Bài Giảng Ngày Thứ Ba

27 Tháng Chín 201000:00(Xem: 17875)

NHỮNG BÀI GIẢNG TÓM TẮT
của KHOÁ THIỀN MINH SÁT MƯỜI NGÀY
Thiền sư Goenka - Thích Minh Diệu dịch
Nguyên tác: "The Discourse Summaries", S.N. Goenka (1994)

NGÀY THỨ BA CỦA KHÓA TU

Bát thánh đạo: Trí tuệ - trí tuệ do truyền đạt, trí tuệ bằng tri thức, trí tuệ bằng kinh nghiệm.
Kalaapaa: bốn yếu tố
Ba đặc tính: vô thường, bản chất huyển hóa của Ngã, và khổ.
Sự thể nhập qua thực tại hiển nhiên

Ngày thứ ba đã qua. Chiều mai các bạn sẽ đi vào lãnh vực của Trí tuệ (pan~n~aa), phần thứ ba của Bát thánh Đạo. Không có trí tuệ, phương pháp hành trì không thể thực hiện hoàn hảo.

Chúng ta bắt đầu hành trình bằng tu tập giới (Siila), đó là, bằng cách từ bỏ những hành viù gây tác hại cho người khác; nhưng mặc dù chúng ta có thể không gây hại đến người khác, chúng ta vẫn còn gây hại cho chính chúng ta bằng cách tạo ra những phiền não trong tâm. Vì vậy, chúng ta tiến hành sự luyện tập thiền định, học cách điều phục tâm, để đè nén những phiền não đã sinh khởi. Tuy nhiên, sự đè nén phiền não không làm chúng tiêu mất. Chúng lưu lại trong vô thức và sinh trưởng ở đó, tiếp tục gây tác hại đến chính chúng ta. Vì vậy, tiến trình thứ ba của Giáo pháp ( trí tuệ: pan~n~aa): không phải đưa ra một chứng nhận giải thoát mọi phiền não cũng không phải sự đè nén chúng, mà thay vì cho phép chúng sinh khởi để tiêu diệt chúng. Khi phiền não được đoạn trừ , tâm thức thoát khỏi mọi cấu nhiễm. Và khi tâm thức được thanh tịnh, khi đó không cần bất cứ nỗ lực gì để chúng ta từ bỏ những việc làm có hại cho người khác bằng sự tự nhiên một tâm thức thuần tịnh có đầy đủ thiện chí, từ tâm đối với mọi người. Tương tự, không cần bất cứ nổ lực gì để chúng ta từ bỏ những hành động có hại đến chính bản thân. Chúng ta sống một cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc. Vì vậy mỗi tiến trình của phương pháp hành trì phải đưa đến một tiến trình kế tiếp. Giới dẫn đến sự phát triển thiền định (samaadhi), chánh định; định đưa đến sự phát triển trí tuệ (Pan~n~aa), trí tuệ thanh lọc tâm thức; trí tuệ đưa đến niết bàn (nibbaana) sự giải thoát mọi trần cấu, sự giác ngộ hoàn tòan.

Trong bát chánh đạo Trí tuệ bao gồm có hai:

1- Sammaa-san’kappa: chánh tư duy: thật sự không cần thiết toàn bộ tiến trình tư duy chấm dứt trước khi chúng ta có thể bắt đầu phát triển trí tuệ. Tư duy tồn tại, nhưng cách thức của sự tư duy thay đổi. Những cấu uế ở bề mặt của tâm thức bắt đầu đi qua vì sự hành trì tỉnh giác về hơi thở. Thay vì tư duy về tham, sân và si mê, chúng ta bắt đầu có những tư duy lành mạnh, tư duy về giáo pháp, con đường giải thoát cho chúng ta.

2- Sammaa-ditthi: chánh kiến: đây là trí tuệ chính hiệu, sự hiểu biết thực tại như thật chính nó, không phải như nó sẽ biểu hiện.

Có ba tiến trình về sự phát triển trí tuệ. Tiến trình thứ nhất là trí tuệ nhận được bằng cách nghe hoặc đọc lời nói của người khác (sutta-mayaa pan~n~aa: văn tuệ). Trí tuệ thâu nhận này rất là hữu ích để đặt chúng ta vào một phương hướng thích hợp. Tuy nhiên, không thể giải thoát bằng trí tuệ này, vì thực tế nó chỉ là trí tuệ vay mượn mà thôi. Chúng ta chấp nhận nó như chân lý có thể vì lòng tin mù quáng, hoặc có thể vì sân hận, trong sợ hãi rằng không tin chúng ta sẽ bị rơi vào địa ngục, hoặc có thể vì sự tham lam, trong sự hy vọng rằng sự tin tưởng sẽ đưa chúng ta đến thiên đàng. Nhưng trong trường hợp này, nó không phải là trí tuệ của chính chúng ta.

Vai trò của văn tuệ sẽ đưa đến một giai đoạn kế tiếp: cintaa-mayaa pan~n~aa, tư duy trí tuệ (tư tuệ). Một cách lý trí, chúng ta kiểm tra những gì chúng ta nghe hoặc đọc để xem nó có mạch lạc, thực tế, lợi ích hay không; nếu như vậy thì chúng ta chấp nhận. Trí tuệ tư duy này cũng rất quan trọng, nhưng nó cũng rất nguy hiểm nếu nó được xem như là tối hậu hơn hết. Một số người phát triển khả năng tri thức, và do đó cho rằng anh ta là một người trí tuệ. Tất cả những gì anh ta học chỉ nhằm phục vụ để nâng cao tự ngã của bản thân; anh ta càng xa lìa sự giải thóat.

Vai trò thích hợp của tư tuệ là để dẫn đến giai đoạn kế tiếp: bhaavanaa-mayaa pan~n~aa (tu tuệ) trí tuệ phát triển do sự tu tập của chính chúng ta, ở cấp độ kinh nghiệm. Đây là trí tuệ thự sự. Văn tuệ và tư tuệ rất có ích nếu chúng nó cho ra một nguồn cảm hứng và hướng dẫn để sử dụng tiến trình kế tiếp. Tuy nhiên, chỉ có trí tuệ tự chứng mới có thể giải thoát, vì đây là trí tuệ của chính chúng ta, được căn cứ vào chính kinh nghiệm của chúng ta.

Một ví dụ cho ba loại trí tuệ: một vị Bác sĩ cho một toa thuốc tây cho một bệnh nhân. Bệnh nhân về nhà,và vì quá tin vào vị bác sĩ của anh ta, anh ta đọc tên toa thuốc hàng ngày, đây là trí tuệ nhận được (văn tuệ). Không hài lòng với toa thuốc ấy, bệnh nhân trở lại Bác sĩ, và yêu cầu và nhận một sự giải thích về toa thuốc, tại sao nó cần thiết và làm thế nào để sử dụng nó; đây là trí tuệ tư duy. Cuối cùng anh ta uống thuốc; chỉ có vậy từ đó bệnh tật của anh thuyên giảm. Lợi lạc chỉ có từ bước thứ ba (tu tuệ, trí tuệ do thực hành mà có).

Các bạn tham gia khóa tu này là các bạn tự mình uống thuốc, đêå phát triển tu tuệ nơi các bạn. Làm như vậy, các bạn phải hiểu chân lý ở cấp độ kinh nghiệm. Quá nhiều sự lẫn lộn hiện hành vì phương pháp và các sự vật dẫn đến hình thành khác hoàn toàn với bản chất thật sự của nó. Và bên ngoài hình thức của thân thể, chân lý không thể kinh nghiệm được; nó chỉ có thể trí thức hóa. Vì vậy, các bạn phải phát triển khả năng để kinh nghiệm chân lý trong chính các bạn, từ thô nhất đến cấp độ vi tế nhất, để thoát ra khỏi tất cả những vô minh và trói buộc.

Mỗi chúng ta biết rằng toàn bộ vũ trụ là sự thay đổi liên tục, nhưng chỉ có trí tuệ tư duy về thực tại này sẽ không giúp ích gì; chúng ta phải kinh nghiệm nó ở trong mỗi chúng ta. Có thể một biến cố đau thương, như cái chết của người thân, ép buộc chúng ta đương đầu với vấn đề khắc nnghiệt của vô thường, và chúng ta bắt đầu phát triển trí tuệ, để thấy sự vô ích về sự nỗ lực để có những vật chất thế gian và sự tranh cãi với người khác. Nhưng ngay lúc những thói quen cũ của tự ngã khẳng định lại chính nó, và trí tuệ khô héo, vì nó không được căn cứ trực tiếp, kinh nghiệm cá nhân. Chúng ta không có kinh nghiệm thực tại vô thường trong mỗi chúng ta.

Mọi vật đều vô thường (phù du) sinh khởi rồi tàn phai ở mỗi sát na - anicca (vô thường); nhưng sự nhanh chóng và liên tục của tiến trình tạo ra sự ảo tưởng về thường còn. Ngọn đèn cầy và ánh sáng của ngọn đèn điện cả hai đều thay đổi liên tục. Nếu bằng nhận thức các giác quan của chúng ta, chúng ta có thể khám phá tiến trình của sự thay đổi, như trường hợp ánh sáng ngọn đèn cầy, từ đó chúng ta có thể thoát khỏi sự ảo tuởng. Nhưng khi nào, như trong trường hợp của ánh sáng đèn điện, sự thay đổi quá nhanh và sự liên tục đến đổi các căn của chúng ta không thể khám phá ra nó, từ đó ảo ggiác càng khó phá vỡ. Chúng ta có thể khám phá sự liên tục của nước trong một dòng sông, nhưng làm thế nào để chúng ta hiểu rằng một người đang tắm trong dòng sông đó cũng thay đổi trong từng sát na?.

Chỉ có cách duy nhất phá vỡ ảo giác là để học để khám phá trong chính chúng ta, và để kinh nghiệm thực tại ở mỗi cơ cấu thân và tâm của chúng ta. Đây là những gì Bồ tát Siddattha Gotama đã làm để trở thành một Vị Phật. Để sang một bên mọi thành kiến trước đây, Ngài đã kiểm nghiệm chính mình để khám phá bản chất chân lý của cơ cấu thân và tâm. bắt đầu từ cấp độ vi tế nhất, và ngài đã khám phá ra rằng toàn bộ cấu trúc thuộc về vật lý, toàn bộ thế giới vật chất, được kết hợp bằng những tiểu nguyên tử, trong Paali gọi là at.t.ha kalaapaa. Và ngài đã khám phá rằng mỗi tố chất này gồm bốn yếu tố: đất, nước, lửa và không khí và những đặc tính hổ trợ của chúng. Những thành phần này, ngài đã tìm ra, là những nền móng xây dựng căn bản của vật chất, và chính chúng nó luôn luôn sinh diệt liên tục mong chóng-hàng tỉ lần trong một giây. Trong thực tế không có sự lâu bền trong thế giới vật chất; nó không có gì chỉ là sự biến đổi và dao động. Các nhàkhoa học hiện đại đã xác định những khám phá của Đức Phật, và đã chứng minh bằng thực nghiệm rằng toàn bộ thế giới vật chất được kết hợp bởi những thành phần tiểu nguyên tử luôn sinh diệt liên tục. Tuy nhiên, những nhà khoa học này không giải thoát khỏi những khổ đau, vì trí tuệ của họ chỉ là tri thức. Không như Đức Phật, họ không có kinh nghiệm trực tiếp ở nơi họ. Khi chúng ta tự kinh nghiệm thực tại của vô thường nơi mỗi chúng ta, chỉ khi nào chúng ta bắt đầu thực nghiệm về khổ.

Khi sự tuệ tri về vô thường phát triển trong mỗi chúng ta, một yết tố khác của trí tuệ sinh khởi: không có "cái ta" và "cái của ta" (anattaa). Toàn bộ cơ cấu thân và tâm, không có gì (trong thân và tâm của mỗi chúng ta) có thể kéo dài hơn một sát na, không có gì chúng ta có thể xem như tự ngã bất biến hoặc linh hồn bấn biến. Nếu có cái gì đó thật sự là "của ta", thì chúng ta phải có thể có nó, để làm chủ nó, nhưng thực tế chúng ta không điều khiển được nó ngay cả thân thể của chúng ta. Nó luôn thay đổi, suy tàn, bất kể đến sự mong ước của chúng ta.

Từ đó phần thứ ba này của trí tuệ phát triển: khổ (dukkha). Nếu chúng ta nổ lực để thu đạt hoặc nắm giữ đối với những gì mà chúng thay đổi vượt qua sự kiểm soát của chúng ta, từ đó chúng ta bị trói buộc và tạo ra khổ sở cho chính mình. Thông thường, chúng ta nhận ra khổ với những kinh nghiệm cảm xúc bất lạc, nhưng những cảm thọ lạc có thể xem như đồng đẳng với với các nguyên nhân của khổ, nếu chúng ta tăng trưởng sự tham đắm về nó, vì chúng nó đồng nghĩa với vô minh. Tham đắm những gì mang tính tạm bợ thì chắc chắn mang lại kết quả đau khổ mà thôi.

Khi hiểu biết về vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattaa) là một điều chắc chắn, trí tuệ này sẽ biểu hiện trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Chẳng hạn chúng ta đã học để thể nhập vượt qua thực tại hiển nhiên ở đó,cũng vậy trong nhũng tình huống ngoại tại chúng ta sẽ có thể thấy sự thật một cách rõ ràng và cũng đồng thời nhận ra chân lý thực tối hậu. Chúng ta làm muội lượt vô minh và sống một cuộc đời lành mạnh và hạnh phúc.

Nhiều ảo tưởng được tạo ra bằng thực tại hiển nhiên, cũng cố và kết hợp- chẳng hạn như ảo tưởng về cái đẹp thân thể. Thân thể dường như đẹp chỉ khi nó được phối hợp. Những phần riêng biệt của nó nhìn một cách riêng rẻ, thì chẳng có gì hấp dẫn và đẹp cả (asubha). Cái đẹp thân thể là bề ngoài, thực tại ở bên ngoài, không phải là chân lý rốt ráo.

Tuy nhiên, sự hiểu biết về bản chất không thật của cái đẹp thân thể sẽ không đưa đến giận ghét người khác. Khi trí tuệ sinh khởi, tự nhiên, tâm trở nên thăng bằng, không cấu nhiểm, thuần tịnh , đầy thiện chí hướng đến moị vật. Sau khi kinh nnghiệm thực tại trong mỗi chúng ta, chúng ta có thể làm muội lượt ảo tưởng (vô minh) , tham lam và sân hận, và có thể sống an bình và hạnh phúc.

Sáng mai, các bạn sẽ tiến hành những bước tiến đầu tiên của các bạn vào lãnh vực trí tuệ khi các bạn bắt đầu thực hành Vipassan. Đừng hy vọng rằng ngay khi các bạn bắt đầu thì các bạn sẽ thấy tất cả những phần tử vi tế sinh diệt trong thân thể các bạn. Không, các bạn bắt đầu với sự thật thô và bên ngoài, và bằng cách duy trì niệm xả, từ từ chúng ta thể nhập vào chân lý vi tế hơn, chân lý tối hậu của tâm thức, của thân thể, của những yếu tố thuộc về tâm và cuối cùng chân lý tối hậu vượt qua yếu tố thân và tâm.

Để thành tựu mục đích này, các bạn phải nổ lực chính mình. Vì vậy, giữ giới thật nghiêm túc, vì đây là nền móng của sự thiền định, và giữ thực tập hơi thở đến 3 giờ chiều ngày mai; duy trì sự theo dõi thực tại xung quanh khu vực hai lỗ mũi. Giữ tâm các bạn thật nhạy bén để khi các bạn bắt đầu thực hành Vipassana vào ngày mai, các bạn có thể đi sâu vào cấp độ sâu hơn và đoạn ttrừ những phiền não tìm ẩn ở đó. Hãy hành trì tinh tấn, liên tục, kiên cố, vì sự tốt đẹp và sự giải thoát cho các bạn.

Cầu mong tất cả chư vị thành công trong sự hành trì những bước đầu tiên về giáo lý giải thoát.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Tư 2016(Xem: 6177)
FAQ: Làm sao để biết ai là người hướng dẫn thực tập có khả năng? Phong trào MBSR đào tạo được khoảng chừng 9 ngàn người hướng dẫn chánh niệm tốt nghiệp từ cơ quan phụ trách đào tạo Oasis, trung tâm huấn luyện các giáo thọ chuyên nghiệp. Có chừng 18 ngàn bệnh nhân đã theo học các khóa MBSR ở UMass và một số lớp khác tổ chức tại địa phương. Để bảo vệ chất lượng huấn luyện các cơ sở này có giáo chức huấn luyện và chương trình giảng dạy hoàn bị. Ngoài ra còn có các trung tâm nghiên cứu Chánh Niệm như ở đại học California- Los Angeles (UCLA) tổ chức một chương trình 6 tuần lễ dành cho những sinh viên hay nhân viên và giáo chức muốn trở thành giáo thọ Chánh Niệm...
14 Tháng Tư 2016(Xem: 6798)
Chúng ta hãy nói một chút về việc hành thiền (thiền tứ niệm xứ). Quí vị cần phải biết một số điểm quan trọng trước khi bắt đầu thực hành. Hành thiền có nghĩa là gì? Quý vị thực hành như thế nào? Trạng thái tâm quan sát ra sao, thái độ thế nào? Mục đích hành thiền của quý vị là gì? Quý vị cần có một ý niệm và mục đích rõ ràng trước khi bắt đầu thực hành. Quý vị không thể bắt đầu thực hành mà không có một số hiểu biết hay kiến thức về việc mình đang làm. Khi quý vị làm một việc gì đó, quý vị cần phải hiểu một chút về những nguyên tắc đối với việc mình đang làm. Chỉ như vậy quý vị mới gặt hái được lợi ích từ việc làm đó. ....
09 Tháng Tư 2016(Xem: 5839)
FAQ: Mức độ khả tín của hiệu quả thực tập Chánh niệm? Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như nhãn, nhĩ , tỵ , thiệt, thân và ý (thức) Thuật ngữ Phật giáo gọi là năm căn hay bình dân hơn là lục tặc (đeo trên người Phật Di Lặc) Đó là sáu cửa ngõ để thế giới bên ngoài xâm nhập vào Tâm...
04 Tháng Tư 2016(Xem: 5645)
Bài viết này sẽ trình bày rằng Thiền Tông là pháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy. Nói nguyên thủy, vì Thiền Tông chính từ lời Đức Phật dạy. Nói cốt tủy, vì nhiều cách an tâm trong Thiền Tông là từ các kinh, khi chư tăng cao niên xin dạy pháp ngắn gọn để sẽ lui về một góc rừng ngồi trọn đời cho tới khi giải thoát.
28 Tháng Tư 2016(Xem: 5774)
Câu hỏi: Chánh Niệm là phương pháp thực hành tâm linh của Phật Giáo hay một phương pháp phổ quát khoa học? Chánh Niệm là chú ý theo dõi một đối tượng nào đó với chủ đích, trong khoảnh khắc hiện tại, bàng quan, không phán đoán. Có bốn yếu tố chính (1) chú ý theo dõi (2) trong khoảnh khắc hiện tại (3) có mục đích (4) không phán đoán tất cả những đối tượng hay trãi nghiệm hiện ra trong tầm ý thức.
02 Tháng Ba 2016(Xem: 5469)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, với một tâm tư hoàn toàn tỉnh táo và sáng suốt, biết rõ đối tượng đang tiếp xúc hay thức tỉnh về việc mình đang làm. Nó là một hình thái thiền hành được áp dụng trong đời sống thường nhật, thể hiện qua việc chú tâm nhận biết hay chánh niệm tỉnh giác về các hoạt động của thân thể, vừa khiến cho tâm thức diễn tiến một cách thư thái, hài hòa, thông suốt, vừa khiến cho mọi hoạt động trở nên khoan thai, nhịp nhàng, chuẩn xác. Đây là một trong các phương pháp “quán thân trên thân” (kàye kàyànupassanà)1 hay pháp môn “thân hành niệm”(kàyagatasati)2 được nói đến trong kinh điển đạo Phật, nghĩa là chú tâm nhận biết hay quán niệm về các hoạt động hàng ngày của thân thể, khiến cho tâm trí trở nên định tĩnh, thanh tịnh, sáng suốt, đạt đến giải thoát và giải thoát tri kiến. Kinh Sa-môn quả, Trường Bộ nêu định nghĩa:
12 Tháng Giêng 2016(Xem: 9549)
Giống như trò chơi thể thao golf hay cả khi muốn luộc trứng tới mức hoàn hảo, mới đầu thực hành chánh niệm có vẻ dễ dàng. Nhưng lúc quý vị ngồi xuống tọa Thiền với đôi mắt nhắm hay mở – một chuyện không thể nào tránh được là quý vị không thể nào ngừng suy nghĩ
26 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 10437)
Trong bài kinh Kalama nổi tiếng, thường được nhắc đến, Đức Phật đã đề ra mười điều mà ta không nên dựa vào để chọn người thầy hay để đi theo con đường tâm linh nào đó. Tất cả đều có liên quan đến một hệ thống niềm tin dựa vào truyền thống hay vào các cổ thư. Không tin nhưng ta phải tự tìm ra sự thật là điều Đức Phật thường nhấn mạnh. Nếu không làm thế, ta sẽ khó có được cái thấy nội tại, là bước đầu tiên đưa ta đến con đường đạo.
25 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6453)
Như Đức Phật đã nói: “Này các Tỳ kheo, đây là con đường trực tiếp để làm trong sạch chúng sinh, để vượt qua buồn đau và sầu bi, để chấm dứt sự khổ và phiền não, để đạt được con đường chánh đạo, để chứng ngộ Niết-bàn, được gọi là Bốn Nền Tảng Chánh Niệm.”
21 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 10540)
Vào thời Đức Phật có vị tỳ khưu tên Tuccho Pothila. Đại Đức Pothila rất thông minh, thấu suốt nằm lòng kinh điển. Ngài có đến mười tám ngôi chùa và được xem là một Pháp Sư lỗi lạc, khét tiếng đến nỗi mọi người đều tôn sùng kỉnh mộ. Khi nghe đến danh Đại Đức "Tuccho Pothila" ai cũng thán phục.