Bố thí, cúng dường là một trong những hạnh tu căn bản và phổ biến của hàng Phật tử. Tuy nhiên, để công đức bố thí cúng dường được trọn vẹn và đủ đầy thì người thực hành hạnh thí xả cần phát huy tuệ giác, bố thí đúng thời.
Ông cha ta cũng đã đúc kết kinh nghiệm bố thí đúng thời bằng câu “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Dĩ nhiên đã bố thí thì có phước nhưng nếu biết bố thí đúng lúc, đúng thời thì sẽ giá trị hơn, phước báo nhiều hơn.
Theo Thế Tôn, bố thí đúng thời có năm việc, thể hiện có sự cân nhắc và chọn lọc trong quyết định bố thí. Ngoài tấm lòng thí xả, người thí cần có tuệ giác, sự tôn kính và nhất là tâm nguyện thí xả không thối chuyển, ngay cả trong những lúc nghèo thiếu.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Bố thí đúng thời có năm việc: Bố thí cho người từ xa lại; bố thí cho người đi xa; bố thí cho người bệnh; lúc thiếu mà bố thí; nếu lúc được cây trái mới, hoặc ngũ cốc mới thì trước đem cho người trì giới tinh tấn, sau đó mình mới ăn. Đó là, này Tỳ-kheo! Bố thí đúng thời có năm việc này.
Thế Tôn liền nói kệ:
Người trí ứng thời thí
Lòng tin không đoạn dứt
Ở đây chóng hưởng vui
Sanh trời, các đức đủ.
Tùy thời, nhớ bố thí
Thọ phước như vang ứng
Trọn đã không nghèo thiếu
Nơi sanh thường phú quý.
Thí là đủ mọi hạnh
Được đến vị vô thượng
Nhớ thí không khởi tưởng
Hoan hỷ bèn tăng thêm.
Trong tâm sanh niệm này
Ý loạn trọn không còn
Biết rằng thân an lạc
Tâm liền được giải thoát.
Thế nên người có trí
Chẳng kể nam hay nữ
Nên hành năm thí này
Không mất phương tiện đúng.
Thế nên, các Tỳ-kheo! Nếu có thiện nam, tín nữ, muốn hành năm việc này thì hãy nhớ tùy thời thí. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Thường thì người mới đến họ rất cần các vật dụng thiết yếu cho cuộc sống, người đi xa thì cần chuẩn bị đầy đủ hành trang để lên đường. Nhất là đối với đời sống du hành của các vị xuất gia thì đây là thời điểm chư vị rất cần sự ngoại hộ của hàng cư sĩ.
Với người bệnh thì sự giúp đỡ càng cần thiết hơn. Họ rất cần thuốc men, ăn uống, săn sóc, và nhất là sự động viên chia sẻ về tinh thần. Khi khỏe mạnh, dù khó khăn hay trở ngại đến mấy cũng có thể kham nhẫn được. Nhưng khi bệnh tật thì thân đau tâm khổ, nếu khó khăn chật vật không có phương tiện chữa trị lại càng khổ hơn. Nên mọi sự giúp đỡ của chúng ta, từ vật chất cho đến tinh thần, đều có ý nghĩa rất lớn đối với người bệnh.
Khi mới thu hoạch mùa màng, đem những nông sản đầu mùa tinh khôi nhất dâng cúng lên chư Tăng để tỏ lòng tôn kính hoặc mang biếu mời bà con làng xóm dùng lấy thảo trước, sau đó mới thọ dụng nhằm thể hiện sự tri ân. Đây cũng là một nét văn hóa thảo thơm lâu đời trong các cộng đồng cư dân nông nghiệp. Cái ân tình thơm thảo qua lại này đã gắn kết tình làng nghĩa xóm và cộng đồng an hòa, bền vững.
Đặc biệt gặp lúc khó khăn nhưng nếu thấy cần thiết thì vẫn phát tâm bố thí. Điều này vốn không dễ làm nhưng vẫn có người làm được. Bố thí trong thời điểm khó khăn thể hiện tâm nguyện người thí mạnh mẽ, trí tuệ người thí đã thông tỏ lẽ thịnh suy, tạm bợ của con người và cuộc đời.
Tùy thời bố thí là hành trang tu học tín, giới, thí, tuệ được kết hợp nhuần nhuyễn trong đời sống. Thí xả mà thân được an, ý không loạn, tâm giải thoát nên được phước vô lượng.
Hẳn ai cũng biết câu: “Có tài mà cậy chi tài”, tài trí là cần thiết nhưng chưa đủ để đem đến thành công. Muốn thành công, ngoài tài trí cần phải có phước đức. Vì vậy, gieo trồng phước đức trong đời sống hàng ngày là một trong những nhân duyên quan trọng, góp phần đưa đến mọi thành công.
Nói về một bậc Thánh đã giải thoát sanh tử và khổ đau, trong Kinh tạng, Thế Tôn thường dùng hình ảnh “gánh nặng đã đặt xuống”. Như người nông dân xưa, mọi thứ đều đặt trên đôi vai, khi về đến nhà, gánh nặng được buông xuống thì cảm giác thật tuyệt vời.
Trong cuộc sống hàng ngày, người con Phật luôn tâm niệm phải tạo ra phước báo để vun bồi công đức cho bản thân và gia đình. Có rất nhiều việc tạo ra phước báo mà không cần bỏ ra của cải hay là công sức. Đó là chánh niệm trong lời nói, phát ngôn của mình, một trong những pháp môn tu tập cần thiết và căn bản nhất.
Người xuất gia nguyện “hủy hình giữ khí tiết”, cạo tóc và mặc y hoại sắc, giữ gìn phạm hạnh để thăng hoa tâm linh, thành tựu tuệ giác. Nét đẹp của người xuất gia toát lên từ uy nghi và phạm hạnh chứ không phải y áo với “màu sắc chói mắt”, hình tướng lộng lẫy bên ngoài.
người nuôi bệnh cần nhắc cho bệnh nhân biết rõ là ai cũng có bệnh, bệnh tật vốn không chừa một ai, không phải chỉ một mình họ bị bệnh để không mặc cảm. Ngay cả khi biết người bệnh không thể qua khỏi, người khéo nuôi bệnh nên tìm cách nói cho người bệnh hiểu đó cũng là chuyện thường, ai mà chẳng trải qua sanh già bệnh chết. Người khỏe hay người bệnh cũng phải ra đi, chỉ khác là trước hay sau mà thôi
Trong các pháp thoại của Thế Tôn, những hình ảnh trực quan luôn được vận dụng để minh họa cho thính chúng dễ hiểu, dễ liên hệ, nhận rõ ý nghĩa những lời dạy của Ngài. Nước sông Hằng đã được Thế Tôn dùng để chỉ cho nước mắt của chúng sanh khóc thương nhau trong những lần tử biệt sanh ly, chuyển lưu sanh tử trong nhiều đời kiếp.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.