- Lời Nói Đầu
- Đức Phật Của Chúng Ta
- Vai Trò Của Người Có Trí, Của Trí Tuệ Trong Đạo Phật
- Giới, Định, Tuệ Con Đường Giáo Dục Chấm Dứt Đau Khổ Sanh Tử Luân Hồi
- Chánh Pháp Và Hạnhphúc
- Hội Chúng Tỳ Kheo Trong Thời Đức Phật Còn Tại Thế
- Kinh " Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra "
- Kinh Ví Dụ Con Rắn
- Vấn Đề Tái Sanh
- Ý Nghĩa Phật Thành Đạo
- Người Việt Nam Thương Mẹ, Kính Cha Qua Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam
- Sống Theo Lý Tưởng Bồ Tát
- Đạo Phật Và Nếp Sống Thiên Nhiên
- Năm Giới, Nếp Sống Lành Mạnh, An Lạc, Hạnh Phúc.
- Ý Đẹp Với Mùa Xuân
- Một Nền Giáo Dục Toàn Diện
- Kinh Dịch Và Đại Học
- Chùa Việt Nam Và Mối Liên Hệ Với Nền Văn Hoá Dân Tộc
- Xuân Về Với Những Lời Phật Dạy
Kinh
này được đề cập trong kinh Trung Bộ III số 118, với chữ
Pàli là “Anàpànasati”, với chữ Hán là “Nhập tức Xuất
tức niệm”, với chữ Việt là “Niệm Hơi thở vô Hơi thở
ra”. Chúng Tỳ kheo sống trong thời đức Phật tại thế đã
hành trì pháp môn này và chứng được Thánh quả.
Đặc
biệt kinh này diễn tả rất tỉ ưủ và khúc chiết tiến
trình giải thoát qua bốn giai đoạn tuần tự sau đây:
1.
Niệm hơi thở vô hơi thở ra được tu tập, được làm cho
sung mãn đưa đến quả lớn, công đức lớn.
2.
Niệm hơi thở vô hơi thở ra được tu tập, được làm cho
sung mãn khiến cho Bốn niệm xứ được viên mãn.
3.
Bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn khiến
cho Bảy giác chi được sung mãn.
4.
Bảy giác chi được tu tập, được làm cho sung mãn khiến
cho Minh giải thoát được sung mãn.
Rồi
đức Phật giải thích rõ ràng bốn giai đoạn này:
1.
Như thế nào là Niệm Hơi thở vô Hơi thở ra? Vị Tỳ kheo
đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà
trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng trú niệm trước mặt.
Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra.
Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô dài”. Thở vô
ngắn, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô ngắn”. Thở ra ngắn,
vị ấy tuệ tri: “Tôi thở ra ngắn”. Cảm giác toàn thân,
tôi sẽ thở vô, vị ấy tập “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ
thở ra”, vị ấy tập “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở
vô”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra”,
vị ấy tập. “Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô”, vị
ấy tập. “Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra”, vị ấy
tập. “Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập.
“Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Cảm
giác tâm hành, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác
tâm hành, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “An tịnh tâm hành,
tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “An tịnh tâm hành, tôi
sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Cảm giác về tâm, tôi sẽ
thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở
ra”, vị ấy tập. “Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô”,
vị ấy tập. “Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra”, vị ấy
tập. “Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập.
“Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Với
tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Với tâm
giải thoát, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Quán vô thường,
tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán vô thường, tôi sẽ
thở ra”, vị ấy tập. “Quán ly tham, tôi sẽ thở vô”,
vị ấy tập. “Quán ly tham, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.
“Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán
đoạn diệt, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Quán từ bỏ,
tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán từ bỏ, tôi sẽ
thở ra”, vị ấy tập. Niệm hơi thở vô, hơi thở ra, tu
tập như vậy, làm cho sung mãn như vậy, được quả lớn,
được công đức lớn.
2.
Và như thế nào, niệm hơi thở vô hơi thở ra được tu tập?
Như thế nào làm cho sung mãn khiến Bốn niệm xứ được viên
mãn? Khi nào này các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo thở vô dài, vị
ấy tuệ tri: “Tôi thở vô dài”. Thở ra dài, vị ấy tuệ
tri: “Tôi thở ra dài”. Hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri:
“Tôi thở vô ngắn”. Hay thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri:
“Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở
vô”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô”,
vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra”, vị
ấy tập. Trong khi tùy quán thân trên thân, này các Tỳ kheo,
Tỳ kheo trú nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm để chế ngự
tham ưu ở đời. Này các Tỳ kheo, đối với các thân, Ta nói
đây là một, tức là hơi thở vô hơi thở ra. Do vậy này
các Tỳ kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, vị Tỳ kheo
trú, nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm để chế ngự tham ưu
ở đời. Khi nào, này các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo nghĩ: “Cảm
giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác
hỷ thọ, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Cảm giác lạc
thọ, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác lạc thọ,
tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Cảm giác tâm hành, tôi
sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác tâm hành, tôi sẽ
thở ra”, vị ấy tập. “An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở
vô”, vị ấy tập. “An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra”,
vị ấy tập. Trong khi tùy quán thọ trên các cảm thọ, này
các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo trú nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời.
Này
các Tỳ kheo, đối với các cảm thọ, Ta nói đây là một,
tức là thở vô thở ra. Do vậy, này các Tỳ kheo, trong khi
tùy quán thọ trên các cảm thọ, này các Tỳ kheo, vị Tỳ
kheo trú nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham
ưu ở đời. Khi nào, này các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo nghĩ: “Cảm
giác về tâm, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác
về tâm, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Với tâm hân hoan,
tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Với tâm hân hoan, tôi
sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Với tâm định tĩnh, tôi sẽ
thở vô”, vị ấy tập. “Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở
ra”, vị ấy tập. “Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô”,
vị ấy tập. “Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra”, vị
ấy tập. Trong khi tùy quán tâm trên tâm, này các Tỳ kheo,
vị ta an trú nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự
tham ưu ở đời. Này các Tỳ kheo, sự tu tập niệm hơi thở
vô hơi thờ ra không thể đối với kẻ thất niệm, không
có tỉnh giác. Do vậy này các Tỳ kheo, trong khi tùy quán tâm
trên tâm, Tỳ kheo trú nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để
chế ngự tham ưu ở đời. Khi nào, này các Tỳ kheo, vị Tỳ
kheo trú nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham
ưu ở đời? Khi mà Tỳ kheo nghĩ: “Quán vô thường, tôi sẽ
thở vô”, vị ấy tập. “Quán vô thường, tôi sẽ thở
ra”, vị ấy tập. “Quán ly tham, tôi sẽ thở vô”, vị
ấy tập. “Quán ly tham, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Quán
đoạn diệt, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán đoạn
diệt, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Quán từ bỏ, tôi
sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở
ra”, vị ấy tập. Trong khi tùy quán pháp trên các pháp, vị
Tỳ kheo trú nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự
tham ưu ở đời. Vị ấy do đoạn trừ tham ưu, sau khi thấy
với trí tuệ, khéo nhìn (sự vật với niệm xả ly). Do vậy
này các Tỳ kheo, trong khi tùy quán pháp trên các pháp, vị
Tỳ kheo trú nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự
tham ưu ở đời. Niệm hơi thở vô, hơi thở ra như vậy, được
tu tập như vậy, được làm cho sung mãn, như vậy, khiến cho
Bốn niệm xứ được viên mãn.
3.
Và Bốn niệm xứ này, các Tỳ kheo tu tập như thế nào, làm
cho sung mãn như thế nào, khiến cho Bảy giác chi được viên
mãn? Này các Tỳ kheo, trong khi tùy quánthân trên thân, Tỳ
kheo trú nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham
ưu ở đời, trong khi ấy niệm không hôn mê của vị ấy được
an trú. Trong khi niệm không hôn mê của ấy cũng được an
trú, này các Tỳ kheo, trong khi ấy niệm giác chi được bắt
đầu khởi lên với Tỳ kheo, trong khi ấy, Tỳ kheo tu tập
niệm giác chi. Trong khi ấy niệm giác chi được vị Tỳ kheo
tu tập đi đến viên mãn. Này các Tỳ kheo, trong khi trú
với chánh niệm như vậy, Tỳ kheo với trí tuệ suy tư, tư
duy, thẩm sát pháp ấy. Này các Tỳ kheo, trong khi trú với
chánh niệm như vậy, Tỳ kheo với trí tuệ suy tư, tư duy,
thẩm sát pháp ấy, trong khi ấy trạch pháp giác chi được
bắt đầu khởi lên, với Tỳ kheo. Trong khi ấy, Tỳ kheo tu
tập trạch pháp giác chi. Trong khi ấy trạch pháp giác chi được
Tỳ kheo tu tập đi đến viên mãn. Này các Tỳ kheo, trong khi
Tỳ kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, sự
tinh tấn không thụ động bắt đầu khởi lên với vị Tỳ
kheo. Này các Tỳ kheo, trong khi vị Tỳ kheo với trí tuệ, suy
tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, trong khi ấy sự tinh tấn không
thụ động bắt đầu khởi lên với vị Tỳ kheo ấy. Trong
khi ấy tinh tấn giác chi được bắt đầu khởi lên nơi Tỳ
kheo. Trong khi ấy Tỳ kheo tu tập tinh tấn giác chi. Trong khi
ấy tinh tấn giác chi được vị Tỳ kheo tu tập đi đến viên
mãn. Hỷ không liên hệ đến vật chất được khởi lên nơi
vị Tỳ kheo tinh tấn, tinh cần. Này các Tỳ kheo, trong khi hỷ
không liên hệ đến vật chất khởi lên nơi Tỳ kheo tinh tấn,
tinh cần, trong khi ấy hỷ giác chi bắt đầu khởi lên nơi
Tỳ kheo. Trong khi ấy hỷ giác chi được vị Tỳ kheo tu tập.
Trong khi ấy hỷ giác chi được Tỳ kheo tu tập đi đến viên
mãn. Thân của vị ấy được tâm hoan hỷ trở thành khinh
an, tâm cũng được khinh an. Này các Tỳ kheo, trong khi Tỳ kheo
với ý hoan hỷ được thân khinh an, được tâm cũng khinh an,
trong khi ấy, khinh an giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ kheo.
Trong khi ấy khinh an giác chi được Tỳ kheo tu tập. Trong khi
ấy khinh an giác chi được Tỳ kheo làm cho đi đến sung mãn.
Một vị có thân khinh an, an lạc, tâm của vị ấy được
định tĩnh. Này các Tỳ kheo, trong khi Tỳ kheo có thân khinh
an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh, trong khi ấy định
giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ kheo. Trong khi ấy định
giác chi được Tỳ kheo tu tập. Trong khi ấy định giác chi
được Tỳ kheo làm cho đi đến sung mãn. Vị ấy với tâm
định tĩnh như vậy, khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả
ly. Này các Tỳ kheo, trong khi Tỳ kheo với tâm định tĩnh như
vậy, khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly, trong khi ấy
xả giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ kheo. Trong khi ấy
xả giác chi được vị Tỳ kheo tu tập. Trong khi ấy xả giác
chi được Tỳ kheo làm cho đi đến sung mãn.
Này
các Tỳ kheo, trong khi quán thọ trên các cảm thọ ... (như
trên) ... quán tâm trên tâm ... (như trên)... quán pháp trên
các pháp. Tỳ kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
với mục đích điều phục tham ưu ở đời, trong khi ấy niệm
của vị ấy được an trú, không có hôn mê. Này các Tỳ kheo,
trong khi niệm của Tỳ kheo được an trú không có hôn mê,
niệm giác chi trong khi ấy được bắt đầu khởi lên nơi
Tỳ kheo, niệm giác chi trong khi ấy được Tỳ kheo tu tập.
Niệm giác chi trong khi ấy, được vị Tỳ kheo làm cho đi đến
sung mãn. Vị ấy an trú với chánh niệm như vậy, suy tư, tư
duy, thẩm sát pháp ấy với trí tuệ Này các Tỳ kheo, trong
khi an trú với chánh niệm như vậy, vị ấy suy tư, tư duy,
thẩm sát pháp ấy với trí tuệ Trạch pháp giác chi trong khi
ấy được bắt đầu khởi lên nơi Tỳ kheo tu tập. Trạch
pháp giác chi trong khi ấy đi đến sung mãn, tinh tấn không
thụ động bắt đầu khởi lên nơi vị ấy. Này các Tỳ kheo,
trong khi vị Tỳ kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát
pháp ấy với trí tuệ, và tinh tấn không thụ động bắt
đầu khởi lên nơi vị ấy, tinh tấn giác chi trong khi ấy
bắt đầu khởi lên nơi vị Tỳ kheo. Tinh tấn giác chi được
vị Tỳ kheo tu tập. Tinh tấn giác chi được Tỳ kheo làm cho
đi đến sung mãn. Đối với vị ấy tinh cần, tinh tấn, hỷ
không liên hệ đến vật chất khởi lên. Này các Tỳ kheo,
trong khi Tỳ kheo tinh cần, tinh tấn và hỷ không liên hệ đến
vật chất khởi lên, hỷ giác chi trong khi ấy bắt đầu được
khởi lên nơi Tỳ kheo. Hỷ giác chi trong khi ấy được Tỳ
kheo làm cho đi đến sung mãn. Thân của vị ấy được tâm
hoan hỷ trở thành khinh an, được tâm cũng khinh an, trong khi
ấy khinh an giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ kheo. Trong
khi ấy khinh an giác chi được Tỳ kheo tu tập. Trong khi ấy
khinh an giác chi được vị Tỳ kheo làm cho đến sung mãn. Một
vị có tâm khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh.
Này các Tỳ kheo, trong khi vị có thân khinh an, an lạc, tâm
vị ấy được định tĩnh, trong khi ấy định giác chi bắt
đầu khởi lên nơi Tỳ kheo. Trong khi ấy định giác chi được
Tỳ kheo tu tập. Trong khi ấy định giác chi được Tỳ kheo
làm cho đi đến sung mãn. Vị ấy với tâm định tĩnh như
vậy khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly, trong khi ấy
xả giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ kheo. Trong khi ấy
xả giác chi được vị Tỳ kheo tu tập. Trong khi ấy xả giác
chi được Tỳ kheo làm cho đi đến sung mãn. Này các Tỳ kheo,
Bốn niệm xứ được tu tập như vậy, khiến cho Bảy giác
chi được sung mãn.