Chương Xi Phật Giáo Đời Hậu Lê (1428 - 1527)

31 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 15366)

VIỆT NAM PHẬT GIÁO SỬ LƯỢC
Tác giả: Thích Mật Thể
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo

Chương XI

PHẬT GIÁO ĐỜI HẬU LÊ (1428 - 1527)


Nhà Hậu Lê kể từ vua Thái Tổ cho đến vua Cung Hoàng cọng được 10 đời, trị vì trong 100 năm chẳn. Trong 10 đời vua ấy, vua Thái Tổ thì không chỉ có vua Thánh Tôn và Thái Tôn lớn tuổi mới lên làm vua, còn thì vua nào cũng có ít tuổi cả. Nên trải những triều vua ấy, vua thì bị quyền thần lung lạc, vua thì lớn lên sinh kiêu xa, dâm ác, khiến nước nhà không mấy lúc được yên.

Phật giáo cũng vì thế mà không hưng khởi lên được nữa. Nhất là hồi trước quan nhà Minh đã tịch thu hết kinh điển, nên dù có những bậc mộ đạo đến đâu cũng không lấy gì mà nghiên cứu. Bởi thế, các Tăng đồ lúc ấy, nhân lúc dân nước được tự lập, tự trị, dù có cố duy trì lấy đạo Phật thì chẳng qua cũng là một sự tín ngưỡng theo hình thức thời.

Thời này Nho học đã thật làm bá chủ cho văn hóa, các sĩ phu xô nhau vào khoa cử, miệt mài trong tư tưởng Tống nho, triết lý nhà Phật không làm danh làm lợi cho ai, tất bị bỏ quên.

Việc tu đạo đối với hạng ít học chỉ thành một kế quyền nghi theo hình thức, với hạng sĩ phu thì chỉ là một chỗ để người nào lận đận công danh, chán nản cuộc thế,bất bình với thói đời, nghĩa là chỉ những người yếm thế mới tìm đến để tiêu giao ngày tháng, mượn cảnh chùa am, tiếng chuông câu kệ mà dứt bỏ cuộc đời bên ngoài thôi; chớ không phải là mến hiểu giáo lý của Phật mà tu hành, và ngộ đạo, rồi lại đem đạo lý ra mà giác ngộ cho kẻ khác.

Bởi vậy, trong đời Hậu Lê có thể gọi là “thời đại Phật giáo suy đồi”

Hãy xem sử chép những việc đối với Phật giáo của đời Hậu Lê :

Năm Thuận Thiên thứ 2 (1429 - Lê Thái Tổ) mở một kỳ khảo hạch Tăng đạo. Người nào trúng tuyển thì được ở chùa tu hành, người nào hỏng thì phải hoàn tục.

(Việc ấy càng tỏ ra trong số Tăng đồ đầu đời Hậu Lê phần nhiều là hạng ít học, tu hành là chỉ theo hình thức không hiểu đạo gốc nữa. Vả có kinh điển đến đâu mà nghiên cứu. Triều đình dù có hòa với nhà Minh nhưng cũng không có ý ủng hộ Phật giáo, thì ai nghĩ đến sự cầu kinh).

Năm Thiện Bình thứ nhất (1434 - Lê Thái Tôn), trời đại hạn, vua sắc rước tượng Phật ở chùa Pháp Vân về kinh làm lễ cầu mưa.

(Càng tỏ ra từ vua đến dân đã yên trí Phật là “phép thần thông” như một vị thần của Lạt Ma giáo hay Phù chú giáo).

Năm sau vua Thái Tôn sắc đúc tượng bà Thái Hoàng Thái hậu (bà nội vua Thái Tổ). Khi đúc xong, mời Huệ Hồng Thiền sư vào làm lễ điểm nhãn.

(Thiền sư đã nghiễm nhiên một thầy phù thủy ở chùa, đọc kinh Phật làm sư).

Niên hiệu Thái Hòa thứ bảy (1449 - Nhân Tôn), trời đại hạn, vua sắc bộ lễ làm đảo vũ ở chùa Báo Ân. Lại sắc rước tượng Phật ở chùa Pháp Vân về chùa Báo Thiên mời các Tăng sĩ đến tụng kinh. Bà Hoàng Thái hậu ra đứng chủ lễ.

(Phật hiển nhiên đã thành một vị tượng thần cho dân Việt Nam tín ngưỡng).

Năm Quang Thuận nguyên niên (1460 – Lê Thánh Tôn), sắc cấm các Tăng đạo không được qua lại với nhân dân trong thành. Năm sau sắc cấm dân gian không được làm thêm chùa; vì nhân dân lúc ấy quá sùng tín đạo Phật, trong một năm làm không biết bao nhiêu là chùa, nên mới có lệnh ấy.

(Sùng tín mà đến nỗi Tăng đồ bị cấm không được giao thiệp với dân và trong đời không có thêm được một vị Cao Tăng, thì quả là tinh thần đạo Phật đã tuyệt diệt. Sự ngăn cấm này phải chăng là vua sợ món tín ngưỡng hình thức rộn ràng ấy sẽ nguy hại cho dân chúng, hay chỉ là nghe lời dèm siễm thiên vị của các ngoại đạo khác?)

Xét những điều kể trên, ta đủ biết Phật giáo trong khoảng đời Hậu Lê này, chỉ còn là sự cúng cấp cầu đảo, và Tăng đồ đã thành những tay sai đáng thương hại của vua quan hoặc các nhà có tiền khi tự cầu tài mặc dù bề ngoài như tuồng họ vẫn tôn kính.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Tám 2016(Xem: 6706)
Lời ban biên tập - Nhà báo Malcolm Browne là một trong những nhân chứng người nước ngoài có mặt tại sự kiện Bồ-tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn vào ngày 11-6-1963, ông đã chụp liên tục khoảng 10 cuộn phim ghi lại hình ảnh HT.Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân mà trong đó có một bức ảnh được xem là biểu tượng đã mang lại cho ông giải thưởng ảnh báo chí quốc tế năm 1963 và đoạt giải Pulitzer vào năm 1964. Trước khi từ giã cõi đời vào ngày 27-8-2012 ở tuổi 81 tại Hoa Kỳ, ông đã có cuộc trò chuyện với Patrick Witty, biên tập viên hình ảnh của Tạp chí Time tại nhà riêng của ông ở Vermont, Hoa Kỳ về sự kiện lịch sử mà ông là nhân chứng. Chúng tôi trân trọng gởi đến quý độc giả nội dung của buổi trò chuyện giữa hai người qua bản dịch Việt của Tường Anh và Tịnh Thủy hiệu đính.