- Lời Giới Thiệu
- Buổi Tối Thứ Nhất Lời Dạy Mở Đầu
- Buổi Tối Thứ Hai Bát Chánh Đạo
- Buổi Sáng Thứ Ba Bài Thực Tập: Cảm Thọ
- Buổi Tối Thứ Tư Sự Chú ý Đơn Thuần
- Buổi Sáng Thứ Năm Bài Thực Tập: Tư Tưởng
- Buổi Tối Thứ Năm Khái Niệm Và Thực Tại
- Buổi Sáng Thứ Sáu Bài Thực Tập: Đối Tượng Của Cảm Giác
- Buổi Tối Thứ Bảy Những Mẩu Chuyện
- Buổi Sáng Thứ Tám Bài Thực Tập: Tác ý
- Buổi Sáng Thứ Chín Bài Thực Tập: Ăn Trong Chánh Niệm
- Buổi Tối Thứ Chín Năm Triền Cái
- Buổi Sáng Thứ Mười Bài Thực Tập: Quán Tâm Thức
- Buổi Tối Thứ Mười Dũng Sĩ
- Buổi Sáng Thứ Mười Một Trò Chơi Định Tâm
- Buổi Tối Thứ Mười Hai Ba Trụ Pháp: Ba-la-mật
- Buổi Tối Thứ Mười Ba Sự Tương Đồng
- Buổi Tối Thứ Mười Bốn Tứ Diệu Đế
- Buổi Tối Thứ Mười Lăm Sự Cương Quyết Nửa Vời
- Buổi Tối Thứ Mười Sáu Nghiệp Báo
- Buổi Tối Thứ Mười Bảy Bài Thực Tập: Hôn Trầm
- Buổi Tối Thứ Mười Tám Sự Trong Sạch Và Hạnh Phúc
- Buổi Tối Thứ Mười Chín Tín Ngưỡng
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Mốt Thập Nhị Nhân Duyên
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Hai Cái Chết Và Lòng Từ Bi
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Lăm Đạo
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Sáu Thất Giác Chi
- Buổi Tối Thứ Hai Mươi Chín Con Đường Của Phật
- Buổi Sáng Thứ Ba Mươi Kết Thúc
BA MƯƠI NGÀY THIỀN QUÁN
Joseph Goldstein
Nguyễn Duy Nhiên Việt dịch
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2008
Buổi tối thứ hai mươi mốt
Vì sự bí mật của sinh, lão, bệnh, tử mà các đức Phật xuất hiện trong cuộc đời.
Không một thế giới nào mà không bị chi phối bởi sự thật này, và sự giác ngộ của
đức Phật chỉ có mục đích duy nhất là thấu hiểu nguyên nhân gốc rễ của nó. Một
trong những phần uyên thâm của giáo lý đạo Phật là mô tả về sự luân chuyển
không ngừng của sợi dây xích hiện hữu, được gọi là pháp nhân duyên.
Có mười hai nhân duyên, nên thường gọi là Thập nhị nhân duyên, bao gồm: vô
minh, hành, thức tái sinh, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh và
lão bệnh tử.
Hai nhân duyên đầu tiên nói về các nhân được gieo trong những kiếp quá khứ và
làm điều kiện cho kiếp sau này. Trước hết là vô minh. Vô minh có nghĩa là u
tối, không thấy chân lý, không hiểu giáo pháp, không biết Tứ diệu đế. Vì không
ý thức được sự việc một cách rõ ràng, không thấy đuợc sự thật khổ đau, gốc rễ
của nó và phương pháp giải thoát, cho nên vô minh làm điều kiện cho nhân thứ
hai trong chuỗi 12 nhân duyên là hành.
Hành có nghĩa là ý chí, ý muốn bắt đầu cho những hành động của thân, khẩu và ý.
Những hành động này phát sinh do các tâm thiện hay bất thiện. Hành là do vô
minh tạo nên. Vì không hiểu được sự thật nên ta tạo tác đủ các nghiệp. Nghiệp
lực của những hành động này lại làm điều kiện cho mắt xích thứ ba trong chuỗi
các nhân duyên là thức tái sinh.
Thức tái sinh có nghĩa là tâm thức đầu tiên khi ta mới sinh. Vì vô minh làm
điều kiện cho nghiệp lực mà ta đã tạo tác trong kiếp trước, thức tái sinh sẽ
khởi lên trong giây phút thụ thai. Tâm hành là nhân và thức tái sinh là quả.
Đây là một liên hệ có điều kiện của luật nhân quả.
Vô minh sinh ra tâm hành, tạo nên nghiệp lực. Nghiệp lực ấy làm phát sinh thức
tái sinh, là điều kiện bắt đầu cho đời sống này. Vì có tâm thức đầu tiên ấy mà
hiện tượng danh sắc được khởi lên với đầy đủ mọi phần tử của thân và mọi yếu tố
của tâm. Rồi từ hiện tượng danh sắc mà lục nhập phát sinh. Lục nhập sẽ hình
thành từ những quan năng của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, được phát triển
trong giai đoạn còn là bào thai.
Thức tái sinh trong giây phút thụ thai làm điều kiện phát sinh hiện tượng danh
sắc. Vì sự có mặt của danh sắc mà lục nhập sinh ra. Lục nhập là sự tiếp nhận
của những giác quan (căn) khi tiếp xúc với những đối tượng của chúng (trần),
như là mắt với màu sắc, tai với tiếng động, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với
cảm giác, ý với tư tưởng. Rồi lục nhập lại làm điều kiện cho xúc, vì xúc đòi
hỏi cả ba yếu tố: căn (giác quan), trần (đối tượng của giác quan) và thức (sự
nghe, thấy, ngửi, nếm, cảm giác và suy nghĩ). Như vậy, lục nhập làm phát sinh
xúc.
Rồi sự tiếp xúc giữa căn với trần làm phát sinh cảm thọ, hay thọ. Thọ tức là
những cảm giác dễ chịu, khó chịu hay trung hòa xảy ra trong từng sát-na của
tâm, khi có sự xúc chạm. Dù sự tiếp xúc có qua những cánh cửa giác quan hay là
qua ý thức, thọ lúc nào cũng có mặt, và nó là một tâm hành cơ bản. Cho nên, xúc
làm điều kiện phát sinh thọ.
Bởi vì có thọ nên mới có ái. Ái là lòng tham dục, ham muốn, khao khát một vật
gì. Chúng ta muốn những gì? Đó là những hình ảnh, âm thanh dễ chịu, những mùi
vị thơm ngon, những cảm giác, tư tưởng tươi mát, nhẹ nhàng... Chúng ta muốn vứt
bỏ những gì gây khó chịu. Chúng ta khao khát hoặc trốn tránh những đối tượng
khác nhau của lục nhập.
Ái là điều kiện phát sinh thủ. Thủ có nghĩa là nắm giữ, muốn lấy làm của mình.
Bởi vì chúng ta có tham dục với các đối tượng của sáu giác quan, nên ta muốn
chiếm giữ, nắm bắt. Ta nhận chúng là mình, gắn bó với chúng.
Rồi bởi vì thủ mà ta bắt đầu tạo nghiệp, tiếp tục những hành động trong kiếp
trước đã tạo nên thức tái sinh cho kiếp này. Như vậy, thọ sinh ái, ái sinh thủ,
và thủ làm điều kiện cho hữu, tức là một sự hiện hữu tiếp nối, làm năng lực cho
hạt giống luân hồi, thức tái sinh cho kiếp sau. Từ những nghiệp lực được tạo
nên do thủ mà có sinh.
Vì sinh nên mới có bệnh tật, chán nản; có tàn hoại và đau đớn; có khổ đau, có
già chết.
Và bánh xe luân hồi tiếp tục xoay tròn như thế, kéo theo một chuỗi nhân duyên
vô ngã.
Vấn đề của đức Phật khi đi tìm chân lý - và của tất cả chúng ta hôm nay - là
làm sao tìm được một lối thoát ra khỏi cái vòng nhân duyên luẩn quẩn này.
Trong đêm giác ngộ dưới gốc Bồ-đề, đức Phật đã đi ngược lại dòng nhân duyên để
tìm ra một lối thoát. Tại sao có già, có bệnh, có chết? Vì có sinh. Tại sao có
sinh? Vì có hành phát khởi do tham, sân, si. Nhưng tại sao chúng ta lại vướng
víu vào những hành động này? Vì có hữu. Tại sao có hữu? Vì có ái. Tại sao có
ái? Vì có thọ, vì những cảm giác dễ chịu, khó chịu khởi lên. Tại sao có thọ? Vì
có xúc. Tại sao có xúc? Vì có lục nhập, và mọi hiện tượng danh sắc.
Chúng ta không làm gì được khi đối diện với tiến trình thân tâm này. Nó có vì
sự vô minh trong quá khứ và vì chúng ta đã sinh ra ở đây. Không có cách nào để
tránh sự tiếp xúc, đụng chạm cả. Chúng ta không thể nào đóng lại những cửa giác
quan của mình, cho dù chúng ta có muốn. Mà đã có tiếp xúc, đụng chạm thì ta
không thể nào ngăn không cho thọ khỏi phát sinh lên được. Hễ đã có xúc thì sẽ
có thọ. Đó là một tâm hành cơ bản của tâm. Nhưng cũng ngay ở điểm quan trọng
này, thọ, mà ta có thể cắt đứt được chuỗi nhân duyên liên tục ấy.
Hiểu được nguyên lý nhân duyên, “bởi vì cái này có mà cái kia có”, chúng ta có
thể chặt đứt sợi dây xích liên tục ấy. Khi một lạc thọ phát sinh, ta không nên
nắm bắt, khi một khổ thọ có mặt, ta không xua đuổi. Khi có một xả thọ, ta không
rơi vào quên lãng, thất niệm.
Đức Phật dạy rằng con đường của thất niệm là con đường của sự chết. Và con
đường của chánh niệm và trí tuệ là con đường đưa đến sự bất tử. Chúng ta hoàn
toàn tự do để phá tung sợi dây xiềng xích này, thoát ra khỏi những phản ứng do
điều kiện. Chúng ta phải duy trì một sự tỉnh thức, một chánh niệm vững chãi
trong từng giây phút, để giữ cho cảm thọ không khởi sinh lên ái dục.
Những khi ta thất niệm, cảm thọ sẽ làm cho ái dục phát sinh. Nếu có điều gì dễ
chịu, ta sinh ra sự ưa thích; còn những gì khó chịu, ta lại có lòng muốn hủy
diệt nó đi. Nhưng nếu thay vì thất niệm, ta có chánh niệm và trí tuệ, thì mỗi
khi có một cảm thọ sinh lên, ta chỉ kinh nghiệm nó mà không phản ứng mù quáng
theo thói quen là nắm bắt hay chối bỏ.
Đối với một cảm thọ dễ chịu, ta kinh nghiệm nó bằng chánh niệm mà không bám
víu. Đối với cảm thọ khó chịu, ta kinh nghiệm bằng chánh niệm mà không ghét bỏ.
Cảm thọ không còn làm phát khởi ái dục nữa. Bây giờ chỉ có chánh niệm, vô tư,
xả bỏ.
Không có ái dục thì sẽ không có thủ. Không còn thủ thì hữu cũng sẽ không sinh.
Mà chúng ta không còn tạo nên năng lực thì sẽ không có tái sinh, không bệnh,
không già, không chết. Chúng ta hoàn toàn tự do. Không còn bị lôi cuốn bởi vô
minh và ái dục, tất cả khổ đau sẽ bị tiêu trừ hoàn toàn.
Mỗi giây phút của chánh niệm, tỉnh thức là một nhát búa đập xuống sợi dây xiềng
xích nhân duyên này. Những nhát búa giáng xuống với sức mạnh của trí tuệ, của ý
thức sẽ làm cho sợi dây xích càng lúc càng yếu đi, cho đến khi nó bị đứt tung.
Những gì chúng ta đang thực hành ở đây là quán chiếu sâu xa vào trong nguyên lý
nhân duyên, để giải thoát tâm ta ra khỏi sự ràng buộc của chúng.
Hỏi: Tôi thấy rằng càng đi sâu vào sự tu tập, tôi lại càng cảm nhận được cái
hay, cái đẹp của giáo pháp, tự tính của mọi sự vật.
Đáp: Hạnh phúc cao thượng nhất là hạnh phúc của Vipassana, hạnh phúc của trí
tuệ, nhìn thấy được thật tướng của vạn hữu. Khi ta bắt đầu cảm nhận bằng tâm
nguyên sơ như đứa trẻ thơ, mỗi giây phút đều là mới lạ, tươi mát, thì trạng
thái này an lạc lắm. Cũng vậy, sự sống của ta sẽ là một niềm vui lớn nếu ta
biết sống với cái sơ tâm ấy, một tâm không bị điều kiện chi phối, một tâm biết
trực nghiệm thay vì tưởng tượng. Đức Phật dạy rằng mùi vị của đạo pháp cao siêu
vi diệu hơn mọi thứ mùi vị khác. Nó đem lại cho ta một cảm giác sáng suốt, hiểu
biết để nhìn rõ tự thể của vạn hữu, để hòa hợp chung một giai điệu và trở thành
một với đạo lớn.
Nhưng trên con đường đi đến sự hòa điệu hoàn toàn ấy, đôi khi ta phải trải qua
một kinh nghiệm bất mãn rất sâu đậm. Một khổ đau mà ta đã thừa hưởng từ luật vô
thường của cuộc sống. Có nhiều người đã phải nếm qua mùi vị của sự chán nản
này. Những ai đã từng trải qua cảnh ngộ ấy, thường được một lợi ích là có thái
độ ung dung tự tại. Vì khi ta kinh nghiệm được một cách sâu xa những nỗi khổ
đau của thân và tâm, ta sẽ hiểu rõ giá trị của một thái độ vô chấp, xả bỏ, ta
sẽ không còn muốn nắm giữ nữa. Ta biết chúng chẳng có gì đáng để ham muốn. Và
từ sự vô chấp ấy, tâm ta sẽ trở nên quân bình và có thể nhìn sự thay đổi của
mọi vật bằng một thái độ ung dung, với một ý thức sáng tỏ và an lạc.
Hỏi: Muốn đạt được giác ngộ, ta có cần phải chết đi không?
Đáp: Giác ngộ có nghĩa là sự chết của tham, sân và si. Lý do chúng ta sợ chết
là vì ta không hiểu rằng tiến trình của sự chết đang xảy ra ngay trong giờ phút
này. Cho nên đối với những người không tu tập, họ có nỗi sợ phải mất đi thân
này. Thật ra thì không có một ai chết cả, vì đâu có một cá nhân nào đứng sau
tiến trình ấy. Sự thật chỉ là một chuỗi sinh diệt liên tục tiếp nối... theo sự
lôi cuốn của ái và thủ.
Muốn giải trừ những điều kiện ấy, giải thoát tâm ta ra khỏi sự đam mê và bám
víu, ta phải kinh nghiệm được sự an vui lúc nào cũng đang có mặt, nhưng vì ái
dục mà ta không thấy được. Cũng giống như một con khỉ nắm chặt bàn tay, nó
chẳng bị một ai trói buộc trừ ra lòng tham dục của chính nó. Nó chỉ cần mở rộng
bàn tay là thoát được. Chúng ta cũng vậy, chỉ cần buông xả là có thể tự tại
bước đi.