Lời Tựa

19 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10516)

ÁNH SÁNG Á CHÂU - THE LIGHT OF ASIA
Tác giả: Sir Edwin Arnold - Pháp dịch: L. Sorg - Việt dịch: Đoàn Trung Còn
Phật học Tùng thơ 24, Sài Gòn 1965, In lần nhứt
Bản vi tính, sưu tầm và hiệu đính: Nguyên Định , Mùa Vu-Lan 2006, PL 2550

Lời Tựa

Quyển Ánh Sáng Á Châu này tức là chuyện kể đời của Phật Thích Ca bằng văn thi, bản chánh soạn bằng Anh ngữ, do công phu của nhà văn hào người Anh tên là Sir Edwin Arnold sáng tác bằng văn vần một cách thanh nhã và đoan trang. Ông Léon Sorg dịch ra Pháp văn nhan đề " La lumière de l'Asie". Nay tôi nương theo quyển Pháp văn mà dịch ra Việt văn, nhan đề "Ánh sáng Á Châu". Mặc dầu dịch ra văn vần thì rất khó khăn và phải phí rất nhiều thời gian, nhưng tôi cũng cố gắng phiên dịch bằng thi thượng lục hạ bát, mong rằng với thể văn ấy, bạn đọc cũng như tôi, chúng ta ắt dễ cảm hóa để hấp thụ Giáo lý thanh cao, Triết học thâm thúy, Siêu hình tinh vi mà các nhà tôn giáo, văn hóa, triết học và khoa học Âu Mỹ đời nay đều công nhận một cách kính phục .

Thật vậy, Đức Phật Thích Ca có sống đời cách nay hai ngàn rưỡi năm. Tuy là hàng Vương giả sang trọng, nhưng ngài hòa mình vào các tầng lớp nhân dân, nhứt là ngài thường đoái tưởng tới hạng bình dân, tới hạng nghèo hèn, chia bát cơm manh áo do họ thân tặng, uống chén nước bát sữa do bàn tay lem luốc của họ kính dâng . Nhân các dịp gần gủi thân mật ấy, Ngài đem lý từ hòa, hỷ xả mà giáo hóa họ, đem lẽ tiến hóa mà cảm thông họ. Nhờ vậy, vào thời buổi ấy, ở Ấn độ, người ta sống một đời sống rất hạnh phúc, kẻ lê thứ thì kính mến nhà trí thức, nhà tôn giáo, nhà cai trị, nhà quân quyền. Còn kẻ bề trên nhờ hấp thụ Phật lý mà đem lòng thương tưởng lê dân, cộng tác với Phật trong việc thanh bình đất nước: người người trở nên hòa lạc, thân ái từ tâm tư đến ngôn ngữ và hành vi vậy.

Chẳng những riêng đối với loài người trong các giai cấp, mà đối với hạng thú cầm sống trong cảnh đọa lạc hoặc trong cảnh kém tiến hóa, đối với các linh hồn bị trừng phạt nơi cảnh thấp vì đã lỡ lạc lầm, cùng đối với các Thần Tiên đương hưởng phước ở cảnh cao nhờ trước đã sống đời một cách phước thiện, Đức Phật cũng hằng tiếp xúc với họ để an ủi họ hoặc để nâng chí họ trên đường tiến tu tiến đức.

Khi xem qua quyển sách nầy, quí bạn sẽ thấy rằng Giáo lý của Phật không phải là mê tín, không phải là dị đoan. Mà là một nền Đạo đầy đủ, đáng tôn, đáng kính, thuần lương, ôn hòa, rất hợp với tư tưởng của đa số các nhà trí thức ngàn đời. Trong đó, có chứa thuyết trung-dung, lẽ luân thường của Khổng Tử, lý vô vi thanh tịnh của Lão Tử, lẽ huyền bí, tín ngưỡng và giải thoát của Gia Tô, lý tu thân chỉnh tâm của các nhà triết học Hy lạp, nhứt là những lẽ cao siêu về sinh vật, về vũ trụ, mà các nhà khoa học gần đây đều công nhận và các nhà khoa học hiện nay đương tìm tòi thêm ra để biện minh cho rành rẽ.

Vả lại, quyển " Ánh Sáng Á Châu " nầy có cái đặc sắc là không thần quyền hóa đức Phật, không đề cao địa vị thánh thần của Ngài, mà đặt Ngài vào vị trí một Người, cùng cảm những mối cảm của nhân gian, nhưng biết kiềm chế các mối cảm ấy để thoát ly khỏi lãnh vực cảm xúc, trìu mến mà trở nên tự tại, giải thoát và giải thoát cho đời.

Như lúc Thái tử sắp bước ra khỏi thâm cung, bấy giờ người vợ hiền đang ngủ yên, thì có mấy câu: 
Ngài rằng: "Nệm ấm chăn tơ, 
Trượng phu thôi chẳng bao giờ nằm đây! » 
Ba lần Ngài cất bước đi,
Ba lần trở lại, ấy vì Da-Du...

Trước khi thót lên ngựa để ra khỏi hoàng thành, trước khi rời kinh đô Ca-tỳ-la-vệ để lên non tu luyện, thì có những câu:
Thương cha, mến vợ rất sâu,
Còn hơn yêu chỗ vui cầu của ta,
Nhưng nay đành phải lìa xa,
Tầm phương cứu vợ, cứu cha, cứu đời.

Và sau khi thành Đạo, sau khi thành Phật đã nhiều năm, bấy giờ Ngài trở về kinh thành Ca-tỳ-la-vệ mà hóa độ thân nhơn, thì có những câu: 

Ngài đà nguyện dứt tình nồng,
Không còn đụng chạm thịt hồng nữ nhơn.
Tại sao lúc nọ đứng gần,
Để cho vợ cũ ân cần ôm hôn?
Ngài rằng: Quảng đại tâm hồn
Cũng còn luyến ái như phồn nhỏ nhen.
Mặc dầu cao nhã đáng khen,
Chớ đem Giải thoát làm phiền người ta.

Vậy mong rằng các bạn đem lòng bình thản, lòng an nhiên, lòng thanh tịnh, lòng kính tín mà xem đi xem lại quyển sách này, ắt sẽ được vững tâm trên con đường Đạo lý, sẽ vững chí để lần bước theo gót các trang Hiền Thánh ngàn xưa mà người đời hằng tôn kính vậy.

Sài Gòn, tháng năm dương lịch 1965

Phật tử ĐOÀN TRUNG CÒN 

This uplifting poem has always been one for our favourites, so it's lovely to see this new and well-bound edition. Though written more than a hundred years ago, it still retains the power to move us in a way that no prose rendering of the life of the Buddha can. Its vivid, jewelled language makes us see the eagle wheeling in the sky, the snake beneath the rock,the moonlight shining on the floor while all in the palace sleep. The spreading branches of the Tree of Wisdom...And we cannot but admire the courage, determination and self-sacrifice of the Indian price who, out of compassion, left his palace to find a remedy for the sufferings of the world.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Mười 2014(Xem: 8243)
...Điều cuối cùng đáng nói nữa, là chẳng có tư liệu nào là chính xác hoàn toàn, do các vị kết tập sư viết sau cả 500 năm, và cũng khó tránh khỏi sự hư cấu, thêm bớt của hàng sa-môn hậu học. Ta học Phật, tu Phật là học và tu theo giáo pháp. “Khi Như Lai diệt độ rồi thì Pháp và Luật là thầy của các ông”. Và, “Ai thấy Pháp là thấy Như Lai!” Vậy, Pháp mới là quan trọng!...
13 Tháng Mười 2014(Xem: 6623)
Phật giáo được truyền đi hai hướng: một hướng đi về phía Nam Ấn, truyền qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, và Campuchia. Phật giáo truyền theo hướng này bằng ngôn ngữ Pali và được gọi là Phật giáo Nam Truyền. Một hướng khác đi về phía Bắc Ấn qua A Phú Hãn (Afghanistan) đến Trung Hoa. Từ Trung Hoa, Phật giáo truyền đến Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
26 Tháng Chín 2014(Xem: 9153)
Đức Phật - The Story of Siddhartha Gautama là một phim tài liệu của PBS thực hiện bởi nhà làm phim từng đoạt giải thưởng David Grubin và lời thuyết minh của tài tử điện ảnh Richard Gere, kể câu chuyện về cuộc đời Đức Phật... Phim nói tiếng Anh
03 Tháng Chín 2014(Xem: 11949)
Năm 2010, tại Sài Gòn diễn ra đại hội “Con gái đức Phật” quy tụ hội chúng tỳ-khưu-ni và cận sự nữ Nam Bắc tông trên khắp thế giới về tham dự. Tôi không biết gì về nội dung cũng như hình thức đại hội ấy, nhưng cụm từ “Con gái đức Phật” tôi nghe sao nó dễ thương, bình dị và rất gần gũi với ngôn ngữ đời thường. Từ đó, tôi khởi tâm biên soạn một cuốn sách để giới thiệu về những vị Thánh Ni và những cận sự nữ có hành trạng đặc biệt và thù thắng thời đức Phật và đặt tên đầu sách là “Con gái đức Phật”.
12 Tháng Tám 2014(Xem: 24333)
Đây là bộ sách nói về cuộc đời đức Phật Thích Ca từ khi ngài Đản sinh đến lúc ngài Nhập diệt, qua lối văn kể chuyện vừa “giàu tính văn chương nghệ thuật vừa đầy đủ những chi tiết khách quan và trung thực nhất về cuộc đời đức Phật”.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 6430)
Phật Tổ Đạo Ảnh, đúng theo danh xưng là một tác phẩm miêu họa pháp tướng cùng ghi chép đạo hạnh các lịch đại Tổ sư Ấn-độ và Trung Hoa, mong để lại cho kẻ tu hành đời sau những tấm gương soi, không ngoài ý nghĩa “kiến hiền tư tề”, tức nhằm mục đích khích lệ mọi người trông thấy gương các bậc thánh hiền mà khởi tâm nối gót theo .
18 Tháng Bảy 2014(Xem: 5181)
Sau khi viết bài “Những chi tiết dị, đồng về đức Phật lịch sử”, BBT. Thư Viện Hoa Sen gợi ý tôi xem lại trang Wikipedia Tiếng Việt cùng một đề tài liên hệ. Xem xong, tôi nghĩ, mình không dám và cả không có khả năng thò tay vào đấy để sửa hay điều chỉnh được; vả lại đấy là công việc của các nhà nghiên cứu, họ có chuyên môn về cách làm hơn. Tôi thì xin chịu. Do vậy, tôi bèn copy lại, dựa theo trang Wikipedia ấy, rồi thêm chỗ này, bớt chỗ kia, dĩ nhiên là theo chủ quan kiến thức Phật học của mình.
16 Tháng Bảy 2014(Xem: 5955)
Sau khi bộ đại sử đức Phật Sakyā Gotama “Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt” 6 quyển, 3000 trang được in ấn và phổ biến trên các trang mạng Phật học, được đọc lại trên các trang Pháp Âm, và được độc giả đọc nhiều nhất là “thuvienhoasen.org” ở Mỹ và “quangduc.com” tức là Tu viện Quảng Đức ở Úc – tôi, tác giả, nhận được khá nhiều câu hỏi về những chi tiết lịch sử, có những dị biệt, mâu thuẫn nơi này và nơi khác.