- Lời Giới Thiệu
- Buổi Tối Thứ Nhất Lời Dạy Mở Đầu
- Buổi Tối Thứ Hai Bát Chánh Đạo
- Buổi Sáng Thứ Ba Bài Thực Tập: Cảm Thọ
- Buổi Tối Thứ Tư Sự Chú ý Đơn Thuần
- Buổi Sáng Thứ Năm Bài Thực Tập: Tư Tưởng
- Buổi Tối Thứ Năm Khái Niệm Và Thực Tại
- Buổi Sáng Thứ Sáu Bài Thực Tập: Đối Tượng Của Cảm Giác
- Buổi Tối Thứ Bảy Những Mẩu Chuyện
- Buổi Sáng Thứ Tám Bài Thực Tập: Tác ý
- Buổi Sáng Thứ Chín Bài Thực Tập: Ăn Trong Chánh Niệm
- Buổi Tối Thứ Chín Năm Triền Cái
- Buổi Sáng Thứ Mười Bài Thực Tập: Quán Tâm Thức
- Buổi Tối Thứ Mười Dũng Sĩ
- Buổi Sáng Thứ Mười Một Trò Chơi Định Tâm
- Buổi Tối Thứ Mười Hai Ba Trụ Pháp: Ba-la-mật
- Buổi Tối Thứ Mười Ba Sự Tương Đồng
- Buổi Tối Thứ Mười Bốn Tứ Diệu Đế
- Buổi Tối Thứ Mười Lăm Sự Cương Quyết Nửa Vời
- Buổi Tối Thứ Mười Sáu Nghiệp Báo
- Buổi Tối Thứ Mười Bảy Bài Thực Tập: Hôn Trầm
- Buổi Tối Thứ Mười Tám Sự Trong Sạch Và Hạnh Phúc
- Buổi Tối Thứ Mười Chín Tín Ngưỡng
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Mốt Thập Nhị Nhân Duyên
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Hai Cái Chết Và Lòng Từ Bi
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Lăm Đạo
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Sáu Thất Giác Chi
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Chín Con Đường Của Phật
- Buổi Sáng Thứ Ba Mươi Kết Thúc
BA MƯƠI NGÀY THIỀN QUÁN
Joseph Goldstein
Nguyễn Duy Nhiên Việt dịch
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2008
Buổi tối thứ năm
Trong tác phẩm Republic của Plato có một chuyện ngụ ngôn nổi tiếng về một hang
động. Trong hang động có một hàng người, họ bị xiềng lại với nhau trong tư thế
chỉ có thể nhìn vào vách hang bên trong, không thể nào quay lưng lại. Phía sau
lưng những người bị xiềng là một ngọn lửa, và có những hình người nhỏ xếp chung
quanh như là đang sinh hoạt với nhau. Bóng dáng của những hình người giả này
chiếu lên vách tường phía bên trong hang. Những người bị xiềng chỉ có thể thấy
bóng dáng thay đổi của những hình người giả trên vách hang, nên họ nhận những
bóng hình đó làm một sự thật tuyệt đối.
Cho đến một ngày, có một người trong bọn họ cắt được sợi dây xích và quay lại
được. Anh ta thấy được đống lửa và những hình người giả, và hiểu rằng những
điều anh tin xưa nay đều là giả tưởng. Bóng hình không phải là sự thật mà chỉ
là những phản ảnh trên vách. Và có lẽ sau khi thoát ra khỏi sự xiềng xích, anh
đi ra khỏi hang và bước đi trong tự do dưới ánh sáng mặt trời.
Tình trạng của chúng ta cũng giống như những người bị xiềng trong hang. Bóng
người trên vách tượng trưng cho những khái niệm trong cuộc đời mà ta đang sống.
Chúng ta bị xiềng xích bằng những đam mê, nhìn cuộc đời qua ý niệm, thành kiến
có sẵn trong ta, và nhận những khái niệm này làm thực tại.
Có nhiều khái niệm khắc rất sâu trong tâm ta, đến nỗi ta không còn nghi ngờ gì
nữa. Chẳng hạn như chúng ta ai cũng có khái niệm về nơi chốn, quê hương, quốc
gia. Nhưng thực tế là trên trái đất này không có đường ranh giới tự nhiên nào
phân chia các quốc gia. Những đường ranh giới đều là do tâm ý con người tạo ra.
Chúng là nhân tạo. Mỗi khi bạn có dịp đi ngang qua một đường biên giới, bạn sẽ
thấy con người đã bỏ ra biết bao nhiêu công sức để gây dựng khái niệm này. Trên
thế giới có biết bao nhiêu vấn đề - chánh trị, kinh tế - phát xuất từ ý nghĩ
“đây là quốc gia của tôi, quê hương của tôi...” Nếu hiểu được rằng mọi khái
niệm chỉ là kết quả của tư tưởng, ta sẽ có khả năng tự do thoát khỏi mọi ràng
buộc.
Lúc còn ở Ấn Độ, có một cô bạn Hy Lạp kể cho tôi nghe câu chuyện thí dụ về khái
niệm nơi chốn. Cô ta tả lại một biên giới giữa hai quốc gia nằm trên một vùng
sa mạc. Giữa một vùng đất cát mênh mông, có một chiếc cầu sắt bắc ngang qua một
lòng sông cạn khô. Chiếc cầu sắt được sơn nửa xanh, nửa đỏ. Lòng sông khô cằn
là biên giới của hai nước. Chung quanh chẳng có gì ngoài cát nóng và một chiếc
cầu sắt hai màu. Chính giữa cầu có một cái cổng bằng sắt, được khóa từ hai bên.
Khi có người nào muốn đi từ một “quốc gia” này sang phía bên kia, người gác bên
đây sẽ gọi người gác bên kia, cả hai đi đến cánh cổng và mở khóa cùng một lúc.
Thế là ta đi ngang qua biên giới, sang một quốc gia khác.
Khái niệm về thời gian cũng đã in rất sâu vào tâm khảm ta, những ý niệm về quá
khứ, tương lai. Cái mà chúng ta gọi là thời gian, thật sự là gì? Trong giờ phút
hiện tại ta có một vài tư tưởng như là kỷ niệm, hồi tưởng. Chúng ta góp những
tư tưởng này lại thành một nhóm và gọi chúng là quá khứ, và cho rằng chúng đã
xảy ra ở một thời điểm xa xôi nào đó, không có thật trong hiện tại. Cũng vậy,
ta chìm đắm trong những dự định, mơ mộng và dán cho chúng nhãn hiệu thuộc về
tương lai, có nghĩa là chúng chỉ có trong một thực tại chưa xảy ra. Ít khi ta
hiểu được rằng, thật ra quá khứ và tương lai chỉ là những gì đang xảy ra trong
hiện tại. Tất cả những kinh nghiệm đó chỉ là một sự thật của hiện tại. Quá khứ
và tương lai là hai khái niệm mà chúng ta đặt ra với một mục đích. Nhưng nếu ta
nhận khái niệm là một sự thật, quên rằng chúng chỉ là sản phẩm của tư tưởng, ta
sẽ khổ đau vì những sự lo lắng, hối tiếc về quá khứ và những mong chờ, hy vọng
về một thực tại chưa đến. Khi nào ta có thể sống vững vàng trong giây phút bây
giờ, hiểu rằng quá khứ và tương lai chỉ là những tư tưởng trong hiện tại, ta sẽ
có khả năng tháo gỡ được sợi dây xích của khái niệm thời gian.
Một khái niệm quan trọng khác mà chúng ta thường dùng đến là khái niệm về giới
tính: nam nữ. Khi bạn nhắm mắt lại, chú ý đến hơi thở, cảm giác, âm thanh, tư
tưởng của mình - nam hay nữ nằm ở chỗ nào, nếu không phải chỉ là một khái niệm?
Khái niệm nam nữ sẽ không còn hiện hữu khi tâm ta yên lặng. Những làn sóng
tưởng tượng nổi lên từ nước, rồi chúng tự phê bình lẫn nhau là cao, thấp, đẹp,
xấu... Nói theo lẽ tương đối thì cũng đúng một phần nào, nhưng chúng quên rằng
mọi làn sóng đều có chung một bản chất là nước biển. Cũng vậy, một khi ta bị
dính mắc vào một khái niệm về hình thể, tâm ta sẽ sinh khởi những sự so sánh,
phê phán, phân loại. Những phân biệt này sẽ làm cho sự chia cách giả tưởng giữa
ta và chung quanh càng kiên cố thêm lên. Qua sự tu tập thiền quán ta sẽ dần dần
từ bỏ những ràng buộc của khái niệm và kinh nghiệm được những yếu tố căn bản
thật sự tạo thành con người.
Nhưng có lẽ khái niệm gây ảnh hưởng sâu đậm nhất, có khả năng xiềng xích ta
trong hang động, giữ ta lại trong vòng sinh tử luân hồi, là khái niệm về một
cái ngã, cái tôi. Ta luôn nghĩ rằng phải có một cái tôi nào đó đứng phía sau
mọi hành động, mọi ý nghĩ, đó là một cá nhân có thật, trường cửu, là bản thể
của con người chúng ta. Nhưng cái ngã, cái tôi và những cái của tôi thật ra chỉ
là những khái niệm, chúng sinh khởi khi ta cố đi tìm một định nghĩa cho sự liên
hệ giữa thân và tâm. Thuở ban đầu thì trong ta chưa có cái tôi, nhưng bởi vì
chúng ta bị dính mắc vào ý niệm này một cách quá sâu đậm, chúng ta bỏ hết công
sức ra để bảo vệ, phô trương và phục vụ cho cái tôi tưởng tượng này. Thiền quán
sẽ giúp ta thấy được cái tôi chỉ là một khái niệm, nó không có một tự thể nào,
chỉ là một ý niệm được phóng đại lên trong giây phút hiện tại.
Đó là những khái niệm hằng trói buộc ta - khái niệm về nơi chốn, thời gian, sở
hữu, nam nữ và cái tôi. Bạn có thể thấy sức mạnh của những khái niệm này. Cả
cuộc đời của ta bị chúng chi phối. Kalu Rinpoche, một vị thiền sư Tây Tạng nổi
tiếng có viết: “Bạn đang sống trong một thế giới của ảo tưởng, với những hình
dáng bên ngoài của sự vật. Nhưng có một thực tại, bạn chính là thực tại đó.
Hiểu được điều này, bạn sẽ thấy rằng bạn chẳng là gì cả. Và vì không là gì cả
mà bạn là tất cả. Chỉ có vậy thôi.”
Có bốn pháp quan trọng được gọi là bốn thực tại tuyệt đối. Ta gọi như thế bởi
vì chúng có thể kinh nghiệm được chứ không phải chỉ là ý niệm. Bốn thực tại
tuyệt đối này chứa đựng trọn vẹn mọi kinh nghiệm của chúng ta.
1. Sắc:
Thực tại tuyệt đối đầu tiên là sắc, tức là tứ đại. Tứ đại là bốn yếu tố căn bản
cấu tạo nên mọi vật chất trong vũ trụ, bao gồm đất, nước, gió và lửa. Trong
thiền quán, ta sẽ kinh nghiệm được sự hiện diện của tứ đại trong thân thể.
Yếu tố đất là yếu tố thuộc về tính chất nới rộng. Ta kinh nghiệm được yếu tố
này qua tính chất cứng, mềm, nặng, nhẹ của sự vật. Khi ta cảm thấy đau trong
thân, điều đó thuộc về yếu tố đất. Khi ta đi, chân chạm mặt đất, cảm giác đụng
chạm, dính liền cũng thuộc về yếu tố đất. Nói chung là mọi cảm giác cứng, mềm
hay nới rộng.
Yếu tố lửa là những tính chất nóng, lạnh. Đôi khi trong những lúc ngồi thiền,
yếu tố lửa có thể trở nên thắng thế, bạn sẽ cảm thấy như bị lửa đốt. Thật ra
thì chẳng có ai bị đốt cả, chỉ có yếu tố lửa đang phát lộ tánh tự nhiên của nó,
tức cảm giác nóng, lạnh.
Yếu tố gió tức là sự chuyển động. Trong lúc đi kinh hành, cái mà ta kinh nghiệm
được chỉ là một trò chơi của những yếu tố. Bàn chân và chân chỉ là một ý niệm,
một tên gọi mà chúng ta đặt cho nhận thức về một kinh nghiệm. Thật ra thì chẳng
có bàn chân, thân hay là cái tôi, chỉ có kinh nghiệm về những động tác và cảm
giác đụng chạm mà thôi.
Yếu tố nước tiêu biểu cho tính chất lưu loát và kết hợp. Yếu tố này có công
năng giữ cho sự vật được gắn bó với nhau. Cũng như khi bạn cầm đến bột khô,
chúng rời rạc, lả tả. Nhưng khi bạn chế vào một chút nước, chúng sẽ lập tức
dính lại với nhau. Yếu tố nước rất quan trọng, bởi nó gắn bó tất cả những yếu
tố vật chất khác lại với nhau.
Cùng với tứ đại, chúng ta có thêm bốn tính chất phụ thuộc nữa là màu sắc, mùi,
vị và bổ dưỡng. Cả thế giới vật chất chung quanh ta có thể được kinh nghiệm qua
những yếu tố vừa kể. Chúng ta có thể nhận thức được chúng mà không cần dùng đến
tư tưởng. Sàn nhà không có thật. Sàn nhà chỉ là một ý niệm, một tên gọi. Cái mà
ta kinh nghiệm được là cảm giác cứng, lạnh hoặc màu sắc khi ta nhìn đến nó. Mắt
ta nhìn thấy màu sắc. Mắt ta không nhìn thấy một tên gọi. Khi chúng ta bước ra
ngoài sân, đa số thấy cây cỏ, nhưng đó chỉ là một ý niệm về những đối tượng mà
ta nhìn thấy. Cái mà ta thật sự thấy là hình dáng và màu sắc. Rồi tâm ta dán
cho nó một nhãn hiệu là cây cỏ. Thân cũng chỉ là một ý niệm. Khi ta ngồi thiền,
thân biến mất. Lúc ấy ta chỉ kinh nghiệm những cảm giác nóng, lạnh, đau nhức...
những hoạt động của các yếu tố biến chuyển không ngừng trong sự vô thường.
Sự tu tập thiền quán có khả năng giúp ta ý thức được sự vật trên một bình diện
kinh nghiệm trực tiếp chứ không bằng ý niệm qua tư tưởng. Cho nên khi ta nhìn
một vật gì, ta sẽ ý thức được màu sắc, hình dạng của chúng. Khi ta đụng chạm
một vật gì, ta sẽ trực tiếp cảm giác về nó mà không bị dính mắc vào ý niệm, hay
là để những thành kiến của mình xen vào sự nhận xét.
Ý niệm lúc nào cũng được giữ nguyên mà thực tại thì luôn thay đổi. Ý nghĩa của
chữ thân thì bao giờ cũng vậy, nhưng chính thân ta thì mỗi phút một đổi khác.
Những khái niệm luôn cứng nhắc không thay đổi. Nhưng khi ta kinh nghiệm sự việc
xảy ra chung quanh, ta sẽ nhận thấy được sự biến chuyển cùng tính chất vô
thưòng của mọi vật, sự sinh diệt của mọi cảm giác. Kinh nghiệm được mọi sự
trong chánh niệm sẽ làm lộ ra chân tướng vô thường của chúng. Còn khi chúng ta
còn mê mờ trong vòng ý niệm, ta sẽ bị dính mắc trong ảo tưởng, cho rằng mọi vật
là lâu bền, thường hằng. Chính sự dính mắc này đang trói buộc ta trong vòng
sinh tử luân hồi.
Bước đầu của sự tu tập thiền quán, phát triển trí tuệ là kinh nghiệm được hiện
thực chứ không phải chỉ là bóng dáng của nó. Được như vậy, tự thể của mọi vật
sẽ tự nhiên hiện rõ ra trước mắt.
2. Tâm:
Thực tại tuyệt đối thứ hai là tâm. Tâm là khả năng hiểu biết, ý thức về một đối
tượng nào đó. Có người cho rằng trong ta có một tâm thức duy nhất, hiện diện từ
lúc sinh ra cho đến khi chết. Tâm thức này được ví như là một quan sát viên,
biết hết mọi chuyện xảy ra trong cuộc đời chúng ta. Và rồi ý niệm này dẫn tới
kiến chấp về một cái ngã, cái tôi bất biến, thường hằng trong mỗi người. Đó
cũng bởi vì tâm ta không tĩnh lặng đủ để quan sát tiến trình của sự hiểu biết.
Tâm thức sinh ra rồi diệt đi trong mỗi giây phút. Không có một tâm thức duy
nhất nào hiện diện từ đầu cho đến cuối, mỗi giây phút đều có những tâm thức
sinh ra rồi diệt đi.
Cái thức dùng để nghe (nhĩ thức) khác với cái thức dùng để thấy (nhãn thức),
hay để ngửi (tỷ thức), hay để nếm (thiệt thức), hay để suy nghĩ (ý thức). Mỗi
giây phút đều có những tâm thức khác nhau thống trị. Sau một thời gian tu tập,
khi tâm ta tĩnh lặng, ta sẽ có thể kinh nghiệm được tiến trình này của tâm. Dùng
trí tuệ soi sáng dòng biến chuyển vô thường của tâm thức, ta sẽ thấy được trong
ta không có một cá nhân hay một quan sát viên nào cả, chỉ là một diễn biến liên
tục thay đổi trong từng giây phút. Đến giai đoạn này, ta sẽ phá vỡ được ảo vọng
về một cái tôi thường hằng có thật.
3. Tâm sở:
Thực tại tuyệt đối thứ ba là tâm hành hay tâm sở. Tâm hành là tính chất của tâm
quyết định một phương thức để đối phó với các đối tượng. Mỗi khi trong ta có
một tâm thức nào khởi lên, là có nhiều tâm hành khác nhau cùng sinh khởi theo
trong lúc ấy, và chúng cũng diệt theo khi tâm thức ấy chấm dứt. Tham, sân, si
là ba tâm hành căn bản, là gốc rễ những khổ đau của chúng ta. Mọi hành động xấu
đều được xúi dục bởi một trong ba tâm hành này. Lấy một thí dụ, tâm tham có đặc
tính là bám víu vào đối tượng. Khi tâm tham nổi lên trong ta, nó có khả năng
khiến cho ta muốn chiếm hữu, gom góp, bám víu, đeo đuổi vào bất cứ chuyện gì ta
đang làm. Đó chỉ là tính cách tự nhiên của tâm tham. Không có người tham, không
có cái ngã, cái tôi nào đứng phía sau đó cả, mà chỉ là kết quả của một tâm hành
đang hoạt động.
Tâm sân cũng là một tâm hành có đặc tính tự nhiên là thù ghét, chối bỏ đối
tượng. Lòng ghen tức, bực mình, giận dữ, bất an, chối bỏ đều là những trạng
thái của tâm sân. Lòng sân cũng không phải thật là ta hay của ta, nó chỉ là một
tâm hành sinh ra rồi diệt đi.
Tâm si là một tâm hành có khả năng làm mờ mịt nhận thức, khiến ta không thể
thấy rõ được đối tượng. Ta không ý thức được những gì đang xảy ra trong giờ
phút hiện tại.
Ngược lại ta cũng có ba tâm hành có khả năng đem lại hạnh phúc là tâm xả, tâm
từ và trí tuệ. Tâm xả có tính chất tự nhiên là rộng lượng, không hối tiếc,
không thu giữ. Tâm từ là lòng thương yêu, thân thiện với người khác. Trí tuệ là
tâm tỉnh thức có khả năng nhìn rõ mọi sự vật. Nó được ví như một ngọn đèn sáng
trong tâm. Khi bạn đi vào một căn phòng tối, bạn không nhìn thấy được những vật
chung quanh, nên thường bị vấp ngã. Khi bật đèn lên, mọi vật sẽ trở nên sáng tỏ
và được phân biệt rõ ràng. Đấy là công năng soi sáng tâm của trí tuệ, để ta có
thể nhận diện rõ ràng cả nội dung lẫn tiến trình của thân và tâm.
Tất cả những tâm hành vừa kể đều có chung hai đặc tính là vô ngã và vô thường.
Không có một cá nhân nào tham lam, không có một người nào sân hận, cũng không
có một ai là trí tuệ hay từ bi. Chỉ có một hiện tượng tâm thức sinh khởi, kéo
theo nó một số tâm hành và hoạt động theo công năng của nó. Như vậy thì ý niệm
về một cái tôi phát xuất từ đâu? Tại sao chúng ta lại bị chi phối bởi cái tôi
này nhiều đến thế?
Trong số những tâm hành có một tâm hành gọi là tà kiến. Công năng của tà kiến
là nhận những yếu tố thay đổi không ngừng của thân và tâm này là mình. Bởi thế
cho nên, khi có một tâm thức nào khởi lên và kéo theo tâm hành tà kiến này, ý
niệm về một cái tôi sẽ phát sinh. Nhưng cũng giống như mọi tâm hành khác, nó vô
ngã và vô thường, sinh khởi rồi diệt đi. Một khi ta có chánh niệm trong giây
phút hiện tại, tà kiến sẽ không thể sinh khởi và ta có khả năng thoát ra khỏi
sự trói buộc của những khái niệm về cái tôi và vật của tôi. Mỗi giây phút chánh
niệm là một giây phút vô ngã và chân thật.
Một câu hỏi thường được đặt ra trong những khóa tu là: “Như vậy, ai là người
đang giữ chánh niệm?” Thật ra thì chánh niệm cũng là một tâm hành. Công năng
của nó là nhận diện đối tượng và ý thức được giây phút hiện tại. Gurdjieff gọi
tính chất này là tự niệm. Không có một cá nhân nào giữ chánh niệm hết, chỉ có
sự hoạt động của một tâm hành có công năng nhận diện đối tượng mà không dính
mắc, ghét bỏ hay ưa thích. Một khi chánh niệm được phát triển, ta sẽ thấy rằng
mọi hiện tượng đều chuyển tiếp và không có một cái tôi nào trong đó hết.
Sự hiện hữu của chúng ta giống như là một trò chơi ráp hình vĩ đại, gồm những
miếng hình nhỏ rời rạc mà ta phải sắp xếp lại cho thứ tự, thành một tấm hình
lớn có ý nghĩa. Những miếng hình nhỏ rời rạc ấy là tứ đại, tâm và tâm hành. Khi
sắp xếp những yếu tố ấy lại với nhau theo một thứ tự nào đó, ta sẽ có được đàn
ông, đàn bà, cây cối, nhà cửa... Nhưng đó chỉ là những tấm hình lớn làm thành bởi
những miếng nhỏ hơn, một khái niệm mà thôi. Chính những nguyên tố căn bản của
thân và tâm, những năng lượng đứng phía sau biến đổi, chuyển hóa, mới chính là
hiện thật kinh nghiệm của ta.
4. Niết-bàn:
Thực tại tuyệt đối thứ tư là Niết-bàn. Niết-bàn là kinh nghiệm của một người đã
hoàn toàn giải thoát khỏi mọi xiềng xích, bước ra khỏi hang tối và sống tự tại
dưới ánh mặt trời. Một người đã giải thoát ra khỏi mọi sự trói buộc của thân và
tâm.
Tất cả những thực tại tuyệt đối vừa kể đều có thể kinh nghiệm được. Những văn
tự mà ta dùng để diễn tả chúng chỉ là ngón tay dùng để chỉ mặt trăng. Kinh
nghiệm của thiền quán sẽ giúp ta kinh nghiệm được những hiện thực này, điều ấy
hoàn toàn thoát ra ngoài văn tự. Chúng ta ai cũng đang ở trên một tiến trình
phá tung những xiềng xích, kìm giữ ta trong một hang tối si mê.
Trong sự tu tập sẽ có những lúc bạn cảm thấy hình như không có một việc gì xảy
ra hết, có chăng chỉ là những đau đớn, khó chịu, bực dọc và nghi ngờ. Nhưng
thật ra mỗi giây phút chánh niệm, mỗi giây phút tỉnh thức của bạn đang làm yếu
đi sợi dây xích trói buộc. Chúng ta đang dần dần tích tụ một năng lực tỉnh
thức, đến khi chánh niệm và định lực phát triển, tâm ta sẽ trở nên vô cùng vững
mạnh và sáng suốt. Chỉ cần kiên nhẫn, thật kiên nhẫn, rồi chúng ta sẽ kinh
nghiệm được thế nào là tiến trình của thân tâm, kinh nghiệm thoát ra ngoài mọi
khái niệm, không còn bị vướng mắc vào một cái tôi nào hết, bước ra khỏi hang
tối, tự tại dưới ánh mặt trời của tự do và an lạc.
Hỏi: Xin cho biết ta đã đi từ thực tại tuyệt đối đến sự suy nghĩ bằng những
khái niệm qua cách nào? Làm sao mà ta lại có thể đi xa một sự thực giản dị như
vậy?
Đáp: Bạn đừng nghĩ sự việc xảy ra giản dị như là chúng ta đã rơi từ một trạng
thái sáng suốt vào một trạng thái mê mờ. Không phải như vậy. Tâm tham đắm và si
mê là hai nguyên nhân chính giữ chúng ta trong vòng sinh tử từ vô thủy đến giờ,
chúng là động lực kéo ta xoay vòng theo bánh xe luân hồi. Tìm hiểu lý do không
ích lợi gì cho bản thân ta cả. Chúng ta phải chấp nhận rằng, hiện trạng bây giờ
của mình mới chính là vấn đề quan trọng trước mắt cần phải được giải quyết. Có
một con đường để giải thoát là diệt các tâm tham, sân và si. Con đường ấy là
con đường chánh niệm, tỉnh thức, biết chú ý đến mọi việc đang xảy ra trên một
bình diện kinh nghiệm thuần túy.
Hỏi: Làm sao ta có thể sống trong cuộc đời mà không cần đến khái niệm được?
Đáp: Xin bạn đừng hiểu lầm điều này. Chúng ta phải dùng đến khái niệm, nhưng
điều tôi muốn nói là một khi ta kinh nghiệm điều gì vượt ra ngoài khái niệm của
mình, ta thường không thể chấp nhận được. Chúng ta phải biết sử dụng những tiến
trình trong tâm thức của mình để đối phó với thế giới bên ngoài, với cuộc đời
mình sao cho hữu hiệu. Chân lý hay sự thật có hai bình diện. Một là sự thật quy
ước, có nghĩa là những sự thật được diễn tả bằng khái niệm như là nam nữ, thời
gian, không gian, ta và người khác... Bình diện thứ hai là sự thật tuyệt đối
bao gồm bốn thực tại mà ta đã nói đến ở trên. Chúng ta dùng khái niệm, nhưng
đừng nô lệ chúng. Chúng ta phải nhớ rằng chúng chỉ là những sự thật quy ước, và
đứng sau chúng mới thật là chân lý. Ở Bồ-đề Đạo Tràng, nơi chúng tôi tu học có
một con voi. Những khi chúng tôi đi xuống chợ, chúng tôi thường gặp con voi này
thong thả đi ngược về phía mình. Chúng tôi thiền hành trong chánh niệm, chậm
chạp, chú ý đến từng bước chân. Khi thấy con voi đi ngược lại, chúng tôi không
thể chỉ đứng im đấy mà niệm “thấy, thấy”, chúng tôi phải tránh sang chỗ khác.
Sử dụng tiến trình tư tưởng của mình phải đúng chỗ.
Hỏi: Cảm xúc là gì?
Đáp: Cảm xúc là những tâm hành khác nhau. Ghen, giận, thương yêu, vui, buồn...
đều là những tâm hành. Tất cả mọi cảm xúc đều có tính cách vô ngã. Không có ai
đứng sau chúng cả. Không có người nào giận, không có ai đang thương yêu... chỉ
là sự chuyển vận của những tâm hành, theo những cách khác nhau.
Hỏi: Những điều kiện nào làm phát sinh chánh niệm?
Đáp: Trí tuệ, hay là nhận thức được sự thật về hiện trạng của mình và thấy được
con đường giải thoát. Sự tinh tấn, cố gắng là điều kiện phát sinh chánh niệm. Niềm
tin và sự tự tin cũng là điều kiện phát sinh ra sự cố gắng, tinh tấn tu tập
chánh niệm.
Hỏi: Xin nói thêm về tình thương yêu?
Đáp: Cái “không” diễn tả được tình yêu, bởi vì trống không có nghĩa là vô ngã.
Khi không có cái tôi thì sẽ không có sự phân biệt người khác. Sự phân biệt nhị
nguyên này được tạo nên bởi ý niệm về cái tôi. Khi không còn cái tôi thì tất cả
trở thành một, đồng nhất. Và khi ta không còn nghĩ rằng: “Tôi đang thương yêu
một người khác”, tình thương sẽ trở thành một diễn tả tự nhiên cho sự đồng nhất
đó.
Hỏi: Khi tôi có chánh niệm về chính tâm thức của mình, cái gì có chánh niệm?
Đáp: Chánh niệm là một tâm hành có công năng ghi nhớ đối tượng, không để cho
tâm rơi vào sự quên lãng. Chánh niệm có thể được dùng để nhận diện một đối tượng
hay là quay lại nhận diện chính nó, chủ thể của đối tượng, hay nói cách khác
chính sự nhận biết đó. Nói chung thì quan sát một đối tượng vẫn dễ dàng cho ta
hơn, bởi vì ít nhất ta còn có thể đụng chạm nó được. Đến khi tâm ta thật tĩnh
lặng, ta sẽ có khả năng quan sát được chính sự sinh diệt của tâm thức mình. Lúc
này, mọi kinh nghiệm sẽ trở nên rất là ngộ nghĩnh, bởi vì ta đã phá vỡ được sự
đồng hóa mình với nhận thức, với sự hiểu biết, với cái tôi, một cái ngã chấp
rất là sâu kín. Nếu chúng ta ngồi lại quan sát tiến trình của một hiện tượng,
nhưng vẫn nghĩ rằng trong ta có một chủ thể quan sát đang làm chuyện đó, thì
điều ấy không khó khăn gì. Nhưng thật ra không có ai làm việc quan sát cả. Chỉ
có nhận thức phát sinh lên, rồi diệt đi trong mỗi giây phút. Sự nhận thức hay
tâm thức ấy cũng chỉ là một tiến trình. Nó vô thường, vô ngã, không có cái tôi
nào hết.
Hỏi: Trí nhớ là gì? Nó hoạt động ra sao?
Đáp: Trí nhớ là một hoạt động rất phức tạp của một số tâm hành, trong đó chủ
yếu là sự nhận thức. Nhận thức là một tâm hành có công năng nhận biết, phân
biệt được những đặc tính riêng biệt của đối tượng. Nhờ nhận thức mà ta có khả
năng nhận biết được một đối tượng bằng những kinh nghiệm trong quá khứ. Trí nhớ
là một nhóm tư tưởng nhận thức về đối tượng đã xảy ra trong quá khứ.
Hỏi: Vì đâu mà mỗi người có một khuynh hướng hành động khác nhau?
Đáp: Nếu ta tiếp tục hành động theo một ý chí nào đó, sau thời gian dài điều
này sẽ tạo nên một khuynh hướng. Ngay bây giờ chúng ta đang củng cố chánh niệm,
định lực và trí tuệ, tức là chúng ta đang tạo một khuynh hướng tiến về sự hiểu
biết và trí tuệ. Cũng vậy, trong quá khứ ta đã lặp đi lặp lại một số hành động,
ý muốn nào đó, chúng dần dần tạo nên những tánh tình khác nhau trong mỗi chúng
ta. Từ đó, chúng ta mỗi người có một khuynh hướng làm một số việc khác nhau.
Tánh tình của ta là di sản của những khuynh hướng này. Nhưng tánh tình không
phải là một khuynh hướng duy nhất, mặc dù có thể là một tâm hành nào đó đang
chi phối mạnh hơn trong lúc ấy. Một người nào tham muốn, có nghĩa là tiếp tục
đeo đuổi, bám víu, dính mắc vào đối tượng trong thất niệm, sẽ bị tâm hành tham
lam chi phối. Rồi dần dần sự tham lam ấy sẽ hiển lộ ra trong hành động của anh
ta. Ngược lại, khi ta thực tập xả bỏ và từ bi, dần dần những tâm hành này sẽ
trở nên vững mạnh và chúng sẽ biểu lộ ra trong tánh tình của ta.
Hỏi: Còn ý chí thì ở đâu?
Đáp: Sự chọn lựa là một tâm hành khác nữa. Những tâm hành đều có liên hệ với
nhau một cách vô cừng phức tạp. Trong đó có sự lựa chọn, tiến trình quyết định,
sự cố gắng. Mỗi tâm hành đều có một công năng và tính chất đặc biệt. Một trong
những nguyên nhân gần nhất cho việc thiết lập chánh niệm là được nghe giáo pháp
của đức Phật. Nó trở thành một nguyên nhân khơi dậy tâm hành tinh tấn. Đức Phật
thường nhắc nhở về những lợi ích lớn lao cho những ai được nghe giáo pháp của
ngài. Chúng sẽ khơi dậy trong ta sự cố gắng tu tập, phát triển chánh niệm. Mọi
tâm hành, kể cả “ý chí”, đều có sẵn tiềm ẩn trong tâm chúng ta. Chúng ta không
cần phải làm gì để tạo ra chúng. Vấn đề là ta muốn trau dồi, đào luyện tâm hành
nào. Những quyết định chánh đáng có được là nhờ học hỏi nơi giáo lý, hiểu được
sự thật. Điều này là động lực thúc đẩy ta tu tập theo con đường chánh niệm và
tỉnh thức, phát triển trí tuệ và hiểu biết. Trong kinh có nói rằng: “Có hành
động nhưng không có người hành động, có việc làm nhưng không có người thực
hiện, có khổ đau nhưng không có người chịu khổ, có giải thoát nhưng không có
người giác ngộ.”
Hỏi: Trí thông minh là gì?
Đáp: Thông minh là một khái niệm về tư tưởng trên bình diện tâm thức. Ta có thể
đào luyện, phát triển và sử dụng nó. Nhưng nó cũng có thể là một trở ngại. Tất
cả đều tùy theo ta có khả năng hiểu được tiến trình của tư tưởng đến mức nào.
Nếu chúng ta hiểu được đặc tính của nó, nó sẽ không là một chướng ngại. Nhưng
nếu chúng ta nhận lầm ý nghĩ về sự vật với chính sự vật, nó sẽ trở thành một
chướng ngại, bởi vì ta đã lầm lẫn giữa khái niệm và thực tại. Nhưng sự thông
minh tự nó cũng chỉ là một phần nhỏ của tiến trình tâm, thân. Tam tổ Tăng Xán
của Thiền Trung Hoa có viết: “Đạo giác ngộ không phải khó đạt, chỉ do nơi sự
phân biệt chọn lựa. Chỉ cần dẹp bỏ hết lòng thương ghét thì tự nhiên được sáng
suốt thấu đáo.”[1]