- Lời Nói Đầu
- Đức Phật Của Chúng Ta
- Vai Trò Của Người Có Trí, Của Trí Tuệ Trong Đạo Phật
- Giới, Định, Tuệ Con Đường Giáo Dục Chấm Dứt Đau Khổ Sanh Tử Luân Hồi
- Chánh Pháp Và Hạnhphúc
- Hội Chúng Tỳ Kheo Trong Thời Đức Phật Còn Tại Thế
- Kinh " Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra "
- Kinh Ví Dụ Con Rắn
- Vấn Đề Tái Sanh
- Ý Nghĩa Phật Thành Đạo
- Người Việt Nam Thương Mẹ, Kính Cha Qua Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam
- Sống Theo Lý Tưởng Bồ Tát
- Đạo Phật Và Nếp Sống Thiên Nhiên
- Năm Giới, Nếp Sống Lành Mạnh, An Lạc, Hạnh Phúc.
- Ý Đẹp Với Mùa Xuân
- Một Nền Giáo Dục Toàn Diện
- Kinh Dịch Và Đại Học
- Chùa Việt Nam Và Mối Liên Hệ Với Nền Văn Hoá Dân Tộc
- Xuân Về Với Những Lời Phật Dạy
CHẤM DỨT ĐAU KHỔ SANH TỬ LUÂN HỒI
Hôm
nay, chúng tôi xin giới thiệu một hệ thống giáo dục, đã
được xây dựng cách đây hơn 2000 năm, vẫn được truyền
tụng và hành trì cho đến ngày nay. Đối tượng của hệ
thống giáo dục này là các Tăng Ni đã thọ đại giới, sống
không gia đình, với tâm nguyện thoát ly sanh tử luân hồi.
Theo
đạo Phật, có sanh là có già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
Nên muốn diệt trừ đau khổ, cần phải đoạn tận sanh y
(upadhi) tức là đoạn tận những gì có khả năng đưa đến
một đời sống khác. Do vậy người tu hành sẽ phải sống
như thế nào để đoạn tận năm hạ phần kiết sử: thân
kiến, giới cấm thủ, nghi, tham dục, sân hận; cùng với năm
thượng phần kiết sử: sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo hối
và vô minh.
Như
vậy pháp môn “Ba vô lậu học” là một chương trình giáo
dục, một hệ thống tu học cho hàng xuất gia, đã được
đức Phật truyền dạy trong nhiều kinh điễn.
Thứ
nhất là Giới học: Tức là sống biết hổ thẹn, biết sợ
hãi những điều ác mình làm, sống như thế nào không để
cho sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc êm dịu
chi phối tâm của mình, sống như thế nào cho thân hành, khẩu
hành, ý hành, mạng sống được thanh tịnh để trợ duyên
cho hành giả sống đời sống thanh tịnh trong sáng. Tiếp đến,
vị Tỳ kheo tiết độ trong ăn uống, “như ly giác sát thọ
thực, không phải để vui dùa, không phải để đam mê, không
phải để trang sức, mà chỉ cốt để duy trì Phạm hạnh,
diệt trừ các cảm thọ cũ, không cho khởi lên các cảm thọ
mới và chúng ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn”.
Bước
thêm bước nữa, vị Tỳ kheo chú tâm tỉnh giác. Ban ngày,
ban đêm trừ canh giữa dành để nghỉ, vị hành giả đi hành
Thiền hay ngồi Thiền, gột sạch tâm khỏi các chướng ngại
pháp. Ngoài ra, đi, đứng, nằm, ngồi, phàm có hành động
gì, vị hành giả chánh niệm tỉnh giác, biết rõ mọi việc
mình đang làm. Như vậy, chính hành động này tác thành giới
học, giúp hành giả chế ngự các căn, con người được tự
tại, để bước qua giai đoạn thứ hai tức là Định học.
Mục
đích của Định học trước hết là loại trừ năm triền
cái, làm ô uế tâm, làm chướng ngại trí tuệ, tức là tham
dục, sân hận, hôn trầm, thụy miên, trạo hối và nghi. Loại
trừ năm triền cái được ví như món nợ trả được nợ
cũ; bị đau ốm được lành bệnh, bị tù tội được thoát
ly; bị nô lệ được giải thoát, đi qua sa mạc nguy hiểm
đến được đầu làng an ổn. Người hành giả dùng năm Thiền
chi, dùng tầm đối trị vởi hôn trầm thụy miên, dùng tứ
đối trị với nghi, dùng hỷ đối trị với sân, dùng lạc
đối trị với trạo hối, dùng nhất tâm đối trị với tham
dục.
Không
những vị hành giả hưởng được an lạc hạnh phúc trong
khi loại trừ năm triền cái, vị hành giả còn hưởng được
hỷ lạc do ly dục sanh của sơ Thiền, hưởng được hỷ lạc
do định sanh của Thiền thứ hai, hưởng được xả niệm
lạc trí của Thiền thứ ba, và hưởng được xả niệm thanh
tịnh của Thiền thứ tư. Các loại hỷ lạc của bốn Thiền
này thấm nhuần tẩm ướt thân này không một chỗ nào trên
toàn thân không do hỷ lạc ấy thấm nhuần. Đức Phật dùng
bốn ví dụ để diễn tả hỷ lạc do Thiền sanh đã thấm
nhuần toàn thân như thế nào. Như một cục bột tắm được
thấm nhuần tẩm ướt với nước, trào trộn với nước nhưng
không chảy thành giọt. Như một hồ nước không có lỗ nước
chảy ra, nước từ trong phun ra, trời lại đổ mưa tầm tã,
như vậy toàn bộ được nước của hồ nước ấy thấm nhuần.
Hay ví dụ có hoa sen xanh, sen đỏ, sen trắng, sanh từ đáy
hồ, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước. Các hoa
sen ấy không có một chỗ nào trên toàn thân không bị nước
hồ ầy thấm nhuần. Ví như một người ngồi, lấy tấm vải
trắng rộng trùm đầu và tay chân, không để cho một chỗ
nào trên toàn thân không bị tấm vải trắng ấy bao trùm.
Chúng ta nhận thấy nói đến Thiền định là nói đến thần
thông phép lạ, trong khi Thiền được Thế Tôn giải thích
như một trạng thái hỷ lạc thấm nhuần toàn thân, khiến
con người được hiện tại lạc trú, rồi từ nơi hiện tại
lạc trú mới đi đến nhất tâm Thiền định.
“Với
tâm định tĩnh thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng vững chắc bình tĩnh
như vậy, vị hành giả hướng đến Túc mạng minh, trí tuệ
về quá khứ; Thiên nhãn minh, trí tuệ về tương lai; và lậu
tận minh, trí tuệ về hiện tại. Vị ấy nhớ đến một
đời, nhiều đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều
thành kiếp, nhiều hoại kiếp, nhiều hoại và thành kiếp.
Vị ấy nhớ, tại chỗ kia, “ta có tên như thế này, dòng
họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như
thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại
chỗ nọ, ta được sanh ra tại đây”.
Như
vậy, vị hành giả nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng
với các nét đại cương và các chi tiết.
“Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không phiền não, nhu
nhuyến dễ sử dụng, vững chắc bình tĩnh như vậy, vị hành
giả dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử các chúng
sinh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân thấy sự
sống và sự chết của chúng sinh. Vị ấy biết rõ rằng chúng
sinh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô
xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của
họ.
“Những
chúng sinh làm những ác hạnh về thân, lời, ý, phỉ báng
các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến
những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sinh
nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ
báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh
kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh vào thiện thú, cõi trời, trên đời này.
“Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc bình
tĩnh như vậy, vị hành giả dẫn tâm, hướng tâm đến lậu
tận trí. Vị ấy biết như thật “đây là Khổ”, biết
như thật “đây là Nguyên nhân của Khổ”, biết như thật
“đây là Khổ diệt”, biết như thật “đây là con đường
đưa đến Khổ diệt”, biết như thật “đây là những lậu
hoặc”, biết như thật “đây là nguyên nhân các lậu hoặc”,
biết như thật “đây là sự đoạn trừ các lậu hoặc”,
biết như thật “đây là con đường đưa đến sự diệt
trừ các lậu hoặc”.
“Nhờ
hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy
thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô
minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, vị
ấy khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”, vị
ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những
việc cần làm đã làm. Sau đời hiện tại không có đời
sống nào khác nữa”.
Như
vậy, nhờ chín pháp thuộc “Giới học”, vị hành giả xây
dựng một nền tảng đạo đức vững chắc trong sáng, nhờ
loại trừ năm triền cái, thực hiện năm Thiền chi, vị ấy
chứng đắc bốn Thiền thuộc “Định học”, nhờ phát triển
Túc mạng trí, Thiên nhãn trí, Lậu tận trí thuộc “Tuệ
học”. Vị hành giả cuối cùng loại bỏ sanh y, diệt tận
các lậu hoặc, đạt được giải thoát Niết Bàn.
Khi
các vị ấy đạt được mục tiêu giải thoát các vị ấy
được xem là được tự tại, được cứu cánh trong Thánh
giới; được xem là được tự tại, được cứu cánh trong
Thánh định; được xem là được tự tại, được cứu cánh
trong Thánh tuệ; được xem là được tự tại, được cứu
cánh trong Thánh giải thoát.
Để
kết luận, chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét như sau:
1. Tu hành có thể xem là đồng nghĩa với giáo dục. Vì tu hành có mục đích loại trừ các ác bất thiện pháp và thay thế với các thiện pháp, như tu Thiền là loại trừ năm triền cái: tham, sân, hôn trầm, thụy miên, trạo hối, nghi, và thay thế bằng năm Thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm.
2. Như vậy kho tàng kinh điển đạo Phật là cả một kho tàng quý báu, giáo dục con người loại trừ đau khổ, sống dược an vui.
3. Mục đích của đạo Phật không những loại trừ đau khổ hiện tại mà còn loại trừ sanh tử luân hồi, chấm dứt sanh y (upadhi) không còn trở lui một đời sống khác nữa.
4. Đối tượng của pháp môn Giới, Định, Tuệ là các hàng đệ tử xuất gia của đức Phật, các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, các vị Sa-di, Sa-di ni và gần chúng ta hơn là các Tăng, Ni sinh Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, Trường Cơ bản Phật học. Những vị ấy hiện đang được tu tập, được huấn luyện theo pháp môn Giới, Định, Tuệ.
5. Đánh giá đúng mức sự áp dụng pháp môn Giới, Định, Tuệ trong nếp sống hiện tại của Tăng, Ni sinh là đánh giá được giá trị giáo dục của đạo Phật.