Trung Đạo Của Đức Phật

25 Tháng Tư 201300:00(Xem: 15740)

TRUNG ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT
và Tâm Lý Trị Liệu của Phương Tây
(The Buddha’s Middle Way and Western Psychotherapy)
Nguyên tác: Dr Shanti Tayal
Việt dịch: Trần Như Mai

buddhism_and_science_0Mục đích của tâm lý trị liệu là để chữa trị, thoa dịu và làm vơi bớt nỗi khổ đau của những người đang bị dày vò bởi nhiều vấn đề nan giải trong cuộc sống, hay những người được chẩn đoán là đang mắc bệnh tâm thần. Về điểm này, một số câu hỏi sau đây vẫn chưa có sự đồng thuận: tâm lý trị liệu là gì, bệnh tâm thần là gì, kỹ thuật chữa trị ra sao, mục đích để làm gì, làm thế nào để chữa lành bệnh, hoặc phương pháp này hữu hiệu ra sao. Nói cách khác, bằng cách đặt những câu hỏi ấy, chúng ta đòi hỏi sự xác nhận vị trí của phương pháp này trong hệ thống tâm lý trị liệu của phương Tây.

Duyệt qua các định nghĩa về tâm lý trị liệu ta sẽ thấy lộ rõ tính chất mơ hồ trong những nhiệm vụ mà ngành tâm lý trị liệu thường phải thực hiện. Tất cả các định nghĩa hình như chỉ đồng nhất được một điểm, đó là, tâm lý trị liệu tìm cách đưa ra môt số giải pháp hay quyết định nào đó về những vấn đề xáo trộn tình cảm hay rối loạn nhân cách. Có rất nhiều ý kiến khác biệt về phương pháp, tiến trình thực hiện, mục tiêu và kết quả. Theo Whitaker và Malone (1953), tâm lý trị liệu là:

 “ Một quá trình quan hệ giữa hai cá nhân, mà trong đó một người sẽ là tác nhân thúc đẩy toàn bộ cơ cấu thích nghi của người kia bằng một phương cách nào đó để giúp cho người kia nâng cao mức độ thích nghi với cuộc sống ”.

Định nghĩa của Wolberg (1954) mang tính mô tả nhiều hơn:

 “ Tâm lý trị liệu là một hình thức chữa trị các chứng bệnh mang bản chất tình cảm, trong đó một chuyên gia tâm lý sẽ cố ý thiết lập quan hệ chuyên môn với bệnh nhân nhằm mục đích loại bỏ, làm thay đổi hay làm suy giảm những triệu chứng hiện có, hoặc điều hòa những kiểu ứng xử rối loạn, và khuyến khích sự nẩy sinh và phát triển nhân cách tích cực ”.

Những định nghĩa kiểu này mặc dù mang tính chất toàn diện và chuyên môn, vẫn không giúp chúng ta trả lời những câu hỏi nêu trên. Chúng đặt thêm nhiều vấn đề khác thay vì đưa ra lời giải đáp. Định nghĩa của Wolberg nói rằng nhà chuyên môn tâm lý thiết lập một mối quan hệ với người mắc bệnh tâm thần, nhưng lại hoàn toàn tránh né những câu hỏi như, phương pháp chữa trị là gì, mối quan hệ giữa nhà tâm lý và bệnh nhân là kiểu quan hệ như thế nào, tại sao mối quan hệ này lại có thể loại bỏ, làm thay đổi hay làm suy giảm những triệu chứng đau đớn. Năm 1935, sau khi đặt lại cùng những câu hỏi nêu trên về tâm lý trị liệu, Geraldine Coster kết luận, “ Chúng ta kinh ngạc khi thấy rằng hình như không ai biết tại sao phân tích tâm lý lại mang tính chất trị liệu”. Và sau 35 năm - vào năm 1969 - vị bác sĩ chuyên khoa tâm thần Richard Chessick than thở về tình trạng đáng buồn của ngành tâm lý trị liệu như sau :

“ Tuy nhiên, khi kinh nghiệm lâm sàng được tích lũy ngày càng nhiều và kiến thức nhận được qua sách báo ngày càng sâu rộng thì nhà tâm lý trị liệu có đầu óc suy nghĩ bắt buộc phải đi đến kết luận đáng tiếc là: nói một cách đơn giản là không có sự đồng thuận nào về một số vấn đề then chốt cả”.

Ông còn nói thêm:” Chỉ vì trong tâm lý trị liêu, trường hợp chữa trị theo kiểu mò mẫm đã xảy ra nhiều hơn con số mà các nhà chuyên môn đã thừa nhận”. Toàn bộ ngành tâm lý trị liệu đầy rẫy cả chủ nghĩa truyền thống, giáo điều và những qui định cứng nhắc về mặt chuyên môn kỹ thuật.

Đề tài về kỹ thuật và phương pháp của ngành tâm lý trị liệu quả thực là một khu rừng hoang, nơi mà các loại cây cỏ dược liệu trị bệnh mọc sát cánh với loài cỏ dại vô bổ, đôi khi còn độc hại nữa. Người ta sẽ cảm thấy lúng túng khó xử trước một loạt những phương pháp chữa trị gây ấn tượng mạnh như – phương pháp của Freud, phương pháp Freud-kiểu-mới, phương pháp của Jung, của Alder, cho đến phương pháp hiện tại nhằm huấn luyện tính nhạy cảm, phương pháp thành lập các nhóm gặp gỡ, và các cuộc chạy việt dã trần truồng. Những hệ thống chữa trị này đã phát triển một thứ ngôn từ riêng biệt của họ mang đặc tính mập mờ, khuôn sáo, và chủ trương tối nghĩa. Hình như các nhà tâm lý học trị liệu cố ý nói bằng thứ ngôn ngữ thật khó hiểu thay vì dùng thứ ngôn ngữ để giao tiếp.

Phần nhiều những gì đã được thực hiện trong ngành tâm lý trị liệu là một sinh hoạt cằn cỗi, nhằm mục đích tạo ra một bầu không khí khả kính đầy tính khoa học đối với những nhiệm vụ trước mắt. Những điều phiền toái của tinh thần khoa học ấy có khuynh hướng phô bày hình thức bề ngoài để cho mọi người thấy rằng tâm lý trị liệu hiện đại có những mục đích rất rõ ràng và dứt khoát. Nhưng sự thật thì trái lại, chúng rời rạc, thô sơ và nông cạn, và đặt nền tảng trên một khái niệm hổn độn về mục đích của đời người.

Mặc dù tâm lý trị liệu phương Tây rõ ràng là có tính phổ biến và thường đưa ra những lời tuyên bố cường điệu, ở phương Tây, người ta cũng chú ý đến thái độ của quần chúng ngày càng tỏ ra bất mãn và thất vọng trước những tiên đoán và kết quả của phương pháp này.

Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rất nhiều người phương Tây đang quay về với triết lý, tôn giáo và phương pháp thưc hành thiền định của phương Đông. Họ tìm thấy một điều gì đó thật hùng hồn, đầy tính thuyết phục, một điều gì thật xác đáng trong thông điệp của Đức Phật. Họ tìm thấy trong Phật giáo một con đường giải thoát đích thực khỏi những khổ đau hệ lụy của đời sống này. Đức Phật đã thấy rõ việc chữa trị nỗi đau khổ của chúng sanh theo một phương pháp tâm lý độc đáo, bằng cách thông hiểu tinh thần, nội tâm và ý chí của con người. Ngài cũng đã chỉ rõ con đường diệt khổ. Con đường này, phương pháp này, kỹ thuật này được gọi là Trung Đạo. Ngài đã chỉ rõ con đường mang lại lợi lạc cho đa số chúng sanh, mang lại hạnh phúc cho đa số chúng sanh, xuất phát từ lòng thương tưởng đối với thế gian này.

Trong bài thuyết pháp đầu tiên, Đức Phật đã mô tả Trung Đạo như sau:

Này các tỷ kheo, có hai cực đoan mà hàng xuất gia cần phải tránh. Thế nào là hai ? Một mặt là tham đắm dục lạc, một lối sống thấp hèn và vô ích, không xứng đáng phẩm hạnh của bậc thánh, đó là con đường của thế gian; mặc khác là dấn thân theo đuổi lối tu khổ hạnh, như vậy là đau đớn và vô ích, không xứng đáng phẩm hạnh của bậc thánh.

Bằng cách từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai đã chứng ngộ Trung Đạo, là con đường đem lạị viễn kiến, đem lại tri kiến, đem lại an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn.”

Trung Đạo là nguyên lý căn bản nhất của Phật giáo. Đây là con đường có thể dẫn dắt con người đến mục đích tối hậu của cuộc sống – là Niết Bàn. Tri kiến sáng suốt của Đức Phật về việc chẩn đoán và chữa trị những căn bệnh của thế gian có thể thấy rõ trong Bốn Chân Lý Cao Thượng (Tứ Diệu Đế ):

 - Chân lý về Khổ

 - Chân lý về Nguồn Gốc của Khổ.

 - Chân lý về sự Diệt Khổ.

 - Chân lý về Con Đường đưa đến Diệt Khổ

Bốn Chân Lý Cao Thượng của Phật giáo là phương tiện nhờ đó con người nhận thức chân lý thứ nhất là Khổ đế ( Duhkha-satya), hiểu rõ chân lý thứ hai là Tập đế ( Samudaya-satya), thực hành chân lý thứ ba là Diệt đế ( Nirodha-satya), và thành tưụ chân lý thứ tư là Đạo đế, để chứng đắc Niết Bàn ( Nirvana). Vì vậy Bốn Chân Lý Cao Thượng được gọi là Đạo, hay Thánh Đạo: tiếng Pali là Magga hay Ariya-magga, và tiếng Sanscrit gọi là Mărga hay Ărya-mărga (Gard, 1961).

Chân lý Cao Thượng về Con Đường đưa đến Khổ Diệt chính là Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo này, đem áp dụng vào điều kiện sống đương đại, là một toa thuốc chắc chắn đem lại một cuộc sống khéo thích nghi và hạnh phúc. Những lời giáo huấn của Bát Chánh Đạo lập thành ba nền tảng của một cuộc sống lành mạnh về tinh thần, không những cho Phật tử, mà cho tất cả mọi người.

1. Tác phong đạo đức (GIỚI ):

a. Chánh ngữ

b. Chánh nghiệp

c. Chánh mạng

2. Kỷ cương tinh thần (ĐỊNH):

a. Chánh tinh tấn

b. Chánh niệm : thân - thọ - tâm -pháp

c. Chánh định (dhyana): ly dục - ly hỷ - trú xả - diệt thọ

( xả niệm thanh tịnh )

3. Phát triển trí tuệ (TUỆ ):

a. Chánh tri kiến

b. Chánh tư duy .

Con đường này là một lối sống mà mỗi người cần tuân theo, thực hành và phát huy. Tôi xin phép được nói rằng đây là vấn đề kỷ luật tự giác, là một phương pháp tự chữa trị về thân, khẩu, ý. Đây là một phương thức để tự trau dồi bản thân. Đây là toa thuốc để phòng ngừa những căn bệnh mãn tính của cuộc sống. Bạn có thể có đức tin hoặc không. Bạn có thể thích hoặc không thích cầu nguyện. Không cần có thờ phụng, không cần có nghi lễ.

Con đường này là một lối sống - một quan điểm hành động. Nó không đòi hỏi chúng ta từ bỏ thế giới này. Nó chỉ đòi hỏi chúng ta thay đổi cách tiếp cận và có một thái độ khác đối với cuộc sống và môi trường. Như vậy, qua việc rèn luyện kỷ luật tự giác chặt chẽ, đây là con đường tự nhận thức và phát triển bản thân.

Trị liệu pháp “chỉ thành công bao lâu mà nó giúp bệnh nhân giảm bớt lòng hoài nghi về sức khỏe thể chất của họ, giúp họ loại bỏ cảm giác lo ngại bất an giữa họ với người khác, và nuôi dưỡng niềm tin của họ vào triết lý tôn giáo mang tính chất thoa dịu tâm hồn” ( Masserman. 1971).

Source : Buddhism and Science
Book edited by Dr Buddhadasa P. Kirthisinghe

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
27 Tháng Mười Một 2015(Xem: 8414)
Pháp thân Phật là tánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thân là quang minh và Hóa thân là thân vật chất; hai thân này được gọi là Sắc thân. Sắc thân được ứng hiện từ Pháp thân và không lìa Pháp thân. Một trong những tính cách của sắc thân là an lạc:
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6818)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa. Ngài Long Thọ đã trao truyền giáo huấn thậm thâm về tri kiến tánh Không của dòng truyền thừa từ Đức Văn Thù Sư Lợi, trong khi ngài Vô Trước thì trao truyền giáo huấn về pháp hành bồ tát sâu xa của dòng truyền thừa từ Đức Di Lặc.
17 Tháng Mười Một 2015(Xem: 5475)
Pháp thân Phật là tánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thân là quang minh và Hóa thân là thân vật chất; hai thân này được gọi là Sắc thân. Sắc thân được ứng hiện từ Pháp thân và không lìa Pháp thân. Một trong những tính cách của sắc thân là an lạc:
16 Tháng Bảy 2015(Xem: 4957)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thể và xúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề, kể về sự nhiệt thành khát khao cầu ngộ nhập tánh Không của một Bồ-tát. Sùng mộ, tin tưởng và nhiệt thành cầu thể nhập tánh Không đến độ thường hay khóc, do đó có tên Thường Đề.
10 Tháng Bảy 2015(Xem: 5846)
Mushin là một trong những nhà sư rạng rỡ hơn ai hết, trong tu viện. Sự an lạc và tính tình vui vẻ của ông, đã gây nguồn cảm hứng cho những ai tiếp xúc với ông.
01 Tháng Bảy 2015(Xem: 6422)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
01 Tháng Bảy 2015(Xem: 5269)
Nếu một người chưa có dịp nghe, đọc (Văn), chưa tư duy (Tư) chưa thực hành (Tu) về tánh Không thì rất dễ xem tánh Không là một cái gì rất tiêu cực, vì tánh Không với người ấy là không có cái gì cả. Từ đó mà không tin nhân quả, định luật để con người dựa vào đó mà tiến bộ, tiến hóa.
24 Tháng Sáu 2015(Xem: 12086)
“Mặc dù trải qua 100 năm từ khi có sự bắt đầu những nghiên cứu khoa học về đạo Phật ở Châu Âu, tuy vậy, chúng ta vẫn còn đang mơ hồ về nền tảng giáo lý của tôn giáo nầy và tính triết học của nó. Chắc chắn không có một tôn giáo nào khác đã chứng tỏ một cách rất kiên định để làm sáng tỏ những trình bày có tính hệ thống của mình.”
12 Tháng Sáu 2015(Xem: 4802)
Như kinh Duy-ma-cật nói, “Từ gốc vô trụ (tánh Không), lập tất cả pháp”. Trung luận (phẩm Quán Tứ đế) nói, “Bởi vì có nghĩa Không. Tất cả pháp được thành. Nếu không có nghĩa Không. Tất cả đều chẳng thành”. Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụ là hiện thân của Ngài. Pháp thân Tỳ-lô-giá-na chính là pháp thân của Phật Thích Ca.
25 Tháng Tư 2015(Xem: 11314)
Phản chiếu trên việc một đối tượng duyên sinh như thế nào – sinh khởi phụ thuộc trên nhân và duyên, phụ thuộc trên những bộ phận của nó, và phụ thuộc trên tư tưởng – hổ trợ vô cùng để vượt thắng cảm nhận rằng đối tượng tồn tại trong nó và của chính nó.