I. Lời Tiểu Dẫn

25 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 6703)

KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT
Biên Soạn: Thiền Sư Chân Nguyên
Dịch Giải: Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. PL. 2544 – DL. 2000

B. GIẢNG GIẢI

I- LỜI TIỂU DẪN 
KHẮC IN LẠI SÁCH KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT

Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao ? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật". Người nhận thấy lý đó thì có thể thành Phật. Còn mê nó thì ta cũng không hề mất. Bởi tự tánh sâu lắng, bản tâm trong lặng, cao vút tồn tại một mình, cao vượt thoát không gì ngoài. Mới biết, tất cả hàm linh đều có đủ đức tánh Như Lai, do vì chúng sanh chướng sâu tuệ cạn, nên dùng hàng ngày mà chẳng tự thấy. Vậy nên Đức Năng Nhân thầy ta rất thương xót chúng sanh luân hồi mãi nơi khổ thú, một lòng vì việc cứu khổ mà dạy cho họ minh tâm kiến tánh. Cũng như nhà Nho chúng ta vì "thành đức" dạy cho người cùng tột lý tánh, chỉ là một đạo lý thôi.

Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật" nghĩa là sao ? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó.Hỏi tại sao sách này đặt tên là Kiến Tánh Thành Phật, thì được giải thích vì muốn cho người ngưỡng mộ tên này và cần nhận được lý thật của nó. Nghe nói Kiến Tánh Thành Phật ai cũng mong muốn được Kiến tánh thành Phật. Đây là cách gây ấn tượng mạnh cho mọi người thích thú muốn tu. Kế tiếp là dẫn câu Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật trong Kinh Pháp Hoa để làm chứng. Nhập Tri Kiến Phật hay thành Phật không khác. Chúng ta học Kiến tánh thành Phật sẽ thấy một lối đi, nhận ra bản tánh của mình là được thành Phật, đó là cái căn bản của quyển sách. Thế nên đây mới nói Người nhận thấy lý đó thì có thể thành Phật. Lý đó tức là lý Kiến tánh thì có thể thành Phật. Còn mê nó thì ta cũng không hề mất. Bản tánh mình vốn có sẵn, nếu nhận ra nó thì mình thành Phật, nếu mình quên nó thì nó cũng không mất. Tại sao vậy ? Bởi tự tánh sâu lắng, bản tâm trong lặng, cao vút tồn tại một mình, vượt thoát không gì ngoài. Đây giải thích tại sao bản tánh không mất. Vì bản tánh sâu lắng, hằng trong sáng lặng lẽ, cao vút, còn mãi, chỉ có một mình, không có gì ở ngoài nó được. Như vậy bản tánh có sẵn nơi mọi người không bao giờ mất, nhưng nó quá yên lặng hằng trong sáng, nhận ra nó là cái nhân thành Phật, nếu quên nó thì nó cũng hằng hữu không bao giờ mất. Mới biết, tất cả hàm linhđều có đủ đức tánh Như Lai, do vì chúng sanh chướng sâu tuệ cạn, nên dùng hằng ngày mà chẳng tự thấy. Đây nói rõ tánh Phật có sẵn trong tất cả hàm linh (chúng sanh), cho nên nói tất cả hàm linh đều có đức tánh Như Lai. Do vì chúng sanh chướng sâu tuệ cạn tức là phước duyên thô thiển. Tất cả quí vị ở đây có thấy mình chướng sâu tuệ cạn không ? Chắc ai cũng biết mình chướng thì sâu mà tuệ thì cạn, nên có tánh Phật sẵn mà không nhận ra. Chúng sanh cũng vậy, vì chướng làm che ngăn trở ngại, trí tuệ thì cạn mỏng nên không phá thủng được cái chướng sâu dày, do đó không thấy được tánh Phật của mình. Vậy nên Đức Năng Nhân thầy ta rất thương xót chúng sanh luân hồi mãi nơi khổ thú, một lòng đem việc cứu khổ dạy cho họ minh tâm kiến tánh. Đức Năng Nhân là chỉ cho Phật. Ngài thương chúng sanh đang mãi chịu luân hồi trong sáu nẻo, đem tấm lòng chân thành ra lo việc cứu khổ chúng sanh, bằng cách dạy cho họ được minh tâm, phá thủng cái màng chướng sâu để nhận ra bản tánh của mình. Cũng như nhà Nho chúng ta vì thành đức dạy cho người cùng tột lý tánh, chỉ là một đạo lý thôi. Thời nhà Lê là thời trọng Nho khinh Phật, bấy giờ vua Lê Hy Tông vừa tỉnh ngộ theo Phật, nên ngài Chân Nguyên hay các vị học Phật thời đó muốn nói giáo lý đạo Phật cho quần chúng nghe, thường dẫn Nho làm chứng để cho họ tin, do đó mà có câu này.

Tôi có một người bạn tâm đắc, nhân nói với nhau: Chúng ta mang tên Tỳ-kheo, từ lâu đã kết chặt nghiệp tập huân nhiễm, tự bỏ của cải nhà mình đi làm khách lang thang, chẳng hay biết châu báu trong áo, không lạ gì chẳng thấy tánh ! Dù có mà người chẳng khéo nhận thấy tự tánh ấy mới ngầm khiến bậc Tiên đức trình thuật lại sách này. Bởi chẳng biết mình có khả năng ấy, đâu khỏi phạm vào lời răn nhắc: "Khi nói đến tâm tánh thì trừng mắt nhìn nhau ?"

Trong lời Tiểu Dẫn ngài Diệu Trạm nói: Tôi có một người bạn tâm đắc, nhân nói với nhau: Chúng ta mang tên Tỳ-kheo, từ lâu đã kết chặt nghiệp tập huân nhiễm, tự bỏ của cải nhà mình đi làm khách lang thang, chẳng hay biết châu báu trong áo, không lạ gì chẳng thấy tánh. Qua câu nói của ngài Diệu Trạm chúng ta cảm thấy đau thống thiết, vì mình đã xuất gia làm Tỳ-kheo mà lâu nay cứ kết chặt nghiệp, huân nhiễm theo tập tục thế gian rồi tự bỏ của cải nhà mình làm khách đi lang thang cầu thực, trong áo có sẵn hạt châu vô giá mà không biết. Có châu mà không biết thì chuyện không thấy tánh không có gì là lạ, nhất định là phải như vậy. Lời nói của ngài Diệu Trạm và bạn Ngài ở thời nhà Lê, chúng ta thấy xót xa, xét lại tu sĩ chúng ta ngàynaycógiốngcácNgàikhông ? Đây là một câu hỏi để mình tự nghiệm. Dù có mà người chẳng khéo nhận thấy tự tánh ấy mới ngầm khiến bậc tiên đức trình thuật lại sách này. Mặc dù chúng ta có sẵn tánh Phật là của báu mà không nhận thấy, thế nên khiến cho các bậc tiên đức (tiên đức chỉ cho ngài Chân Nguyên) mới viết ra sách này để nhắc cho chúng ta nhớ. Bởi chẳng biết mình có khả năng ấy, đâu khỏi phạm vào lời răn nhắc: "Khi nói đến tâm tánh thì trừng mắt nhìn nhau?". Khi hỏi thế nào là chân tâm thế nào là Phật tánh thì trừng mắt mà nhìn chớ không thể trả lời được, như câm như điếc. Đó là đoạn văn, trước hết ngài Diệu Trạm trình bày lý do tại sao cuốn sách này tên là Kiến Tánh Thành Phật. Kế tiếp Ngài nêu lên lý do tại sao Thiền sư Chân Nguyên phải viết cuốn sách này.

Bản sách này, tôi được trưởng lão Chính Giám viện chùa Vĩnh Nghiêm tặng cho. Cuối lời tựa thấy có ghi: "Đời Lê, niên hiệu Chính Hòa thứ 19 (1698), in tại chùa Long Động", thì biết khoảng cách từ đời Trần đến đời Hậu Lê ít có người nhận được tông chỉ vậy.

Khoảng ba trăm năm sau từ cuối đời Trần đến cuối đời Lê, tông chỉ Thiền ít người nhận được nên Thiền sư Chân Nguyên mới cố gắng viết ra quyển Kiến Tánh Thành Phật này.

Tổ sư Tuệ Đăng của chúng tôi sợ rằng càng lâu càng thất truyền, nên Ngài biên soạn tập sách này, cùng lời biện biệt để chỉ bày. Hãy xem bài tựa ban đầu, lời đơn sơ mà đầy ý vị, chất phác mà có văn vẻ. Chỗ trước thuật vừa khuyên người, lại mở bày nghĩa ẩn chứa sâu kín, nói thì gồm cả phước hữu vi, lời thì mang đầy hương vị kiến tánh. Đó là nghĩa tiếp nối bậc Thánh từ trước, mở mang cho người về sau.

Thiền sư Chân Nguyên có hai hiệu, một hiệu Chân Nguyên và một hiệu Tuệ Đăng. Ngài sợ Thiền tông lâu ngày bị thất truyền, tức là từ đời Trần trở về sau xa dần dần, người đời không còn nhận được bản tâm, không thấy được bản tánh nên Ngài mới biên soạn quyển Kiến Tánh Thành Phật cùng những lời biện biệt để chỉ bày. Ngài Diệu Trạm tán thán Thiền sư Chân Nguyên rằng, Ngài sợ Thiền tông đời Trần bị thất truyền nên Ngài mới viết cuốn sách này để giảng dạy, biện biệt cho mọi người biết được ý nghĩa. Muốn biết chỗ này chúng ta hãy xem Lời tựa ở sau. Ngài Diệu Trạm nói Lời tựa tuy đơn sơ mà đầy ý vị, tuy chất phác mà có văn vẻ. Chỗ trước thuật của Ngài vừa khuyên người, lại mở bày ý nghĩa ẩn chứa sâu kín. Như ở trước tôi nói, trong đây vì để thích hợp với người bình dân nên Ngài nói về phước hữu vi là lập đài Cửu phẩm liên hoa, niệm Phật cầu vãng sanh hay in Kinh sách. Tuy nói về pháp hữu vi nhưng chứa đầy ý nghĩa kiến tánh. Ngài làm như vậy là Ngài tiếp nối tinh thần của những bậc Thánh trước và cũng để mở mang cho người sau đồng nhớ hiểu để tu hành.

Song, với người đồng đạo khi thưởng thức ý vị sách này, hoặc có nhận lấy được điều gì, thì cũng như một phen trợ giúp cho việc đi xa, lên cao, chớ cho rằng sách này không thể học theo mà phủ nhận đi. Đời nay đã cách xa, lời nói cũng bị mai một, sách này chẳng còn được lưu hành, nên nương theo bản cũ kính cẩn khắc in lại để truyền rộng ra. Nhưng bản cũ nét chữ đơn giản và cẩu thả, nay có tạm sửa lại cho đúng. Pháp sự này đã hoàn thành, tạm mượn ít lời vụng về để tỏ bày duyên khởi, đâu dám nói là Lời tựa !

Chùa Pháp Vũ, cuối thu năm Đinh Dậu 

Hậu học Tỳ-kheo Diệu Trạm

Kính ghi

Bản được cất giữ tại chùa Pháp Vũ, thôn Quảng Nội, xã Đồng Lại, tổng Đông Cao, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Mùa an cư kiết hạ, tại am Lan Nhã Thiền Dược, bên mé Đông chùa Hoa Yên, núi Yên Tử, Hòa thượng Tuệ Đăng Chân Nguyên hiệu san.

 

Qua hai dòng trên của Lời tựa chúng ta biết thêm am Thiền Dược nằm bên mé Đông chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử chớ không phải ở dưới chùa Long Động.

Đoạn này ngài Diệu Trạm nói lên lý do mà Ngài in lại quyển Kiến Tánh Thành Phật này và viết Lời tiểu dẫn. Ngài nói rằng với người đồng đạo khi thưởng thức ý vị sách này, hoặc nhận hiểu được điều gì thì cũng như đi xa hay lên cao mà có được sự trợ giúp, đó là cái tốt. Vậy chớ cho rằng sách này không thể học theo mà phủ nhận nó. Chúng ta phải biết sách này giúp cho chúng ta phần nào trong việc đi xa là tu tiến đến Phật quả và việc lên cao là giải thoát sanh tử, đừng nghĩ rằng quyển sách này không có lợi ích, bỏ đi thì rất uổng. Bởi vì đời nay đã cách xa, lời nói cũng bị mai một, sách này chẳng còn được lưu hành. Từ đời Lê tới đời Nguyễn sau này, quyển Kiến Tánh Thành Phật càng ngày càng không được người biết tới, nên bị mai một, vì vậy mà ngài Diệu Trạm cho in tái bản để cho mọi người đọc. Đó là lần tái bản ngài Diệu Trạm ghi Lời tiểu dẫn.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
06 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 10279)
Phật cùng chúng sinh một tâm không khác. Tỷ như hư không, không tạp loạn, không hư hoại. Như vầng nhật lớn chiếu khắp thiên hạ; khi mặt trời lên chiếu sáng khắp nơi, hư không chưa từng sáng. Lúc mặt trời lặn u tối khắp nơi, hư không chưa từng tối. Cảnh sáng tối tự tranh nhau, còn tính của hư không thì rỗng rang không thay đổi. Tâm của Phật và tâm của chúng sinh cũng như vậy.
25 Tháng Mười Một 2014(Xem: 11133)
"BÂY GIỜ ĐẠI THIỀN SƯ đã nhập diệt, chúng ta chỉ còn lại những câu chuyện. Và, may mắn thay, cuốn sách này là hiện thân như ngài còn sống, cho những ai chưa từng có cơ hội gặp được ngài. Qua các trang sách này, nếu bạn lưu tâm suy gẫm và để cho chúng thấm sâu vào tâm hồn bạn, bạn sẽ thực sự thấy ngài trong lời khai thị mà mình không thể bắt chước được và có lẽ quan trọng hơn nhiều, đó là niềm mong mỏi của ngài, bạn sẽ gặp lại chính mình."
07 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14439)
Biểu đồ I.1: Thiền tông Ấn Độ Biểu đồ I.2: Thiền Ấn Độ Đến Trung Quốc Biểu đồ I.3: Thiền Trung Quốc – Huệ Năng và Môn Đệ Biểu đồ II.1: Dòng Mã Tổ Biểu đồ II.2: Dòng Mã Tổ Biểu đồ III.1: Tông Tào Động Biểu đồ IV.1: Tông Lâm Tế Biểu đồ IV.3: Dòng Lâm Tế – Viên Ngộ Biểu đồ V: Tông Vân Môn & Pháp Nhãn
07 Tháng Mười Một 2014(Xem: 5956)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy. Cho nên, nhìn thấy "cái thấy không thể thấy" thì chân tính sẽ hiện ra. Bản tính của cái thấy là vô sinh, nên "cái thấy sinh nẩy" là không có. Cũng không có sự thực hữu của tính, mà cái thấy chân thực thì không thay đổi, cho nên mới nói: thấy tính một cách chân thực.
01 Tháng Mười 2014(Xem: 13352)
Phương pháp của Thiền là cắt đứt con đường nói năng và dập tắt khung trời khái niệm trong đó ý thức cứ tiếp tục tư duy và đi tìm kiếm những ý niệm để cố gắng tìm hiểu thực tại (ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt). Ngôn ngữ đạo đoạn là cắt đứt con đường ngôn ngữ. Tâm hành xứ diệt nghĩa là dập tắt vùng trời của sự suy tư bằng khái niệm, đừng để tâm ý đi tìm những ý niệm: có-không, sanh-diệt,…
30 Tháng Chín 2014(Xem: 15474)
Đạo Phật nước Việt Nam chúng ta ngày nay có hai pháp môn tu chính là Thiền Tông và Tịnh Độ Tông. Hai pháp môn Thiền và Tịnh cùng xuất phát trong hệ kinh tạng Đại Thừa, nói có hai pháp môn nhưng cùng cứu cánh cùng đi đến thành quả là hết khổ đau sanh già bệnh chết cho chính mình và cho mọi người.
29 Tháng Chín 2014(Xem: 9110)
Từ khi Tổ Bồ-đề-đạt-ma qua trung quốc truyền tâm ấn đạo lý giác ngộ theo truyền thuyết thì sơ Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền cho vị đệ tử kế thừa là ngài Thần Quang Huệ Khả bộ kinh Lăng-già tâm ấn. Nhưng phải chờ đến hơn ba trăm năm sau và qua sáu vị Tổ thì đạo giác ngộ mới nở hoa kết trái. Tuy nhiên hạt giống của Tổ Bồ-đề-đạt-ma gieo trên đất Trung Hoa là kinh Lăng-già nhưng nở hoa kết trái lại là kinh Kim cang. Tại sao lại có sừ sai biệt như vậy, dù rằng cả hai bộ kinh đều do Như Lai Thế Tôn thuyết giảng.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 13411)
Đức Đạt Lai Lạt Ma, tuyệt vời. Tôi có nhiều cơ duyên với ngài... ngay cả từ thời rất là thơ trẻ, khi còn ở trong nước và khi chỉ mới đọc các bài báo sơ sài về ngài. Đất nước Tây Tạng và vị lãnh đạo này là một thế giới kỳ bí, không chỉ vì xa xôi cách biệt nhưng cũng vì niềm tin của dân tộc này rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
22 Tháng Chín 2014(Xem: 11880)
Quyển Lâm Tế Ngữ Lục song ngữ này được soạn thảo cho lớp Phật pháp tiếng Anh và cho giới trẻ người Việt học Phật. Đây là một phần việc trong chương trình giới thiệu những bản dịch hiện nay về văn bản Thiền cổ điển.
16 Tháng Chín 2014(Xem: 8834)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà.