trời Đâu-suất, còn những người xuất gia thì lại đọa vào địa ngục. Vì sao vậy? Vì những ngưởi xuất gia ấy không giữ giới, không giữ luật nghi. Này A Nan! Những người Ba-la-môn, trưởng giả, cư sĩ ở kinh thành Phú-ca-la-bạt-đế kia sẽ nghĩ như vầy: Chánh pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chắc chắn sẽ ẩn mất, vì sao? Vì chư vị tì-kheo tham cầu lợi dưỡng, hủy phạm cấm giới, tâm ý tán loạn, không thích ở chỗ nhàn tịnh, bỏ mất niềm vui thiền định; thường qua lại trong bốn chúng để cùng nhau làm những việc phá giới trái đạo; trong việc giao thiệp với các vị Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩthân hữu thì không cung kính tôn trọng nhau; biếu tặng cơm nước hoa trái cho nhau không theo đúng luật nghi; dâm loạn với vợ người mà không biết hổ thẹn. Các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ kia, khi nghe thấy chư vị tì-kheo làm những việc sai trái với chánh pháp như vậy thì ưu phiền và sợ sệt vô cùng, than thở với nhau rằng: Chánh pháp của Phật sắp ẩn mất rồi chăng! Ngay vào lúc đó, cũng ở trong kinh thành Phú-ca-la-bạt-đế, xuất hiện một vị ưu-bà-tắc tên là Pháp Tăng, có thần thông, phước đứcuy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, gìn giữ Kinh, Luận, khéo dùng phương tiện thiện xảo, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả. Bấy giờ, vị ưu-bà-tắc ấy, vì muốn cho các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ kia sinh tâm kính tín, bèn bay lên hư không, chỉ bày, dạy dỗ, nói rằng: [Thưa quí vị! Xin hãy cẩn thận, đừng sợ sệt, đừng nghi ngờ, đừng lo lắng! Chánh pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn còn đang trụ thế. Xin quí vị hãy phát tâm tinh tấn làm các nghiệp lành, những người chưa ngộ thì giúp cho họ được ngộ, những người chưa đạt thì giúp cho họ được đạt, những người chưa chứng thì giúp cho họ được chứng. Thánh pháp nay vẫn còn đây, xin quí vị hãy mau tìm cầu!] Các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ kia nghe được những lời ấy thì vui mừng vô cùng, bèn phát tâm bố thí, tạo các công đức; đối với xá-lợi của Như Lai thì gìn giữ trang nghiêm; đối với chư vị Thanh-văn thì siêng năng cúng dường, nghe phápthọ trì đọc tụng, gìn giữ cấm giới, siêng tu thiền định. Các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ ấy, vì được vị ưu-ba-tắc Pháp Tăng kia chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho được lợi lạc, họ đều qui hướng về con đường thánh thiệnđạo quả niết-bàn. Này A Nan! Vị ưu-bà-tắc Pháp Tăng kia cũng có đầy đủ khả năng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Như thế đó, này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, cũng sẽ có nhiều người thế tục, có lòng kính tin sâu xa đối với chánh pháp của Như Lai. Những người này, trong quá khứ, đã từng cúng dường, gieo trồng căn lành nơi vô lượng chư Phật; bây giờ, đối với xá-lợi của Như Lai thì giữ gìn trang nghiêm, đối với chư vị Thanh-văn thì cung kính cúng dường, tôn trọng, xưng tán. Họ cũng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai, ở miền Bắc-Thiên-trúc sẽ có vị tì-kheo tên Kì Bà Ca xuất hiện ở đời. Vị tì-kheo này, trong đời quá khứ đã từng cung kính cúng dường, gieo trồng căn lành nơi vô lượng chư Phật; bây giờ phát khởi lòng tin sâu xa nơi giáo pháp đại thừa. Vì thương xót, muốn đem lại lợi íchan ổn cho chúng sinh, nên tì-kheo Kì Bà Ca phát tâm tu họcgiữ gìn pháp tạng Bồ-tát, xưng dương và phát triển giáo pháp đại thừa. Vị tì-kheo ấy thường xem xét các ngôi tháp miếu thờ hình tượng và xá-lợi của Như Lai, thấy nơi nào hư hoại thì sửa sang, dùng vàng để trang trí, dựng tràng phan, bảo cái, treo lưới có gắn phong linh, phát ra âm thanh vi diệu; lại tạo vô số hình tượng của Như Lai, xây cất thêm nhiều tháp miếu, làm cho các chúng trời, người phát khởi lòng tin và kính ngưỡng. Vì muốn được đầy đủ căn lành giác ngộ, vì thương xót chúng sinh, vì nhiếp thọhộ trì chánh pháp của Như Lai, vì muốn giúp cho những người chưa có lòng kính tin sẽ phát khởi lòng kính tin và tinh tấn tu hành, và cũng vì muốn giúp cho nhiều người có cơ hội gieo trồng căn lành, tì-kheo Kì Bà Ca sẽ thiết lập đại hội Vô-già. Này A Nan! Vào thời bấy giờ cũng có nhiều tì-kheo không giữ gìn cấm giới, làm nhiều việc phi pháp, không thích ở nơi nhàn tịnh, bỏ mất niềm vui thiền định, phá giới, trái đạo, hay tranh cãi; ham cất chứa tài vật, mỗi người chiếm riêng một phòng, thường qua lại với người thế tục, xa rời Phật pháp, không có lòng kính trọng đối với những vị tu hành phạm hạnh; những tì-kheo ấy chỉ có hình tướng giống như sa-môn mà thôi! Trong khi đó, cũng có một số ít tì-kheo chuyên cần tinh tấn, tránh xa những nơi ồn ào, luôn có chánh niệm, nhất tâm định tuệ, thường an trú nơi pháp lành, muốn ít, biết đủ, vui với hạnh tu xin ăn, an trú trong dòng giống Thánh nhân, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, giữ gìn Kinh, Luật, Luận. Lúc bấy giờ, tì-kheo Kì Bà Ca giúp các tì-kheo phi pháp kia được mặc áo pháp, tâm được chuyển hóa trở nên nhu thuận, các căn không khiếm khuyết, đầy đủ lòng tin sâu xa, được kính trọng tột bậc. Những người mặc áo pháp đều khởi tâm giữ giới, làm phước điền, thực hành hạnh bố thí, tu tập các căn lành. Thầy tì-kheo Kì Bà Ca kia, sau khi tu tập vô lượng căn lành giác ngộ thì mạng chung, sinh sang thế giới của đức Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây, cách đây hơn trăm ngàn ức cõi Phật. Ở đó, thầy tì-kheo Kì Bà Ca lại tiếp tục tu hành phạm hạnh, gieo trồng căn lành trải qua tám mươi ức đức Phật. Do căn lành ấy, trải qua chín mươi chín ức kiếp trong đời vị lai, thầy tì-kheo Kì Bà Ca sẽ thành bậc Chánh Giác, Phật hiệuVô Cấu Quang, ở thế giới tên là Nhất-thiết-công-đức-trang-nghiêm. Này A Nan! Thầy tì-kheo Kì Bà Ca kia cũng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Giáo pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi, làm cho các hàng trời, người phát khởi lòng tin và kính ngưỡng. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai sẽ có một nước ở vùng biên địa, tên là Xá-ma. Vua của nước đó tên là Đại Thí, phát khởi lòng tin thanh tịnh đối với giáo pháp của Như Lai; tinh cần tu tập, xưng dương, tán tháncúng dường xá-lợi của Như Lai và các vị Thanh-văn. Này A Nan! Vua Đại Thí kia một lòng tôn trọng cúng dường chư vị tì-kheo Thanh-văn trong nước Xá-ma. Trong nước này có đến hơn ba ngàn vị A-la-hán, đều có thần thông, công đứcuy lực lớn, nói pháp không biết mệt mỏi cho những người tu hành phạm hạnh, làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở miền Bắc-Thiên-trúc có thành Hưng-cừ-mạt-đản-na. Dân trong thành có được xá-lợi của Như Lai, bèn tôn trọng cúng dường. Họ dùng tràng hoa, bột thơm, âm nhạc, phướn lọng, y phục, đồ nằm, cùng vàng bạc châu báu để trang nghiêm đạo tràng. Này A Nan! Lúc bấy giờ, trong thành có ngôi tinh xá, rất nhiều người do có lòng tinphát tâm xuất gia, thọ trì cấm giới, tu tập các pháp lành; vô số người tại gia cũng tu tập các pháp lành như vậy. Này A Nan! Trong số họ có nhiều người giữ giới, nghe nhiều học rộng, có trí tuệ, có lòng tin thanh tịnh, sâu xa đối với giáo pháp của Như Lai; đối với xá-lợi của Như Lai và chư vị Thanh-văn thì chăm lo trang sức cúng dường. Nói chung, đối với Phật Pháp Tăng, họ luôn siêng năng cúng dườnghết lòng hộ trì. Do căn lành đó, sau khi họ thọ hưởng hết phước báo của trời người, có vị sẽ chứng được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, có vị đạt được đạo quả Duyên-giác, có vị đạt được đạo quả Thanh-văn, rồi nhập niết-bàn. Này A Nan! Do công đức cúng dường như thế, mà những vị đó có được thần thônguy lực lớn như thế; họ cũng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Chánh pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan! Xá-lợi và hình tượng của Như Lai sẽ được tôn trí cùng khắp cõi Diêm-phù-đề; đó là chưa nói đến những nơi mà loài người không thể thấy được, như những hình tượng được tôn trí trong cung điện của các loài trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, cưu-bàn-trà, vân vân. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Giáo phápgiới luật của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14775)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11882)
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
10 Tháng Mười 2014(Xem: 12392)
Viên giác là nói về tuệ giác viên mãn của Phật. Nên kinh này rõ ràng duyệt xét khá kỹ về trí thức con người. Điều kỳ dị trong việc này là đối với trí thức ấy không công nhận mà có vẻ công nhận. Thí dụ chương Tịnh chư nghiệp chướng nói về sự tự ý thức tự ngã: tự biết mới hiện ra tự ngã, vậy là không công nhận, nhưng tự hiểu như vậy nên cũng hiểu tự ngã ấy không đáng nhận, vậy là có vẻ công nhận.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 12073)
Kinh Hiền Ngu thuộc bộ phận “Thí dụ” hoặc “Nhân duyên”, là một trong mười hai phần giáo của Kinh điển. Nội dung kinh này gồm những mẩu chuyện ghi chếp về tiền thân của đức Phật ở đời quá khứ có liên hệ với hiện tại, hoặc ở đời hiện tại có liên hệ với quá khứ, cũng là những chuyện được Phật hóa độ, Phật thụ ký, và những chuyện khuyến thiện trừng ác… Về kỹ thuật thuyết minh, chuyện dựa trên căn bản nhân duyên hoặc thí dụ, thiện nghiệp và ác nghiệp. Căn cứ vào những phần tướng của thiện và ác nên mới có hiền và ngu. Vì vậy nên tên kinh gọi là Hiền Ngu, nay gọi tắt là “Kinh Hiền”
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12048)
(Bản dịch Tâm Kinh mới của Sư Ông Làng Mai)....Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. ...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7942)
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 8508)
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9119)
12 Tháng Sáu 2014(Xem: 10132)
Dhammapada là giáo nghĩa thiết yếu của các kinh. Dhamma là pháp, Pada là câu, là cú, là kệ. Pháp Cú có nhiều bộ khác nhau: có bộ có 900 câu kệ, có bộ 700 câu, và có bộ 500 câu. Kệ là những lời ngắn gọn, như bài thơ, bài tụng. Những câu ấy do Bụt nói ra, không phải một lần tất cả các câu, mà chỉ khi nào xúc sự thì mới nói lên một câu. Tất cả các câu ấy đều có gốc gác rải rác trong các kinh.