Sống với thực tại

13 Tháng Mười Hai 201404:19(Xem: 11626)
SỐNG VỚI THỰC TẠI
Hoàng Tá Thích


Có lẽ con người chẳng có ai không từng trải qua cái tâm trạng mong đợi. Mong đợi nghĩa là mong thời gian qua mau để sớm gặp được điều mình mong muốn. Mong thời gian qua mau thì có tâm trạng nôn nóng, sẽ cảm thấy thời gian chờ đợi đi qua chậm rì, đáng ghét, như một thi sĩ nào đó đã than: “Thuở chờ đợi, ôi thời gian rét mướt”.

Đứa trẻ nào cũng mong chóng lớn để được làm những điều mình thích, để thực hiện ước mơ, để ý kiến của mình được tôn trọng. Bậc cha mẹ nào cũng mong con cái mau lớn để đến trường. Học sinh nào cũng mong chóng xong chương trình trung học để vào bậc đại học, để được gọi là sinh viên. Bậc cha mẹ nào cũng mong con sớm ra trường, thành đạt. Đi làm việc thì mong chóng đến ngày lãnh lương, mong cho những dịp lễ tết để được những khoản tiền thưởng. Nam nữ yêu nhau không bao giờ thoát khỏi hai chữ đợi chờ: khi yêu nhau thì chờ dịp để gặp nhau. Mong cho đêm qua mau, cho trời chóng sáng để đến chỗ hẹn hò. Rồi mong làm đám cưới để được chính thức chung sống với nhau. Bậc cha mẹ thì mong có cháu để bồng ẵm… Thế rồi thời gian trôi qua, nhìn lại con cháu mình lớn lên nhanh quá, lại chắc lưỡi: “Ôi thời gian qua chóng thật…”. Tất cả những mong ước đó là những đợi chờ, đều mong cho thời gian qua mau để sớm đạt được điều mình mong đợi. Đến khi đạt được điều mình muốn, thì lại trách thời gian sao qua nhanh quá. Thậm chí, những người đến phút lâm chung, không được ra đi an lành, mà còn bị những cơn đau hành hạ, thì lại mong… được chóng chết.

Một dòng đời cứ như thế mà tiếp diễn không ngừng, nhưng chắc chắn một điều là chẳng ai không thấy trăm năm đời người quá ngắn ngủi, không đủ dài để hưởng thụ hết cuộc sống.

Con người vốn mâu thuẫn là thế. Ai cũng sợ già, sợ chết, nhưng ai cũng muốn thời gian qua mau để đến được với cái mình mong đợi. Mong đợi một điều gì chưa đến cũng là một trạng thái tham lam của con người. Ngay chỉ chuyện đăng ký mua một món hàng độc đáo mới ra, mà cũng mong mau đến ngày nhận được. Trong thời gian chờ đợi, không những có phần nôn nao, mà chắc chắn không ngừng nghĩ tới, nói tới. Đi đón một người thân ở phi trường, cũng nôn nao mong máy bay mau hạ cánh. Những điều đó cũng đã mất một khoảng thời gian vô ích vì sẽ chẳng muốn làm điều gì khác. Đọc một cuốn truyện, xem một cuốn phim hay, ai cũng muốn chóng biết được hồi kết cuộc, nhưng cũng không muốn chỉ bật đoạn phim cuối, lật những trang sách cuối để biết ngay kết quả, mà chỉ ngồi than trong lòng phim dài quá, cuốn sách dày quá… Đang làm việc này chưa xong nhưng đầu óc đã vội nghĩ đến chuyện khác, không bao giờ sống được trong thực tại cả.

Có những người suốt đời chưa sống một giây phút nào an lạc cũng chỉ vì luôn luôn “hối thúc thời gian”.

Triết lý “ở đây và bây giờ”, hiện thể, thực tại… được đề cao bởi các triết gia hiện đại của thế kỷ 20, vốn đã được thể hiện rõ qua lời Phật dạy trong kinh Nhất dạ hiền giả (kinh số 131, tuyển tập kinh Trung Bộ):

Quá khứ không truy tầm

Tương lai không ước vọng

Quá khứ đã đoạn tận

Tương lai lại chưa đến

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính là đây.

Sống phải là sống với thực tại, với hiện tại, ngay đây; tức là làm sao để thể nhập thực tại. Hạnh phúc chỉ có thể được cảm nhận bằng cái tâm an nhiên, tự tại và hiện tại, chứ không phải với cái tâm tiếc nuối hay mong chờ. Nếu không như vậy thì sự việc đang sống, đang làm việc, đang tu tập… chỉ giống như cái bóng chập chờn.

Tâm dao động thì ăn không ngon, ngủ không yên. Giây phút tĩnh lặng của tuần trà còn khó cảm nhận được thì nói gì đến những thời gian hạnh phúc dài hơn, nói gì đến chuyện tu, chuyện thiền…

Muốn có những giây phút có thể tìm được sự an lạc trong thực tại thì con người phải buông bớt những tham lam, bỏ bớt những vướng bận trong đời sống tục luỵ. Có người vì công việc đa đoan không phút nào an lạc được, nên phải tập toạ thiền để mong tìm được những giây phút yên lắng trong tâm hồn. Tuy vậy, làm sao có thể thiền định được khi trong lòng luôn luôn dấy lên những tạp niệm, và việc ngồi thiền như vậy chẳng những không ích lợi mà còn phí phạm thì giờ vô ích. Họ chỉ nghĩ rằng thiền là phải ngồi một chỗ để thiền định và không bao giờ nghĩ ra rằng thiền không chỉ là toạ thiền mà có thể hành thiền bất cứ lúc nào. Bất cứ thời khác nào ý thức được việc mình đang làm thì cũng là thiền vậy.

Cũng vì không có sự tỉnh thức, không sống trong thực tại, nên con người lại luôn luôn mâu thuẫn với chính bản thân mình và không bao giờ bằng lòng với hiện tại. Chưa ăn thì đói bụng, cũng than phiền, ăn quá no, cơ thể nặng nề mệt mỏi, cũng than phiền. Khi có sức khoẻ thì không lo giữ gìn, đến khi có bệnh thì đau khổ. Nghèo khó phải bươn chải để kiếm sống, chỉ mong có một cuộc sống thư thả. Đến khi làm ra tiền, trở thành giàu có thì cũng vẫn tiếp tục bươn chải làm giàu thêm, cũng không một phút nào được ngơi nghỉ.

Người càng tham lam, càng mong muốn có nhiều thứ, càng không để ý đến thì giờ qua nhanh như gió thổi, nhưng ngược lại, luôn luôn mong cho thời gian qua mau để chóng đạt được kết quả đang mong đợi. Và khi biết quay đầu nhìn lại thì đã muộn mất rồi.

Đọc trong một cuốn sách về Thiền, có câu chuyện:

Một thiền sư đang đàm thoại với một ông Tăng:

– Hoà thượng tu có dụng công chăng?
- Có
- Dụng công thế nào?
- Khi đói thì ăn, khi mệt thì ngủ.
- Tất cả mọi người đều như vậy, có thể nói là đồng chỗ dụng công với thầy chăng?
- Chẳng đồng.
- Tại sao chẳng đồng?
- Họ khi ăn chẳng chịu ăn, lo nghĩ trăm thứ, khi ngủ chẳng chịu ngủ, tính toán ngàn chuyện, do đó mà chẳng đồng.

Người nghèo khổ ăn để mà sống và có thể suốt cả cuộc đời cũng chỉ ăn để mà sống, nhưng cũng có những người giàu có cũng chỉ ăn mà sống để không ngừng tham công tiếc việc cho đến khi không còn sức khoẻ để làm việc nữa, thì lại cũng không đủ sức khoẻ để hưởng trọn vẹn cái thành quả của mình, xem ra cũng không khác gì những người nghèo khổ vậy. (TC. Văn Hóa Phật Giáo 165)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 7300)
Quyển sách rất nhỏ này gồm những trích chọn một số lời dạy riêng về sự thiền tập. Nó gồm những trích đoạn nói riêng về thiền tập được trích từ những cuộc nói chuyện (pháp thoại) dành cho các Phật tử xuất gia và tại gia.
14 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 13180)
Trong ba tháng An Cư năm 2015 tại chùa Huyền Không Sơn Thượng, tôi có hướng dẫn tập thiền cho đại chúng gồm Tăng Ni, chúng điệu cùng một số cư sĩ. Trước mỗi thời toạ thiền như thế, thường là 45 phút, tôi có một pháp thoại ngắn từ 15 đến 20 phút, đôi khi dài hơn một tí, chỉ để giúp cho “hành giả” đi từng bước sơ cơ vào thiền tập một cách vững chắc.
25 Tháng Mười Một 2015(Xem: 9368)
Về Paritta: VTH dẫn một bài kệ (cả Pāḷi và Việt ngữ) có nguồn gốc Tích Lan rồi nhận xét: “Nội dung bài kệ cho thấy khắp thân thể và không gian xung quanh hành giả được bảo hộ bởi Phật, Pháp và Tăng. Do hình thức an vị giống như sự an vị các Tôn trong Mật tông Bắc truyền, một số học giả phương Tây xem đây như một thể loại “tantra” của Phật giáo Theravāda”. Sau đó hỏi tôi: “Người tu theo Pháp này có thực hành đúng theo tinh thần của Tứ Diệu Đế hay không?”
23 Tháng Mười Một 2015(Xem: 9589)
Thưa thầy con thấy trong 37 trợ đạo phẩm có pháp tứ như ý túc, thầy có thể nói cho con về pháp Tứ Như Ý Túc được không ạ? Pháp này hành trì như thế nào ạ?
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 8643)
Thưa thầy, lúc trước thầy có hứa sẽ viết một bài về cách niệm Phật cho tới cận hành định rồi qua thiền minh sát, con và các bạn muốn học Phật chân truyền đang chờ mong (Mà làm sao biết mình niệm đã “tới bến” tức là đạt cận hành định, thưa thầy?)
19 Tháng Mười Một 2015(Xem: 11722)
Chúng tôi nhận được một số câu hỏi liên quan đến việc thực hành thiền. Để trả lời chung, chúng tôi giới thiệu đến quý đạo hữu bài pháp hành của Hoà thượng Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) giảng trong khóa An cư năm 2015 tại chùa Huyền Không Sơn Thượng Thừa Thiên Huế và bài hướng dẫn thiền tập của Thiền sư Thanissaro Bhikkhu (bản dịch của Cư sĩ Nguyên Giác):
17 Tháng Mười Một 2015(Xem: 10161)
“- Cầu nguyện là một nhu cầu tâm linh rất phổ biến của loài người. Vì thế tất cả các tôn giáo như Ki tô giáo, Ấn giáo, Hồi giáo và luôn cả Phật giáo Tịnh độ tông ... đều cầu nguyện và cầu xin. Họ cầu nguyện và cầu xin vì họ tin là có Thần quyền thiêng liêng có quyền năng phò trì, cứu khổ, cứu nạn. Xin thầy vui lòng chỉ dạy cho con Phật tử Theavāda không tin có tha lực lực siêu phàm và như vậy khi họ bị tại ương, tật ách thì họ cầu nguyện ai???
15 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6221)
Tôi xin được trình bày đến quý vị về kinh nghiệm của ba tháng thiền quán Vipassana, cũng như nêu lên một số vấn đề cho những bạn nào thích tìm hiểu, nghiên cứu về thiền quán.Thường thì mỗi khóa tu ba tháng như vậy có khoảng chừng một trăm người tham dự. Tất cả cùng phát nguyện giữ thinh lặng trong vòng ba tháng – chỉ được phép nói chuyện với vị thầy mỗi ngày khoảng 10 – 15 phút trong giờ trình pháp.
14 Tháng Mười Một 2015(Xem: 9553)
Sau ba tháng an cư, tôi có 32 pháp thoại hướng dẫn cho Đại chúng HKST tập thiền với những kiến thức và những dụng công cần thiết về định cũng như về tuệ. Thư Viện Hoa Sen đã liên tiếp đăng được 25 pháp thoại cùng 4 bài trả lời những câu hỏi của độc giả.
29 Tháng Mười 2015(Xem: 15924)
Sự hiện hữu của ta bao gồm thân và tâm. Ta cần quan tâm đến cả hai, dầu thiền là một hoạt động của tâm, chứ không phải thân. Những câu hỏi của người mới bắt đầu hành thiền là: “Tôi phải ngồi như thế nào?” “Làm sao để không bị đau khi ngồi?”