Tổ thứ mười: HIẾP TÔN GIẢ

23 Tháng Bảy 201416:47(Xem: 3886)
PHẬT TỔ ĐẠO ẢNH
Hư Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật

Tổ thứ mười: HIẾP TÔN GIẢ

 

Tổ thứ mườiTôn giả, trung Ấn Độ nhân. Nhân tùy phụ yết Cửu Tổ, phụ viết: “Thử tử xử thai lục thập tuế, nhân danh Nan Sanh. Thường hữu tiên vị, thử nhi phi phàm, đương vi pháp khí. Kim ngộ Tôn giả, khả linh xuất gia.” Tổ tức vị lạc phát thọ cụ. Yết-ma chi tế, tường quang chúc tọa, nhưng cảm xá-lợi tam thất lạp hiện tiền. Tự thử tinh tiếnvong bì, hiếp bất chí tịch, nhân toại hiệu vi Hiếp tôn giả. Hậu Tổ phó dĩ Đại Pháp, tôn giả đắc pháp dĩ, hành hóa chí Hoa Thị quốc, chuyển phó pháp ư Phú-na-dạ-xa. Tức hiện thần biến, nhi nhập Niết-bàn, hóa hỏa tự phần. Tứ chúng các dĩ y kích thịnh xá-lợi, tùy xứ kiến tháp.

 

Dịch :

 

Tôn giả người Trung Ấn, nhân lúc theo cha đến yết kiến Tổ thứ chín (Phục-đà-mật-đa), cha tôn giả thưa:

- Thưa Ngài! Đứa trẻ này ở trong thai sáu mươi năm, do đó con đặt tên là Nan Sanh và từng có vị tiên bảo: ‘Đứa trẻ này khác thường, sẽ là bậc pháp khí, nay được gặp Tổ, xin Ngài cho nó xuất gia’.

Tổ liền cho tôn giả xuống tóc xuất gia. Trong lúc yết-ma thọ giới Cụ túc, có ánh sáng lạ chiếu khắp tòa và cảm ứng hiện ra hai mươi mốt viên xá-lợi. Từ đó, tôn giả tinh tấn tu hành không biết mệt mỏi, hông chẳng hề dính chiếu nên người đời gọi tôn giả là Hiếp tôn giả. Sau đó, tôn giả được Tổ truyền trao Đại Pháp. Đắc pháp rồi, tôn giả du hóa đến nước Hoa Thị và truyền pháp cho Phú-na-dạ-xa. Truyền pháp xong, tôn giả liền hiện thần biến, hóa lửa tự thiêu rồi nhập Niết-bàn. Bốn chúng dùng y bọc xá-lợi và khắp nơi đều xây tháp cúng dường.

 

Tán viết :

Hiếp bất chí tịch 

Ư đạo hà thiết

Mãn tọa tường quang 

Xung phá thiết bích 

Địa diêu lục chấn

My hoành tỵ trực 

Thiên cổ vạn cổ

Vi nhân thiên tắc[1]

 

Dịch :

Hông không dính chiếu

Hành đạo tiến tu

Khắp tòa điềm sáng

Vách sắt phá tung

Sáu cách đất rung

Mày ngang mũi thẳng

Làm gương trời người

Mãi từ nghìn xưa.

 

Hoặc thuyết kệ viết :

 

Hiếp bất trước tịch hành lực kiên 

Dĩ thân tác tắc thị thùy tiên 

Tùng bách nại hàn nhân ngưỡng mộ 

Nhật nguyệt phổ chiếu các khai nhan

Cao phong lượng tiết vô luân tỷ

Đại chí vĩ nguyện hữu thùy toàn 

Cổ kim trung ngoại giai mông nhuận 

Tường quang thụy ải chúng sở chiêm[2] 

 (Tuyên Công Thượng Nhân tác)

 

Dịch :

Lưng không dính chiếu nhẫn khó hành

Mẫu mực làm nền dạy hậu sanh

Tùng bách chịu rét người ngưỡng mộ

Nhật nguyệt tỏa sáng dáng thêm xinh

Khí tiết thanh nhã không người sánh

Chí cao nguyện lớn hiếm kẻ bằng

Xưa nay khắp chốn đều nương đức

Tướng tốt mây lành chúng kính tin

 (Tuyên Công Thượng Nhân)

 

 

Giảng:

 

Tôn giả, trung Ấn Độ nhân: Tổ thứ mười, Hiếp tôn giả là người miền Trung Ấn Độ. Tại sao gọi Ngài là Hiếp tôn giả? Vì tôn giả tọa thiền là không nằm xuống chiếu. Ngài không giống như ai, ngồi đó rồi lại nằm dài xuống. Chỗ nào Ngài ngồi thì lưng không hề dính chiếu chỗ đó, nên người ta thường gọi Ngài là “Hiếp Tôn giả” (hiếp nghĩa là sườn lưng).

Nhân tùy phụ yết Cửu Tổ, phụ viết: Tôn giả theo cha mình đến yết kiến Tổ thứ chín, cha Tôn giả thưa: Thưa Ngài! Thử tử xử thai lục thập tuế, nhân danh Nan Sanh: Tôn giả ở trong thai sáu mươi năm. Quý vị nghĩ coi! Ngài sanh ra không dễ dàng. Sáu mươi năm mới ra khỏi thai! Vậy chẳng phải là khó sanh (nan sanh) hay sao? Giống như Lão tử người Trung Hoa, ở trong thai mẹ đến tám mươi năm, vì vậy gọi là Lão tử. Vị này còn ở lâu hơn tới hai mươi năm. Thường hữu tiên vị, thử nhi phi phàm, đương vi pháp khí. Kim ngộ Tôn giả, khả linh xuất gia.”: Từng có vị tiên nói: “Đây không phải là một đứa bé bình thường, loại trẻ nít hay đái dầm, mà ngược lại sau này sẽ là bậc pháp khí trong Phật giáo. Nay gặp được Ngài-Tổ thứ chín, con xin Ngài cho nó được xuất gia”.

Tổ tức vị lạc phát thọ cụ: Tổ thứ chín liền cho tôn giả xuống tóc và thụ giới cụ túc. Yết-ma chi tế, tường quang chúc tọa, nhưng cảm xá-lợi tam thấtlạp hiện tiền: Trong lúc đang nói ba lần yết-ma truyền giới cụ túc cho Tôn giả thì có ánh sáng lành chiếu rực trên tòa và cảm ứng hiện ra hai mươi mốt viên xá-lợi.

Tự thử tinh tiến vong bì, hiếp bất chí tịch, nhân toại hiệu vi Hiếp tôn giả: Vì thế, sau khi thọ giới, Tôn giả tinh tấn không hề mệt mỏi. Chúng ta tu hành thì cảm thấy mệt mỏi còn Ngài không hề biết mệt mỏi là gì, lưng Ngài không hề chạm đến giường. Vì vậy, mọi người gọi Ngài là “Hiếp tôn giả”.

Hậu Tổ phó dĩ Đại Pháp: Sau đó, Tổ thứ chín truyền pháp môn tâm ấn cho Ngài (chú 1). Tôn giả đắc pháp dĩ, hành hóa chí Hoa Thị quốc, chuyển phó pháp ư Phú-na-dạ-xa: Tổ thứ mười được thọ ấn chứng. Sau khi được truyền pháp, Ngài đến nước Hoa Thị. Nước Hoa Thị (Palatiputra) là tên một nước của Ấn Độ. Tổ thứ mười truyền pháp cho tôn giả Phú-na-dạ-xa (Punyayashas).

Tức hiện thần biến, nhi nhập niết-bàn, hóa hỏa tự phần: Tôn giả liền hiện mười tám thứ thần biến mà nhập Niết-bàn; lại hóa ra lửa tam-muội, tự thiêu thân mình. Tứ chúng các dĩ y kích (裓) thịnh xá-lợi, tùy xứ kiến tháp: Bốn chúng ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni dùng vạt áo đựng xá-lợi của tôn giả và xây tháp cúng dường khắp nơi.

 

Bài tán:

Hiếp bất chí tịch, Ư đạo hà thiết: Hông Ngài không dính chiếu, đó là sự tu hành rất khẩn thiết, không còn gì khẩn thiết hơn thế!

Mãn tọa tường quang, Xung phá thiết bích: Ánh sáng lành xuất hiện khắp tòa, như phá tung các tường sắt.

Địa diêu lục chấn, My hoành tỵ trực: Đất ở đây đều chấn động. Có tất cả sáu cách chấn động. Lông mày của Ngài thì nằm ngang, mũi thì thẳng. Quý vị xem! Ngài thì như vậy đó! Mày ngang, mũi dọc, còn quý vị thì lông mày ngang hay dọc? Mũi thì ngang hay dọc?[3] Về vụ này tôi xin để quý vị tự xét lấy mình!

Thiên cổ vạn cổ, Vi nhân thiên tắc: Nghìn xưa đến nay, Ngài đều làm mẫu mực cho người và trời.

 

Bài kệ:

Hiếp bất trước tịch hành lực kiên: Tại sao lưng Ngài không dính chiếu? Vì sức tinh tấn tu hành của Ngài rất kiên cố.

Dĩ thân tác tắc thị thùy tiên: Ngài dùng thân mình làm phép tắc, là một tấm gương sáng cho mọi người.

Tùng bách nại hàn nhân ngưỡng mộ: Bất luận lạnh như thế nào thì cây tùng và cây bách đều không ngại, nên con người rất ngưỡng mộ sự cứng rắn của chúng, và cảm thấy tùng bách, rất cao thượng.

Nhật nguyệt phổ chiếu các khai nhan: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu khắp nơi, mọi người thấy đều ưa thích.

Cao phong lượng tiết  luân tỷ: Ngài tu hành như vậy, đạo phong thanh cao, tiết tháo hoàn mỹ như vậy thì không có người nào sánh kịp.

Đại chí vĩ nguyện hữu thùy toàn: Chí khí cao, nguyện lực lớn như vậy, cái nào cũng trọn vẹn, cái nào cũng không thiếu sót.

Cổ kim trung ngoại giai mông nhuận: Xưa nay, người trong nước và ngoài nước đều thấm nhuần sự giáo hóa và ân đức của Ngài.

Tường quang thụy ải chúng sở chiêm: Đạo phong của Ngài giống như ánh sáng và khí mây tốt lành, khiến mọi người đều chiêm ngưỡng.

 

(Tuyên Công Thượng Nhân giảng ngày 10, tháng 3, năm 1978).

 

-------------------------------------

Chú 1: Bài kệ truyền pháp của Tổ thứ chín phó chúc cho Tổ thứ mười, thấy trong “Cảnh Đức Truyền Đăng Lục” và “Chỉ Nguyệt Lục” ghi:

Chân Lý bổn vô danh

Nhân danh hiển chân lý

Thọ đắc chân thật pháp

Phi chân diệc phi ngụy[4]

Dịch: 

 Chân lý vốn không tên

 Nhờ tên rõ chân lý

 Hiểu được pháp chân thật

 Không ngụy cũng không chân.


[1]脅不至蓆 於道何切 滿座祥光 衝破鐵壁
地搖六震 眉橫鼻直 千古萬古 為人天則

[2]脅不著蓆行力堅 以身作則示垂先
松柏耐寒人仰慕 日月普照各開顏
高風亮節無倫比 大志偉願有誰全
古今中外皆蒙潤 祥光瑞靄眾所瞻

[3] Hám Sơn Đại sư nói: khai ngộ rồi thì sẽ biết lỗ mũi (nostril) của mình trỏ lên hay trỏ xuống.

[4]真理本無名 

 因名顯真理
受得真實法 

 非真亦非偽

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Mười 2014(Xem: 8240)
...Điều cuối cùng đáng nói nữa, là chẳng có tư liệu nào là chính xác hoàn toàn, do các vị kết tập sư viết sau cả 500 năm, và cũng khó tránh khỏi sự hư cấu, thêm bớt của hàng sa-môn hậu học. Ta học Phật, tu Phật là học và tu theo giáo pháp. “Khi Như Lai diệt độ rồi thì Pháp và Luật là thầy của các ông”. Và, “Ai thấy Pháp là thấy Như Lai!” Vậy, Pháp mới là quan trọng!...
13 Tháng Mười 2014(Xem: 6621)
Phật giáo được truyền đi hai hướng: một hướng đi về phía Nam Ấn, truyền qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, và Campuchia. Phật giáo truyền theo hướng này bằng ngôn ngữ Pali và được gọi là Phật giáo Nam Truyền. Một hướng khác đi về phía Bắc Ấn qua A Phú Hãn (Afghanistan) đến Trung Hoa. Từ Trung Hoa, Phật giáo truyền đến Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
26 Tháng Chín 2014(Xem: 9136)
Đức Phật - The Story of Siddhartha Gautama là một phim tài liệu của PBS thực hiện bởi nhà làm phim từng đoạt giải thưởng David Grubin và lời thuyết minh của tài tử điện ảnh Richard Gere, kể câu chuyện về cuộc đời Đức Phật... Phim nói tiếng Anh
03 Tháng Chín 2014(Xem: 11937)
Năm 2010, tại Sài Gòn diễn ra đại hội “Con gái đức Phật” quy tụ hội chúng tỳ-khưu-ni và cận sự nữ Nam Bắc tông trên khắp thế giới về tham dự. Tôi không biết gì về nội dung cũng như hình thức đại hội ấy, nhưng cụm từ “Con gái đức Phật” tôi nghe sao nó dễ thương, bình dị và rất gần gũi với ngôn ngữ đời thường. Từ đó, tôi khởi tâm biên soạn một cuốn sách để giới thiệu về những vị Thánh Ni và những cận sự nữ có hành trạng đặc biệt và thù thắng thời đức Phật và đặt tên đầu sách là “Con gái đức Phật”.
12 Tháng Tám 2014(Xem: 24318)
Đây là bộ sách nói về cuộc đời đức Phật Thích Ca từ khi ngài Đản sinh đến lúc ngài Nhập diệt, qua lối văn kể chuyện vừa “giàu tính văn chương nghệ thuật vừa đầy đủ những chi tiết khách quan và trung thực nhất về cuộc đời đức Phật”.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 6425)
Phật Tổ Đạo Ảnh, đúng theo danh xưng là một tác phẩm miêu họa pháp tướng cùng ghi chép đạo hạnh các lịch đại Tổ sư Ấn-độ và Trung Hoa, mong để lại cho kẻ tu hành đời sau những tấm gương soi, không ngoài ý nghĩa “kiến hiền tư tề”, tức nhằm mục đích khích lệ mọi người trông thấy gương các bậc thánh hiền mà khởi tâm nối gót theo .
18 Tháng Bảy 2014(Xem: 5175)
Sau khi viết bài “Những chi tiết dị, đồng về đức Phật lịch sử”, BBT. Thư Viện Hoa Sen gợi ý tôi xem lại trang Wikipedia Tiếng Việt cùng một đề tài liên hệ. Xem xong, tôi nghĩ, mình không dám và cả không có khả năng thò tay vào đấy để sửa hay điều chỉnh được; vả lại đấy là công việc của các nhà nghiên cứu, họ có chuyên môn về cách làm hơn. Tôi thì xin chịu. Do vậy, tôi bèn copy lại, dựa theo trang Wikipedia ấy, rồi thêm chỗ này, bớt chỗ kia, dĩ nhiên là theo chủ quan kiến thức Phật học của mình.
16 Tháng Bảy 2014(Xem: 5950)
Sau khi bộ đại sử đức Phật Sakyā Gotama “Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt” 6 quyển, 3000 trang được in ấn và phổ biến trên các trang mạng Phật học, được đọc lại trên các trang Pháp Âm, và được độc giả đọc nhiều nhất là “thuvienhoasen.org” ở Mỹ và “quangduc.com” tức là Tu viện Quảng Đức ở Úc – tôi, tác giả, nhận được khá nhiều câu hỏi về những chi tiết lịch sử, có những dị biệt, mâu thuẫn nơi này và nơi khác.