Sứ Mệnh Của Đạo Phật

31 Tháng Tám 201000:00(Xem: 34082)
SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT
Thích Thông Huệ

I. Ý NGHĨA

ducphatthichca-0101Hiểu theo sự tướng, Đạo Phật là con đường, là phương pháp tu hành đưa con người đến mục đích giác ngộ và giải thoát. Giác ngộ đối nghĩa với vô minh, giải thoát đối nghĩa với trói buộc. Chúng sanh vô minh, chấp thân tâm là thật, chấp các pháp là thật nên dính mắc với trần cảnh; từ đó bị phiền não trói buộc, tạo nghiệp và quanh quẩn trong sáu đường sinh tử. Người tu khi giác ngộ thân tâm cảnh đều duyên hợp hư huyễn, các Ngài vẫn sống vẫn làm nhiều việc lợi ích cho đời, nhưng hoàn toàn tự do tự tại. Như thế, nhờ giác ngộ nên giải thoát - giải thoát khỏi phiền não và cuối cùng, khỏi luân hồi. Đạo Phật được ví như ngọn đuốc soi đường cho những kẻ còn lạc lối trong rừng rậm vô minh, hoặc như chiếc thuyền đưa người qua biển khổ, đến bến bờ an lạc.

Hiểu theo lý tánh, Đạo Phật là tánh giác sẵn đủ ở mỗi chúng sanh. Tánh giác là thể chẳng sanh chẳng diệt ở ngay thân ngũ uẩn sanh diệt. Chư Phật đã nhận ra và hằng sống với tánh giác chân thường, chúng sanh cũng có tánh giác nhưng bị phiền não tham sân si che lấp, như vàng trong quặng, như sóng chìm nổi trên mặt biển. Thể tĩnh lặng của biển luôn hiện hữu trong tướng biến động của sóng. Do có gió nên mặt biển nổi sóng, và khi gió lặng, sóng lại trở về với biển cả mênh mông. Cũng vậy, chúng sanh đang trong thể tánh tịch chiếu của biển chân như, do gió nghiệp thổi mà sinh ra thân năm uẩn, theo đó tiếp tục tạo nghiệp rồi thọ thân mãi mãi không cùng. Hơn thế, chúng sanh lại quên thể tánh hằng tri mà nhận lầm tâm huyễn hóa là mình, như người nhận sóng mà quên nước. Muốn trở về nước, phải ngay nơi sóng mà nhận; muốn trở về tánh giác chân thường, phải ngay từ thân tâm vô thường. Tâm thức mê mờ của phàm phu rất gần với tâm Bồ-đề của các Bậc Giác Ngộ, chỉ cách nhau ở một niệm quên hay nhớ mà thôi.

Chúng sanh quên tánh giác vì mãi chạy theo thức tình phân biệt, theo vọng tưởng điên đảo. Ví như mặt hồ có sóng lớn, ánh trăng không hiện rõ trong nước; nhưng khi gió lặng, mặt nước yên tĩnh, bóng trăng sẽ hiện sáng ngời. Chúng ta tu là làm lặng yên gió niệm phân biệt. Niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thiền tập đến trạng thái tịch lặng và thường rõ biết, người tu nhận ra Niết bàn tự tánh ở ngay đương xứ - bây giờở đây.

Như ta thấy, Đạo Phật không hề có những biểu hiện thần quyền hoặc chủ trương những hình thức mê tín dị đoan. Đức Phật là Bậc Đạo Sư tức vị Thầy dẫn đường, không phải là thần linh ban phước giáng họa. Chúng sanh có quyền chọn lựa đường hướng cho mình, hoặc đi theo Đức Phật thì sẽ được an lạc giải thoát như Ngài, hoặc quay lưng theo hướng khác thì cũng có quyền tạo nghiệp và tự thọ nhận quả báo tương ứng. Chính Đạo Phật đã trao cho tất cả chúng sanh quyền tự do và quyền bình đẳng tuyệt đối khi vị Giáo chủ nhiều lần tuyên bố: “Chúng sanh là chủ nhân của nghiệp, cũng là chủ thọ nhận nghiệp báo” “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.

II. LÝ THUYẾT

Giáo lý nhà Phật gồm tam tạng kinh điển (Kinh-Luật-Luận), là cả một gia tài đồ sộ. Kinh là những lời dạy của Đức Phật thuyết giảng hoặc do các đệ tử của Ngài tuyên thuyết và được Ngài ấn chứng. Luật là những cấm giới do Đức Phật chế ra để ngăn dứt điều ác, phát triển nghiệp lành. Thời kỳ Đức Phật còn tại thế chưa có chữ viết chỉ truyền khẩu, nên dần dần không thể không có những điều sai lạc. Đến nay một số giáo điều do người sau đặt ra nhưng lại ngụy tạo lời Phật dạy; hoặc ngược lại, có người chủ trương sai lầm cho rằng kinh điển Đại thừa không phải do Đức Phật thuyết giảng. Điều này làm nhiều Phật tử hoang mang không biết tin vào đâu, thậm chí rơi vào tà kiến mê tín. Vì thế, nhà Phật có một thước đo để phân định pháp nào là đúng chánh pháp. Thước đo ấy gọi là Pháp ấn.

“Ấn” nghĩa đen là con dấu, dùng chứng thực uy quyền của vua quan. “Pháp ấn” là con dấu của Đức Phật, dùng để chứng thực đâu là giáo lý từ kim khẩu Đức Phật thuyết ra. Với trí tuệ vô sư xuất thế, Đức Phật đã khám phá ra chân lý tuyệt đối chi phối cả vũ trụ vạn hữu cùng những phương pháp đoạn tận phiền não, thoát ly sinh tử. Trong suốt cuộc đời hoằng hóa độ sanh, Ngài đều chỉ dạy cho đệ tử theo tinh thần này. Và do vậy, nếu có một lý thuyết nào không mang được ý nghĩa như thế, thì đó không phải là lời dạy của Đức Phật.

Pháp ấn gồm ba phân loại:

- Tứ pháp ấn.

- Tam pháp ấn.

- Nhất pháp ấn.

* Tứ pháp ấn

1. Vô thường: Tất cả mọi loài vật, từ hữu tình đến vô tình, từ lớn lao như toàn thể vũ trụ đến tí hon như những tế bào đều thay đổi trong từng sát-na. Con người vô thường theo tiến trình sinh lão bệnh tử, các pháp có sinh trụ dị diệt, vũ trụ có thành trụ hoại không.

2. Khổ: Vì vô thường nên không một chúng sinh nào thoát khỏi đau khổ, trong đó nỗi khổ luân hồi là đệ nhất. Cụ thể hơn, Đức Phật dạy rõ về tám loại khổ: Sanh - Già - Bệnh - Chết - Cầu mong không toại nguyện - Thương yêu phải xa lìa - Oán thù mà gặp gỡ - Thân năm ấm lẫy lừng.

3. Không: Các pháp đều do nhân duyên tập hợp mà hình thành, không có pháp nào tự nó hiện hữu. Vì do duyên hợp nên sự hiện hữu ấy chỉ là giả tạm, thật sự bản chất của các pháp là không. “Không” là thể tánh cả vạn pháp, còn hiện tượng là giả có.

4. Vô ngã: Vì các pháp do duyên hợp nên không đồng nhất và không có một chủ thể độc lập. Các pháp cũng vô thường nên không phải cố định. Không có chủ tể, không đồng nhất và không cố định nên các pháp đều vô ngã.

* Tam pháp ấn

1. Chư hành vô thường: Đã nói ở trên.

2. Chư pháp vô ngã: Vô thường và Vô ngã là hai pháp ấn thuộc Tục đế, là chân lý chi phối mọi sự vật hiện tượng và vạn hữu trong cả ba cõi.

3. Niết bàn tịch tịnh: Pháp ấn thứ ba thuộc Chân đế, là chân lý xuất thế gian. Hai đặc tính của Niết bàn là thanh tịnh và thường tri, tức tĩnh lặng mà hằng rõ biết. Niết bàn không phải là một cõi giới bên ngoài, có thể đạt đến khi nhắm mắt lìa đời, mà là tự tánh bổn tịch bổn tri của chính mình. Khi nhận ra và thẩm thấu chân lý vô thường vô ngã của muôn pháp, người tu thoát ly mọi khổ não, xoay lại soi sáng chính mình, trở về Niết bàn tịch tịnh tự tâm.

* Nhất pháp ấn

Khi nhận thấy trình độ tâm linh của chư đệ tử đã có thể lãnh hội chân lý tối thượng, Đức Phật mới thuyết giảng về Nhất tâm chân như, thuộc Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế, chỉ rõ con người chân thật thường hằng ở mọi chúng sanh. Con người chân thật ấy không có hình dáng nên không hề sanh diệt, không có tên nên được đặt rất nhiều tên: Chân như, Phật tánh, Pháp thân, Bản lai diện mục… Trở về hằng sống với con người chân thật là mục đích cuối cùng của người tu, và cũng là bản hoài chư Phật khi thị hiện nơi đời.

Như ta đã thấy, không có lời dạy nào của Đức Phật đề cập đến việc giải trừ sao hạn, coi hướng, coi quẻ, cùng những hình thức cúng tế thuộc tín ngưỡng dân gian. Mặt khác, giáo lý nhà Phật cũng không phải là một nền Triết học. Triết học nằm trong phạm vi của Hữu sư trí, trí tuệ có được nhờ học hỏi thu lượm từ bên ngoài, từ người khác. Trái lại, Phật pháp được tuyên thuyết bằng Vô sư trí của một Bậc Giác ngộ, tức trí tuệ phát sinh trong thiền định, khi tâm hoàn toàn vắng bặt mọi vọng tưởng phân biệt đảo điên. Đức Phật không nói những gì Ngài suy đoán, mà chỉ nói những gì Ngài đã thấy rõ bằng Tuệ nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn. Chính vì thế giáo lý nhà Phật là sự thật muôn đời không thay đổi, là chân lý siêu việt cả không gian và thời gian.

III. THỰC HÀNH

Lý thuyết như đôi mắt sáng, thực hành như đôi chân khỏe. Muốn đến nơi đến chốn, con người phải có mắt sáng để thấy đường đi và chân khỏe để tiến bước. Mắt và chân là hai điều kiện chủ yếu, tiên quyết và không thể thiếu cho một kẻ lữ hành.

Người Phật tử là một hành giả tâm linh, muốn trở về quê hương muôn thuở thì cần áp dụng giáo lý vào thực hành. Thực hành là chuyển hóa ba nghiệp thân miệng ý, chuyển hóa tự tâm. Tùy căn cơ, trình độ và sở thích, mỗi người tự chọn cho mình một pháp môn thích hợp. Đức Phật là vị Đại lương y, có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn đối trị tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não. Chúng ta như những bệnh nhân, đã được chẩn đoán cho toa, phải uống thuốc đúng theo lời dặn trong toa mới mong khỏi bệnh phiền não.

Một chai trước chứa thuốc độc, nếu muốn sử dụng nó chứa mật ong, đầu tiên ta phải đổ hết thuốc độc ra, súc rửa nhiều lần cho thật sạch. Tâm trí ta cũng thế, ba độc tham sân si đã huân tập bao nhiêu đời kiếp. Nếu muốn chứa vị cam lồ giải thoát, trước hết phải tẩy sạch phiền não vô minh. Tịnh tu ba nghiệp, dần dần dừng nghiệp và sạch nghiệp. Không còn nghiệp tức động cơ sinh tử đã ngừng, vòng xích luân hồi bị chặt đứt.

Phương pháp tu hành theo Đạo Phật được phân chia thành Ngũ thừa, Tam thừa và Nhất thừa Phật giáo.

* Ngũ thừa Phật giáo

1. Nhân thừa: Người Phật tử quy y tam bảo, giữ gìn năm giới. Đời sau, người ấy trở lại thân người với mọi điều tốt đẹp.

2. Thiên thừa: Tu mười điều thiện, lánh xa mười nghiệp ác, thác sinh về cõi trời Dục giới.

3. Thinh văn thừa: Tu Tứ Diệu Đế, chứng quả vị Thinh văn (Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán)

4. Duyên giác thừa: Tu Thập nhị nhân duyên, quán lý Duyên sinh, giác ngộ bản chất duyên hợp của vũ trụ vạn hữu. Chứng quả vị Duyên giác.

5. Bồ tát thừa: Tu lục độ vạn hạnh. Hành giả thực hành tự độ độ tha, đạt đến cứu cánh Nhất thừa Phật đạo.

* Tam thừa Phật giáo

Chỉ kể Thinh văn, Duyên giác và Bồ tát thừa.

* Nhất thừa Phật giáo

Kinh Pháp Hoa có một ví dụ về “Hội tam quy nhất”, tức quy Tam thừa về Nhất thừa. Những người con mãi vui chơi trong nhà lửa, không biết từng giây phút bị lửa đe dọa tính mạng. Người cha muốn các con mau ra khỏi nhà lửa, nên lập bày phương tiện, hứa cho các con ba loại xe. Nếu ai ra khỏi nhà, sẽ được sử dụng các loại xe ấy, mặc tình rong chơi thỏa thích. Khi các con đã an toàn, người cha mới nói thật rằng, không có ba loại xe mà chỉ có duy nhất là xe trâu trắng. Ba loại xe ví như Tam thừa (Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát), xe trâu trắng là Phật thừa. Các quả vị của Tam thừa chỉ là Hóa thành, để chúng đệ tử có cơ sở tiến đạo và không cảm thấy ngao ngán vì đường tu xa xôi diệu vợi. Thật sự chỉ có quả vị duy nhất là Phật quả, là Bảo sở, là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng là Niết bàn tự tâm ở ngay tại đây bây giờ!

IV. SỨ MỆNH TRUYỀN BÁ

Sau khi thành đạo dưới cội Tất-bát-la, Đức Bổn Sư định nhập Niết bàn, vì những gì Ngài thấy được chứng được đều khó tin khó hiểu; nếu người nghe sinh tâm nghi ngờ phỉ báng, sẽ vô tình tạo trọng tội. Nhưng do chư Thiên ba phen khẩn thiết thỉnh chuyển pháp luân, nên Đức Phật đành dùng phương tiện, tùy duyên giáo hóa. Sứ mệnh truyền bá của Đức Phật lúc còn tại thế được chia làm năm thời kỳ. Đưa dần trình độ của chư vị đệ tử từ thấp lên cao. Không kể 21 ngày đầu tiên thuyết kinh Hoa Nghiêm cho các hàng Bồ tát, 4 thời kỳ hoằng pháp của Đức Phật gồm có(*):

1. Phật thuyết kinh A-Hàm: Trong 12 năm, chỉ dạy mọi phương tiên tự tu tự độ.

2. Kinh Phương Đẳng: Giai đoạn chuyển tiếp từ Tiểu thừa lên Đại thừa, vừa tự độ vừa độ tha. Phật thuyết trong 8 năm.

3. Kinh Bát-Nhã: Thời kỳ này dài nhất, 22 năm, Đức Phật dạy về Tánh Không của vũ trụ vạn loại, về Thật Tướng Vô Tướng của tất cả các pháp.

4. Kinh Pháp Hoa, Niết bàn: Trong 8 năm cuối đời, Đức Phật thấy căn cơ của chư đệ tử đã thuần thục, có thể đảm đương việc lớn là “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” nên tỏ bày lý nghĩa rốt ráo, từ Tam thừa về Nhất thừa, từ Hóa thành đưa về Bảo sở. Để gieo niềm tin vững chắc cho hội chúng, Ngài đã thọ ký cho các đệ tử, không kể người trí hay ngu, nam hay nữ, hiền thiện hay xấu ác, thậm chí đến kẻ tạo tội ngũ nghịch như Đề-Bà-Đạt-Đa hoặc súc sinh nhỏ tuổi như Long nữ, cũng đều có khả năng thành Phật. Đúng như lời Bồ tát Thường Bất Khinh: “Tôi không dám khinh các người, vì các người đều sẽ thành Phật!”.

Chúng ta ngày nay, có nhân duyên lớn gặp được chánh pháp, học hiểu và tu hành có kết quả, nên tích cực truyền bá giáo lý của Đức Phật để người khác cũng được lợi lạc, để Phật pháp mãi mãi trường tồn. Tùy khả năng tu học và hoàn cảnh mình đang sống, chúng ta có thể bằng khẩu giáo hay thân giáo góp phần làm tốt đời đẹp đạo. Tuy nhiên, việc truyền bá cần theo tinh thần khế lý khế cơ hay bất biến tùy duyên. Khế lý là phù hợp với chân lý bất biến của nhân sinh vũ trụ, khế cơ là phù hợp với căn cơ và thời đại mà tùy nghi sử dụng phương tiện, để ai cũng có thể thấm nhuần và tu tiến. Người truyền bá Phật pháp lúc nào cũng linh động nhưng không bao giờ nói sai chân lý. Nhưng ngược lại, nếu nói đúng với chân lý mà không thích hợp với thính chúng thì cũng khó thuyết phục, khó đưa chánh pháp thấm sâu vào lòng người, khó giúp đương sự tu hành có kết quả. Ví dụ, người Đông phương thường sống với nội tâm, nhịp sống chậm rãi nên thường ưa thích những pháp môn thâm sâu, có căn bản hoặc tuần tự từ thấp lên cao. Người Tây phương lại khác, quen với nhịp điệu hối hả, mong có kết quả nhanh chóng nên thích hợp với các phương pháp làm giảm căng thẳng thần kinh hoặc giúp an lạc ngay trong hiện đời. Những người sơ cơ chưa hiểu sâu giáo lý thường ưa nghe về tội phước, nhân quả, nghiệp báo… Người có trình độ nghiên cứu cao hơn lại rất tâm đắc về những đề tài Vô thường, Vô ngã, Duyên sinh… Đặc biệt, đối với những Phật tử vừa uyên thâm giáo lý vừa có công phu tu hành chuyên sâu, đây là mảnh đất tâm trù phú để gieo chủng tử vô lậu, là những người có thể gánh vác trọng trách tự lợi lợi tha, tự giác giác tha.

* *

*

Thuyền bè hay ngọn đuốc sáng là cứu tinh cho những người sắp chết đuối hoặc đang bị lạc vào rừng rậm thâm u. Nhưng nếu lên thuyền mà không chèo, có đuốc soi đường mà không đi, thì biết bao giờ thoát nạn? Giáo lý nhà Phật thậm thâm vi diệu, muôn kiếp khó tìm, chúng ta được nghe và hiểu đúng Phật pháp là điều hy hữu. Đã có duyên sâu dày, chúng ta càng nên nỗ lực tu hành, tùy duyên theo hoàn cảnh riêng. Bao nhiêu sóng gió trở ngại trong đời, ta kham nhẫn chịu đựng rồi yên ổn vượt qua, vì ta đã có hướng đi, có mục đích cao cả là chuyển hóa bản thân, xây dựng gia đình hạnh phúc và góp sức cải thiện xã hội. Bằng những việc cụ thể làm lợi mình lợi người như thế, chung ta đã biết đền ơn chư Phật một cách thiết thực và đầy đủ ý nghĩa.

Trích từ tập sách “Sứ mệnh của Đạo Phật” - NXB Tổng hợp, Tp.HCM - 2010

* Theo HT. Thích Thiện Hoa - Phật học phổ thông Khóa I

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
23 Tháng Mười Một 2014(Xem: 7481)
Sự tu tập trong Phật giáo, cốt tủy vẫn là “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Nghĩa là tự lực và tha lực luôn tương tác, hỗ trợ nhau trong tu tập nhưng tự lực vẫn là chính, trọng tâm của việc thực hành giáo pháp. Người tu muốn thành công phải theo thứ lớp, tuần tự từ thấp lên cao. Trước phải có lòng tin, không rời kinh điển rồi sau mới tự mình thân chứng và đến nơi các Thánh quả.
18 Tháng Mười Một 2014(Xem: 5337)
Nhà vua đứng trên muôn dân, là chủ của đất nước nhưng nếu vua thiếu đạo đức thì dân khốn, nước nguy. Lịch sử đã cho thấy những triều đại thịnh trị đều nhờ có minh quân. Nếu vua mà hôn quân vô đạo thì chắc chắn triều đại ấy sẽ nhanh chóng sụp đổ.
12 Tháng Mười Một 2014(Xem: 6460)
Trong các pháp thoại của Thế Tôn, những hình ảnh trực quan luôn được Ngài vận dụng để minh họa cho sinh động và dễ hiểu. Nhìn một khúc gỗ lênh đênh xuôi trên một dòng sông hướng về biển cả, Ngài liên tưởng ngay đến hình ảnh của người tu đang trên đường xuôi về Niết-bàn.
02 Tháng Mười Một 2014(Xem: 5853)
Bố thí là một trong những pháp hành phổ biến của người đệ tử Phật. Hãy cho đi một phần những gì mình có để tạo phước cho hiện tại và mai sau. Dĩ nhiên, người con Phật bố thí luôn hướng đến mục tiêu lợi mình, lợi người, lợi cả hai. Cho đi để mình và người đều lợi ích, an lạc mới được gọi là bố thí đúng nghĩa.
28 Tháng Mười 2014(Xem: 6336)
Ai cũng biết Đức Phật ngoài mười hiệu tôn quý còn được xưng tán là Y vương, bậc thầy của các thầy thuốc trong việc trị liệu tâm bệnh của chúng sanh. Không chỉ chữa trị tâm bệnh, Đức Phật còn là một vị thầy thuốc đúng nghĩa chữa trị cả thân bệnh nữa. Vì bệnh tật ốm đau vốn không chừa một ai, kể cả các vị lậu tận La-hán, nên hiểu về bệnh trạng của mình nhằm có cách trị liệu và điều dưỡng thích hợp khiến bệnh mau lành là điều rất cần.
22 Tháng Mười 2014(Xem: 6685)
Có lẽ ai cũng cảm nhận được rằng, cuộc sống này hiếm khi yên bình mà luôn đầy ắp những biến động. Với nghịch cảnh, chúng ta bị tác động và chi phối thì đã đành. Nhưng với thuận cảnh, nếu không khéo giác tỉnh thì chúng ta cũng dễ bị tác động để tạo ra những chao đảo và lệch chuẩn khó lường. Nói cách khác, chúng ta luôn bị những ngọn gió thuận nghịch trong cuộc đời quăng quật, làm trở ngại sự tĩnh tại và bình an.
22 Tháng Mười 2014(Xem: 7040)
Có người tìm đến Phật pháp không chỉ mong cầu lợi ích cho chính mình, mà còn mong cầu mang lại lợi ích cho những người khác, không chỉ mong cầu giác ngộ giải thoát cho chính mình mà còn mong cầu mang lại giác ngộ giải thoát cho tất cả chúng sinh. Vì những người này, đức Phật thuyết giảng giáo lý Đại thừa.
15 Tháng Mười 2014(Xem: 8049)
“Đường về” là một tuyển tập gồm một số bài tiểu luận về Phật pháp do cố Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải thực hiện. Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lý và pháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa mà tác giả đã có nhân duyên được học tập, thực hành và mong muốn chia sẻ với người khác.
15 Tháng Mười 2014(Xem: 6084)
Hẳn ai cũng từng biết và suy ngẫm về câu “Có phước có đức thì mặc sức mà hưởng”. Quả đúng như vậy, những người có phước đức thì mọi chuyện trong cuộc sống đều thuận lợi, thành công dễ dàng. Nhưng phước đức không phải tự nhiên hoặc thánh thần nào ban cho mà tự chúng ta phải gieo trồng, tưới tẩm mới mong có ngày gặt hái.
30 Tháng Chín 2014(Xem: 5641)
Bất cứ chúng sanh nào, dù là bậc cao hay thấp, thì đời sống và thọ mạng của họ cũng có hạn lượng. Có sanh thì ắt phải chết, có chết thì mới tái sanh để tạo ra vòng xoáy luân hồi vô cùng vô tận. Điều đáng nói là sau khi chết thì chúng ta đi về đâu? Được sanh lên trời hưởng phước hay sanh xuống ác đạo chịu khổ? Và ai hay cái gì có quyền quyết định xu hướng tái sanh ấy?